Lời Người Dịch
1.
Freud coi tôn giáo là một hiện tượng nhân văn trong xã hội văn minh. Tôn giáo là
phó sản từ sự “gạt bỏ những bản năng” bằng những phương tiện “cấm đoán” tìm thấy
trong mọi văn hóa. Tôn
giáo nảy mầm từ mặc
cảm Oedipus,
và phơi bày sự bất lực của con người ở trần gian, phải đối mặt với số phận cuối
cùng là cái chết, đối chọi với những cấm cản ràng buộc của xã hội, và những sức
mạnh của tự nhiên. Ông nhìn Gót như sự thể hiện của khát khao về một người cha
thấy trong tâm lý con-trẻ. Các tôn giáo xoay quanh một hay nhiều gót, trong ngôn
từ của ông, họ giữ một “nhiệm vụ gồm ba lớp: “phải ‘trừ tà trục quỉ’ cho những
khiếp hãi của con người trước thế giới tự nhiên”, “phải hòa giải con người với
sự tàn ác của số phận, đặc biệt là khi được thể hiện qua cái chết”, và “phải đền
bù cho những đau khổ và thiếu thốn vốn đời sống văn minh đã áp đặt lên con người
nói chung”. Do đó, tôn giáo tạo nên một “kho tàng gồm các ý tưởng sinh ra từ nhu
cầu xoa dịu những đau khổ của con người khiến có thể kham chịu được”.
Tôn giáo mà Freud nói đến “tương ứng với hình thức cuối cùng trong sự tiến
hóa của tôn giáo, là đạo Kitô thực hành trong nền văn minh da trắng hiện
nay”. Khác với Jung, sau ông, là người đã dựa nhiều ý tưởng trên các tôn
giáo phương Đông (chủ yếu là Ấn Độ giáo và Phật giáo). Về mặt lôgich, Freud
nhấn mạnh trên một yếu tính đặc thù của Kitô giáo, đó là mối “quan hệ cha
con”. Ông khẳng định rằng “Gót
là một người cha cao vời, hoài mong về người cha là gốc của nhu cầu về tôn
giáo”.
Freud phân biệt ảo tưởng (illusion) và
sai lầm: một ảo tưởng, là sản phẩm của ao ước, không nhất thiết phải là sai
lầm. Hơn nữa, ông nói thêm “Tôn giáo do đó có thể là chứng loạn thần kinh
phổ quát của nhân loại, giống như ám ảnh nhiễu loạn thần kinh của trẻ con,
khởi phát từ mặc
cảm Oedipus,
trong tương quan cha con”. Ông thậm chí còn cho rằng “những người sùng đạo
được bảo vệ ở một mức độ cao trước các nguy cơ của một số bệnh thần kinh; sự
chấp nhận của họ về bệnh thần kinh phổ quát đã tránh cho họ công việc phải
xây dựng một bệnh loạn thần kinh cá nhân cho riêng họ”. Hiểu là những tín đồ
các tôn giáo đã mắc một thứ bệnh thần kinh phổ quát rồi, nên miễn nhiễm.
2.
Thực có Gót không, hay cảm giác của chúng ta về hiện hữu đó chỉ không gì
khác là một hy vọng thầm kín cho khát khao lớn nhất của con người được
thành? Gót là có thực – hay chỉ là một ảo tưởng,
giống như một giấc mơ trong đêm dài đời người? Câu hỏi này đã gây tranh
luận từ lâu trong triết học tôn giáo phương Tây. Tuy nhiên, trong những năm
gần đây, ý tưởng rằng Gót chỉ đơn giản là một sự làm đầy mong ước
của con người đã ngày càng được chú ý và được phổ biến mạnh mẽ. Hai triết
gia đặc biệt gắn liền với lý thuyết này là Ludwig Feuerbach (1804-1872) và
Sigmund Freud (1856-1939).
Công trình chính của Feuerbach là Yếu tính của Kitô giáo (The Essence of Christianity - 1841), trong
đó ông cho rằng ý tưởng về Gót phát sinh từ kinh nghiệm có thể hiểu được của
con người, nhưng đã bị hiểu nhầm lẫn. Tôn giáo nói chung chỉ đơn giản là sự
phóng chiếu bản chất con người vào một không gian siêu nghiệm ảo. Con người
đối tượng hóa những cảm xúc của chính mình. Họ giải thích nhầm lẫn kinh
nghiệm của họ như là một nhận thức về Gót, trong khi trong thực tế nó không
là gì khác hơn kinh nghiệm về tự bản thân họ. Vậy Gót phát sinh từ kinh
nghiệm con người, nhưng về chính con người, không về một-gì không con người,
như đã nhầm lẫn. Gót là sự khao khát của con người được nhân cách hóa.
Chúng ta khao khát có một hữu thể đáp ứng được tất cả những muốn và mơ của
chúng ta - và chúng ta tạo ra một hữu thế như vậy. Đối với Feuerbach, lý
thuyết loại như Christ sống lại không gì khác hơn là một tiếng vang từ sâu
thẳm con người đòi một trực tiếp an ủi chắc chắn về sự bất tử cá nhân. Kinh
Thánh nói rằng Gót tạo dựng con người theo hình ảnh của mình; Feuerbach
tuyên bố chúng
ta tạo dựng Gót theo hình ảnh của chúng ta;
“Con người là đầu, giữa và cuối của tôn giáo”. Trước sau chỉ có con người.
Gót là một sự làm đầy mong ước của con người, và giữ bằng một ảo tưởng.
Trong thế giới tôn giáo, con người đã không nhận ra rằng khi họ nói về Gót,
họ phơi mở những hy vọng và sợ hãi sâu kín nhất của chính họ.
Lối nhìn “cách mạng” này, có tác dụng lớn trong lịch sử tư tưởng, làm vấn đề
hiện hữu của Gót – từ nay không chỉ ở trong những luận chứng lôgích giữa
những nhà thần học và triết học, lại thôi không ở trong những mặc khải từ
não thức của một vài cá nhân nào đó, nhưng trên những kinh nghiệm tâm lý của
những tín đồ hiện đại. Thần học thành nhân loại học, điều tra thực hư về Gót
rơi từ trời cao xuống đất thấp, trở thành một tìm tòi về bản chất con người.
Phân tích xuất sắc của Feuerbach có ảnh hưởng sâu dài. Câu hỏi Gót có hay
không – nếu tạm giả định là có, đã chuyển sang – tại sao có? – và đến từ
đâu? Lời Feuerbach đáp mở đầu là sự hiện hữu của Gót buộc chặt và có căn cứ
vào kinh nghiệm của con người. Nhưng, như Feuerbach, nhấn mạnh, kinh nghiệm
con người có thể là không gì khác hơn là kinh nghiệm về chính mình, hơn là
về Gót. Chúng ta chỉ đơn giản phóng chiếu những kinh nghiệm riêng của chúng
ta, và gọi tên kết quả là “Gót”, đáng lẽ phải nhận ra rằng chúng chỉ đơn
giản là kinh nghiệm của tự thân bản tính rất đỗi con người. Cách nhìn của
Feuerbach đánh một đòn chí tử vào những ý tưởng xoay quanh con người của đạo
Kitô.
3.
Những ý tưởng cơ bản của Feuerbach tái sinh trong Sigmund Freud. Ngày nay,
khi nói về “phóng chiếu” hay “mong ước làm đầy” là nói về chúng cùng những
biến thể trong khoa phân tâm học của Freud, chứ không phải trong Feuerbach
nữa. Tuyên bố mạnh mẽ nhất của Freud có thể tìm thấy trong The Future of an Illusion (1927).
Đối với Freud, những ý tưởng tôn giáo là “ảo
tưởng”,
lấp đầy những mong muốn lâu đời nhất, mạnh nhất và cấp thiết nhất của loài
người
Để hiểu The Future of an Illusion,
chúng ta cần nhắc lại vài khái niệm chủ yếu. Trước hết là khái niệm ontogenesis recapitulates phylogenesis.
Freud sử dụng phylogenesis
để bao gồm quá trình tiến hóa của con người từ những nguồn gốc sớm nhất của
nó. Ông đưa ra giả thuyết rằng sự phát triển cá nhân (onto-genesis)
lập lại trong thu tóm các giai đoạn chính của quá trình tiến hóa của nhân
loại, với những biến cố chấn thương trong lịch sử của nó, do đó chúng xuất
hiện lại và có ảnh hưởng về cơ cấu trên từng cá nhân. Điều này giải thích sự
phổ quát của những ý tưởng lạ lùng nguyên thủy, mặc cảm Oedipus, và
một dàn dựng cấu trúc trong hình thành và hoạt động của những chức năng tâm
lý con người.
Lý thuyết này, một cách vắn tắt, cho rằng tiến trình phát triển sự sống ở
mỗi đứa trẻ lập lại lịch sử tiến hóa sự sống của toàn thể giống người.
Thêm nữa, Freud nhìn văn minh con người dựng trên sự chối bỏ những bản năng
tự nhiên, đặc biệt là bản năng tình dục, qua một pha trộn từ dồn én đến
thăng hoa, dẫn đến những day dứt, uẩn ức – mỗi thế hệ lại bị buộc lập lại
quá trình dồn nén tâm lý này. Đến đây, sau khi Feuerbach đẩy thần học sang
nhân chủng học, đến Freud, ông đẩy nó sang lĩnh vực chuyên môn của ông –
phân tâm học, một sáng tạo của chính ông. Và trong đó, ngoài lý thuyết về
bản năng, ông sử dụng ba khái niệm đặc biệt của phân tâm học – mặc cảm
Oedipus
trong quan hệ cha-mẹ-con, lòng-quá-yêu-chỉ chính mình (narcissism)
của con người, và khái niệm – đã nói ở trên, nhưng được dùng với nội dung
của Freud -
“mong ước làm đầy” (wish-
fulfillment). Làm đầy, thỏa mãn mong ước là một khao khát, một ám ảnh, hay
có thể nói một động cơ thúc đẩy của những hình thành từ vô thức như những
giấc mơ, những triệu chứng loạn thần kinh, và những mơ tưởng, ám ảnh dị
thường. Đặc biệt là những ước mong trẻ thơ về tính dục sẽ được biểu hiện và
thỏa mãn ẩn dấu trong tưởng tượng với nhiều cải trang. Nhìn như vậy,
mong ước làm đầy là hết sức năng động. Một mong ước không bao giờ cô lẻ, nó
luôn luôn song hành hay đối nghịch với những mong ước khác, trong lẫn ngoải,
kín lẫn mở. Như thế chúng luôn luôn chuyển vận trong những tiến trình xắp
xếp, nghĩa là dằng co, đưa lên, dìm xuống những ý nghĩa.
Trước đó trong
Totem và Taboo
(1913). Freud phát biểu quan điểm của ông về nguồn gốc tâm lý của tôn giáo.
Freud tuyên bố rằng tôn giáo về cơ bản là một hình thức biến dạng của một ám
ảnh thần kinh (obsessional
neurosis).
Theo ông nguồn gốc tôn giáo có hai tầng: gốc của nó trong lịch sử tiến hóa
tổng quát của loài người, và gốc của nó trong trường hợp của mỗi cá nhân.
Freud tin rằng những yếu tố chính yếu trong tất cả tôn giáo Abraham là:
sự tôn kính một chân dung người cha (Gót hay Christ), tin tưởng vào
quyền năng siêu nhiên thần linh, và một quan tâm với những nghi lễ sao
cho đúng cách. Ông truy nguyên những nguồn gốc tôn giáo về
mặc cảm Oedipus.
Ở một thời điểm nào đó trong lịch sử nhân loại,
khi loài người vẫn còn sống theo những bầy đoàn, do một nhóm nhỏ, nam
phái – những tộc trưởng - lớn tuổi nhưng mạnh mẽ thống lĩnh. Những người
này độc quyền sở hữu những phụ nữ của thị tộc, hay bộ lạc. Freud phỏng
đoán một biến cố trong đó những người nam trẻ tuổi,
bất mãn với tình trạng này,
đã một lần từng nổi dậy chống lại những tộc trưởng,
lật đổ
giết những người cha,
dành lấy những phụ nữ, trong đó có những người mẹ, cho mình. Sau đó, họ
bị tội lỗi của bí mật này ám ảnh. Tôn giáo có nguồn gốc từ biến cố tiền
sử này, có mặc cảm tội lỗi như sức mạnh thúc đẩy chủ yếu, và nỗ lực
chuộc tội dằng sau những nghi lễ khác loại.
Phân tâm học làm chúng ta quen thuộc với liên hệ mật thiết giữa mặc cảm
cha-con và tin tưởng vào Gót. Nó đã trình bày cho chúng ta Gót không có
gì khác hơn là một người cha cao vời. Tôn kính hình ảnh người cha có gốc
từ thời thơ ấu. Khi trải qua giai đoạn “ghét cha yêu mẹ” gọi là Oedipus
của mình, đứa trẻ phải đối phó với sự lo lắng sợ bị người cha trừng
phạt. Phản ứng của đứa trẻ với đe dọa này là tôn kính người cha, đồng
hóa với ông ta, và phóng chiếu những gì đã biết về ý muốn của người cha
vào superego.
Trong The Future of an Illusion,
Freud thăm dò nguồn gốc của sự phóng chiếu một người cha lý tưởng này.
Tôn giáo đại diện cho sự kéo dài một mảng của ứng xử tâm lý trẻ con vào
mãi trong đời sống người lớn. Tôn giáo là chỉ đơn giản là một phản ứng
thiếu trưởng thành trước nhận thức về tình trạng bất lực, bơ vơ không tự
cứu được của con người, bằng cách quay lại kinh nghiệm thời thơ ấu khi
có một người cha
bảo bọc chăm sóc: “Cha tôi sẽ bảo vệ tôi, ông nắm vững hết mọi sự”. Niềm
tin vào một Gót cá nhân là như vậy, không gì khác ngoài một ảo tưởng trẻ
con. Tôn giáo là đồng hóa những ước mong với hiện thực.
Trong ý hướng này, tôn giáo không là gì khác hơn một bệnh thần kinh. Một
thứ tâm bệnh chúng ta đã tạo ra để làm dịu sự sợ hãi lớn nhất của chúng
ta. Như trẻ thơ, chúng ta cảm thấy bất lực trước rất nhiều những sự
việc, không có khả năng tinh thần hoặc vật chất để đối mặt với thế giới
của chúng ta riêng. May mắn thay, hay nên nói rằng hy vọng thay, chúng
ta có cha mẹ hướng dẫn và bảo vệ chúng ta. Đặc biệt là người cha – con
có cha như nhà có nóc - được xem như một trụ cột của sức mạnh. Khi chúng
ta lớn vào tuổi trưởng thành, chúng ta thấy bất lực của chúng ta vẫn còn
đó, lớn hơn chứ đã không giảm đi, và do đó, chúng ta hướng về Gót, như
“người Cha chung”, người sẽ thực hiện vai trò này đến những ngày cuối
của cuộc đời chúng ta.
Như thế, trong The
Future of an Illusion này,
Freud thêm một bước tiến xa hơn, đi đến nói rằng con
người tạo ra Gót trong một ảo tưởng (có
phần đáng thương), tôn giáo như thế là một thứ bệnh thần kinh phổ quát
của loài người.
4.
Trước và sau, cả hai Feuerbach và Freud, đều tìm cách giải thích về tôn giáo
dựa vào lịch sử, đặt câu hỏi – tôn giáo đã ra đời ra sao trong tiến hóa của
nhân loại. Tìm được lịch sử của nó, là tìm được cách phủ nhận nó – cho thấy
nó hoặc ấu trĩ, hoặc lạc hậu. Đó là cách tiếp cận đến nguồn gốc của tôn
giáo, từ các căn nguyên hình thành tâm lý (psychogenesis)
của con người nói chung. Feuerbach và Freud trong nỗ lực giải thích về những
con đường tâm lý tự nhiên đưa đến tôn giáo, đã thiết lập hai lý thuyết có
ảnh hưởng rất mạnh mẽ trong triết học tôn giáo.
Feuerbach, dựa trên Hegel, đề ra ý tưởng rằng quá trình mà tôn giáo được
phát minh là mong thực hiện những khát vọng con người. Theo Feuerbach, Gót
là sự phóng chiếu những ham muốn mạnh nhất của loài người. Thế nên sự thu
hút hấp dẫn của các tôn giáo Abraham nằm trong hứa hẹn của nó về một thiên
đàng, thỏa mãn khát khao bất tử và xoa dịu sự khiếp hãi cái chết của con
người. Con người có nhiều nỗi sợ hãi, nhưng hầu hết tất cả chúng ta sợ chết.
Tôn giáo, như Kitô giáo, trong hứa hẹn sự sống đời đời, lấy đi sự lo sợ này
ra khỏi chúng ta. Nếu chúng ta “bán hồn” cho tôn giáo, chúng ta thoát khỏi
nỗi sợ hãi lớn nhất, và sống trong hạnh phúc mù lòa, vì hoàn toàn nhắm mắt
trước sống chết vô thường. Điều này giải thích sự hấp dẫn của các tôn giáo
Abraham, và sức mạnh khôn cưỡng của nó một khi bám hút được não thức con
người yếu đuối.
5.
Freud chủ trương thực chất của văn minh không nằm trong sự chinh phục thiên
nhiên của con người cho các phương tiện hỗ trợ sự sống, nhưng nằm trong lĩnh
vực tâm lý,
trong sự kiềm chế những bản năng săn mồi nơi mỗi người. Một trong những đê
đập ngăn cản bản năng mà con người đã phát minh ra để duy trì văn hóa của nó
là tôn giáo. Khía cạnh độc đáo này của tôn giáo đã vẫn được xem là phản ánh
lương tâm đạo đức đã được Freud thừa nhận khi ông viết về một trong những
chức năng của nó là cố gắng “. . . sửa chữa những bất toàn của văn hóa đã
quá đau đớn cảm nhận được”.
Freud định nghĩa tôn giáo như một ảo tưởng, bao gồm các “tín điều nào đó,
khẳng định về những sự kiện và điều kiện của thực tại trong và ngoài vốn bảo
một người về một điều gì đó mà người ta đã chưa khám phá ra và tuyên bố rằng
người ta phải nên cho điều gì đó niềm tin. Những khái niệm tôn giáo được
truyền đi theo ba cách và đòi sự tin tưởng của chúng ta. “Thứ nhất,
vì chúng đã được tổ tiên nguyên thủy của chúng ta tin tưởng; thứ hai, chúng
ta sở hữu những bằng chứng vốn chúng đã được truyền lại cho đến chúng ta từ
cùng một thời nguyên thủy ấy,
và thứ ba là cấm tuyệt không được phép nêu câu hỏi nào hết về
giá trị xác thực
của chúng”.
Tôn giáo trong một phương cách cũng tương tự như với
totemism.
Nhìn trong tầm mức cá nhân, mỗi con người thực chất là một kẻ đối nghịch với
xã hội theo ý hướng nó có những bản năng tự nhiên thôi thúc nhưng chúng phải
bị kiềm chế để xã hội có thể sinh hoạt. Freud đưa ra một danh sách đen tối,
nhưng không phải là không thực, chúng gồm loạn luân, ăn thịt người, và ham
muốn giết chóc. Cái nhìn của ông về bản chất con người là nó là chống lại xã
hội, nổi loạn, và có xu hướng tình dục và phá hoại rất cao.
Về quan điểm này Freud gần với một triết gia đồng thời với ông hơn là Emile
Durkheim (1858-1917). Cả hai cùng xem totemism như
là hình thức có liên hệ với gốc tích của tôn giáo, nhưng với Freud có lý do
khác nhau. Với Durkheim, nhìn với con mắt của nhà xã hội học, ông tin tục
thờ vật tổ (totemic
animal) là
trọng tâm nguyên thủy của hoạt động tôn giáo, vì totem là biểu tượng cho thị
tộc, một nhóm xã hội. Mặc dù hầu hết mọi người ngày nay tin rằng cách diễn
giải trong nhiều dữ liệu trên totemism của Durkheim là không chính xác, thị
kiến của ông về vai trò của tôn giáo dùng để tăng cường tình đoàn kết xã hội
được chấp nhận rộng rãi, cũng như quan điểm cho rằng trong nhiều xã hội
truyền thống, trật tự của ba thế giới nhân văn, tự nhiên, và siêu nhiên,
chúng đều liên kết với nhau và củng cố lẫn nhau trong một hệ thống chung.
Freud đặc biệt chú ý đến sự “phá lệ” xảy ra còn thấy trong các dân tộc theo tục
thờ vật tổ, đó là một nghi lễ cộng đồng, thường xảy ra hàng năm, đặc biệt trong
đó con vật tổ bị đem ra giết và ăn thịt, trong khi sự kiện này bị tuyệt đối cấm
ở mọi thời điểm khác. Tại sao có “phá lệ” này? - Freud tin rằng totemism đã khởi
phát trong một quá khứ rất xa xưa. Freud phỏng đoán biến cố loại
Oedipus
đã kể ở trên xảy ra, đưa bộ lạc vào hỗn loạn, và cá nhân có lẽ bị dày vò (giết
cha, lấy mẹ), nên sau đó có lệnh cấm vĩnh viễn cả hai: giết cha và lọan luân.
Nhưng cảm giác tội lỗi và sự thù địch không mất, nó đã được chuyển từ người cha
sang một con vật totem, và totem thành biểu tượng của “tổ tiên”. Toàn bộ quá khứ
này, Freud cho rằng, đã phai nhạt khỏi trí nhớ con người, nhưng dấu vết của nó
vẫn có thể tìm thấy trong các tôn giáo nguyên thủy, và trong những tưởng tượng
của trẻ con. Đến đây,
cho thấy Freud dựa vào thuyết thu tóm (recapitulation)
đã nhắc ở trên – giúp chúng ta hiểu tại sao ông nghĩ rằng có thể biết về quá
trình suy nghĩ của con người nguyên thủy từ tâm tưởng trẻ em hiện đại.
6.
Cơ sở triết học Freud giải thích văn minh và tôn giáo là chủ nghĩa duy vật thực
nghiệm (empiricist materialism), theo đó, Gót là một giả thuyết và không đứng
vững. Lịch sử văn minh loài người là một đấu tranh dài chống tự nhiên, cả thiên
nhiên ngoài lẫn nội tâm trong. Tin tưởng vào Gót được xem như một thứ nỗ lực hoà
giải con người với sự nương tựa mật thiết của nó vào tự nhiên vốn hầu hết cảm
nhận qua những kinh nghiệm đầy thương tổn. Freud diễn dịch sự hình thành của
những tôn giáo trong cái nhìn theo những chức năng hoà giải của nó trong sự xung
đột này giữa tự nhiên và văn hoá, giữa ego và sự săn đuổi. Như dẫn chính ông ở
đoạn trên, tôn giáo đem lại cho con người sự thú nhận những yếu đuối tự thân của
chính nó và đồng thời cũng cho nó giữ lại một ý nghĩa ưu việt vượt trên thực tại
vây quanh. Cái giá của sự thoả hiệp này sự tuân phục một “ảo tưởng”. Các lý
thuyết trong nội dung tôn giáo, đều phải tuân theo không chất vấn, chúng không
phải là kết quả của suy tưởng siêu nghiệm, cũng không phải là từ kinh nghiệm
tâm linh, lại càng không là những “mặc khải” thần bí, nhưng chúng chỉ là những
tưởng tượng đã được tinh luyện của chính con người, là những ao ước-muốn thành
trước những nhu cầu cơ bản nhất của con người. Sức cuốn hút mạnh mẽ của “ảo
tưởng” do đó là sức mạnh thôi thúc của những nhu cầu này. Trung tâm điểm của
tưởng tượng tôn giáo, một Gót-Người Cha (Father-God), dựng lên từ những vật liệu
lấy từ kinh nghiệm thơ ấu của con người: đứa trẻ yếu đuối không tự bảo vệ được
mình đã tạo ra nhu cầu muốn được bảo vệ; nhu cầu này là động lực của yêu thương
và mong đợi của nó về một người cha và buộc nó phải dìm xuống tất cả những ác
cảm nó có với ông như đối thủ của nó trong tương quan phức tạp tay ba –
cha-mẹ-con – Freud gọi là mặc cảm Oedipus. Nhưng bởi vì người cha thực không thể
chữa lành được những thương đau, thiếu thốn, và những thương đau thiếu thốn ấy
còn mãi vì chúng là phận người, nên dù đã trưởng thành, một người cha mạnh mẽ
hơn, nhiều quyền năng hơn, thương yêu bảo bọc hơn – toàn năng, toàn trí và toàn
thiện – là sự cần thiết, và từ đó
con người trần gian “tạo” ra Gót – lý tưởng hoá và phóng chiếu những thuộc tính
của một người cha thành Gót - một người Cha cao vời, vòi vọi.
Khát khao được bảo bọc, thúc đẩy từ những nhu cầu của sự sống trực tiếp đè
nặng trên mọi cá nhân, và nhất là cái chết ở cuối đường không thể nào thoát,
tất cả đã giải thích sức mạnh của tôn giáo, và sự tin tưởng đông đảo lâu dài
của con người vào nó. Tôn giáo như thế, theo cái nhìn của Freud, không chỉ
là sự tự vệ nhưng còn là một triệu chứng của bệnh tâm thần, một thứ bệnh tâm
thần “hữu ích”, xoa dịu đau thương của kiếp người, giúp người ta chịu đựng
được những khổ đau nhọc nhằn, và vực người ta đứng dậy đi cho hết đường, đến
cái chết hãi hùng, và rồi ở đó, nó đem lại những ý tưởng để phủ nhận cái
chết, vẽ ra một “thiên đường” đằng sau cái chết.
Kinh nghiệm về những bất-khả-tự lực với tư cách nạn nhân đã chuyển đổi sang
tin tưởng vững chắc có một sự che chở sau cùng với tư cách tín đồ. Một biện
chứng cơ bản đã là động lực của chuyển đổi cơ cấu. Chuyển đổi từ nương tựa phụ thuộc
sang cảm giác được bảo bọc
lập lại một kinh nghiệm thơ ấu, đó là thế chỗ ông bố thực với một sản phẩm
tưởng tượng. Chiều hướng của tiến trình là một loại “hủy-thực-thành-hư” (Entfremdungsgefühl)
- de-realization
của Freud là một thứ dồn nén, phủ nhận, nó “tha hóa” thực tại vật chất đời
người, chuyển sang đối lập của nó, dựng trên sự xây dựng ảo tưởng về một
“thực tại” thứ hai linh thiêng.
Sigmund Freud, đã thực sự đem Gót làm một chủ đề của giải cấu trúc siêu hình
tâm lý (metapsychological deconstruction), và đã chọn một một vị trí
vô thần. Những người theo ông, cũng tiếp tục gắn bó với những luận chứng và
tuyên bố của ông trong “Tương
lai của một ảo tưởng”
này và tiếp sau trong “Văn
minh và những bất mãn từ nó”.
Chủ nghĩa khoa học thực chứng (positivism) ở đầu thế kỷ XX đã đem lại một cổ
vũ nồng nhiệt trước những vạch trần của Freud về Gót. Ông đã cất lên tiếng
nói cho những gì đang nung nấu trong tâm trí của giới trí thức phương Tây.
Những tội ác không kể xiết đã xảy ra ngay sau đó, nhân danh chủ nghĩa dân
tộc đầy tôn giáo tính ở châu Âu, xác nhận rằng chủ nghĩa vị chủng
(ethnocentrism) và khái niệm song sinh của nó, niềm tin tôn giáo, là những
món hàng tối nguy hiểm cho loài người.
Chúng đã dẫn đến sự nhiễm độc với sự ưu thắng của trong-nhóm (in-group
superiority ) và đặt nền móng cho sự áp bức của những “người khác”
ngoài-nhóm, và thậm chí cả sự tàn bạo và diệt chủng. Những nạn nhân của định
kiến và bạo lực, tìm thấy hy vọng từ những phân tích của Freud rằng tôn giáo
là một trò lừa bịp và khoa học sớm hay muộn sẽ đảm bảo vị trí ưu thế của lý
trí con người trong tư tưởng cá nhân và sinh họt xã hội cả toàn thể cộng
đồng nhân loại.
Và như thế, Freud đã tiên đoán, rất lạc quan ở gần giữa thế kỷ trước; ảo
tưởng sẽ tan vỡ, Gót và những tôn giáo Abraham thờ Gót sẽ nhường chỗ cho lý
trí và khoa học.
7.
Freud xuất thân là một y sĩ chuyên về bệnh thần kinh, một khoa học gia, một
bác học trong ngành của ông, là nhà tâm lý nổi danh nhất cho đến nay của
nhân loại, người khai sinh môn phân tâm học, nhưng ông có ảnh hưởng hết sức
lớn lao và sâu rộng trong lĩnh vực tư tưởng và nghệ thuật từ hai thế kỷ qua. Tương
lai của một Ảo tưởng,
cũng như Ego
và Id,
và Văn
minh và những Bất mãn từ nó là
những bản văn nay đã thành cổ điển, được giảng dạy rộng rãi trong các trường
đại học, trong có những quan điểm đã bị thử thách, được đánh giá lại, hay bị
thời gian vượt qua, nhưng tất cả đều có giá trị lịch sử, đều là những cần
biết với những ai quan tâm về tư tưởng và triết học tôn giáo.
Tôi không tìm được một bản tiếng Việt, nên khi dịch bản văn Văn
minh và những Bất mãn từ nó,
tôi thấy Tương
lai của một Ảo tưởng này
cũng cần được dịch và nên giới thiệu trước, Người đọc sẽ thấy chúng liên hệ
ra sao, sau khi đọc cả hai. Riêng tập Ego
và Id có
thể dành giới thiệu sau với lý thuyết đặc biệt về Libido cùng Dynamic
Unconscious.
Dịch từ bản dịch tiếng Anh: Freud, S. (1927). The
Future of an Illusion trong
The Standard Edition of the Complete Psychological Works of Sigmund Freud,
Volume XXI (1927-1931): The Future of an Illusion, Civilization and its
Discontents, and Other Works, 1-56.
Đối chiếu với bản dịch tiếng Pháp: L’avenir
d’une illusion.
Trad. franç., 1932. par Marie Bonaparte revue par l”auteur, 1932.
Les Presses Universitaires de France, 1973, 3è édition.
Lê dọn Bàn
(Feb/2011)