●   Bản rời    

Ông Nguyễn Gia Kiểng có “mảnh quê hương” gì “trên đất Phật”?

Ông Nguyễn Gia Kiểng có “mảnh quê hương” gì “trên đất Phật”?

Trần Quang Diệu

https://sachhiem.net/LICHSU/TR/TQD34_NGK.php

28-Dec-2013

Nguyễn Gia Kiểng

Ông Nguyễn Gia Kiểng.
Ảnh https://toquocvn.wordpress.com

Vài Lời Nói Đầu:

Ông Nguyễn Gia Kiểng là một con chiên của nước Vatican La mã giáo có nguồn gốc người Việt, sinh ra và lớn lên trên đất Việt trước khi ông có dịp ra hải ngoại và hiện định cư tại Pháp.

Chúng ta biết, hễ bất cứ ai, bất cứ sắc dân, chủng tộc nào mà một khi đã “chịu phép rửa tội” để “trở thành con Chúa”, trở thành “thần dân của thành Rome” thì mọi thái độ sinh hoạt trong cuộc đời, về quan điểm tâm linh cho phần hồn, mọi cung cách ứng xử trong các lĩnh vực như chính trị, văn hóa, xã hội cho đến lịch sử v.v… thì nhất nhất mọi việc chính yếu nhằm điều hướng lập trường ở các cơ sở hạ tầng, họ đều buộc phải “làm theo đức vâng lời” mà quyền lực tối hậu bằng mọi mệnh lệnh là do giáo triều Rome ban ra. Không có cách nào khác hơn như thế. Những Hồng y, Tổng Giám mục, Giám mục, Linh mục cho dù họ mang căn cước của chính phủ nào, quốc gia nào ở những vùng đất nào là một chuyện, nhưng tất cả mọi quyết định sinh hoạt là buộc phải làm theo lịnh của Vatican, nếu không muốn bị khai trừ cho về vườn bằng chiếc búa “treo bát và dứt phép thông công”.

Từ những quyền uy, những mệnh lệnh có tính tuyệt đối như thế? Đồng thời chúng ta cũng nên nhớ rằng, lập mệnh của giáo triều Rome, với cương vị tối cao là Giáo hoàng – tương đương là một ông vua có toàn quyền cai quản mọi thần dân của mình ở khắp mọi nơi trên thế giới mà những “thần dân” ấy đều bị niệt vào chiếc niền kim cô là phải “làm theo đức vâng lời” như đã nói! Điều đặc biệt ở đấy, trước thời đại mà con người đã lật nhào mọi quyền uy phong kiến đế vương để nêu cao tinh thần bình đẳng, dân chủ trong quyền làm người thì vai trò của ông vua (giáo hoàng) ở Rome lại được “khẳng định” rằng tất cả những gì giáo hoàng phán ra từ bục Phêrô là “không thể sai lầm”? Có nghĩa là những “thần dân” dưới quyền trên khắp hoàn vũ (vì là “giáo hội hoàn vũ”) sẽ không còn có quyền tự do lựa chọn gì nữa cả, mà  chết sống gì cũng phải răm rắp tuân theo mọi lịnh truyền của giáo hoàng, cho dù lịnh truyền ấy có bị phản lại quê hương đất nước và dân tộc của những “thần dân” dưới trướng, trong đó cố nhiên là có những “thần dân” gốc Việt Nam như Nguyễn Gia Kiểng chẳng hạn. Lịch sử dân tộc Việt đã cho thấy rõ ràng điều đó rồi! Thậm chí nó trở nên là đội quân phiến loạn, dám a tòng cùng các giáo giặc ngoại bang lập thành “một vương quốc Ki tô giáo” ly khai dưới triều hoàng đế Minh Mạng. Nó âm mưu lật đổ vua Tự Đức. Nó nhận viện trợ của giặc để “làm điêu đứng xứ Bắc kỳ” (từ của tiến sĩ Nguyễn Xuân Thọ căn cứ theo các thư tịch ở Pháp) như Tạ Văn Phụng. Nó đi lính cho giặc, rồi nó truy lùng, càn quét, tiêu diệt hết ráo những anh hùng nghĩa sĩ Việt Nam đứng lên đáp lời sông núi chống giặc cứu quốc như nó đã tiêu diệt Đinh Công Tráng, Nguyễn Tri Phương, Phan Đình Phùng, Cao Thắng, Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Mai Xuân Thưởng v.v…  Cho nên, điều ta có thể dám quả quyết, với thâm tâm chân xác và thuần khiết nhất (?), nếu những ai vốn là dòng máu Việt mà đã trót lỡ “rửa tội” để phải mang thân phận mình đang là “thần dân của thành Rome” mà bảo nó trưởng dưỡng thuộc tính thuần túy Dân Tộc, thủy chung với Dân Tộc thì đấy chỉ là chuyện lông rùa sừng thỏ - nghĩa là không thể thực hữu!

Nói chi đến thuộc tính mang nét trách nhiệm cộng đồng nhân dân xứ Việt? Ngay cả đơn vị cá nhân gia đình (mà đạo lý Á Đông qua trường phái Khổng Mạnh đã từng nêu cao tinh thần “thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc”, để cuối cùng mới dám nói đến chuyện “bình thiên hạ” (1)? Trước công đồng Vatican II (vào đầu thập niên 1960), người “Công giáo” Việt Nam cũng đã phải “làm theo đức vâng lời” bởi các giáo sĩ ngoại bang (chúng tôi gọi họ là giáo giặc) mà dẹp bỏ, đạp đổ bàn thờ Gia Tiên để không còn ai dám thể hiện chữ Hiếu qua các nghi biểu đốt nhang, thờ phượng, cúng giỗ cha mẹ, ông bà của mình.

Về "Một mảnh quê hương" của Ông Nguyễn Gia Kiểng

Khái quát như thế, tôi muốn đề cập đến bài viết của ông con chiên Nguyễn Gia Kiểng mới đây, mà tôi thấy tờ bán tuần báo Việt Luận ở Úc có đăng tải (tòa soạn báo này đã cắt bỏ một vài đoạn…!) trong số ra ngày thứ sáu, 20.12.2013, trang 57.

Ông Nguyễn Gia Kiểng đi du lịch Ấn Độ rồi trở lại Pháp ngồi viết bài “Một mảnh quê hương trên đất Phật(xem link)?

Khi nhìn thoáng với đề tựa, như kinh nghiệm trước đây ông con chiên Phan Thiết Nguyễn Kim Khánh (cũng đi Ấn Độ rồi viết “Hành Hương Đất Phật” với mục đích xuyên tạc, bóp méo để lăng mạ, đánh phá Phật giáo cho nên Phan Thiết đã lập tức bị hai người “một tăng một tục” là Đại Đức Thích Nhật Từ và GS Trần Chung Ngọc đã viết thành sách (327 trang) để phản bác Phan Thiết Nguyễn Kim Khánh mà độc giả nhận ra thái độ quyết liệt nằm ngay nơi tên sách: “Vạch Trần Âm Mưu Phá Ngầm Phật Giáo”, do Giao Điểm xuất bản vào năm 2000) (xem link), thì giờ đây, tôi cũng nghi ngờ ngay thủ đoạn phi quân tử của nhà trí thức “Công giáo” Nguyễn Gia Kiểng này.

Thật vậy, Nguyễn Gia Kiểng, đối với lịch sử và truyền thống dân tộc mà ông ta còn nhẫn tâm láo cá để hạ bút viết bừa, buộc “Tổ Quốc” dân tộc Việt phải “Ăn Năn” thì huống hồ chi đối với Phật giáo, một ngoại đạo đối với ông chứ “một mảnh quê hương trên đất Phật” gì? Ông Kiểng đâu dư giờ để phải “quan tâm” đến đạo Phật cách “ngoạn mục” như vậy?

Cho nên, khuyên ông Kiểng hãy thành thật với lương tri của mình khi ông cất công đi Ấn Độ để rồi viết “Một mảnh quê hương trên đất Phật”!

Khỏi cần đi Ấn Độ người ta cũng thừa hiểu những vết tích từ trên 2.500 năm trước đến hôm nay là còn lại những gì, và được bao nhiêu vết tích về vật thể (vì đấy là yếu tố “gợi hứng” để ông Kiểng phải lên đường sang Ấn Độ?). Thế nhưng, tôi biết, điều mà ông Kiểng muốn nhắm đến thì lại không phải là những bức tường bằng đá đã đổ nát. Không phải những ngọn tháp hay trụ đá của vua Asoka https://www.google.com.au/search?q= Vua+Asoka&espv=210&es_sm= 93&tbm=isch&tbo=u&source= univ&sa= X&ei=9yK9UsndHMO1kgXqyoEY&ved= 0CDoQsAQ&biw=1349&bih=611 còn lưu lại. Không phải là những ngôi chùa của người Việt Nam ở đó để ông cố ý viếng thăm bằng tâm cảm thiện lành (chẳng ai dại gì để phải tin như vậy!). Mà thâm ý căn để ở chỗ ông Kiểng ôm ảo tưởng muốn gây nản lòng những người Phật tử Việt Nam là “đạo Phật đã biến mất tại Ấn Độ”! Nhằm lái lảng tư duy vào cho thiên hạ rằng đạo Phật xuất xứ tại đó nhưng nó chẳng giá trị gì cho nên dân Ấn đã làm lơ. Mà làm ngơ thì nó phải bị “biến mất” chứ sao? Phải vậy không ông con chiên Nguyễn Gia Kiểng?

Bồ đề đạo tràng

Bồ đề đạo tràng, nơi Đức Phật thành đạo giác ngộ.

Bây giờ, tôi muốn nói với ông Nguyễn Gia Kiểng điều này: Ông là một con chiên, tức “thần dân” của nước Vatican La mã giáo. Nhưng ông đã từng viết miệt thị tổ tiên xứ Việt qua truyền sống sinh tồn từ thở dựng nước, đánh đuổi ngoại xâm để giữ nước, và vươn vai thu hồi nền độc lập tự chủ dân tộc cho đến hôm nay, nhưng ông lại đạp đổ bằng cách viết sách cảnh cáo, lên án, buộc “Tổ Quốc” phải “Ăn Năn” là nghĩa gì? Trong khi, các đầu nậu nơi giáo triều của cái đạo mà ông đã theo – Thiên Chúa giáo Vatican La mã – người ta đã từng gieo biết bao thảm họa kinh hoàng cho nhân loại! Người ta cũng đã từng làm cho Việt Nam bị vong quốc suốt cả thế kỷ thì sao ông Nguyễn Gia Kiểng không một lần dám tỏ ra can đảm viết lên án và yêu cầu họ ăn năn giùm thử xem sao!? Ngoại trừ người ta tự lên tiếng xin lỗi! Nghĩa là Giáo hoàng Gioan- Phao-Lồ II đã đứng ra xin lỗi với thế giới về những hành vị tác tệ mà GH của ông đã gây ra chứ Việt Nam có gì để ông Kiểng phải yêu cầu “Tổ Quốc Ăn Năn”https://sachhiem.net/DOITHOAI/LeVietThuong2.php! Đó là hành vi ngạo mạn! Là hậu duệ vô ơn! Ý quên! Ông Nguyễn Gia Kiểng đã trót làm “thần dân của thành Rome” thì khi nói đến 4 chữ hậu duệ Việt Nam là điều mỉa mai, cay đắng lắm đó!

Như trên, đấy là chuyện tổ quốc, chuyện quê hương dân tộc Việt Nam. Còn về chuyện đạo? Thay vì lên đường đi Ấn Độ để dò tìm dư âm “đạo Phật đã biến mất tại Ấn Độ”, sao ông Kiểng không khăn gói đi Do Thái để truy tìm hình ảnh Chúa Jesus xem có bị “biến mất tại Do Thái” hay không? Chuyện Ấn Độ giáo, chuyện đạo Phật! Rồi chuyện Do Thái giáo, chuyện đạo “Công giáo” La mã với những hưng thịnh, suy vi là chuyện bình thường chứ có chi để ông con chiên Gia Kiểng phải “lo” cho đạo Phật? Tuy nhiên, Phật giáo xưa nay không có các đội quân “thánh chiến” cho nên có lúc Ấn Độ do giới giáo sĩ Bà La Môn muốn ngóc đầu dậy chiếm lĩnh vai trò ngồi trên đầu cha thiên hạ về sự phân chia giai cấp khắc nghiệt. Thêm vào đó, Ấn Độ lúc bị Hồi giáo xâm lăng, họ tàn phá luôn vô số những cơ sở sinh hoạt của đạo Phật tại đó. Trong khi “Công giáo” của ông Kiểng thì có những đội quân chữ Thập đã sẵn sàng nhiều phen xung trận chém giết kinh hồn để không những duy trì mà còn bành trường đạo Chúa nữa thì sao không quét sạch những “chướng tai gai mắt” Do Thái giáo bất phục tùng mệnh lệnh từ Vatican vậy hả ông Nguyễn Gia Kiểng?

Điều khá lý thú khác nữa là thế này: Tất cả mọi con chiên xưa nay đều phải trải qua công việc “rửa tội” để sau đó mới có thể được xem là con Chúa. Mà “rửa tội”“rửa” cái gì lúc đứa trẻ vừa mới mở mắt chào đời? “Rửa” cái “tội tổ tông” do hai ông bà Eva với Adam bị “con rắn tinh khôn” dụ cho ăn “trái cấm” trong vườn địa đàng. Vậy, ngày nay, “vườn địa đàng” ấy nằm ở đâu? Lãnh thổ của quốc gia nào? Do Thái? Nó có còn chút đỉnh vết tích chi không? Sao ông con chiên Nguyễn Gia Kiểng không chịu cất công dò tìm, sưu khảo, quy nạp để rồi viết trình làng cho hữu ích đạo của mình mà lại phải sang Ấn Độ, đến những nơi khi xưa Phật Thích Ca sinh ra, ngồi tu, giảng đạo và thị tịch (qua đời) để làm gì? Để viết mô tả cảnh hoang lạnh điều hiu nơi những chốn kinh thành và thâm nghiêm một thuở đặng người Phật tử Việt Nam nản lòng chơi cho “bỏ ghét”?

Về Những Lời Ông Kiểng viết

-- Ông Nguyễn Gia Kiểng (NGK) viết:

“Đạo Phật là tôn giáo lâu đời nhất của nước ta và là một thành tố quan trọng của văn hóa và lịch sử Việt Nam, đối với người Việt Nam tìm hiểu Phật Giáo cũng là tìm hiểu căn cước của chính mình”?

Trần Quang Diệu (TQD):

Tôi hoàn toàn không tin về việc ông Nguyễn Gia Kiểng đi Ấn Độ với một mục đích là “tìm hiểu căn cước của chính mình”! Mà thủ đoạn chính của ông ta là mục tiêu đánh phá, xuyên tạc.

Chúng ta hãy đọc tiếp đoạn này khi ông Kiểng nói về dòng họ của Phật Thích Ca.

-- NGK:

“Dòng họ Sakya sau này ra sao? Không ai biết chắc chắn. Một phần lớn đã bị tàn sát ngay trong sinh thời của Phật, phần còn lại tản mát.”?

TQD:

Bộ Nguyễn Gia Kiểng muốn nói thế là có thể giả lả sang cảnh Chúa Jesus của ông bị bọn đế quốc La mã hành hình cách dã man cùng lúc với hai tên cướp bằng cây thập ác trên ngọn đồi sọ hay sao?

Kẻ thù nào đã “tàn sát” “phần lớn” dòng họ Sakya “ngay trong sinh thời của Phật”?

Chúa Jesus thì bị người ta giết chết lúc đã đến tuổi về già hay chưa? Còn Phật Thích Ca thì thọ mệnh vào tuổi 80! Đương thời lúc bấy giờ, theo lịch sử, Phật Thích Ca mới là vai trò nổi tiếng. Vậy những kẻ tàn sát kia sao lại sợ Tăng đoàn Phật Thích Ca khi mà trong họ mỗi người chỉ là bộ y và chiếc bình bát đựng thức ăn trước những cảnh “phần lớn” dòng họ “đã bị tàn sát ngay trong sinh thời của Phật”?

Tôi không loại trừ về các tính chất tranh quyền tranh bá, ganh tị mà hãm hại nhau trong bất kỳ thời đại nào và ở đâu. Tuy nhiên, đã bảo “Dòng họ Sakya sau này ra sao? Không ai biết?” Vậy làm sao, và ai lại có thể biết rõ trăm phần trăm rằng “phần lớn” họ “đã bị tàn sát trong sinh thời của Phật”?

Tôi không thích ông Nguyễn Gia Kiểng nói chuyện như Chúa chết, rồi sống lại, bay cả hồn lẫn xác lên trên trời (?), ngồi bên cạnh đức Chúa cha. Chờ đó, khi nào “tận thế”, “trở lại” trần gian để “phán xét”. Kết cuộc, đưa người này người nọ lên thiên đàng để được “hưởng nhan thánh Chúa” (trở thành ông nầy bà nọ hay phải “làm tôi tớ hèn mọn cho Chúa” thì tôi không biết), Tống cổ kẻ kia người khác xuống hỏa ngục để bị lửa thiêu đốt đời đời”!?

-- NGK:

“Những cuộc tranh luận xem đạo Phật đến nước ta trước hay đến Trung Quốc trước, đến bằng đường bộ hay bằng đường biển đều không quan trọng, sự thực là Phật Giáo Việt Nam lệ thuộc nặng nề Phật Giáo Trung Quốc. Bắt đầu ngay bằng chữ “Phật”. Các kinh Phật cũng đều đến từ Trung Quốc và mang tên chữ Hán: Tứ Diệu Đế, Pháp Hoa, Bát Nhã, Thủ Lăng Nghiêm v.v… tất cả được dịch sang tiếng Việt một cách “luộm thuộm và tối nghĩa.”

TQD:

Với đoạn như thế của ông Nguyễn Gia Kiểng thì bảo sao ông GS Trần Chung Ngọc không mắng cho là “ngu sử”!?

Ai “tranh luận” về chuyện Phật giáo du nhập vào Việt Nam trước hay sau Trung Quốc?

Đã là lịch sử thì sự kiện nào, trường hợp nào có những nhà sư từ Ấn Độ sang Việt Nam trước, khi nếu có thể truy cập được thì cần phải ghi nhận như vậy. Ngược lại, nhưng Pháp sư nào được mời đến Trung Quốc trước thì đương nhiên cũng phải chấp nhận y như vậy chứ sao lại “không quan trọng”?

Ông Nguyễn Gia Kiểng gian xảo nhắm vào các tính chất dị ứng thời đại về việc Trung Quốc ăn hiếp Việt Nam cho nên ông muốn chơi trò ném đá giấu tay để gây nỗi nghi ngờ rồi sinh ra chán nản đối với người Phật tử Việt Nam về việc cái gì của PGVN cũng đều là do, và của Tàu cả, trong khi, tôi đoan chắc, dẫu cho có biết, ông Kiểng vẫn phải phớt lờ về niềm hãnh diện khi xứ Giao Châu đã có một phái đoàn của nhà sư Khương Tăng Hội sang Đông Ngô truyền giáo và được Ngô Tôn Quyền đón tiếp cách trân trọng, và cho lập một làng Phật giáo (Phật đà lý) tại đó https://tuvientuongvan.com.vn/news_detail/2898/3/Thien-su-Tang-Hoi: -So-to-cua-Thien-tong-Viet-Nam--Phan-cuoi- với chùa Kiến Sơ.

Đúng, Nguyễn Gia Kiểng thuộc loại “ngu sử”! Nếu không, ông ta đã chẳng dám nêu chi đoạn này: “Phật Giáo Việt Nam lệ thuộc nặng nề Phật Giáo Trung Quốc. Bắt đầu ngay bằng chữ “Phật”. Các kinh Phật cũng đều đến từ Trung Quốc và mang tên chữ Hán: “Tứ Diệu Đế, Pháp Hoa, Bát Nhã, Thủ Lăng Nghiêm v.v… tất cả được dịch sang tiếng Việt một cách luộm thuộm và tối nghĩa.”?

Phật Giáo Việt Nam có hoàn toàn "lệ thuộc nặng nề Phật Giáo Trung Quốc" đến mức nào vào những thuở ban đầu mới du nhập, chúng ta cũng nên đọc mấy trung tâm Phật giáo, trong đó có trung tâm Luy Lâu dưới thời nhà Hán qua đường link này thử xem sao: https://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/giang-kinh/truyen-thong-sinh-dong-cua-thien-tap/thien-tap-thoi-nguyen-thi/ba-trung-tam-phat-giao-doi-han

Cũng như quan niệm “Chúa là đấng cao quý cho tất cả các dân tộc”, thì Phật Đà với tinh thần “Thiên Nhân sư - thầy của cõi trời và cõi người; tứ sanh chi Từ phụ - cha lành trong bốn loài: đẻ con, đẻ trứng, hóa sinh, sinh nơi những chỗ ẩm thấp (2).

Vậy thì, với hoàn cảnh giao lưu hay lệ thuộc phần nào về phạm trù văn hóa giữa các quốc gia, nhất là hoàn cảnh dân Giao Châu lúc bấy giờ chưa có chữ viết hoàn toàn phổ cập riêng cho mình. Vì đấy, những kinh Phật, hay bất kỳ thứ văn kiện hành chánh gì của Việt Nam vào dạo ấy đều phải dùng bằng chữ Hán là chuyện tất nhiên. Còn nếu ngày nay ngồi mà khắc khe về tình huống trong bối cảnh xã hội như lúc chưa sử dụng mẫu tự Latin? Ông Kiểng nên đạp đổ, lật nhào luôn Mẹ Âu Cơ và cha là Lạc Long Quân – cháu mấy mươi đời của vua Thần Nông bên Trung Hoa (theo “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trong Kim) luôn đi cho rồi! Đoạn lôi hai ông bà ở vườn Eden là Adam và Eva của Cựu Ước Do Thái đến làm cha mẹ của 90% dân Việt còn lại đi cho thỏa mộng xâm lăng “văn hóa” tôn giáo và nô dịch linh hồn! Còn nữa, nếu ông Kiểng hạch hoẹ kinh điển Phật giáo xưa kia dùng toàn chữ Hán cho nên bị lệ thuộc Trung Quốc là không có giá trị? Vậy ông cũng nên lên án để tống khứ luôn những bản văn cũng bằng chữ Hán như: “Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư…”;“Binh Thư Yếu Lược”; “Bình Ngô Đại Cáo” v.v… luôn đi cho rồi?!

Ông Nguyễn Gia Kiểng xạo sự khi ông kê một dọc danh tự, từ “Phật” cho đến các bộ kinh như  “Tứ Diệu Đế, Pháp Hoa, Bát Nhã, Thủ Lăng Nghiêm v.v…” để ông hạ giá rằng nó không có giá trị, vì đấy là sự “lệ thuộc của Trung Quốc” (sic)?

Tôi hỏi ông Kiểng, người Việt moi đâu ra những danh từ như “Thần Đức Chúa Trời”, cả Tàu lẫn Việt đôi lúc xài chung hai chữ “Gia Tô”? Sao không nhất nhất dùng Jesus Christ mà gọi là Giê-su, Giê-xu, Yêsu, Jesus, Gia-tô, Da-tô, Chúa Giê-su Ki tô vậy chứ hả? Rồi “Công giáo” nữa? Và ngay cả các vị Linh mục VN khi mở miệng thốt hay đưa tay viết xuống 4 chữ “Thiên Chúa quan phòng”, người ta thấy nó cũng đã là Trung Quốc mẹ nó mất! Ông Kiểng có thấy không?

Cuối cùng trong đoạn trên, ông Kiểng chê tất cả những bộ kinh của Phật giáo đều “dịch sang tiếng Việt một cách luộm thuộm và tối nghĩa”, thì quả ông là người rất cà chớn, láo cá và ngạo mạn! Ngoại trừ ông Kiểng thử ra công

từ Tiếng Phạn (zh. Phạm/Phạn ngữ 梵語; sa. saṃskṛtā vāk संस्कृता वाक्”, “Pali (also Pāḷi)” 

chuyển đến Hán tạng hoặc dịch sang Việt Nam bây giờ thử xem sao trước khi ông chê các thế hệ dịch thuật trước đều là “luộm thuộm”“tối nghĩa”!? Xin lỗi ông Kiểng, chẳng thể nào lúc ông nêu mấy danh tự kinh như “Tứ Diệu Đế, Pháp Hoa, Bát Nhã, Thủ Lăng Nghiêm v.v…” mà ông có thể khả dĩ đủ phong độ lật nhào, phế hủy hết ráo những kinh điển của Phật giáo cho dù qua các quá trình dịch thuật từ ngôn ngữ Ấn sang Trung Hoa hay Việt Nam!

Song song, ông cũng nên quay đầu nghiệm lại quá trình “Kinh Thánh” của ông xem có phải nó đã mang vô số những điều độc ác, phản nhân luân mà thậm đến ngày nay có những quốc gia cấm trẻ em dưới 18 tuổi đọc, lẫn phải giấu xuống dưới gầm bàn nếu muốn bán hay không? Và điều gì làm cơ sở tuyệt đối để biết rằng những gì nêu trong “Kinh Thánh” là do chính Jesus đã nói ra chứ không phải người ta rinh nhét vào miệng ngài?

Tôi không tin Jesus nào mà lại có thể nhẫn tâm đến độ man rợ ra lịnh cho thuộc hạ của mình là phải “mang những kẻ thù của Ta ra đây, và giết chúng ngay trước mặt ta”! Tuy vậy, lịch sử Thiên Chúa giáo Vatican La mã đã từng thực sự làm như thế, nghĩa là giết người không biết gớm tay qua các cuộc Thập Tự Chinh và những Tòa hình án xử Dị giáo, chất củi đốt sống những ông bà phù thủy, thậm chí khoa học gia v.v…

Vậy mà, trong tất cả những bộ kinh của Phật giáo hiện nay, người ta dịch ra Việt ngữ từ Hán tạng lẫn Pali đều có, nhưng để chê những nhà sư và các học giả Phật giáo dịch ra là “luộm thuộm và tối nghĩa”, ông Nguyễn Gia Kiểng chỉ dẫn duy nhất câu 70 (trong tổng số 422 câu) của kinh Pháp Cú rồi “bình luận” một đoạn dài như sau:

“Một thí dụ là kinh Pháp Cú (Dhammapadda) mà các nhà sư tụng mỗi ngày. Câu 70 trong Phẩm Ngu do hòa thượng Thích Thiện Siêu dịch từ bản chữ Hán như sau: “Từ ngày này qua tháng khác với món ăn bằng đầu ngọn cỏ cô-sa, người ngu có thể lấy để nuôi sống, nhưng việc ấy không có giá trị bằng một phần mười sáu của người tư duy Chánh pháp”. Ai hiểu? Phẩm (chương) này nói về những người ngu dốt ăn năn về tội lỗi của mình và tự đày đọa mình để chuộc tội. Theo Phật họ có đày đọa thân xác bằng cách ăn cỏ như súc vật đi nữa để chuộc tội cũng chẳng đi đến đâu, không bằng học để hiểu con đường giải thoát. Nhưng tại sao một phần mười sáu mà không là một phần mười lăm hay một phần mười bảy? Bản dịch của hòa thượng Thích Minh Châu (nguyên viện trưởng viện đại học Vạn Hạnh) cũng vẫn một phần mười sáu, cũng vẫn không kèm theo một lời giải thích nào và còn khó hiểu hơn. Có lẽ thái độ chung của hai vị sư này là “Phật đã nói thế thì cứ biết thế”. Nhưng vấn đề là Phật không nói như thế. Con số 16 là con số huyền bí của Ấn Độ, ngoài sự kiện là một con số nó còn có nghĩa bóng là “toàn vẹn”. Khi Phật nói cắn cỏ ăn năn không bằng “một phần mười sáu” của cố gắng học hỏi để khai sang tâm hồn ông chỉ muốn nói là “chẳng là gì so với” mà thôi. Một câu như vậy mà trong hàng ngàn năm người ta tụng hàng ngày mà không ai thắc mắc chứng tỏ rằng người Việt chúng ta tuy ham học nhưng lại không có nhu cầu hiểu. Câu 70 này không phải là ngoại lệ, phần còn lại của toàn bộ kinh Pháp Cú được dịch ra tiếng Việt cũng đều như thế cả và nói chung các kinh Phật khác cũng thế.

Đọc đoạn đó của ông Kiểng, chúng ta thấy ông ta tự để lộ ra bản chất mâu thuẫn chính ông, nhưng ông lại lên mặt ta đây “hiểu biết” để ông ta trách sao mấy vị sư như Thích Thiện Siêu, Thích Minh Châu “không kèm theo một lời giải thích nào”, rồi lố lăng khẳng định “Một câu như vậy mà trong hàng ngàn năm người ta tụng hàng ngày mà không ai thắc mắc chứng tỏ rằng người Việt chúng ta tuy ham học nhưng lại không có nhu cầu hiểu”? Sao ông con chiên Nguyễn Gia Kiểng biết “trong hàng ngàn năm người ta tụng hàng ngày mà không ai thắc mắc”? Rồi ông còn nói “Có lẽ thái độ chung của hai vị sư này là “Phật đã nói thế thì cứ biết thế”?

Ông Kiểng có lẽ đã quen thói xưa nay Chúa nói trái đất vuông, lơ lửng trên mặt nước, có trụ chống đỡ (nếu không bị chìm xuống biển mất?), vòm trời làm bằng đồng thau, mặt trời quay chung quanh trái đất (rồi sinh chuyện ngu muội hãm hại khoa học gia…?), lúc “sáng thế” thì “Thần Đức Chúa Trời bay là là trên mặt nước” (chứng tỏ nước đã có sẵn!), trừng phạt phụ nữ phải chịu đau đớn trong lúc thai nghén, sinh đẻ, xô đẩy sự hận thù giữa loài rắn và phụ nữ - phụ nữ thì “giày đạp lên đầu mầy” - rắn, rắn thì cứ tìm phụ nữ mà cắn chân + “phải bò bằng bụng và ăn toàn là bụi với đất” vì rắn xúi giục bà Eva ăn trái táo (?) hiểu biết (nếu không nhờ rắn, ngày nay nhân loại đều trở thành ngu như heo hết ráo?), và vì tội đàn bà đầu tiên bất tuân thượng lịnh cho nên phải bị tội triền miên mà con cháu đến bây giờ (trong đó có ông Kiểng) mỗi khi vửa mở mắt chào đời đã vướng “tội tổ tông” cho nên phải mau mau đem đi “rửa” v.v… Đấy! Rõ ràng “Chúa đã nói thế thì cứ biết thế” chứ đâu cần “thắc mắc”, đâu cần “hiểu” phải không ông Kiểng?

Trong khi, Phật giáo, ông Kiểng nên nhớ, ông chỉ rinh câu 70 trên 422 câu trong kinh Pháp Cú rồi lôi ra xoáy vào con số 16 chê người Phật giáo là “Ai hiểu?” thì thiệt là lạ đời! Ông còn ngạo mạn, phách lối tự hô đại là “Phật không nói thế”? Sao ông biết Phật không nói thế?

Ông thắc mắc, hạch sách“tại sao một phần mười sáu mà không là một phần mười lăm hay một phần mười bảy?”. Trong khi đó ông lại mâu thuẫn hì hục giải thích “Con số 16 là con số huyền bí của Ấn Độ, ngoài sự kiện là một con số nó còn có nghĩa bóng là “toàn vẹn”. Khi Phật nói cắn cỏ ăn năn không bằng “một phần mười sáu” của cố gắng học hỏi để khai sáng tâm hồn ông chỉ muốn nói là “chẳng là gì so với” mà thôi.”?

Ông Kiểng tự dựng lên hình nộm theo kiểu người bị đau bụng tiêu chảy, lúc thì “Phật không nói thế”, lúc thì “ông chỉ muốn nói là “chẳng là gì so với” để đặng ông làm chuyện rằng ta đây quật ngả hai nhà sư Thích Thiện Siêu (dịch kinh Pháp Cú từ chữ Hán) và Thích Minh Châu (dịch từ Pali) và “hàng ngàn năm” không ai hiểu gì ráo, chỉ đến giờ này (2013) có ông con chiên Nguyễn Gia Kiểng đi Ấn Độ để mới biết cách giải thích về câu 70/422 và con số 16 đó trong kinh Pháp Cú?

Vừa lên mặt giải thích, vừa tung chân ra “quyền cước” (?), ông Kiểng còn muốn đá hết những giá trị của toàn bộ hệ thống kinh điển Phật Giáo đã dịch sang Việt ngữ và kinh Pháp Cú nói riêng bằng câu này:
“Câu 70 này không phải là ngoại lệ, phần còn lại của toàn bộ kinh Pháp Cú được dịch ra tiếng Việt cũng đều như thế cả và nói chung các kinh Phật khác cũng thế.

Ông Kiểng cho dù có chết đi sống lại trăm kiếp, và mỗi kiếp đều đi Ấn Độ rồi ngồi viết về kinh điển Phật giáo theo kiểu đó thì kệ ông. Ngoài ra người PGVN không ai ngu muội để bi quan theo như kiểu ông viết! Tôi xin đưa vào đây một đường link và một youtube về kinh Pháp Cú:
a.- link bài viết
b.- link youtube

-- Ông NGK viết:

“Mặt khác Trung Quốc đã bỏ rơi đạo Phật từ sau nhà Đường và không còn những cố gắng để hiểu sâu Phật giáo nữa. Những khảo cứu nghiêm chỉnh nhất về Phật giáo là của các học giả Phương Tây và Nhật. Về Phật học chúng ta lệ thuộc cái đã lỗi thời từ lâu”?

TQD:

Phải nói, mãi đến thế kỷ 19 thì Phương Tây mới có những lý do và cơ hội để tiếp cận với Phật giáo cách phổ biến hơn (xem link)! Và, tôi đồng ý rằng với bản tính thích loại suy, các học giả phương tây một khi nghiên cứu điều gì, thường là họ hay nghiên cứu nghiêm chỉnh đến nơi đến chốn. Thêm vào đấy, đến thế kỷ 19, các phương tiện giao lưu qua lại để sưu tầm, tìm hiểu, nghiên cứu về Phật giáo hẳn không phải thiên nan vạn nan như thuở Phật giáo mới du nhập đến Việt Nam hay Trung Quốc vào những thế kỷ đầu của kỷ nguyên tây lịch. Tuy nhiên cái đó, nó chỉ có giá trị trên lĩnh vực lịch sử và học thuật mà thôi. Điều mà các tổ sư Phật giáo cần đến là cần phải nghiêm trì Giới luật, Thiền định để phát sinh Trí Tuệ - để sẽ đạt đến trạng thái giải thoát, Giác Ngộ. Nếu không, thì sự nghiên cứu nghiêm chỉnh, rồi hệ thống rành mạch, viết lách rõ ràng, người Phật giáo cho đó chỉ là con vẹt.

So với Á Đông, trong đó có Việt Nam, người tây phương không thể có được phong độ như suốt dòng lịch sử đã cho con người thấy biết những gì về những kinh nghiệm và thành quả hành trì của các nhà sư Phật giáo ở Á Đông. Phải chăng, đó là lý do tại sao ngày nay có vô số những học giả, những nhà trí thức, những sử gia, giáo sư, bác sĩ v.v… thích tiếp cận với Đức Dalai Lama 14 của Tây Tạng và Thiền sư Thích Nhất Hạnh của Việt Nam.

Ông con chiên Nguyễn Gia Kiểng chê Phật giáo ở xứ sở Việt Nam “lệ thuộc cái đã lỗi thời từ lâu”. Thế nhưng nếu bảo mang những học giả phương tây nghiên cứu nghiêm chỉnh về Phật giáo để đổi lấy hành trạng cuộc đời ở các vị như Khương Tăng Hội, Khuông Việt Ngô Chân Lưu, Đỗ Pháp Thuận, Vạn Hạnh Thiền Sư, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông v.v… thì người Phật giáo Việt Nam không cần phải đổi lấy mấy học giả phương tây như vậy để làm gì!

Ông Nguyễn Gia Kiểng khi muốn bàn luận, phê bình về Phật giáo thì ông nên phân biệt về hai bối cảnh, hai giá trị khác nhau một trời một vực giữa các vị sư và những giáo sĩ của Vatican và những mục sư Tin Lành là như thế này:

Cuộc đời của một nhà sư khi đi tu là tự dấn thân trên cuộc hành trình tìm cầu sự giải thoát mọi phiền lụy khổ đau xung quanh kiếp người. Do đó, người tu sĩ Phật giáo sẽ không bao giờ có chuyện “về hưu” như các giáo sĩ của Vatican hay các mục sư Tin Lành. Các giáo sĩ Ki tô hay mục sư Tin Lành là những cán bộ được đào tạo để lãnh đạo, làm việc “rao giảng”. Khi về già hay lý do nào đó thấy không còn “rao giảng” được nữa thì cấp trên cho nghỉ hưu. Nghỉ hưu, đồng nghĩa với “về vườn” làm “phó thường dân”, chứ tuyệt nhiên không giống như những nhà sư PG, người ta tính từng năm tu tập mà họ gọi là “hạ lạp” cho đến khi duyên kiếp mãn phần.

Còn chuyện ông Kiểng nói “Trung Quốc đã bỏ rơi đạo Phật từ sau nhà Đường và không còn những cố gắng để hiểu sâu Phật giáo nữa.”?

Ông Kiểng chọn sau nhà Đường của Trung Hoa thì Phật giáo bị “bỏ rơi”?

Tính từ nhà Hán – lúc Phật giáo du nhập vào năm 60 sau tây lịch ( xem link)  . Thời nhà Lương – Thiền tông với vị tổ thứ 28 tính từ Phật Thích Ca là Bodidharma đến đó (xem link) . Qua nhà Đường thì Phật giáo cũng được sùng mộ (xem link).

Sang nhà Tống thì hai tông phái Thiền và Tịnh độ vẫn sinh hoạt bình thường và dung hòa cùng với Lão Trang và Khổng Mạnh (xem link) v.v… Tuy nhiên, sự thịnh suy và gặp những chướng nạn mà người Phật giáo gọi là “Pháp nạn” thì lúc đó không những “bỏ rơi” mà nó còn là đại nạn nữa là đằng khác, thí dụ 4 thời kỳ Pháp nạn ở Trung Hoa là thế này: (xem link) chứ có gì lạ đâu? Tuy nhiên, trong suốt trên hai nghìn năm PG tại Trung Hoa, với thành trì văn hóa: tâm linh, triết học, lễ nghi, phong tục bản xứ mà biểu trưng, phổ quát nhất qua hai trường phái Lão Trang và Khổng Mạnh. Vậy mà, Phật giáo khi du nhập đến đó, hầu như phần lớn thời gian, nó được dung thông, được ngưỡng mộ bởi phần nhiều các triều đại từ hàng vương giả cho đến thứ dân mà lịch sử đã cho con người biết như vậy là được rồi.

Phật giáo khác hẳn với Thiên Chúa giáo Vatican La mã, khi du nhập đến đâu, tuyệt nhiên không bao giờ  PG tỏ ra khinh thị, dè bĩu, lăng mạ, chà đạp, cực đoan, thậm chí đòi hủy bỏ, hung dữ muốn tiêu diệt các thứ phong tục, lễ nghi và nhất là tôn giáo bản xứ như Kitô giáo đã làm!

Sau đây, chúng ta thử theo dõi “một mảnh quê hương” trong ý thức về một “nước Chúa” của ông Nguyễn Gia Kiểng ở Trung Hoa thử xem sao:

“Công giáo La mã” chỉ thực sự có mặt tại Trung Hoa từ cuối thế kỷ 16. Năm 1583, Linh mục dòng tên Matteo Ricci đến Trung Hoa với nhiệm vụ biến Hoàng đế Trung Hoa thành Constantine. Ý đồ đó được thể hiện rõ nét qua việc chọn lựa đối tượng để truyền đạo.


Bức họa của Matteo Ricci trong đó ông đang khoác một bộ áo choàng của Trung Quốc, năm 1611. Ảnh en.wikipedia.org

Matteo Ricci, người Ý, Linh mục dòng Tên, là một trong những nhân vật nổi bật của Roma tại Trung Hoa, ông đến Trung Hoa vào năm 1583, đối tượng mà ông nhắm đến truyền đạo không phải là giới nông dân vô học, mà những người có thế có quyền và có trí thức, đó chính là tầng lớp sĩ phu, quan lại. Ông viết cuốn “Thiên Chủ thực nghĩa” để giới thiệu giáo lý Kitô giáo với giới trí thức Trung Hoa, ông đã dùng các thực tại văn hóa sẵn có của Nho giáo như những ý niệm về Thiên (trời), Thượng đế… để giải thích về ý niệm Thiên Chúa của Kitô giáo. Matteo Ricci đã sáng tạo ra một từ mới: “Thiên Chủ” để chỉ Thiên Chúa của Kitô giáo. Nhưng nỗ lực của Matteo Ricci chỉ mang lại một kết quả khiêm tốn. Một chặng đường gần 20 năm (1583 – 1600) mà số tín đồ theo đạo không quá 1000 (một ngàn) người. Vatican không thể hài lòng với kết quả này. Vì vậy Vatican quyết định tăng cường, thúc đẩy việc truyền giáo tại Trung Hoa lên một tầm mức cao hơn.

Nocolo
Niccolo Longobardi

Niccolo Longobardi là người được phái đến. Ông này mang theo cả cái mà Vatican gọi là “Công đồng Tridentino” vào Trung Hoa. Với tinh thần Tridentino, ông buộc tất cả các tín đồ bản địa phải dứt khoát đoạn tuyệt với Tam giáo (Phật, Lão, Khổng), tín ngưỡng truyền thống của dân tộc họ, điều mà người tiền nhiệm Mattio Ricci chưa thể làm được. Niccolo Longobardi đã ra lịnh buộc tín đồ bản địa phải triệt phá bàn thờ, ảnh tượng thuộc tín ngưỡng truyền thống, cấm thờ Khổng Tử, cấm thờ cúng ông bà tổ tiên. Lệnh cấm này được xem là một điều sỉ nhục, xúc phạm đối với dân tộc Trung Hoa, một dân tộc mà hai chữ “trung hiếu” được đặt lên hàng đầu trong đời sống tinh thần của họ (1). 

Sự kiện này buộc triều đình phải can thiệp. Triều đình đã đặt Kitô giáo nói chung, Công giáo La Mã nói riêng ngoài vòng pháp luật. Năm 1617 lệnh trục xuất tất cả các thừa sai Phương Tây ra khỏi Trung Hoa được ban hành. Công giáo La Mã mất đi cơ hội bành trướng tại Trung Hoa.

“Ý Chúa” tỏ ra quá vụng về, khi Ngài để cho Vatican “sáng tác” ra cái “Công đồng Tridentino” lại đem áp dụng vào Trung Hoa, trong đó có điều khoản cấm thờ kính tổ tiên, một điều khoản mà đối với dân Trung Hoa thời đó là quá ngu muội không thể tưởng tượng được. Nếu “ý Chúa” đã quyết như thế thì các thừa sai chỉ cắm đầu làm như một cái máy, vì nói theo kiểu Mục sư Choan Seng Song (Tống Tuyền Thịnh), tác giả quyển “Thần học Kitô giáo theo cung cách Châu Á”: “… Thượng trí của Thiên Chúa ai mà dò biết được…”. Vatican không thể “dò biết thượng trí của Thiên Chúa”, nhưng triều đình của Trung Hoa thì có thể dò biết được ý của người dân Trung Hoa muốn gì. Họ muốn bàn thờ tổ tiên của họ phải được tôn trọng. Vì vậy, triều đình đã đặt “Ý Dân” lên trên “Ý Chúa”. Kết quả là lệnh trục xuất tất cả các thừa sai Tây Phương được ban hành”. 

Một đoạn khác:

“Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là: Thái độ trịch thượng, kiêu căng, tự phụ của Vatican khi lệnh cho linh mục Niccolo Longobardi thực hiện các điều khoản của Công đồng Tridentino mà trong đó có điều khoản không thể nào chấp nhận được đối với dân tộc Trung Hoa là cấm thờ cúng tổ tiên, tôn kính Khổng Tử. Năm 1692, vua Khang Hy với chính sách mềm dẻo đã ban chiếu chỉ cho phép các thừa sai Vatican hoạt động truyền giáo. “Được đằng chân lân đằng đầu”, họ đã cấm các tín đồ bản địa không được thờ cúng ông bà tổ tiên và đặc biệt là không được tôn kính Khổng Tử. Trước thực tế trên, vua Khang Hy vẫn tỏ ra ôn hòa, ông đã gởi thư cho Vatican. Năm 1701 Vatican nhận được thư của Khang Hy. Nội dung nhằm giải thích cho Vatican hiểu Khổng Tử không phải là Thượng Đế, Ngài chỉ là một vị Thầy được nhân dân Trung Hoa tôn kính mà thôi.  Bất chấp sự nhượng bộ mềm dẻo của hoàng đế Trung Hoa. Năm 1704, Giáo Hoàng Clemant XI chính thức ban hành lệnh cấm tín đồ Công giáo Trung Hoa thờ cúng tổ tiên và Đức Khổng Tử. Sáu năm sau (1710), lệnh cấm này được Vatican nhắc lại phải thi hành một cách triệt để, dứt khoát. Năm 1717, triều đình Trung Hoa không thể nhượng bộ được nữa, nên đã quyết định giáng trả một đòn chí tử: trục xuất tất cả các thừa sai Vatican, đốt phá nhà thờ, buộc tín đồ Công giáo Trung Hoa bỏ đạo, cấm đạo. Nhưng đối với bản chất kiêu căng vốn có của Vatican, năm 1742, Vatican ban hành văn bản “Exquy singulari” nhắc lại lệnh cấm tuyệt đối những điều nêu trên. Thế là Vatican tự đặt dấu chấm hết cho con đường truyền giáo của mình trên đất nước Trung Hoa ”. (Ngô Triệu Lịch, KITÔ GIÁO - KẾ HOẠCH CẢI ĐẠO Á CHÂU”, USA 2005, từ trang 114 đến 119.).

Như đã nói, Phật giáo khác hẳn với Thiên Chúa giáo Vatican La mã, khi du nhập đến đâu, tuyệt nhiên không bao giờ  PG tỏ ra khinh thị, dè bĩu, lăng mạ, chà đạp, cực đoan, thậm chí đòi hủy bỏ, hung dữ muốn tiêu diệt các thứ phong tục, lễ nghi và nhất là tôn giáo bản xứ như Kitô giáo đã làm!

Cũng vì lẽ như vậy, thành ra Thiên Chúa giáo Vatican La mã, khi chưa thiết lập được sức mạnh, hoặc không còn quyền lực; lưỡi gươm, giàn hỏa, nhà tù, họng súng, vó ngựa đã bị quyền làm người tướt đoạt (cương quyết hơn là “bỏ rơi”!) thì hậu quả của nó là như thế này:

Pháp tước bỏ quyền lực Giáo hội La mã:

- “Cách mạng Pháp (tiếng Pháp: Révolution française; 1789–1799), là một sự kiện quan trọng trong lịch sử Pháp, diễn ra từ năm 1789 đến1799, khi lực lượng dân chủ và cộng hòa đã lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế và cả Giáo hội Công giáo Rôma tại Pháp “- “Bớt ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo Rôma. Cuộc cách mạng đã đem lại sự chuyển dịch quyền lực lớn từ Giáo hội Công giáo La Mã sang Nhà nước. Luật ban hành năm 1790 bao gồm cả việc bãi bỏ quyền đánh thuế trên vụ mùa (còn được gọi là "dîme") của Giáo hội, việc xóa bỏ những đặc quyền của giới giáo sỹ, và sung công tài sản Giáo hội, người sau đó sở hữu nhiều đất đai nhất trên toàn quốc. Đi cùng với cuộc cách mạng là cú phản đòn dữ dội về phe giáo chức mà kèm theo đó là bắt bớ và thảm sát các linh mục trên toàn đất Pháp. Điều ước năm 1801 giữa Quốc hội và Giáo hội đã chấm dứt thời kỳ bài Công giáo và thiết lập nên những luật lệ cho mối quan hệ giữa Giáo hội Công giáo và Nhà nước Pháp. Điều ước này tồn tại cho đến khi bị hủy bỏ bởi nền Đệ Tam Cộng hòa nước Pháp để tách biệt giữa Giáo hội và nhà cầm quyền vào ngày 11 tháng 12 năm 1905.”https://vi.wikipedia.org/

Thiên Chúa giáo La mã ở Nhật Bản:

“Để nhổ tận gốc đạo Cơ đốc, chính quyền tổ chức kiểm tra hằng năm, trong đó các nông dân được yêu cầu phải giẫm chân lên cây thánh giá hoặc hình Maria Đồng trinh và Chúa hài đồng. Tại bảo tàng trên đảo Ikitsuki, vẫn còn một trái tim bằng đồng in hình Đức mẹ và ấu Chúa đã mòn bởi hàng nghìn bàn chân trần giẫm lên.

Trong suốt 300 năm, những người Kito giáo Nhật Bản giấu diếm tín ngưỡng bằng cách thực thi những nghi lễ của đạo Phật và Thần đạo. Tại bảo tàng, có một "tấm gương thần" vẽ hình Phật tổ treo trên tường. Nhưng khi gỡ nó ra và soi lên ánh sáng, người ta sẽ thấy bóng một cây thánh giá.

"Lo bị đàn áp, chúng tôi phải dùng đạo Phật để nguỵ trang", cụ Mitsuyoshi Okawa 72 tuổi kể lại. Mỗi khi thánh lễ được tổ chức trong bảo tàng, những người già thường hồi tưởng và kể cho con cháu họ từng bí mật học thánh ca như thế nào khi xưa. Họ từng chui vào trong chăn hoặc ra chỗ đồng không mông quạnh để luyện giấu.

Nhưng giờ đây, trong số những người trẻ chỉ có sinh viên và giáo viên hát thánh ca. "Chẳng ai theo cả", đức cha Tomeichi Ohoka 85 tuổi than phiền. "Tôi lo buồn khi nghĩ về tương lai, và không dám chắc đạo Cơ đốc có còn tồn tại ở đây không nữa".” (xem link).

Thiên Chúa giáo La mã tại Việt Nam:

- Quậy:

Xem bài NGUYÊN NHÂN ĐƯA ĐẾN TRIỀU ĐÌNH HUẾ BAN HÀNH LỆNH CẤM ĐẠO của Nguyễn Mạnh Quang.

- Nổi loạn:

"Các vị truyền giáo (giáo sỹ nước ngoài – tqd) còn yêu cầu người công giáo Việt Nam đừng thừa nhận quyền lực Nhà Vua và luật pháp nước họ (thời điểm đang nói ở đây là của vương quốc Nhà Nguyễn - Việt Nam – tqd). Họ nói với các "con chiên": Đức Giáo Hoàng ở La Mã (Rome) mới là vị vua tối cao duy nhất của họ, họ chỉ tuân phục quyền lực tòa thánh Vatican. Vậy, đây không còn là vấn đề truyền giáo nữa, mà đơn giản là một mưu đồ làm cho chính quyền của xứ sở này bị mất ổn định. Vì thế, hành động của Nhà Vua, đối với trách nhiệm làm vua của ông (Hoàng Đế Minh Mạng – tqd), là hoàn toàn đứng đắn, khi ông chống lại hoạt động của một số giáo sĩ Kitô. Do đó, Minh Mạng đã không ngần ngại công bố những chiếu chỉ cấm truyền đạo Kitô: những chiếu chỉ đầu tiên, vào khoảng năm 1825, nhưng chiếu chỉ quan trọng nhất, sau năm 1833.

Những "sắc lệnh cấm đạo" ấy, dĩ nhiên, làm trở ngại cho các nhà truyền giáo, thậm chí đã dẫn đến những chuyện đổ máu, thông thường do các công chức cấp dưới "quá nhiệt tình", nhưng nhiều khi, cũng do các vị giáo sĩ tỏ thực tế chỉ nhằm mục đích bảo vệ sự thống nhất tinh thần và chính trị của đất nước mà thôi: đó hoàn toàn không phải là một biểu hiện của sự cuồng nhiệt tôn giáo, vì cái cuồng nhiệt tôn giáo này, đối với người Việt Nam, không có gì xa lạ.

Chỉ sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi (con nuôi của Lê Văn Duyệt là bạn chiến đấu cũ của Gia Long và Phó Vương Nam Kỳ, rất thân Pháp) năm 1833, trong đó vai trò các vị giáo sĩ, không nghi ngờ gì nữa, đã tác động sâu sắc đến hoạt động của những người công giáo tham gia cuộc nổi dậy, người ta mới thấy thái độ của Minh Mạng tỏ ra thực sự kiên quyết, vì Nhà vua đã đủ bằng cớ để khẳng định những điều lo ngại cũ của mình đã được chứng minh là đúng. Sau cùng, một vị giáo sĩ Pháp, linh mục Marchand, mà các linh mục Việt Nam đã mang từ Trà Vinh về Gia Định, đã nhờ sự hỗ trợ của những người nổi loạn, mà thiết lập nên tại Nam kỳ một "Vương quốc Kitô giáo" ly khai. Nhà vua lo lắng tột độ, bèn trừng phạt những kẻ gây rối loạn một cách hết sức nghiêm khắc đáng sợ: gần 2000 người nổi loạn bị chém đầu và chôn chung một hố tại "cánh đồng mã" (Phải chăng đây là một trong những trường hợp mà ngày nay ông con chiên "backydicu… Chu Tất Tiến" đang ở Mỹ đã lên án bất lương, gian dối rằng "Phật giáo giết hại 100.000 người chỉ vì họ theo đạo "Công giáo"? – tqd)linh mục Marchand và năm thủ lĩnh của họ bị bắt đóng cũi, đem về Huế, và bị "lăng trì", đúng theo luật nước. Lê Văn Khôi chết trước họ. Cha nuôi của Lê Văn Khôi là Lê Văn Duyệt, bị kết án là "không biết cách giáo dục cho bọn tôi tớ lòng trung thành và tinh thần tuân phục"; đã bị truy phạt: theo lệnh Nhà Vua, ông bị cách chức tuốt tuột, tịch thu gia sản và san bằng mồ mả." (Thời phong kiến, từ Âu sang Á thường hay xảy ra cách hành xử trị tội theo kiểu như vậy, mà thậm chí Giáo hoàng Rome còn ra lệnh quật mộ người đã chết để trả thù! – tqd) – 

(Nguyễn Xuân Thọ, "Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam", USA, 1995, trang 17, 18).

Nếu ai có dịp đọc bài viết của ông Kiểng, người ta cũng thấy được dã tâm của ông là hòng gây nản lòng những người Phật tử Việt Nam nào “yếu bổn vía”. Ngoài ra, đối với những ai có chút ít hiểu biết đi nữa, nhất là lịch sử, mà đi sát hơn là lịch sử với cố tật là xâm thực văn hóa xứ khác của nước Vatican La mã giáo, tất người ta cũng nhận ra thủ đoạn trong chuyến đi tìm “Một mảnh quê hương trên đất Phật” của ông Kiểng này. Nên đặt tên cho ông là “Kẻng” thì có lẽ hợp lý hơn! Bằng cách ông bày trò “Thông luận” gõ phèng la râm rang chuyện “đạo Phật đã biến mất tại Ấn Độ”, chuyện “bị bỏ rơi” ở Trung Hoa, và “gần 90% người Việt Nam được thăm dò nói họ không có tôn giáo nào cả”!?

Nhất là với câu “gần 90% người Việt Nam được thăm dò nói họ không có tôn giáo nào cả”?

Cho dẫu viện đại học nào, nhóm người nào ở Mỹ “thống kê” ra sao, nhưng nếu ông Kiểng là người Việt Nam lại vin vào con số đó, bất cần hình dung, chẳng thèm xét nét, để hì hục dẫn trưng bằng tâm cảnh mang tính xác quyết như thế? Chả trách ông GS Trần Chung Ngọc tố cáo “ngu sử” là phải lắm. Bởi vì, cho dẫu ai có ngây thơ nhất cũng thấy ra tâm chất lố bịch và bỉ ổi của ông Nguyễn Gia Kiểng:

-“Gần 90% người Việt Nam được thăm dò nói họ không có tôn giáo nào cả”?

Vậy thì:

- Chỉ 7% người Việt Nam là có tôn giáo? Mà tôn giáo đó, hẳn nhiên với ông Kiểng là “Công giáo”. Ngoài ra, “Gần 90%” kia, không cần Phật giáo, không cần Cao Đài, không cần Hòa Hảo v.v…họ đều là những kẻ  “vô thần”, là “vô đạo”, là “ma quỉ”, là những giống dân toàn thứ “mọi rợ” - để những “thần dân” “Công giáo” của nước Vatican La mã “hiệp thông cầu nguyện” với “ông thánh Phan-xi-cô” để ông ấy sẽ bay đến mà “xóa tan Bụt thần ma quỉ” , và ông “thánh” ấy cũng sẽ “là lịnh rao truyền tiếng đức Chúa thánh thần đến cho những dân mọi rợ”? Ôi! Không có gì lố lăng, ngạo mạn và xấc láo cho bằng!?

Xin đọc đoạn này của Charlie Nguyễn:

4. Những câu kinh nhục mạ các dân tộc Đông phương là mọi rợ và nói lên ý đồ của Công Giáo Việt Nam muốn tiêu diệt đạo Phật:

Trong kinh cầu ông Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e có những câu như: "Ông Thánh Phan-xi-cô soi sáng phương Đông... là đá tảng đỡ Hội thánh Phương Đông... Ông Thánh Phan-xi-cô phá tan đạo bụt thần... Ông Thánh Phan-xi-cô là lịnh rao tiếng Đức Chúa Thánh Thần cho những dân mọi rợ" (NK 782-791). Với những câu kinh nói trên, rõ ràng Giáo hội Công Giáo Việt Nam đã công khai bày tỏ ý muốn "phá tan đạo Phật" và công khai nhục mạ các dân tộc Đông phương, trong đó có Việt Nam, Nhật Bản, Trung Quốc, Đại Hàn, Tân Gia Ba, Thái Lan... là những dân tộc mọi rợ! Quê hương của Phan-xi-cô là Tây Ban Nha so với những con rồng Châu Á thôi chứ chưa cần phải so sánh với Nhật Bản cũng đủ thấy cách xa nhau một trời một vực. Nếu dịch các câu kinh này ra tiếng Tây Ban Nha cho họ đọc, chắc chắn những người Tây Ban Nha có liêm sỉ phải cảm thấy xấu hổ.

Chúng ta cần phải hiểu thế nào là mọi rợ. Theo tôi thì người Công Giáo hiện nay còn đang ở trong tình trạng rất mọi rợ về tâm linh và còn lâu họ mới có thể trở thành người văn minh về phương diện này. Trước hết, họ luôn luôn mang tâm cảm là những "con chiên" tức những con cừu non (Lamb: young sheep). Giống cừu, nhất là cừu non, thường rất ngu, chúng chỉ hùa theo bày như chuyện những con cừu của Panurge mà học sinh trung học thời trước đã học qua những giờ về Littérature Francaise đều biết. Muốn trở thành người Việt Nam bình thường, người Công Giáo phải trải qua nhiều bước trong quá trình tiến hóa tâm linh mới đạt được. Bước đầu tiên họ phải gạt bỏ cái mặc cảm là bầy chiên ngu ngốc của Vatican để nhận ra nhân cách con người của mình. Nghĩa là họ phải trải qua quá trình tiến từ súc vật để trở thành người đứng thẳng (Homo Erectus).”(trích Phần II - SÁCH KINH CÔNG GIÁO VÀ TÁC HẠI CỦA NÓ của Charlie Nguyễn) (xem link).

Những “kinh cầu”, “nhật tụng” , mấy ông “thánh” của GH “Công giáo” Việt Nam là như vậy đó. Khoan nói đến những “lời dạy” kinh khủng trong “Kinh Thánh”!

Vậy mà Nguyễn Gia Kiểng đâu biết thân biết phận? Ông chê kinh sách Phật giáo qua hàng nghìn năm bị các vị tổ và những ông sư, những học giả Phật giáo dịch “luộm thuộm”, “tối nghĩa” hết ráo. Bảo “hãy mang những kẻ thù của Ta ra đây” mới là rõ nghĩa hay sao?

Tóm lại,

Thủ đoạn của ông Nguyễn Gia Kiểng là đi Ấn Độ cho có cớ để viết về những cảnh Phật tích trên 2500 năm trước ngày nay bị đìu hiu. Người dân Ấn đa phần là Ấn giáo chứ không phải Phật giáo cho nên ông nói “đạo Phật bị biến mất tại Ấn Độ” mà không nghĩ đến vai trò Chúa Jesus ở Do Thái ra sao, và lý do gì dân Do Thái phải vong quốc và đi lang thang suốt 2000 năm. Nêu cảnh chùa Việt Nam ở Ấn Độ xây chi cho nhiều mà thiếu tiền duy trì, vì bởi một tháng chỉ có 150 Phật tử Việt Nam hành hương đến đó. Moi móc chuyện ông thầy Huyền Diệu không có bằng cấp tiến sĩ hay làm chức này hội nọ, nhưng “do CSVN đánh bóng” để quyên tiền sang đó mà xây chùa, và như vậy mặc nhiên Nguyễn Gia Kiểng tung được hỏa mù rằng nơi ấy là chùa của “Phật giáo quốc doanh” v.v… ?

Tôi không biết về ông thầy Huyền Diệu. Thế nhưng nếu quả thật nhà nước bên Việt Nam mà “đánh bóng” hỗ trợ cho ông thầy Huyền Diệu để ông có phương tiện xây chùa ở đó - Ấn Độ, do ông Kiểng phanh phui ra thì cũng là việc đáng mừng. Nhớ lại trước năm 1975, khi người PGVN xin đất xây một ngôi chùa của quốc gia mình trên đất Phật (quê hương mà Thái tử Tất Đạt Đa – Siddharta Gautama đã đắc đạo để trở thành Phật Thích Ca – Sakya Muni Buddha!), trong khi chính phủ Cộng Hòa Ấn Độ đã cho phép, thì ở Việt Nam lại bị cù nhầy, từ chối tới từ chối lui, rồi “qua phà” luôn cho đến năm 1975 thì tuột mất.

Hồi đó, tại mấy giảng đường ở Viện Đại Học Vạn Hạnh, số 222 Trương Minh Giảng và Trương Minh Ký nối dài, Sài gòn, tôi thường hay nghe mấy nhà sư than phiền như vậy lúc họ đứng trên những bục giảng.

Như thế, ngày nay, việc ông Kiểng khơi mào đào xới chuyện chế độ CSVN nếu quả thật họ có hỗ trợ (…?) việc xây chùa Việt Nam trên đất Phật, thì hóa ra chính ông Kiểng đã vô hình trung (vô tình nhưng nó đã bị lồng vào đó) làm một công việc “cân đo” mang tính cách phản tuyên truyền khi người ta so sánh ở hai chế độ trong việc Phật tử Việt Nam ai cũng muốn có những ngôi chùa của dân tộc mình tại Ấn Độ chứ lợi ích gì cho đạo của ông, và nghiền nát sao được tín tâm nơi những học trò của đấng Sakya Muni Buddha chứ hả ông Kiểng?

Trần Quang Diệu

Ngày 27.12.2013.

________________

Chú thích:

1) Nếu có ai “dị ứng thời cuộc”, muốn bắt bẻ hay vu khống, xuyên tạc, chụp mũ lây bây đến “Hán tặc” liên quan đến cụm từ “trường phái Khổng Mạnh” khi tôi đề cập ở đây? Quý vị có thể chất vấn ngay những trường hợp trước năm 1975 như thế này:

- Tượng Khổng Tử được tạc và thờ tại Đền Hùng trong Thảo Cầm Viên ở Sài gòn. Làm cho một phái đoàn Nhật Bản khi viếng thăm họ phải cười, và thắc mắc: “Tại sao một “Đền Hùng” nhằm thờ các vị vua Hùng của Việt Nam mà lại đem thờ ông Khổng Khâu, nhà luân lý phản ảnh thời Xuân Thu Chiến Quốc ở bên Tàu?”

- Tượng Khổng Tử được tạc và dựng ngay tại một công trường có nhiều giao lộ chính ở Chợ Lớn, và đề 4 chữ mạ vàng thật lớn bằng chữ Hán là “Vạn Thế Sư Biểu”!

- Ông Ngô Đình Diệm đã dùng 4 chữ “Tiết Trực Tâm Hư” để thể hiện tâm chất của mình, mặc dù ông đang là con chiên của nước Vatican La mã giáo!

2) “Tứ sinh” là bốn loài động vật có sinh mạng và hình thành trong một thân xác không đồng nhau. 

Bốn loài động vật là : 

- Thai sinh 
- Thấp sinh 
- Noản sinh 
- Hóa sinh 

Thai sinh là loài động vật thọ hình bằng bào thai như người, trâu, bò, heo, chó … Con người từ khi thọ thai cho tới lúc sanh ra phải ở trong bụng mẹ hơn 9 tháng, trong khi đó loài trâu, bò, ngựa có khoảng thời gian thọ thai lâu hơn lên tới một năm từ lúc bắt đầu tượng hình cho đến khi ra đời. 

Thấp sinh là loài vật sinh nơi ẩm thấp như trùn (giun), dế, sâu, bọ, rắn, rết … Những loài nầy có thân hình lớn nhỏ không đồng nhau, hoặc có 4 chân hoặc không chân hay nhiều chân … 

Noản sinh là loài đẻ trứng như gà, vịt, chim, cá … Sau khi đẻ trứng, con mẹ phải ấp trứng một thời gian 20 ngày như gà, chim hoặc 30 ngày như vịt để sau đó trứng nở thành con. Có một điều đặc biệt hơn cả là loài đẻ trứng khi vừa nở ra con là có thể chạy nhảy, ăn uống được tự nhiên rất mạnh khỏe. Trong khi đó loài mang thai cũng có một hoàn cảnh tương tự, trừ loài người. Người là loài động vật yếu đuối nhất trong muôn vật. Con người từ lúc sanh ra cho tới khi biết đi đứng, nói năng phải trải qua từ 8 đến 12 tháng mới thành được. Lúc đầu con người không tự ăn uống được mà phải do người mẹ săn sóc sú mớm sữa, cơm hay cháo cho độ 6 tháng sau, em bé mới tập ăn uống dần dần được. 

Hóa sinh là loài biến hóa như loài ấu trùng, loài bướm, nhộng, muỗi, ve … Chúng phải thay hình đổi xác như lột da hay vỏ để thành một giống vật khác như con ngài hóa nhộng, tằm hóa bướm, lăng quăng hóa muỗi v.v… 

Trong bốn loài động vật đó, loài người được ghi nhận là khôn lanh hơn cả, biết biến chế đồ vật để sử dụng và có trí khôn tuyệt vời. Nhưng nếu không tu, con người cũng sẽ bị đọa làm thú sau khi chết. Đó là “luật nhân quả tất định.”

______________________

Bài liên hệ:

- Tôi Đọc Bài “Một mảnh quê hương trên đất Phật” Của Nguyễn Gia Kiểng (Trần Chung Ngọc)

https://sachhiem.net/TCN/TCNdt/TCNdt073.php