Việc nhà, việc nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong tâm và ý của Sư bà Thích nữ Diệu Không
Tâm Hằng N.Đ.X.
http://sachhiem.net/NDX/NDX022.php
27 tháng 1, 2009
Xuất thân trong các cuộc vận động của Phật giáo
(1963-1966), thời đi theo kháng chiến (1966-1975), tôi có nhiều dịp chuyển thư
từ, hình ảnh của Hoà thượng Thích Đôn Hậu và bà con Phật tử tập kết ngoài miền
Bắc vào cho các chùa và đồng bào theo Đạo Phật ở Huế. Nhờ thế, sau ngày thống
nhất đất nước (1975), nhiều lần tôi được các Sư bà Thích nữ Diệu Không, Sư bà
Thích nữ Cát Tường, Sư cô Tịnh Giải (thế danh là Trương Thị Bích Vân) tiếp tại
chùa Hồng Ân và chùa Kiều Đàm (Huế). Sư bà Cát Tường cho tôi chiếc xe Jeep của
trường Mẫu giáo Kiều Đàm trước năm 1975. Tôi không được dùng xe riêng nên đã
chuyển cho anh Võ Đông – trưởng Phòng TTVH TP Huế sử dụng vào việc công. Chiếc
xe ấy đã giúp việc cho Phòng mãi đến thời gian gần đây mới cho “giải nghiệp”.
Biết tôi là người rất lịch sử, thích chuyện cũ và thơ văn, Sư bà Thích nữ
Diệu Không đã kể cho tôi nghe chuyện các gia đình Hồ Đắc - Cao Xuân của Sư bà
quan hệ với gia đình Bác Hồ, chuyện Phật giáo cứu dân và đặc biệt chuyện Sư bà
làm thơ Kỷ niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, thơ mừng Ngày thống nhất đất nước 30
-4-1975.
1. Chuyện ông Tư Sinh
Sau ngày đất nước thống nhất, tôi quan tâm ngay việc nghiên cứu Huế để giải
toả những thắc mắc về lịch sử Huế mà suốt thời gian theo kháng chiến tôi không
tự trả lời cho mình được. Một trong những thắc mắc đó là thời gian gần mười năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và học hành ở Huế. Nhờ có ý thức sớm như vậy cho
nên tôi đã may mắn gặp được những người bạn học, những “người cùng thời” với Bác
ở Huế. Một trong những “người cùng thời” đó là Sư bà Thích nữ Diệu Không. Không
những Sư bà là người cùng thời mà còn là người từng làm dâu trong gia đình Cao
Xuân Nghệ An – gia đình có mối quan hệ sâu sắc với gia đình thân sinh của Bác.
Sư bà Diệu Không nhủ danh Hồ Thị Hạnh, ái nữ của cụ Thượng Hồ Đắc Trung, lúc
chưa xuất gia là vợ ông Cao Xuân Xang (con trai thứ của cụ Cao Xuân Dục). Sư bà
tiếp tôi trong phòng khách của chùa Kiều Đàm (Huế).
[...] Sư bà kể:
-“Năm lên 10 tuổi tôi theo thầy tôi là cụ Hồ Đắc Trung vào ở trong Bộ Học.
Lúc ấy tôi mới học chữ Hán nên hễ thấy đâu có chữ Hán là để mắt vào đọc, đọc
không hiểu thì hỏi. Bỗng tôi thấy trên tường vừa quét vôi trắng có chừa một
khoảng tường cũ ám khói. Trong khoảng ấy có ghi một câu cách ngôn bằng chữ
Hán nét chữ đã cũ nhưng rất đẹp. Tôi đọc lõm bõm được vài chữ và không hiểu
hết ý nghĩa của chữ tôi bèn hỏi Thầy tôi. Và Thầy tôi đáp;
- “Nghe nói trước đây gian phòng nầy dành cho ông Tư Sinh ở. Ông hay đặt cách
ngôn và viết lên vách để dạy con. Ông viết nhiều lắm nhưng thợ bên bộ Công qua
sửa nhà bôi hết. Còn câu ấy chữ đẹp và có ý nghĩa răn dạy con cái rất tốt nên
Thầy truyền cho thợ phải để lại.”
Bà kể tiếp:
- “Sau đó Thầy tôi không làm ở bộ Học nữa tôi lớn lên, lấy chồng là ông Cao
Xuân Xang - con trai cụ Cao Xuân Dục - bạn với Thầy tôi
[1].
Nhớ chuyện cũ có lần tôi hỏi nhà tôi:
- “Anh có biết ông Tư Sinh đã từng ở
trong bộ Học - nơi anh ở trước đây không?”
Ông nhà tôi đáp:
- “Biết rõ. Ông Tư Sinh là người cùng quê Nghệ An với mình, năm Ất mùi
(1895) ông có nhận học điền của họ Cao Xuân (Diễn Châu) để vào Kinh thi Hội, đi
một lần với anh Cả[2].
Nhưng khoa đó ông không đậu. Cho mãi đến khoa Tân sửu (1901) ông mới đỗ Phó
bảng. Sau nầy con ông là Nguyễn Sinh Côn học sinh trường Đông Ba và trường Quốc
Học cũng được họ Cao Xuân cấp học điền. Gia đình ông Phó bảng có nhiều ân nghĩa
với gia đình mình.”
Tôi (Sư bà Diệu Không) có cái tính hay hỏi nên hôm đó tôi đã hỏi ông nhà tôi
- “Ai là người Nghệ có chí học hành thì được họ Cao Xuân cấp học điền chứ có
riêng chi cha con ông Tư Sinh mà anh nói nhiều ơn nghĩa?”. Ông nhà tôi không
muốn kể nhưng ông biết tính tôi cứ đeo hỏi nếu tôi chưa được trả lời đầy đủ. Để
khỏi bị “quấy rầy” hơn nữa ông đã giải thích tiếp: “Năm ấy ông mình[3]
đang chuẩn bị thành lập bộ Học cho Triều đình, thì một hôm ông Phó bảng từ Nghệ
An vào thăm ông. Ông hỏi ông Phó bảng: “Chú Bảng vào Kinh làm chi?”
Ông Phó bảng đáp: “Xin thú thật với Cụ, từ ngày mẹ các cháu mất, tôi phải
nuôi dạy các cháu một mình. Nuôi dạy và thương yêu các cháu cũng là một cách làm
vừa lòng mẹ các cháu dưới suối vàng. Tôi không rõ các cháu nghe ai xúi giục, các
cháu muốn học chữ Tây. Ngoài quê mình ngặt một điều không có ai dạy và cũng
chẳng ai trọng nể việc học chữ Tây cho nên tôi phải vào Kinh.”
- Ông cười rồi vặn hỏi ông Bảng: - “Thế chú có biết dưới mắt người Tây
những người đỗ đại khoa như chú mà không làm quan thì làm chi chú biết không?”
- Ông Phó bảng ngẫm nghĩ mãi mà vẫn không tìm được câu trả lời.
Ông mình mới nói tiếp: - “Không làm quan thì làm giặc đó. Đời nào
người Tây để cho chú yên để chú dạy con ở giữa chốn Kinh kỳ nầy”. Ông
Bảng lo lắng: - “Thế cụ bảo cháu phải làm gì?”
Ông dạy: - “Chú phải làm quan”. Ông Phó bảng phân trần: -“Cái
đời làm quan vào lòn ra cúi, cháu không muốn!”. Ông bảo: -“Thế thì
chú không ở đây được.” Ông Bảng van nài: “Thế thì cụ cho cháu một
chức quan mà chẳng ai thèm làm để cháu được ở đây!”
Thế là ông Phó bảng Nguyễn Sinh Huy được bổ làm Tư vụ Học chánh (tùng bát
phẩm 7-2) và được đến ở ngay trong nhà của Bộ. Ông Bảng làm Tư vụ nhưng
chẳng mấy khi ông chịu làm việc. Suốt ngày ông uống rượu, ngâm thơ và đặt
cách ngôn viết lên vách dạy con cái thôi. Quan lại và nhân viên chung quanh
ông rất khó chịu trước thái độ của ông. Sở dĩ không ai dám nói ra điều gì vì
họ nể ông.
Về sau ông Phan Châu Trinh đi hoạt động cách mạng bỏ trống chức Thừa biện
ở Bộ Lễ lâu ngày, ông Bảng bị chuyển sang điền khuyết. Từ đó ông được Triều
đình cấp cho một gian nhà ở dãy trại đường Đông Ba”.
Chuyện kể của Sư bà đã giúp tôi thông tin để viết về chuyện cụ Nguyễn Sinh
Huy vào Huế làm quan. Thông tin nầy chưa từng được phát hiện nên tôi đã phải ghi
chép xong rồi đem đọc lại cho Sư bà nghe. Sư bà sửa chữa nhiều lần rồi tôi mới
dám đưa vào cuốn sách Đi tìm dấu tích thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế
(Nxb Văn Học tái bản năm 2003).
2. Phật giáo cứu dân
Và Sư bà cũng kể những hoạt động của Phật tử Sài Gòn trước và sau ngày
30-4-1975 để tôi viết báo. Sư bà dạy tôi:“Kháng chiến lo cứu nước, mình là
Phật giáo còn phải hoạt động cứu dân. Không những cứu bớt đổ máu, cứu những đổ
nát mà còn phải cứu thoát ra khỏi sự sợ hãi để hưởng thống nhất hoà bình an lạc!”
Tôi rất thấm thía lời dạy của Sư bà. Đây không phải là một lời nói, một khẩu
hiệu suông mà cả một thực tế rất quý báu. Suốt những năm chiến tranh, sau các
cuộc giao tranh diễn ra ở vùng nông thôn, nhiều xác cán bộ, bộ đội du kích cách
mạng…không may nằm lại giữa ruộng đồng, dân chúng, và người thân của liệt sĩ ít
người dám ra mặt nhận xác về chôn. Gặp những tình huống như thế, các Khuôn hội
Phật giáo chắp tay trước mọi hiểm nguy đứng ra đảm nhận việc chôn cất. Một số
nơi còn dựng cả am miếu để thờ người chết trận. Sau chiến dịch Huế Xuân 1968,
nhiều người Huế bị chính quyền VNCH bắt giam vào lao Thừa Phủ vì bị tình nghi đã
cộng tác với Mặt trận Giải phóng. Đến ngày Rằm tháng bảy năm Mậu thân (1968), Sư
bà Diệu Không tổ chức ngày “Xá tội vong nhân” đứng ra xin Chính quyền VNCH trả
tự do cho hàng trăm tù chính trị chưa xác định được “tội danh” - Một trong những
người được trả tự do năm ấy là anh Hòang Phủ Ngọc Phan. Nếu không được Sư bà
“cứu” thì địch đã phát hiện ra Hoàng Phủ Ngọc Phan một người Cộng sản thứ thiệt
ở Huế và chắc chắn không làm gì còn có nhà báo viết chuyện cười Hoàng Thiếu Phủ
sau nầy. Và, anh của Phan là Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi – ba anh em cùng thoát
ly và cùng hoạt động ở chiến khu Huế - khó lòng được yên ổn để đi cho đến tận
cùng cuộc kháng chiến cứu nước.
Thời gian cuối tháng 4-1975, Sư bà Diệu Không đang ở Sài Gòn. Ngày nào Phật
tử cũng đem đến cho Sư bà những tin tức chiến sự nghe được qua các đài phát
thanh Sài Gòn, Hà Nội, BBC, VOA... Sau khi nghe tin vùng Cao nguyên và các tỉnh
dọc bờ biển miền nam Trung phần từ Huế vô đến Xuân Lộc đã được giải phóng, đêm
29-4, sân bay Tân Sơn Nhất lại bị pháo kích dữ dội, Sư bà nghĩ thế nào ngày mai
Quân giải phóng cũng vào đến Sài Gòn. Trưa ngày 30-4-1975, Sư bà cho tổ chức các
xe phóng thanh chạy khắp thành phố kêu gọi binh lính Sài Gòn bỏ súng. Tại Đại
Học Vạn Hạnh gần cầu Trương Minh Giảng (nay là đường Lê Văn Sĩ), thanh niên sinh
viên Phật tử đeo băng xanh đỏ thiết lập trạm tiếp nhận súng ống bên cạnh các xe
tải cắm cờ Ngũ sắc của Phật giáo. Những binh lính ở xa nhà, lỡ đường có thể vào
tá túc trong các chùa Phật. Bà vận động các chùa nấu cơm tiếp tế cho dân chúng
đang tham gia công tác trên các đường phố và binh lính Sài Gòn vừa giải giáp.
Những việc nầy chưa hề được ghi lại trong trang sử Giải phóng Sài Gòn 30-4-1975.
Tôi hỏi cảm tưởng của Sư bà trước sự kiện 30-4-1975, Sư bà trả lời bằng một
bài thơ ngắnnói về công ơn Hồ Chủ tịch:
Tặng Việt Nam Độc Lập
Trăm tám năm rồi mới thấy đây,
Tên Người vang dội cả thời nay.
Non sông là vợ bao tình nghĩa,
Cha của con dân nước Việt nầy.
3. Thơ kỷ niệm Hồ Chủ Tịch
Cuối những năm tám mươi của thế kỷ trước, tôi được Thành ủy Huế mời đóng góp
bài cho cuốn sách Bác Hồ Trong Lòng Dân Huế. Trong tay tôi đã có
sẵn bài Ba Lần Được Gặp Cụ Hồ của Hòa thượng Thích Đôn Hậu tôi đã
ghi được ngay sau ngày Việt Nam thống nhất, tôi xin bà Tâm Hải Đào Thị Xuân Yến
(tức bà Nguyễn Đình Chi) đệ tử của Hòa thượng Thích Đôn Hậu bổ sung thêm bài
Vinh Dự Lớn Lao.
Bà Tâm Hải bảo tôi:
- «Sư bà Thích nữ Diệu Không» rất quý trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh, nên xin gặp
Bà và đề nghị Bà viết cho một bài».
Tôi thực hiện ý kiến của bà Tâm Hải ngay. Nhưng lúc Sư bà Diệu Không lại đi
Thành phố Hồ Chí Minh nên chuyện «xin bài» của Sư bà chưa thành. Sau nầy có dịp
lên thăm Sư bà ở chùa Hồng Ân, tôi kể lại chuyện cũ, Sư bà rất tiếc. Để chứng tỏ
gợi ý của bà Tâm Hải là đúng, Sư bà Diệu Không đứng dậy mở tủ lục trong cặp tư
liệu lấy đưa cho tôi bài thơ
Kỷ niệm Hồ Chủ tịch 3 khổ, đánh máy trên nửa trang giấy Ronéo vàng
rộm và một chùm thơ đánh máy trên giấy pơ-luya mỏng. Chùm thơ 16 bài vừa sáng
tác vừa dịch, mang tựa đề Thăng Long Ký Sự.
Kỷ niệm Hồ Chủ tịch
Giải phóng quê hương khỏi đọa đày
Chí Người như núi vững không lay.
Tình người như nước lan tràn cả,
Kỷ niệm người như một bậc Thầy.
Bậc Thầy cao cả của non sông
Cùng với Thuyền Sư đôi điểm đồng
Cách mạng tình người về nẻo Chánh,
Phá vòng nô lệ thoát lao lung.
Lao lung vì chẳng rõ đường ra,
Dẹp hết ma tâm, sạch giống tà.
Cần kiệm thanh cao nuôi Chí lớn,
Lòng thành trong sạch Nước Nam ta.
Tác giả không ghi thời điểm sáng tác bài thơ nầy. Theo văn cảnh và ý tứ trong
thơ thì có lẽ Sư bà đã sáng tác bài
Kỷ niệm Hồ Chủ tịch ngay trong những ngày vui đất nước được giải phóng
và thống nhất vào cuối tháng 4 đầu tháng 5-1975.
Đối với chùm thơ Thăng Long Ký Sự,
Sư bà ghi rõ thời gian sáng tác «Mùa thu Bính thìn 1976», trong dịp Sư
bà đi thăm miền Bắc. Trong 16 bài trong Thăng Long Ký Sự có hai
bài thơ dịch: Bài Cảm Thời của Nguyễn Trải do cụ Cao Xuân Huy
(Giáo sư Bác cổ Hà Nội) sao lục và bài Đi Chùa của Hồ Chủ tịch do
cán bộ Phật giáo Vũ Ngọc Hồng sao lục tặng Bà. Xin trích bài Đi chùa của
của Hồ Chủ tịch
Sơn trung tiều phu xướng
Thủy thượng khách Thuyền quy,
Như thi trung họa họa
Trung thi kỳ họa thi
Thích nữ Diệu Không dịch,
Chú tiều trong núi hát
Khách Thuyền trên sông về.
Như thơ trong bức vẽ
Bức vẽ trong lời thi
(Mùa Thu Bính Thìn 1976).
Trong chuyến đi thăm Thăng Long Hà Nội cuối năm 1976 ấy, Bà đã đến viếng
nhiều cảnh, nhiều người như Thăm Chùa Xưa,
Thăm Tháp Quảng Đức (chùa Hòa Giai Hà Nội), Thăm Tháp Bổn
Sư Hồ Chủ Tịch (*), Thăm Trường Quảng Bá, Đêm Thu Trên Hồ Tây, Đi Thăm Mộ
.v.v. và đặc biệt, xin trích bài Sư bà đi
Thăm lăng Hồ Chủ tịch
Dù người còn mất chẳng hề chi,
Thống nhất non sông mới lạ kỳ.
Bất diệt muôn đời đều nhớ rõ,
Những lời Di chúc lúc ra đi.
Tâm và ý của Sư bà đối với Hồ Chủ tịch thể hiện đầy đủ trong thơ của Sư bà. Qua
đó ta thấy tâm và ý của một Ni trưởng Phật giáo khác với tâm và ý của các nhà
yêu nước khác, khác với các vị lãnh đạo cách mạng đối với Hồ Chủ tịch. Sư bà là
một trong những ngưởi biết gia đình Bác từ thuở ấu thơ. Sư bà không những viết
về sự nghiệp cứu nước của Bác mà Sư bà cùng đồng hành họat động yêu nước, yêu
dân với Bác. Tuy nhiên, Bác là người đứng đầu Cách mạng Việt Nam, Sư bà là một
Ni trưởng của Phật giáo Việt Nam.
Sư bà không phải là người của Bác. Theo Sư bà, Bác Hồ có “đôi điểm đồng” với
Phật giáo. Đôi điểm đồng đó là khát vọng “Giải phóng quê hương khỏi đọa đày”,
là “Cách mạng tình người về nẻo Chánh/ Phá vòng nô lệ thoát lao lung”.
Cách mạng Việt Nam đã thỏa mãn được khát vọng của dân tộc. Bác Hồ trở thành “Bậc
Thầy cao cả của non sông.” Dân tộc Việt Nam, trong đó đa số là Phật tử “muôn
đời đều nhớ rõ” ơn Bác, ơn Cách mạng Việt Nam.
Gác Thọ Lộc (Huế), tháng 12-2007
[*] Chú thích của sachhiem.net: Một vài đọc giả Phật giáo cho rằng chưa từng
nghe chữ "bổn sư" dùng cho người không xuất gia. Thắc mắc này được tác giả Tâm
Hằng Nguyễn Đắc Xuân trả lời như sau: "Đó là nguyên văn của Sư Bà Thích nữ
Diệu Không, nên tôi không thể sửa."
Các bài cùng tác giả