 |
07 tháng 12, 2008
|
Cứ đến gần cuối mùa mưa, khi giông bão, lốc
xoáy, lũ ống, lũ quét, lụt lội xuất hiện tràn lan ở Việt Nam là biết
mùa Giáng sinh lại sắp về.
Năm nay mùa lễ hội mua sắm, vui chơi
Giáng sinh không mấy hứa hẹn vì cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu.
Người có đạo hay không cũng sống trong bầu không khí ảm đạm của nỗi
lo mất việc, mất nhà. Ngày nay, người ta vui buồn với ngày lễ Giáng
sinh không hẳn là vì ngày Chúa Giêsu sinh ra đời, mà vui buồn theo
doanh số bán hàng của một vụ mùa lễ hội, của công ăn việc làm. Những
tấm thiệp với lời chúc “Happy Holidays” và “Greetings Season” thay
thế dần các tấm thiệp với hàng chữ “Merry Christmas” qua từng mùa
Giáng sinh.
Sự thay đổi này là vì chúng không còn phù hợp với sự
hiểu biết của một bộ phận nhân loại ngày nay về sự tồn tại của một
Đấng Cứu Thế, và vì nền “kinh tế thị trường” không thể để đồng tiền
trong xã hội chỉ chảy vào trong các nhà thờ. Nhưng ở Việt Nam, việc
tập trung cầu nguyện “đòi đất “ của mấy ông linh mục và giáo dân
trong năm không thành và dĩ nhiên, càng không thể vui. Nếu việc cầu
nguyện bất chấp pháp lý và đạo lý mà vẫn thành tựu, thì chắc là có
sự trục trặc truyền thông giữa những người cầu nguyện và Đức Chúa
Trời của họ vì:
“ Không có Thầy các con không làm được
gì” (Ga 15, 1-8).
Bao nhiêu năm Giáo hội Công giáo nằm trong
bóng tối của lịch sử nay chỉ vì tham vọng muốn lập công với Vatican,
đòi cho bằng được cái tòa khâm cũ, trong lúc Vatican đang tìm cơ hội
thiết lập bang giao. Một hành động làm dư luận xã hội phản ứng gay
gắt và dữ dội. Truyền thông trong và ngoài nước vạch trần các thủ
đoạn phá hủy và cướp đất Chùa Báo Thiên để xây dựng Nhà Thờ, Đại
Chủng viện của thực dân Pháp và chính quyền tay sai, mà đa phần là
các con chiên có thế lực nhờ dựa vào ân sủng của họ vào cuối thế kỷ
thứ 19. Mưu sự tại nhân và thành sự tại nhân quả là điều tất yếu.
Người công giáo quen hành xử kiểu “con một”
dưới sự bảo bọc của các chính quyền công giáo ngày xưa. Nay sống
dưới chế độ mới, mọi tôn giáo phải “thượng tôn pháp luật” của một
nước chứ không phải “giáo luật” nên những thói quen cũ làm họ cảm
thấy luôn thiếu “công lý và hòa bình”. Ngày xưa khi có vấn đề tranh
chấp giữa nhà thờ với các cá nhân hay tổ chức khác họ thường dọa:
“Ăn của Bụt, một trả mười, ăn của đức Chúa Lời, một trả bằng muôn!”.
Điều này chỉ có một nửa sự thật. Vế đầu sai, vế sau đúng. Phật pháp
không tranh chấp với thế gian.
Vài hàng về giá trị văn hóa truyền thống
Việt Nam là một đất nước văn hiến lâu đời nên
có rất nhiều lễ hội văn hóa dân gian, gần như được tổ chức quanh năm
ở khắp miền đất nước, trong cả bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Các nhà
nghiên cứu văn hóa thống kê cho biết Việt Nam có đến gần 500 lễ hội,
chưa kể một số lễ hội mới hình thành sau này như festival Huế, Hội
An., lễ hội Trà, Hoa Đà Lạt v.v.. Các lễ hội dân gian thường là để
tưởng niệm, tôn vinh các bậc tiên hiền dựng nước, anh hùng chống
giặc ngoại xâm bảo vệ giang sơn, hay mở mang bờ cõi.:
Tháng Giêng giỗ Thánh
Sóc Sơn
Tháng ba giỗ tổ Hùng Vương nhớ về.
Đức Thánh Trần: “Tháng Tám giỗ Cha,
tháng Ba giỗ Mẹ.”
(Nhân dân gọi là Cha hay
Hưng Đạo Vương, Hưng Đạo Đại Vương, Đức thánh Trần chứ không gọi trực
tiếp tên ngài, và Mẹ là Thánh Mẫu Liễu Hạnh),
Hay tôn vinh những vị tổ làng nghề để thể hiện
đạo lý “uống nước nhớ nguồn” hoặc niềm tự hào sự đóng góp một nét
văn hóa đặc trưng vùng miền trong cộng đồng dân tộc như Hội Quan họ
Bắc Ninh, giỗ Tổ các làng nghề..
Các giá trị văn hóa truyền thống vật thể và phi
vật thể của dân tộc đã hình thành nên bản sắc riêng của người Việt
nhưng trong thời kỳ dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, nhiều chùa
chiền, đình miếu bị phá hủy và chiếm đoạt để xây dựng nhà thờ, chủng
viện.. Đối với tín ngưỡng bản địa, giáo điều của đạo cấm con chiên
thờ cúng ông bà, tổ tiên, đến nỗi Cụ Đồ Chiểu phải than thở cho “thế
thái nhân tình”:
Thà đui mà giữ đạo nhà,
Còn hơn có mắt ông cha không thờ.
Trong khi đó Tam giáo, trong quá trình hội nhập
đã làm phong phú thêm nền văn hóa bản địa trong nhiều lãnh vực như
chính trị, quân sự, triết học, văn học nghệ thuật, âm nhạc, kiến
trúc và y thuật v.v.. (vì phạm vi của bài viết chỉ xin sơ lược qua
vài điểm). Ảnh hưởng của Phật giáo đối với người Việt Nam và ngược
lại, đã hình thành nên những nhân vật lịch sử như Thánh Chử Đồng Tử,
Phật hoàng Trần Nhân Tông, Thiền sư Vạn Hạnh, Thiền sư Mãn Giác,
Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông, Bồ tát Thích Quảng Đức …
Nhiều từ ngữ
trích từ kinh sách Phật trở thành từ ngữ phổ thông như một số từ
ghép với chữ “nghiệp” và “duyên” v.v.. Cụm từ “Hằng hà sa số”, tức
nhiều như cát sông Hằng để diễn tả “vô lượng” hoặc, nổi cơn “tam
bành, lục tặc” (1) là chỉ sự giận dữ phát sinh từ “tam độc” tức
tham, sân, si, và "lục tặc" là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.
Khổng giáo với nguyên tắc ứng xử trong quan hệ xã hội: “Nhân, Lễ,
Nghĩa, Trí, Tín”, dạy con gái “Công, Dung, Ngôn, Hạnh”, phương
châm giáo dục “Tiên học lễ, hậu học văn”, “Tôn sư trọng đạo”.. Lão
Trang với thuật phong thủy, dưỡng sinh, y thuật, sống chan hòa với
thiên nhiên..
Thông thường, con người xem công danh, phú quí
là mục tiêu mong đạt được trong cuộc đời nhưng ảnh hưởng của Tam
giáo qua quan niệm về phú quí, công
danh và thịnh suy mà những người Việt tiêu
biểu, đã có danh phận trong lịch sử nước nhà như Trạng trình Nguyễn
Bỉnh Khiêm và Thiền sư Vạn Hạnh đối với cả “đạo và đời” được
phản ánh qua các bài thơ điển hình sau:
Vịnh cảnh nhàn
Một mai, một cuốc,
một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao
(Nguyễn
Bỉnh Khiêm)
Thị đệ tử
“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”
(Thiền sư Vạn Hạnh)
Dạy đệ tử
Thân như bóng chớp
chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt thu
hoa rụng rời
Xá chi suy thịnh cuộc
đời
Thịnh suy như hạt
sương rơi đầu cành
(Thích Mật Thể dịch)
Hay Nguyễn Công Trứ và Trần Thái Tông với cái
“nhàn” cùng trăng.
Cảnh nhàn
Thị tại môn tiền náo,
nguyệt lai môn hạ nhàn
(2)
So lao tâm lao lực cũng một đàn
Người trần thế muốn nhàn sao được
Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời
nhàn.
……
(Nguyễn
Công Trứ)
Ký
Thanh Phong Am Tăng Đức Sơn
Phong đả
tùng quan nguyệt chiếu đình
Tâm kỳ
phong cảnh cộng thê thanh
Cá trung
tư vị vô nhân thức
Phó dữ
sơn tăng lạc đáo minh
(Trần Thái Tông)
Gửi
Nhà Sư Đức Sơn Am Thanh Phong
Gió sân
trăng gõ cánh tùng
Lòng theo
cảnh sáng trong cùng cỏ cây
Bao nhiêu
thú vị ai hay
Sư trong
núi cũng vui vầy sáng đêm.
(Nguyễn
Duy dịch)
Lễ hội và nét văn hóa của dân tộc Việt Nam
Tư tưởng của Tam giáo đã hòa nhập vào
nền văn hóa bản địa để trở thành nền văn hóa bản sắc Việt mà người
Việt xem là phương châm sống và hành xử theo những nguyên tắc đó. Do
đó, bất kỳ lễ hội nào được hình thành và tồn tại trong dòng lịch sử
4000 năm là nét văn hóa của dân tộc Việt Nam chứ không phải là của
riêng cho một đạo giáo và vì vậy, những lễ hôi của Phật giáo cũng
chính là các lễ hội truyền thống của dân gian qua
những câu ca dao sau:
Yên Tử
(Quảng Ninh)
|
”Trăm năm tích đức, tu hành Chưa đi Yên Tử, chưa thành quả tu”.
|
Chùa Keo: (Thái Bình)
|
Dù cho cha đánh mẹ
treo, Em không bỏ hội
chùa Keo hôm rằm.
|
Chùa Hương : (Hà Tây) |
Ai đi trẩy hội
Chùa Hương
Làm ơn gặp khách thập phương hỏi dùm
Mớ rau sắng, quả mơ non
Mơ chua sắng ngọt biết còn thương
chăng?
|
Chùa Tây Phương: (Hà Tây) |
Ấy ngày mồng tám tháng ba
Ăn cơm với cà đi
hội Chùa Tây
|
Chùa Thầy: (Hà Tây) |
Nhất vui là hội
Chùa Thày Vui thì vui vậy
chẳng tầy chùa Mơ.
|
Cũng là tôn giáo, vậy nhưng, trong kho tàng ca
dao tục ngữ Việt Nam, hầu như không có một dòng nào đề cập đến lễ
hội của người Công giáo, hay thậm chí nói về đạo này như các tín
ngưỡng khác. Điều này nói lên sự xung đột giữa nền văn hóa thánh
kinh văn minh du mục với nền văn hóa bản địa văn minh lúa nước, thể hiện tính
cách không dung hợp.
Người Công giáo cũng có những câu tựa như ca
dao, tục ngữ nhưng thực tế mang tính chất “giáo ngữ” hay “phương
ngữ” và chỉ phổ biến trong cộng đồng giáo dân thuần nông, và chúng
không có tính chất phổ thông để được xem là “ca dao” theo định
nghĩa: “Ca dao là câu hát ngắn thành khúc điệu được
phổ thông trong dân gian”:
- Lễ Rosa (7-10) thì tra hạt bí
- Lễ Các thánh (1-11) thì đánh bí ra.
- Lễ Các thánh gánh mạ đi gieo
- Lễ Sinh nhật (25-12) giật mạ đi cấy.
Tất cả các câu có vần điệu nêu trên đều đề cập
đến chuyện trồng trọt của nhà nông. Việt Nam là một xứ nông nghiệp,
những tập quán canh tác của người nông dân đã có từ ngàn xưa, trước
xa thời điểm đạo Thiên chúa du nhập vào Việt nam (1533), và thậm chí
trước cả khi Chúa Giêsu sinh ra đời. Người nông dân Việt Nam có hẳn
một bài ca dao về lịch canh tác của mình suốt 12 tháng trong năm mà
hầu như mọi người đều biết. Vì vậy, những giáo ngữ trên đã vay mượn
thời gian mùa vụ, kinh nghiệm trồng trọt của người nông dân để gán
ghép vào những ngày lễ tôn giáo của mình chỉ với mục đích nhắc nhở
con chiên nhớ ngày mà đi lễ, chứ không phải nhắc nhở người nông dân
lao động, vì nếu những ngày trên rơi vào ngày chủ nhật, ngày chỉ
dành để cầu nguyện và “kiêng việc xác”, mà ta đặt chúng vào trong
bối cảnh của thế kỷ 18,19 và trước đó, thì liệu giáo dân có được
phép ra đồng lao động sản xuất mà không mắc tội với Chúa? Còn đây là
ca dao về lịch canh tác của người nông dân Việt Nam, rất chi tiết và
thực tế mà không cần vay mượn, gán ghép với bất kỳ lễ hội nào.
Tháng Giêng là tháng
ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà,
Tháng ba thì đậu đã già,
Ta đi, ta hái về nhà phơi khô,
…………
Các lễ hội của đạo Thiên chúa có tính cách thuần túy tôn giáo
Riêng các lễ hội của đạo Thiên chúa chỉ xoay
quanh các hoạt động thuần túy tôn giáo như các lễ khấn
dòng, lễ truyền chức, lễ mừng kỷ niệm khấn dòng hay thụ phong linh
mục .. Nếu việc hành hương về “thánh địa” La Vang Quảng Trị của
người theo đạo là một lễ hội thì đây cũng chỉ thuần túy là lễ hội
tôn giáo, dành riêng cho thiểu số người có đạo Công giáo La mã trong
cộng đồng dân tộc mà thôi. Lễ hội La vang không mang tính truyền
thống dân tộc, trái lại nó gợi lại hình ảnh lịch sử không lương
thiện của người Công giáo khi dựa vào thế lực của thực dân Pháp để
chiếm đoạt đất chùa Lá Vằng để xây dựng nhà thờ La Vang, và nhiều
ngôi chùa khác trên cả nước, lại còn tổ chức
khấn nguyện “dâng” nước Việt Nam cho bà Maria dưới thời Ngô đình
Diệm năm 1959, làm như đất nước này là của riêng của Giáo hội Công
giáo!
Lễ hội của người Công giáo thường giới hạn
trong phạm vi nhà thờ, các giáo xứ, giáo họ “toàn tòng”, và “linh
địa”, là nơi được cho là có sự xuất hiện của bà Maria Hơn 90% dân
số Việt Nam là người không theo đạo Thiên chúa vì vậy, tuyệt đại đa
số nhân dân không biết và không quan tâm đến các ngày lễ hôi có dính
dáng đến việc đồng áng gì đó của người Công giáo. Vì sự giới hạn này
nên các lễ hội của người Công giáo không mang tính phổ biến, chưa kể
đến các yếu tố phi truyền thống dân tộc khác. Còn các lễ hội dân
gian truyền thống của dân tộc Việt Nam thì người Công giáo lại là
người “ngoại đạo” vì do các nghi lễ truyền thống thường có nghi thức
dâng hương, khấn vái để tri ân tiền nhân, người là chủ thể của buổi
lễ, những điều mà người có đạo không được phép làm.
Bản chất của người theo đạo Công giáo kể từ khi
đạo Thiên chúa du nhập vào Việt Nam cho đến ngày hôm nay hầu như vẫn
không thay đổi. Ta có thể nhận biết sự “đồng hành” cùng dân tộc như
thế nào qua sự kiện tang lễ của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Thông cáo chiều 12/6/2008 của Chính
phủ Việt Nam về việc tổ chức tang lễ,
nghĩa là toàn thể nhân dân được thông báo về lễ tang sắp được tiến
hành thế nhưng, ngay ngày hôm sau ở La vang:
- Vietcatholic
: LA VANG - Hôm nay, ngày thứ sáu, 13 tháng 6 năm 2008,
Phái đoàn Toà Thánh gồm Đức ông Pietro Parolin, Thứ trưởng Ngoại
giao của Toà Thánh, Đức ông Barnaba Nguyễn Văn Phương, Vụ trưởng Bộ
Truyền giảng Phúc Âm cho các dân tộc, Đức ông Luis Mariano
Montamayor, Tham biện Toà Sứ thần tại Phủ Quốc Vụ Khanh đến Thánh
Địa La Vang. Đức Giám Mục Phụ Tá TGP Huế, Đức Cha Phanxicô Xaviê Lê
Văn Hồng, cùng đi theo Phái đoàn. Đúng 08g30, đội kèn của Nhà Thờ
Chính Toà Phủ Cam cử hành bài Hành Khúc Giáo Hoàng trong khi
được tin Phái đoàn sắp đến Thánh Địa La Vang. Cọng đoàn hành
hương hân hoan vui mừng đón tiếp Phái Đoàn đến.
...
Nỗ Lực Việt Nam hóa đạo hiên Chúa
Sự thiếu tế nhị và không tôn trọng một sự kiện
ở cấp quốc gia sắp diễn ra [quốc tang] là một hành vi ngoại giao kém
cỏi của Vatican lẫn Giáo hội Công giáo Việt Nam, nó thể hiện những
sự kiện quốc gia như chẳng liên quan gì đến họ. Dưới mắt cộng đồng
dân tộc, những giáo dân người Việt như những người lạ trên chính quê
hương của mình.
Nhận thức rõ rằng đạo Thiên chúa du nhập vào
Việt Nam đã gần 500 năm, nhưng vẫn không thể hòa nhập được vào nền
văn hóa bản địa như các tôn giáo ngoại sinh khác nên Vativan cho
phép Giáo hội Công giáo Việt Nam “Việt Nam hóa” hình ảnh của mình
để tạo cảm giác” đạo” và dân tộc không có sự xung đột văn hóa, như
xây dựng nhà thờ có kiến trúc giống như cổng làng, đình chùa Việt
Nam, tiêu biểu là Nhà thờ đá Phát Diệm, Ninh Bình, sử dung các pháp
khí (lư hương, chân nến v.v..), thắp hương như tập tục của người
Việt hay cố lạc dẫn quan niệm “ông Trời” của người Việt là cách nói
đến “Chúa Trời”, xây dựng hình tượng bà Maria bồng Chúa hài đồng,
mặc áo dài, khăn đóng. Hiện trong “thánh gia” chỉ còn thiếu hình ảnh
ông Giu-se, ba của Chúa Giê-su, mặc áo the thâm, khăn đóng cho phù
hợp với trang phục truyền thống của người Việt mà thôi!
 Nhà thờ Phát Diệm |
 Bà Maria và Jesus trong trang phục truyền thống
của Việt Nam |
Ý thức được những tác hại của Thiên chúa giáo
và Tin Lành đối với dân tộc mà quá trình lịch sử đã chứng minh, một
số nhà trí thức Việt có đạo “giác ngộ” bản chất thật của tôn giáo
độc thần này, đã lên tiếng cảnh báo và vạch mặt như ông cựu Thẩm
phán Bùi Văn Chấn, BS Nguyễn Văn Thọ v.v.. Một số nhà trí thức dân
tộc khác cũng đi tiên phong trên mặt trận giãi hoặc Ki tô. Các vị
này đã nghiên cứu và phổ biến các tài liệu lịch sử nói lên tội ác
của các tôn giáo độc thần, của Vatican đối với dân tộc Việt Nam cũng
như nhân loại như Sử gia Nguyễn Mạnh Quang, Giáo sư Trần Chung Ngọc,
Cao Huy Thuần v.v.. và tất nhiên, khi các nhà viết sử hay các học
giả viết về lịch sử cận đại của Việt Nam thường không thể tránh đề
cập đến mối quan hệ “gắn bó” giữa người Công giáo với thực dân Pháp
và chế độ do người Mỹ dựng lên . Người ta hay dùng cụm từ “hãy để
lịch sử phán xét” nhưng thật ra lịch sử chỉ ghi nhận các sự kiện
diễn ra một cách trung thực, khách quan do những người viết sử trung
thực và khách quan viết. Lịch sử không phê phán hay thiên vị “lương
hay giáo”, “quốc hay cộng”, việc phán xét là cả của dân tộc, dựa
trên sự thật lịch sử và không ai có thể xuyên tạc, nhưng những con
chiên quá ngoan đạo (cuồng tín) thường phản ứng vô trí với những sự
thật lịch sử, một phần vì mặc cảm với những hành vi mà người Công
giáo đã gây ra cho dân tộc, một phần là do tính chất của não trạng
nên thường thóa mạ, vu khống, chụp mũ “linh tinh” những người trình
bày sự thật lịch sử để bênh vực, chạy tội. Ngoài ra, những thiện tri
thức khác góp phần nâng cao dân trí, đặt biệt là cho các thế hệ trẻ,
hướng nhận thức người dân nhận biết sự thật lịch sử cũng đã góp phần
hạn chế tích cực sự tác hại của văn hóa thánh kinh đối với dân tộc
Việt nam. Giãi hoặc Ki tô là giãi phóng sự nô lệ tinh thần của con
người vào cái gọi là “thánh kinh”, làm cho người dân biết yêu dân
tộc và tổ quốc của mình, nâng cao dân trí, dựa trên sự thật lịch sử
để trình bày chứ không phải là do ác cảm hoặc kỳ thị một tôn giáo.
Vị trí địa lý của Việt Nam thuận lợi cho việc giao thương và giao
thoa giữa các nền văn hóa, tôn giáo từ Đông sang Tây như lịch sử đã
ghi nhận. Nhờ tính cách hòa đồng, hòa hiếu của người Việt nên các
nền văn hóa, các tôn giáo ngoại sinh dễ hội nhập và sống chung hòa
hợp, đa thần, ai tin gì thờ nấy, kể cả Thiên Chúa giáo, như trong
thời gian đầu truyền đạo tại VN vào khoảng thế kỷ 16. Nhưng chính
người Công giáo lại tự đặt mình lên trên và ra khỏi cộng đồng dân
tộc, tự cho mình độc quyền chân lý, nhân danh thượng đế để “khai
sáng” và cấu kết với ngoại bang nhằm “thủ tiêu” nền văn hóa bản địa
nên vấp phải ý chí bảo tồn bản sắc của dân tộc Việt Nam. Người Công
giáo xem kinh thánh là “la bàn” nên không thể thay đổi được bản chất
và vì vậy, không thể hội nhập được với nền văn hóa Việt Nam mà ta có
thể nhận biết thông qua các lễ hội dân tộc truyền thống. Và nếu là
người biết suy nghĩ thì phải nên tự đấm ngực mà trách mình “lỗi tại
tôi, lỗi tại tôi mọi bề” chứ không phải đổi thừa cho dân tộc Việt
Nam thiếu lòng khoan dung!
SG, 12-2008
Nguyễn Trí Cảm
Chú thích:
Các thiệp Giáng sinh bày bán ở VN
thường có lời chúc bằng Anh ngữ như trên.
(1) Tam Bành.
Theo Lão giáo, đây là 3 vị ác thần họ Bành là Bành Chất, Bành Cư
(Cứ, Cử, Sư), Bành Kiêu (Kiểu, Kiều, Kiển, Hiên).
(2) Chợ nằm trước cửa thì huyên náo; trăng
soi dưới cửa thì thanh nhàn. Câu này Nguyễn Công Trứ cũng có ý chơi
chữ: Chữ "thị" nằm trong chữ "môn" thành chữ "náo"; trong khi chữ "nguyệt" nằm trong chữ "môn" thì thành chữ "nhàn".(theo
VNthuquan.net)