Con người là thành quả của nền văn hoá mà họ hấp thụ được
hay được rèn luyện. Theo căn bản này, chúng ta hãy tìm hiểu
con người trong xã hội theo tam giáo đồng nguyên của các dân
Đông Phương khác với con người trong xã hội Ca-tô Rô-ma giáo
như thế nào!..
A.- Con người trong xã hội Đông Phương:
Như đã nói trong
ở trên (Tiểu Mục 3, Mục A, Phần 2), các dân tộc theo
tam giáo đồng nguyên ở Đông Phương có chủ trương thi hành
chính sách giáo dục nhân bản, tự do và khai phóng. Chủ trương
của chính sách giáo dục này dựa theo quy tắc đạo lý nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín và dũng” trong đạo Nho. Ngoài ra, nền đạo lý Đông
Phương còn chủ trương:
1.- Người dân phải có bổn phận hay nghĩa vụ
đối với quốc gia và dân tộc, thể hiện ra thành ngạn
ngữ hay châm ngôn như “quốc gia hưng vong, thất phu hữu
trách”, “việc nước trước việc nhà”, “giặc đến
nhà, đàn bà (cũng phải nhà ra) đánh”, “nước mất nhà
tan”, v.v…
2.- Xử thế sao cho “vừa
mắt ta ra mắt người” (Kỷ
sở bất dục, vật thi ư nhân)”, “biết thì thưa
thốt, không biết thì dựa cột mà nghe.” (Tri chi vi tri,
bất tri vi bất tri, thị tri dã.”
3.- Tư cách phải nhún nhường, học
hỏi cả những người thua kém mình về tuổi tác cũng như địa vị
trong xã hội (bất
sỉ hạ vấn, tam nhân đồng hành, tất
hữu ngã sư).
4.- Không được tự kiêu, tự đại, huênh hoang,
khoác lác, hợm hĩnh nhìn đời bằng nửa con mắt (mục
hạ vô nhân).
Điều cấm kị là không được mắc vào chứng bệnh “duy
ngã độc tôn” vì rằng “Sơn hữu ngoại sơn, thiên hữu
ngoại thiên, hay cao nhân tất hữu cao nhân trị”.
5.- Người trong thiên hạ như anh em trong
một nhà, không phân biệt màu da, sắc tộc, địa phương, chính
kiến, học vấn và tôn giáo (Tứ hải giai
huynh đệ).
6.- Đối với nhũng kẻ thù nghịch hay không có thiện cảm đối
với mình, thì phải lấy lòng thẳng thắn và cương trực để
ứng xử(dĩ trực báo oán).
7.- Đối với những người cấp dưới hay thuộc hạng đàn em, thì
phải luôn luôn tỏ ra khoan dung và tha thứ (Lượng cả bao
dong, có dong kẻ dưới mới là người trên.)
8.- Làm con phải có bổn phận vâng lời và chăm
sóc cha mẹ vào những khi đau yếu và khi tuổi già sức yếu để "cho
tròn chữ hiếu mới là đạo con."
9.- Làm cha mẹ phải có bổn phận nuôi dưỡng, bảo
vệ dạy dỗ con cái sao cho nên người có lương
tri và ý thức được trách nhiệm đối với bản thân, gia đình
cũng như đối với bà con xóm giềng trong xã hội và trong cộng
đồng dân tộc.
10.- Nếu muốn cung kính các đấng thần
linh hay ma quỷ, chỉ nên có lòng thành thực (Phù
tế giả, phi vật tự ngoại chi giả giã, tự trung xuất, sinh ư
tâm giã); nhưng chẳng nên bàn tới (kính
nhi viễn chi). Dù có thể có người cho rằng chính mình
đã từng trải nghiệm gặp gỡ các đấng thần linh hay hồn ma
bóng quỷ như thế nào, nhưng bất cứ ai cũng có thể nói như
thế để lừa gạt người đời, vì những chuyện như thế không thể
kiểm chứng. Do đó, Nho giáo chủ trương không nên đem chuyện
trên trời nói cho người ở dưới đất nghe.
Mặc dù kính nhi viễn chi như thế, và dù cả Khổng giáo và
Phật giáo đều không hề đưa ra chủ thuyết “thần quyền chỉ đạo thế
quyền”
hay “tôn giáo chỉ đạo chính quyền”, những bọn đồng cốt vẫn
tìm mọi cách để hoành hành,
mượn thần thánh để gạt gẫm dân chúng. Chuyện quan Thái Thú đất Nghiệp
Đô là Tây Môn Báo (đã nói ở mục trước) trừng phạt thẳng tay bọn người
mượn danh nghĩa quỉ thần hà hiếp dân chúng là một thí dụ. Thử tưởng
tượng nếu Khổng Giáo hay Phật giáo đều muốn tôn giáo mình biến thành
“Quốc Giáo” hay “công giáo” của toàn dân như Giáo Hội La Mã thì giới
buôn thần bán thánh còn tệ hại đến như thế nào.
11.- Người dân phải biết sáng suốt tỏ lòng
trung để cùng phục vụ cho đất nước mà thôi. Thiết nghĩ cần phải
nói rõ về ý nghĩa của chữ “trung” cho đúng nguyên gốc. Trung là trung
với quốc gia dân tộc, chứ không phải trung
thành với cá nhân ông vua hay hoàng đế, nhất là khi ông ấy không
còn xứng đáng lãnh đạo đất nước.
Cụ Trần Trọng
Kim giải thích về nghĩa vụ “trung”
như sau:
“Ở trong nhà thì con phải hiếu với cha, ở trong nước thì
thần dân phải trung với quân. Hai chữ trung quân không nên
theo như người ta thường vẫn hiểu là chỉ trung với người
làm đế làm vương mà thôi, nhưng có thể theo nghĩa rộng là
trung với cái quân-quyền trong nước. Theo nghĩa rộng ấy thì
bất cứ ở vào thời đại nào, hai chữ trung quân vẫn có nghĩa
chính đáng. Có lòng trung thì dân mới yên và nước mới trị,
miễn là quân quyền không trái với lòng dân.” [1]
Tề Án Anh nói rõ hơn về chữ “trung” như sau:
“Ông Vua vì nước mà chết, bề tôi nên
chết theo. Chết như thế mới gọi là trung quân, ái quốc. Còn
ông vua chết không phải vì nước mà bề tôi chết theo thì chỉ
là vị tình riêng… Mỗi khi quốc biến mà bỏ nước ra đi, là
kẻ không biết yêu nước. Người trung nghĩa phải biết lấy nước
làm trọng. Nước mất là vua mất. Nước còn thì có thể lập vua
khác để trị nước. Xem thế thì trung quân phải biết ái quốc.” [2]
Không có chuyện “Trung thần bất sự nhị
quân” và “Quân xử thần bất tử, thầnbất
tử, bất trung”. Chính Nho không hề dạy như vậy.
Điều này cũng được học giả Nguyễn Hiến Lê nói rõ trong
cuốn Sử Trung Quốc của ông như sau:
“Một điểm nữa, ông (Hán Võ Đế) chịu ảnh hưởng của Pháp
gia là ông rất chuyên chế. Nho gia chỉ trung với ông vua
có đủ tư cách, đáng cho mình thờ; nếu không thì có thể bỏ
mà thờ ông vua khác, như Khổng Tử đã bỏ vua Lỗ. Chính Pháp
gia mới đưa ra quan niệm “Trung thần bất sự nhị quân”. Hơn
nữa họ trọng cái “thế” (quyền thế) của vua tới mức khiến
vua hóa ra độc tài, bắt bề tôi chết chẳng kể phải trái, bề
tôi cũng phải chết, không chết thì không trung (quân xử thần
tử, thần bất tử, bất trung). Từ Hán Võ Đế trở đi, quan niệm
đó được các vua chấp nhận, và hình như không có nhà Nho nào
phản đối, mà nền quân chủ của Trung Hoa hóa ra chuyên chế,
mặc dầu cũng có một số những ông vua nhân từ theo đúng đạo
Khổng.”[3]
Nho Giáo chủ trương dạy cho những người muốn lên cầm quyền
cai trị đất nước trước hết phải biết “cách vật, trí tri,
chính tâm, tu thân, tề gia”, rồi mới nghĩ đến việc “trị quốc”
và “bình thiên hạ”. Khi lên nắm quyền cai trị muôn dân,
nhà lãnh đạo quốc dân phải biết lấy dân
làm gốc: "dân
vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh). Do đó cần phải
lấy dân làm trọng, lắng nghe tiếng nói của muôn dân và phải
“yêu điều dân yêu, ghét điều dân ghét (Dân chi sởhiếu,
hiếu chi; dân chi sở ố, ố chi. Thử chi vị dân chi phụ mẫu”).
Sách Nho Giáo viết:
“Lòng tự nhiên của dân là muốn điều lành, ghét điều ác,
theo cái lòng ấy mà trị dân thì tất là được dân yêu mến như
cha mẹ. Nếu ông vua nào trị dân mà yêu cái dân ghét và ghét
cái dân yêu, là làm những điều trái lòng dân, tức là trái
mệnh trời, thì người khác được quyền “điếu dân phạt tội”,
nghĩa là cứu dân mà đánh người có tội, như vua Thang đánh
vua Kiệt, vua Vũ-vương đánh vua Trụ vậy. ”[4] .
Đoạn văn trên đây là nằm trong thuyết Chính Danh, Định Phận
của Nho Giáo. Cụ Trần Trọng Kim nói về thuyết này như sau:
“Cái tông chỉ ấy Khổng Tử đã phụ diễn ra ở sách Xuân Thu.
Ngài sở dĩ dụng tâm làm bộ sách ấy là cốt để bày tỏ cái nghĩa
chính danh, định phận, khiến cho sự ngôn luận có tiêu chuẩn
rõ ràng, nói điều gì không mập-mờ rối loạn, và làm cho kẻ
gian người ngay bày rõ ra, ai cũng biết mà phê bình phán
đoán cho khỏi sai lầm.
Danh-tự đã chính, thì việc gì có nghĩa lý việc ấy, những
điều tà thuyết không làm mờ tối được chân lý. Danh phận đã
định rõ, thì người nào có địa vị chính đáng của người ấy,
trên ra trên, dưới ra dưới, trật tự phân minh. Vua có phận
vua, tôi có phận tôi: “Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ
trung (vua lấy lễ mà khiến tôi, tôi lấy trung mà thờ vua)”
(Luận Ngữ: Bát-dật, III). Một nước thịnh trị là trong nước
“Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử (vua ra vua, tôi ra
tôi, cha ra cha, con ra con)” (Luận Ngữ Nhan Uyên, XII).
Giữ trật tự cho mình, và danh phận cho chính (đúng) tức là
giữ cái căn bản của chính trị vậy.” [5]
10 điều răn của Chúa -thư họa của họa
sĩ Vũ Hối
B.- Con người trong xã hội Ki-tô giáo
Khác với chủ trương giáo
dục của nền đạo lý vị tha của các quốc gia Đông Phuơng, Giáo
Hội La Mã chủ trương “đào tạo
thanh thiếu niên theo tinh thần công giáo” trong một nền đạo
lý vị kỷ. Mục đích của giáo dục là
rèn luyện giáo dân phải đặt
quyền lợi của Giáo Hội La Mã lên trên hết, phải triệt để tuân
thủ tất cả những tín lý ki-tô, những giáo luật và những
lời phán dạy của giáo hội. Tất cả những tư tưởng hay bất
kỳ cái gì không phù hợp với những điều đã nêu lên ở trên
hay không được giáo hội chấp nhận đều phải khước từ, phải
loại bỏ hay hủy diệt. Linh-mục Trần Tam Tỉnh
ghi nhận như sau:
“Hệ thống ốc đảo đó tách biệt và cô lập
phần lớn giáo dân khởi liên hệ với đồng bào, từ khước, tẩy
chay bất cứ điều gì không được giáo hôi chính thức phê chuẩn,
chẳng hạn sách Truyện Kiều, một kiệt tác thở cổ của Việt Nam,
hoặc tài liuệu cách mạng đều cho là ngược với đạo. Các sách
của Voltaire, Montesquieu, khỏi nói tới Các Mác (Karl Marx),
vừa bị nhà nước thuộc địa cấm, vừa bị giáo luật khai trừ…” [6]
Con người là sản phẩm của chính sách giáo dục và nền văn hóa
mà họ tiếp nhận. Cuộc sống của các tín hữu Ki-tô
là sản phẩm của tất cả những lời phán dạy của Chúa Bố
Jehovah và Chúa Con Jesus, được ghi trong
Cựu Ước và Tân Ước, cùng tất cả những lời giáo huấn của Giáo
Hội từ thời Ki-tô giáo nguyên thủy (314-335) cho đến
giáo hội Ca-tô Roma giáo ngày nay. Việc giáo huấn còn đi song hành
với các sắc chỉ của Giáo Hoàng (cho phép các con chiên đi chiếm đất
khắp nơi,...) và những cái gương loạn luân, háo sát, tham tàn, gian
trá và cực kỳ man rợ của các giáo hoàng và giới tu sĩ. (Vấn đề
này sẽ được nói rõ trong các Chương 11, 12, 13, 14, 15, 16 và 17).
Cũng nên biết là Giáo Hội La Mã gọi tín đồ là những con chiên.
Chiên là tên gọi của loài cừu non, một giống thú thuộc loài
ăn cỏ giống như bò, trâu, hươu, nai, hoẵng, vân vân, nhưng
là một loài thú ngu nhất trong các loài thú bốn chân.
Ngoại
trừ sống ở trong các thành phố, hầu hết những con chiên được
gom sống với nhau trong một xóm đạo hay làng đạo, tách rời
ra khỏi đại khối dân tộc theo tam giáo cổ truyền. Ở đây,
họ sống quây quần với nhau dưới sự quản lý của người chủ
chăn với những uy quyền tuyệt đối như một lãnh chúa hay một
tù trưởng của một bộ lạc.
Các học giả chuyên
nghiên cứu về Giáo Hội La Mã cho rằng, giáo hội có ý đồ không
những chỉ muốn biến họ thành hạng người ngu như con cừu, mà
còn muốn biến họ thành những con người súc sinh hung dữ như
loài dã thú. Cũng vì thế mà sử gia Loraine Boettner mới đưa
ra nhận xét về tín đồ Ca-tô Rô-ma giáo như sau:
“Rome in the minority is a lamb (Khi là thiểu số, Giáo
Hội La Mã là con cừu).
Rome as an equal is a fox (khi ngang số, Giáo Hội
La Mã La Mã là con cáo).
Rome in the majority is a tiger (khi chiếm đa số,
Giáo Hội La Mã là con cọp.)” [7]
Nhận xét trên đây của nhà viết sử Loraine Boettner cho chúng
ta thấy hai ý nghĩa:
Ý nghĩa thứ nhất:
Tại bất kỳ quốc gia hay nơi nào:
a.- Nếu bầy chiên là một nhóm thiểu số,
Vatican sẽ cố gắng tỏ ra hiền lành như con cừu, đem những
lời ngon ngọt hoặc chút ít lợi lộc vật chất làm miếng mồi câu nhử
lòng tham của con người. Những người hám lợi chạy theo bắt mồi (theo
đạo lấy gạo mà ăn) rồi lọt vào cái tròng Ca-tô (Catholic
loop) và trở thành nô lệ cho giáo hội sai khiến.
b.- NÊU bầy chiên đông đảo ngang ngửa
với con số các thành phần thuộc các tôn giáo hay văn hóa khác,
thì Vatican sẽ biến thành bầy cừu nón này thành bày cáo già
với đủ mọi thủ đoạn để chộp giật, bốc hốt, lấn lướt, vơ vào,
cướp đoat những gì mà Vatican muốn cướp đoạt để rồi tiến đên
việc cướp đoạt chính quyền.
Ngày nay, vì hoàn cảnh đã thay
đổi, không còn có thể cấu kết với các đế quốc để vào Việt Nam,
họ dùng những ngón đòn mới lạ. Vatican dùng thủ đoạn xúi
giục bầy chiên đem xà beng, búa, kìm, cuốc, xẻng đến tập trung "cầu
nguyện" ở Tòa Khâm
sứ cũ, ở Thái Hà, đập tường phá cổng tràn vào bên trong khuôn
viên, dựng tượng bà Maria và cắm thập tự, làm náo loạn
xã hội. Giáo hội La Mã tiếp sức bằng những lời kêu gọi “hiệp
thông cầu nguyện”,
rêu rao là “tranh
đấu cho công lý, cho hòa bình và cho tự do tôn giáo” để
dấy động thành một phong trào nội loạn trên toàn quốc, hi vọng
sẽ thừa thắng xông lên cướp chính quyền.
Những trò ma nớp này chỉ
là một phần trong hàng triệu hành động ma nớp trong những khu
rừng tội ác của Vatican chống lại nhân loại từ thế kỷ 4 cho
đến ngày nay. Cũng vì thế mà học giả Henri Guillemmin mới gọi
Giáo Hội La Mã là “cái giáo hội khốn nạn”, văn hào
Voltaire mới gọi là “cái tôn giáo ác ôn”, học giả Charlie
nguyễn gọi là “đạo bịp” và Bác-sĩ Nguyễn Văn Thọ gọi
là “đạo dối”.
c.- Nếu con số tín hữu Ca-tô trội hơn con số thành phần
thuộc các tôn giáo hay nền văn hóa khác, hoặc là bằng cách nào đó
quyên lực chính trị đã lọt vào tay bầy chiên rồi, thì họ biến
thành con cọp, cực kỳ hung dữ và dã man đến cùng độ như được trình bày trong
Chương 13, sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam cùng tác giả. Chương sách
này có thể đọc online trên sachhiem.net.
Ý nghĩa thứ hai:
Khi viết mấy câu văn trên đây, sử gia Loraine Boettne có
thâm ý là muốn cho mọi người thấy rằng, dù là con cừu, con
cáo hay con cọp, thì cái bản chất của tín hữu Ca-tô cũng vẫn
là bản chất của loài súc sinh.
Thực ra, nếu tìm hiểu lịch sử của đất nước và qua sự giao
tiếp thường xuyên với họ, chúng ta sẽ thấy rằng cung cách hành
xử của họ đối với tổ quốc và dân tộc cũng như đối với những
người đòng bào khác tôn giáo của họ cũng nói lên sự thực này:
Kinh nghiệm lịch sử về bản chất phản quốc
của những con chiên ngoan đạo (devout) của Giáo Hội La
Mã được sách sử ghi lại rõ ràng:
a.- Sách Cách Mạng Và Hành Động viết về bản chất súc sinh
của bày chiên người Pháp như sau:
“Sau cuộc lẩn trốn của nhà vua tới Varennes, các nước Âu
Châu lại sôi nổi. Lần này, Louis XVI cam tâm chấp nhận những
điều kiện can thiệp của các nước Âu Châu. Do đó, nước Áo
và Phổ bắt đầu động binh tới biên giới Pháp - Ở trong nước,
nhiều địa phương trung thành với Giáo Hội và nhà vua, cũng
bắt đầu nổi loạn. Nhất là miền Bretagne, Normandie và Vendée
vốn là những miền sùng đạo, cũng võ trang bênh vực các tu
sĩ không chịu tuyên thệ với cách mạng. – Tình trạng Pháp
quốc lúc đó thực hết sức lung lay.” [8]
b.- Ông Nguyễn Hữu Ba viết về bản chất súc sinh của bày chiên
người Việt như sau:
“Chúng tôi chuyển những bài về Ki-Tô-Rô Ma Giáo lên
các diễn đàn vì hai lý do chính:
Một: Chính các ông cố đạo Ki Tô là nguyên nhân (xúi
thực dân Pháp) dẫn đến việc Pháp xâm chiếm VN. Và các con
chiên VN đã là những kẻ phản quốc làm nội ứng cho Pháp cai
tri VN.
Trước đây đã có nhiều người, kể cả các học giả và sử gia
cho rằng: Thực dân Pháp đã mang đạo Thiên Chúa vào Việt Nam.
Nhận định đó có thể do thời gian đó chưa đủ sử liệu. Hoặc
là họ cố tình làm nhẹ bớt tội phản quốc của đám con chiên
để tránh sự xung đột giữa hai phe Lương-Giáo ???
Nhưng những năm sau này, hàng núi tài liệu từ các văn khố
của Pháp do các giáo sĩ và chính các tên Thực Dân Pháp để
lại, mà đặc biệt là luận án tiến sĩ của ông Cao Huy Thuần
đã chứng minh một sự thật bất khả phủ bác là: CHÍNH ĐẠO THIÊN
CHÚA ĐÃ MANG THỰC DÂN PHÁP VÀO VIỆTNAM.
Đã như vậy mà hiện nay những con chiên VN vẫn cố tình sửa
lại lịch sử để chạy tội cho tổ tiên họ. Họ lại còn đổ tội
cho các vua triều Nguyễn cấm đạo, giết đạo. Ngoài ra,
họ còn trịch thượng, ngạo mạn.......tự cho mình văn minh
hơn người......Cho nên chúng tôi có bổn phận phải chứng minh
cho mọi người biết sự thật lịch sử.”[9]
Kinh nghiệm lịch sử và thực tế cho thấy rằng không phải chỉ
có chiên người Pháp và chiên người Việt mới có những hành động
súc sinh như đã nói ở trên, mà tất cả các chiên thân thương
(devout) của Vatican đều có bản chất súc sinh như vậy. Quý
vị có thể kiểm chứng sự kiện này bằng cách tìm đọc các Chương
13, 14, 15, 16, 17, 18, 19 và 20, sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước
Việt Nam của tác giả Nguyễn Mạnh Quang. Các chương sách này
có thể đọc online trên sachhiem.net.
Kinh nghiệm về bản chất súc sinh của bày chiên ngoan đạo
đối xử với nhau và với những người khác
tôn giáo trong cuộc sống hàng ngày.
- Theo dõi tin tức
nói về bản chất súc sinh của đàn chiên ngoan đạo của Giáo
Hội La Mã, người viết thâu thập được một số trường hợp như
sau:
Trường hợp 1:
Ông Charlie Nguyễn kể lại với 4 trang (220-223)
trong cuốn Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001)
tâm sự đau lòng của ông. Đại ý là vào khoảng tháng 9 năm 1996, người vợ
và đứa con thân thương của ông biết được chính ông là tác giả những bài viết
tố cáo một số những việc làm bất chính của Giáo Hội
La Mã. Thế là:
«Lập tức vợ con tôi lục soát khắp nhà tịch thu mọi thứ
tài liệu sách báo và bản thảo viết tay của tôi cho vào bao
bố đem vứt ở nơi nào đó thật xa để tôi không thể thu hồi
lại được….Nàng (người vợ thân thương của ông) bỗng nhiên
biến thành một nữ hiệp của Tòa Thánh!. Nàng chỉ huy đám con
giống như một lực lượng cảnh sát mở cuộc hành quân truy lùng
tài liệu Việt cộng ở Saigon hồi tết Mậu Thân! »
Vì muốn cho gia đình được yên vui, ông đành nhẫn nhuc chịu
đựng và nhượng bộ vợ con dù rằng ngọn lửa căm thù « cái
tôn giáo ác ôn » (văn hào Voltaire gọi như vậy) này vẫn
còn hừng hực sôi sục ở trong lòng ông.
Rồi tới đầu năm 1988, một sự cố xẩy ra khiến cho ngọn lừa
căm thù này bùng lên thành cơn bão lửa. Số là lúc đó, có cuộc
tranh luận về một đề tài có liên hệ đến những việc làm tội
ác chống lại nhân loại của Giáo Hội La Mã. Một bên là
người đồng đạo của ông đã thức tỉnh (như ông) là ông Giuse
Phạm Hữu Tạo, chủ biên tở Nguyệt San Đông Dương Thời Báo ở
Houston (Texas) và một bên là một số con chiên người
Việt trong ban biên tập tờ Con Ong cũng ở Houston. Thấy rằng,
« những
bài viết của những người bênh vực Công Giáo đăng trên tờ Con
Ong Texas quá sai lầm và quá lố bịch », ông chịu đựng
hết nổi, ông liền nhập cuộc và viết bài «Tâm thư của một
người Công Giáo tỉnh ngộ sau nhiều năm khủng hoảng đức tin,” với
bút hiệu là Nguyễn Chấn gửi cho tờ Nguyệt San Đông Dương Thời
Báo vào ngày 28/2/1998 và một vài tờ báo khác. Rồi không
biết làm sao, ngày 9/3/1998, người vợ thân thương của ông
kiếm được tờ Đông Dương Thời Báo, đọc trong mục nhắn tin, thấy
có lời nhắn rằng,“Ông Nguyễn Chấn, chúng tôi đã nhận được
bài viết của ông. » Thể là ông trở thành tội nhân
bị đưa ra trước Tòa Án Xứ Lý Dị Giáo mà chính người vợ thân
thương và đứa con trai yêu dấu của ông trở công tố viên và
phán quan để xử lý. Ông kể lại thảm kịch này như sau:
«Vợ tôi mang về nhà làm toáng lên. Mấy mẹ con xúm vào tra
vấn tôi đủ điều khiến cho gia đình tôi u ám thê thảm như
có đám tang. Vợ tôi trở thành một thứ phán quan Spanish Inquisition,
chỉ còn thiếu dàn hỏa mà thôi!»
Như vậy là hạnh phúc gia đình của ông đã bị vợ con ông đập
nát. Ông phải «bỏ nhà ra đi với một cái túi nhỏ đựng ít
đồ cần thiết và ngủ đêm tại gầm cầu Freeway 59 Houston cùng
với mấy bác da đen homeless.» Ông kể lại trong niềm đau
xót:
«Lúc đó,tôi không có một xu dính
túi. Đây là một kỷ niệm nhớ đời của tôi! Từ đó, tôi sống
một mình như cánh chim tự do, nay đây mai đó bất định tại
mấy thành phố miền Đông Bắc Hoa Kỳ! Tôi làm việc vừa đủ kiếm
sống qua ngày để có nhiều thì giờ rảnh rang dành cho việc
nghiên cứu các vấn đề tâm linh mà tôi luôn luôn cảm thấy
thiếu thốn như một kẻ bộ hành khát nước trong sa mạc. Tôi
kể lại những chuyện riêng tư này để quý độc giả có thể hình
dung phần nào về “cái thòng lọng Công Giáo”. Nếu tôi không
kể những mẫu chuyện thật này, tôi tin rằng quí độc giả ngoại
giáo khó có thể tưởng tượng được cái tròng mắc vào cổ người
Công Giáo (mà bà Joanne Meehl gọi là The Catholic Loop)…”[10]
Giữa năm 2001, ông Charlie Nguyễn trao cho Giao Điểm Foundation
phát hành hai tác phẩm “Công Giáo Huyền Thoại Và Tội Ác”
và “Công Giáo Trên Bờ Vực Thẵm” mà ông đã cặm cụi biên
soạn trong mấy năm trời mới hoàn thành. Đây là hai tác phẩm
đã và đang làm chấn động trên văn đàn hải ngoại và trong nước.
Với những tác phẩm nổi tiếng như vậy, tất nhiên là ông Charlie
Nguyễn không thể nào thoát khỏi những con mắt cú vọ của Tòa
Thánh Thập Ác Vatican và đàn cừu non người Việt Nam. Ông Charlies
Nguyễn cũng biết rõ như vậy. Ông tiên liệu là bằng mọi cách,
giáo hội và những chiên Việt ”sống đạo theo đức tin Kitô” ở
hải ngọai sẽ không buông tha ông. Quả thật là như vậy! sau
đó sự việc đã xẩy ra đúng như ông tiên liệu:
Ngày 10/11/2001, một người bạn thân từ Houston gọi điện thoại
nói cho người viết hay rằng có một chiên tên là Phạm H. xưng
là bạn thân của ông Charlie Nguyễn, gửi Email cho anh Hoàng
Nguyên Nhuận (chủ bút tờ Chuyển Luân) ở Úc Đại Lợi để xin điện
thoại và địa chỉ của ông Charlie Nguyễn. Anh Hoàng Nguyên Nhuận
liền tiếp xúc với ông Charlie Nguyễn để nói rõ tự sự và được
ông Charlie Nguyễn ân cần dặn rằng phải tuyệt đối không cho
chiên Phạm H. và bất kỳ chiên người Việt nào khác biết số điện
thoại và địa chỉ của ông. Ông còn cho biết rằng chủ đích của
việc họ xin điện thoại và địa chỉ của ông là tìm cách thuyết
phục ông. Nếu không thuyết phục đuợc, họ sẽ tìm cách xúi giục
vợ con ông làm cho gia đình ông lủng củng thêm với dã tâm phá
vỡ hạnh phúc gia đình ông, giống như Giáo Hội La Mã đã từng
làm, đang làm và còn làm dài dài.
Thảm cảnh này đến với gia đình ông Charlie Nguyễn là do anh
hưởng trực tiếp gây ra bởi chính sách ngu dân và những lời
phán dạy tín đồ của giáo hội. Giáo hội chủ trương rèn luyên
tín đồ thành những hạng người phải tuyệt đối vâng phục giáo
hội, phải đặt tình thương yêu đối với giáo hội lên trên tình
yêu thương lứa đôi trai gái, lên trên tình yêu thương vợ chồng,
lên trên cả tình yêu thương giữa cha mẹ với con cái và giữa
con cái đối với cha mẹ. Ngoài ra, giáo hội còn dạy rằng, nếu
cần thì “cha phải con tố cáo nhau, vợ chồng phải tố cáo
nhau, anh em tố cáo nhau, bạn hữu tố cáo nhau, hàng xóm láng
giềng tố cáo nhau, v.v... trước tòa án của giáo hội.” (Đã
dẫn chứng ở trên).
Trường hợp 2:
Một con chiên người Việt khác (họ Phan)
và cũng là một sĩ quan nhà văn quân đội chuyên về bút ký chiến
trường đã từ chối không nhìn người cha ruột vào khi thân phụ
anh ta lần mò đến một trại học tập tìm lại anh sau hơn ba mươi
năm xa cách kể từ khi thân phụ anh đi theo tiếng gọi của non
sông lên đường chiến đấu bảo vê quê hương đất tổ từ cuối năm
1945.
Ai đáng gọi là súc sanh?
Trường hợp 3:
Câu chuyện được kể lại về một cặp vợ chồng Việt Nam, khác tôn giáo.
Người vợ đạo gốc, chồng ngoại đạo, khi lấy nhau ở Việt Nam, họ giao
ước với nhau rằng đạo ai người ấy giữ. Họ đã sống với nhau rất là
hạnh phúc.
Khoảng
giữa thập niên 1980, họ vượt biên và được đưa sang định cư ở Vancouver
BC, Canada. Mỗi sáng Chủ
Nhật, bà vợ thường đi nhà thờ có một linh-mục người Việt
Nam.
Không biết ông linh mục này nói với bà
vợ này như thế nào, rồi bà ta về nhà đòi ông chồng phải theo đạo.
Ông chồng vốn là tín đồ thuần thành đạo Phật, nhất định từ chối và
nhắc lại lời giao ước trước khi họ chính thức thành hôn.
Thuyết phục mãi,
ông chống vẫn khăng khăng giữ vững lập trường. Cuối cùng, bà vợ bỏ
ông chồng và dọn về ở (sống chung)
với vị linh mục. Chi tiết câu chuyện có lẽ người chồng nạn
nhân mới rõ.
Ai đáng gọi là súc sanh?
Trường hợp4:
Đó là tác giả của 4 câu thơ quái đản dưới đây:
Nếu cha tôi mà theo Cộng Sản,
Tình cha con đứt đoạn không thương.
Một mai đây giữa chốn sa trường,
Tôi sẽ nhắm thẳng ngực người mà bắn.[11]
Nội dung của bốn câu thơ trên đây phản ảnh đúng với tinh
thần lời dạy của Giáo Hoàng Paul IV (1555-1559) như đã nói
ở trên (Phần 4, Mục B, Tiểu Mục 2). Bốn câu thơ trên đây cho
chúng ta thấy rõ là lời dạy phi luân và mất dạy của ông Jesus
(Matthew 10: 34-37) và của Giáo Hoàng Paul IV đã có ảnh hưởng
sâu nặng vào đầu óc các chiên người Việt.
Ai đáng gọi là súc sanh?
Trường hợp 5:
Ông Da-tô Nguyễn Mậu đạo đạt ý kiên lên
các nhà chức trách trong Giáo Hội La Mã với những ngôn từ quái
đản ngoài sức tưởng tượng của một người bình thường. Dưới đây
là ngôn từ của ông Nguyễn Mậu:
”Vấn đề được nêu lên ở đây với tất cả mạo muội và run
sợ vì có thể bị xem như là vô lễ phạm thượng.
Chúng tôi trông vào sự độ lượng của hàng giáo phẩm cũng
như hy vọng rằng sự trưởng thành của giáo dân ở thời đại
này sẽ giúp thật nhiều cho sự thể hiện lý tưởng Ki tô
hữu”.[12]
Trường hợp này cho chúng ta thấy rõ các chiên người Việt đã
hoàn toàn trở thành cực kỳ vong thân và hết sức hèn hạ. Họ
tỏ ra vô cùng run sợ khi muốn nói lên tiếng nói của họ với
các đáng bề trên. Với tình trạng này, họ chỉ có thể trở thành
một tên nô lệ có giá trị như một con trâu, con ngựa được sử
dụng để kéo cày hay kéo xe, hay con chó để giữ nhà mà thôi,
chứ không có ích gì cho xã hội hay quốc gia và dân tộc.
Trường hợp 6:
Nhân vật chính Jeffrey Dahmertrong trường hợp sau đây đã sinh ra, lớn lên
và trưởng thành trong lòng xã hội của những người có niềm tin
tuyệt đối vào ông Chúa Cha Jehovah và Chúa Con Jesus. Dưới
đây là bản tin do tờ báo The Columbian (Vancouver, WA) số
ra ngày 19 tháng 12 năm 1994 nói sơ qua về hành động súc
sinh của con người này. Nguyên văn bản tin
như sau:
"Tội ác của tên tội đồ Jeffrey Dahmer thật là tàn ác ghê gớm hầu
như là không thể nào xẩy ra trong một xã hội văn minh: giết người, băm chặt
nạn nhân ra từng miếng mà còn ăn thịt cả 17 thanh thiếu niên nạn nhân. Cho
nên không có ai tỏ ra thương sót khi hay tin nó bị đánh chết ở trong khám
đường Wisconsin trong tuần này." [13]
Trường hợp7:
Josef Fritzl, một trong những trường
hợp cực kỳ ghê tởm mới xẩy ra gần đây và được
đăng ở The News Tribune (Tacoma, Washington) số ra ngày Thứ
Năm 19/3/2009 nơi trang A3 như sau:
“Tin từ Poelton Austria: Người cha nhận tội vì đã giữ con
gái trong buồng giam trong nhiều năm: Hôm Thứ Tư (18/3/2009),
ngồi trước vành móng ngựa, Josef Fritzl vội vàng nhận tất
cả những tội ác - một đặc tính làm mọi người ngạc nhiên trong
những tiết lộ cho biết ông ta đã cầm tù người con gái của
ông ta cả 24 năm trong một buồng giam nơi mà ông ta đã hãm
hiếp nạn nhân và sinh đẻ tới 7 người con rất là kín đáo.
Tội ác này làm cho cả thế giới chú ý: Fritzl đã bình thản
nhìn nhận tội ác trong đó có cả tội sát nhân (sát hại một
trong 7 đứa trẻ này). Fritzl nói rằng ông ta xúc động khi
nghe những lời khai đau khổ của người con gái của ông qua
một cuôn băng ghi âm.
Fritzl, 73 tuổi, nhìn nhận hết tất cả tội ác nêu lên trong
bản cáo trạng và nói với các quan tòa trong phiên xử rằng
đó là những “hành động bệnh hoạn của ông ta.”[14]
Chuyện này cũng được Báo Sàigòn Nhỏ số 640 ra ngày 20/3/2009
tóm lược và đăng nơi trang 12 [15]
Giống như tên sát nhân Jeffrey Dahmer
đã nói ở trên, tên tội đồ Josef Friztl cũng sinh ra, lớn lên
được rèn luyện “sống theo đức tin Ki-tô”. Kết quả là
những thằng tội đồ khốn nạn này đã hành xử giống như những
tấm gương xấu loạn luân, phi luân và dã man như đã xẩy ra trong
kinh thánh, trong giáo triều Vatican và trong giới tu sĩ Ki-tô.
Ngồn gốc tội ác của các trường hợp trên:
Những sự kiện trình bày trên
đây đã khiến cho người viết đặt ra vấn đề là những hành
động tội ác kinh tởm này do đâu mà ra? Không biết
các bậc thức giả, các nhà lãnh đạo tôn giáo và các vị chức
sắc trong hàng giáo phẩm, đặc biệt nhất là Giáo Hoàng Benedict
XVI cũng như các vị chức sắc và tu sĩ trong hệ thống quyền
lực của Giáo Hội La Mã có bao giờ suy tư về tình trạng này
không?
Người ta không thể không liên kết những việc đó với
(1) những lời
phán dạy và những câu chuyện loạn luân, phi luân, gian ác, dã man
trong kinh thánh,
(2) những tính cách võ đoán và bất nhân trong
giáo luật,
(3) những chủ trương và hành động dung dưỡng, bao che và bảo
vệ các giáo sĩ (giới tu sĩ) của Giáo Hoàng John Paul II (1978-2005)
và đương kim Giáo Hoàng Benedict XVI (2005 -) trong các vụ
hãm hiếp trẻ em vị thành niên và nữ tín đồ bất chấp cả công luận,
bất chấp cả luật pháp của chính quyền thế tục, và
(4) những cái gương
của cuộc đời phóng đãng, bê bối, thối tha, vong bản, phản nhân luân,
phản quốc và cực kỳ man rợ của các giáo hoàng mà sách sử đã nêu
đích danh trong các sách như Babylon Mystery Religion (Riverside,
California (Ralph Woodreow Evangelistic Association, Inc.,
1981) của tác giả Ralph Woodrow, sách The Bad Popes (New York:
Barnes & Noble Books, 1993) của tác giả E. R Chamberlain,
sách Pope Encyclopedia (New York: Crown Trade Paperbacks, 1995)
của tác giả Matthew Bunson, sách Vicars of Christ (Dublin,
Ireland:Poolbeg, 2000) của tác giả Peter de Rosa, v.v….
Thực ra, trong gần hai ngàn năm qua,
Giáo Hội La Mã, từ giáo hoàng, các vị chức sắc cao cấp trong giáo
triều Vatican, cho đến các hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh
mục và giáo dân đã liên tục có những hành động tội ác không kém gì
tội ác của những tên tội đồ Jeffrey Dahmer,Josef Friztl và những
con chiên tội đồ khác mà chúng tôi đã nêu lên trong các trường
hợp khác ở trên.
"Ở Avignon, Giáo Hoàng John XXII tham lam cho phép
các tu sĩ được giữ tình nhân với điều kiện phải đóng thuế.
Ngay cả các ông tu sĩ trong trắng
cũng phải đóng thuế trong trường hợp họ ngả vào trong vòng
tay của một người đàn bà."[16]
"Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484) can tội loạn luân
(incest) ăn ở với chị (em) gái sinh ra đứa con trai tên là
Pietro Riario và cũng là giáo hoàng đầu tiên cấp giấy hành
nghề mở "nhà chứa" (nhà thổ) tại Kinh Thành La
Mã. Nhờ vậy mà mỗi năm, ông thu hoạch được 30 ngàn tiền
ducats. Ông cũng thâu hoạch được những khoản tiền khá lớn
bằng cách đánh thuế các tu sĩ nào muốn công khai sống với
tình nhân (bạn gái). Tệ hơn nữa, ông còn làm tiền bằng cách
bán giấy phép cho các ông nhà giầu được quyền "an ủi" các
bà có chồng xa nhà, v.v..."[17]
“Tình trạng nam nữ chung chạ bừa bãi lan tràn trong khắp các nam và nữ tu
viện. (Thánh) Ivo Chartre (1040-1115) cho biết toàn thể các nữ tu viện chỉ
là những nữ tù nhân mang danh là "các dì phước" mà thôi. Họ thường
là những đứa trẻ bị gia đình bỏ rơi và thực sự đã trở thành những cô gái điếm."[18]
"Năm 1064, một giáo sĩ xứ Orange ở Pháp đã thông
dâm với người vợ thứ hai của thân phụ ông ta. Giáo
Hoàng Alexander (1061-1073), không những đã không bãi chức
của ông giáo sĩ này, mà vẫn còn để cho ông ta tiếp tục
rước lễ. Ngài cho rằng ông giáo sĩ này đã không phạm tội
có gia đình chính thức. Hai năm sau, một giáo sĩ ở Padua
thú nhận là đã loạn luân với người mẹ ruột. Giáo Hoàng
(Alexander) đã đối xử rất tử tế với ông giáo sĩ này và
để mặc cho ông giám mục quản nhiệm địa phương tùy ý quyết
định nên hay không nên để cho ông ta tiếp tục phụng vụ.
Đối với Giáo Hoàng Alexander II (1061-1073), thông dâm
hay loạn luân vẫn còn thích hơn là có một giáo sĩ chính
thức có gia đình." [19] .
Những tội ác của các vj chức sắc này được kể lại trong các
chương 3, 4, 7, 8, 13, 14 của bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của
Giáo Hội La Mã, Chương 13 (sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam) tóm
lược như sau:
1.- Giáo Hoàng Stepen VII (896-897) ra lệnh cho đào mả vị
tiền nhiệm là Giáo Hoàng Formosus (891-896) lấy xác cho mặc
y phục giáo hoàng, rồi cho lập phiên tòa xét xử cái xác chết
đã thối rữa này.
2.- Tín đồ Ca-tô người Việt ở Phát Diệm ở Việt Nam trong những
năm 1949-1954, cũng đã từng giết người, mổ bụng nạn nhân lấy
mật hòa với rượu, lấy gan theo từng miếng đem nướng, rồi cùng
ngồi nhậu hả hê với nhau. Nạn nhân bi cắt cổ, đầu lâu được
xâu vào một cây sào đem cắm ở đầu làng phơi nắng phơi mưa cả
mấy ngày trời.
3.- Tín đồ Ca-tô người Pháp đã tàn sát dân Tín Lành dã man
và kinh tởm như thế nào?
4.- Tín đồ Ca-tô ở Ái Nhĩ Lan đã tàn sát dân Tin Lành Ái
Nhĩ Lan dã man như thế nào?
5.- Tín đồ Ca-tô ở Croatia đã tàn sát tín đồ Do Thái, Chính
Thống Giáo ở Croatia một cách hết sức dã man như thế nào?
6.- Tín đồ Ca-tô người Việt tàn sát người Việt theo tam giáo
cổ truyền trong thời Kháng Chiến 1945-1954 và trong những năm
1954-1975 ở miền Nam Việt Nam như thế nào?
7.- Tín đồ Ca-tô ở Rwanda đã tàn sát 800 ngàn người Tutsis
thuộc các tôn giáo khác như thế nào?
8.- Quân lính thập tự của Giáo Hội La Mã trong những năm 1096-1291
tàn sát những nạn nhân ở vùng Cận Đông và miền Nam nước Pháp
như thế nào?
9.- Các Tòa Án Dị Giáo của giáo hội tra tấn và tàn sán nhân
dân Âu Châu như thế nào trong suốt thời kỳ từ năm 1232 cho
đến năm 1820 như thế nào?
10.- Tất cả các chế độ đạo phiệt Ca-tô tay sai của Giáo Hội
như Ferdinand (1452-1516), Isabella I (1451-1504), và Philip
II (1527-1598) ở Tây Ban Nha, Louis XIV (1638-1715), Louis
XVIII (1815-1824), và Charles X (1824-1830) ở Pháp, Mary I
(1553-1558) ở Anh đã tàn sát những người dân thuộc các tôn
giáo khác như thế nào?
Tất cả các tội ác kinh tởm và ghê gớm trên đây đều do Giáo
Hội La Mã chủ trương và dạy dỗ tín đồ của giáo hội phải tích
cực và triệt để theo gương giáo hộii mà hành xử.
So sánh với những khu
rừng tội ác kinh tởm và ghê gớm của Giáo Hội La Mã và tín đồ
của giáo hội từ thế kỷ IV cho đến nay, chúng ta sẽ thấy những
tội ác của hai thằng súc sinh Jeffrey Dahmer và Josef Friztl
kể trên chỉ là một vài hạt cát trong đại sa mạ Sahara ở Bắc
Phi mà thôi.
Tên tội đồ Jeffrey Dahmer chỉ sát hại có 17 thanh thiếu
niên bị chính quyền Hoa Kỳ xử tội cho ở tù chung thân rồi bị
bạn đồng tù đập chết. Còn Giáo Hội La Mã đã sát hại tới hơn
253 triệu người (Lloyd M. Graham, Deceptions Myths of the Bible
(New York: Bell Publishing Company, 1979), p. 463.) thì sẽ
bị xử lý như thế nào cho nó hợp với lẽ công bằng?
Thằng Josef Friztl hãm hiếp con gái ruột của nó trong 24
năm trời, bị chính quyền Áo xử phạt tù (có lẽ là chung thân).
Tên tội đồ Jeffrey Dahmer chỉ sát hại có 17 thanh thiếu niên
bị các bạn đồng tù lôi ra đập chết, anh em Ngô Đình Diệm tàn
sát hơn 300 nạn nhân trong những năm (7/7/194-1/11/1963) cũng
bị quân dân miền Nam lôi ra đập chết, vậy thì có nên lôi “cái
tôn giáo ác ôn” ra đập chết giống như thằng Jeffrey Dahmer
và anh em thằng bạo chúa phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình
Diệm hay không?
VI. - Lời Kết
Đạo lý vị tha vị nhân sinh của các dân tộc Đông Phương chủ
trương lấy con người làm đối tượng để phục vụ cho phúc lợi
thiết thực của con người ở trong cõi đời này. Để đạt được mục
đích này, con người (1) phải biết giới hạn tối đa lòng tham,
sân, si, (2) phải biết cách hành xử “sao cho vừa mắt ta
ra mắt người”, và (3) phải ý thức được trách nhiệm tương
xứng với vị thế hay vai trò của mình đối với những người khác
trong gia đình và xã hội cũng như đối với dân tộc và tổ quốc.
Có như vậy thì mọi người mới có thể sống chung hài hòa với
nhau để cùng nhau (1) cải tiến dân sinh, (2) nâng cao dân trí,
(3) ổn định
xã hội, đánh dẹp nội loạn, và (4) chống lại các thế lực thù
địch ngoại nhập. Vì lẽ này mà con ngưởi phải được rèn luyện
để có được những đức tính như đã nêu lên trong Phần 5A ở trên.
Trái lại, giáo dục theo Giáo Hội La Mã nếu gọi là đạo lý thì
nó chỉ là một
thứ đạo lý vị kỷ. Đó là một thế
lực chính trị có tham vọng (1) làm bá chủ toàn cầu
với dã tâm hửy diệt các tôn giáo hay nền văn hóa khác, triệt
hạ uy tín hay sát hại những người biết rõ bộ mặt thật của
nó, và (2) nô lệ hóa nhân loại bằng hệ thống thần học Ki-tô.
Vì mưu đồ bất chính đại gian đại ác này mà nó (giáo hội)
chỉ có thể tồn tại được bằng những thủ đoạn mê hoặc, phỉnh
gạt, lừa bịp người đời , bằng bạo lực để khủng bố tinh thần
những người yếu bóng vía và sát hai những người bất khuất.
Để đạt mục đích vị kỷ đó, Giáo Hội La Mã
phải lấy chiêu bài tôn giáo làm bức bình phong để che đậy tham
vọng bá quyền bất chính như đã nói ở trên. Họ luôn luôn sử
dụng những thuật ngữ với , những mỹ từ và những danh xưng
mang ý nghĩa tốt đẹp, cao cả như “Giáo Hội Ki-tô
Toàn Cầu La Mã” (The Roman Catholic Church hay The Roman
Catholicism), “Đạo Cứu Thế La Mã” (The Roman Christianity)
để dễ dàng câu nhử và lùa những con mồi lọt vào bẫy (Catholic
loop). Thủ đoạn phỉnh gạt nổi bật nhất của giáo hội là mấy
cái danh xưng “Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo
và tông truyền”, “đạo cứu rỗi”, “đạo của tình
thương và bác ái”.
Thông thường
nhất là các từ “thánh”, “đức” và “cha” được giáo hội khai thác
triệt để bằng cách đem mấy từ này gắn liền vào với những gì
thuộc về hay của giáo hội. Đủ mọi thứ được gắn liên với “thánh”,
chẳng hạn như: nước thánh, rượu thánh, đất thánh (tha ma),
bánh thánh, hội thánh, thánh lễ, thánh tẩy, thánh tử đạo, ruộng
thánh, phong thánh, và có cả hàng triệu ông thánh (dù đó là
thánh ăn cướp, thánh hiêp dâm, thánh ma cô) ở trong giáo hội.
Cả đến 117 thằng tội đồ khốn nạn chống lại tổ quốc và dân tộc
Việt Nam và 120 thằng tội đồ chống lại đất nước và dân tộc
Trung Quốc cũng được phong thánh. Ngay cả đến tên Giáo Hoàng
Pius IX (1846-1878), người đã từng gọi dân tộc Do Thái là
“lũ chó”, cũng được phong thánh, bất kể lả cái “lũ chó này”
(dân tộc Do Thái) đã sinh đẻ ra Bà Maria và Chúa Con Ki-tô
Jesus của giáo hội. Bản văn sử dưới đây là bằng chứng bất
khả phủ bác:
Những phát ngôn viên khác đọc những bản văn do chính Giáo
Hoàng Pius viết, trong đó có một đọan ông giáo hoàng này
nói rằng dân Do Thái chỉ là "lũ chó", chứ
không phải là công dân. (Giáo Hoàng Pius IX quên rằng
chính dân tộc Do Thái đã đẻ ra ông Abraham, ông Moses, bà
Maria và Chúa Jesus - NMQ).[20]
Vì có những hạng người khốn nạn như vậy cũng đựợc phong thánh,
cho nên “Hồng Y Silvio Oddi cũng phải than phiền là “Vatican
đã trở thành một xưởng chế tạo thánh” (The Vatican has become
a saint factory.)”[21]
Từ “đức” cũng được giáo hội khai thác triệt để. Các chức vụ
lớn hay nhỏ trong giáo hội đều có từ “đức” đi kèm theo. Đức
Ông, Đức Bà, Đức Cha, Đức Mẹ, Đức Giám Mục, Đức Hồng Y, Đức
Thánh Cha. Đặc biệt trong vấn đề này, đối với tín hữu Ki-tô,
vì có bản chất vong bản và La Mã hơn cả La Mã, cho nên họ đòi
hỏi phải viết hoa (capitalized) tất cả những từ “đức” và
“thánh” hay bất cứ từ nào có liên hệ hoặc được sử dụng như
một đại danh từ thay thế cho người mang một chức vụ hay ở trong
hàng giáo phẩm trong giáo hội. Vì thế mà khi đọc những bản
văn của họ viết ra, chúng ta thường thấy các từ giám mục,
tổng giám mục, hồng y, giáo hoàng hay đức thánh cha cũng đều
viết hoa cả.
Song song với thủ đoạn dùng xảo ngữ vô cùng trơ trẽn, và ngược
ngạo như trên, giáo hội còn sử dụng những
ngôn từ hàm ý cực kỳ xấu xa nặng tính cách khinh bỉ và miệt
thị để gán ghép cho những tôn giáo hay nền văn khác, những
cá nhân và thế lực bị giáo hội coi là thù địch.
Giáo hội
rất sính dùng những từ như “mạn di”, “mọi rợ”, “dã man”,
“tà đạo” “tà giáo”, “lạc đạo”, “phản” hay “phản thệ” để gán
cho các đối tượng trên đây. Trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày,
nơi Chương 4 (Ngày Thư Bốn) với đề tài là Những Đạo Vạy,
Linh-mục Alexandre de Rhodes gọi Đức Phật Thichi Ca là “thằng”
và dùng những ngôn từ vô cùng hạ cấp, vô giáo dục để miệt
thị các tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc Việt Nam.
Trong
cuốn Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo, Phần Nhất, Chương Năm, Mục
II có tựa Thái Độ Của Giáo Hội Đối Với Man Di, từ trang 200
đến trang 207, vỏn vẹn có 8 trang, mấy từ man di, man dân,
man rợ, dã man được tác giả Linh-mục Bùi Đức Sinh sử dụng
tới 26 lần để nói về các dân tộc thuôc các tôn giáo khác ngoài
đạo Ki-tô.
Ngoài những thủ đoạn dùng xảo ngữ hết sức vô giáo dục như
trên, Giáo Hội La Mã còn mang căn bệnh hiếp dâm ngôn ngữ để vừa
phỉnh gạt và lừa bịp thiên hạ, vừa đánh lạc hướng làm cho tín đồ và người
đời khiến cho thiên hạ không để ý đến những hành động gian ác hay bất chính
của giáo hội. Đó là những từ và cụm từ như “mặc khải”,
“được Chúa soi sáng” “được thánh linh soi sáng” “khai hóa văn minh”, “hiệp
thông cầu nguyện”, “hòa bình”, “công lý”, “bác ái”, “lương tâm công giáo”,
“sống đạo theo đức tin Ki-tô”, “dân Chúa”, “dân được Chúa chọn”,
v.v….
Tất cả những thủ đoạn sử dụng những xảo ngôn và thuật ngữ
như trên đều nằm trong chính sách tuyên truyền của giáo hội
do Thánh Bộ Đức Tin đảm nhiệm. Nói về tài nghệ siêu việt của
bộ máy tuyên truyền của Giáo Hội La Mã, học giả Ca-tô Phan
Đình Diệm ghi nhận như sau:
“Hàng ngàn năm, để bung bít và che giấu 7 chương tội đối
ngoại và 1 chương đối nội là 8, nghệ thuật tuyên truyền
của Giáo Hội Roma phải đạt đến chỗ cực kỳ ảo diệu,
thiên biến vạn hóa, một nghệ thuật tuyên truyền thần thánh,
một nghệ thuật tuyên truyền nhồi sọ tuyệt vời: Giáo Hội là
Thánh, Giáo Hội là Mầu Nhiệm, Giáo Hội là Bí Tích, Giáo Hội
là Hiền Thê Đức Giê-su, Giáo Hội là Duy Nhất, Thánh Thiện,
Công Giáo và Tông Truyền, Giáo Hội là Vương Quốc Thiên Chúa….
Giáo Hội tự cho mình hết tất cả những khái niệm cao cả thánh
thiện, vừa linh thiêng siêu hình, vừa hữu hình thế tục, chẳng
bỏ sót một phạm trù nào! Ngoài nghệ thuật tuyên truyền, Giáo
Hội vẫn phải xây “vạn lý trường thành đức tin” và buông bức
“màn sắt thần học” lên đầu đoàn chiên. Mỗi tòa giảng là một
cái loa tuyên truyền, dựa vào khoa thần học phù phép, ảo
thuật, Giáo Hội đã biến “núi tội thành conchuột”,
“kẻ cướp mặc áo thày tu” và “quỷ Satan người thành có diện
mạo ông thánh.”[22]
Không những thế, giáo hội còn có chủ trương liên kết với các
cường quyền địa phương với các cường quyền và các đế quốc Âu
Mỹ để củng cố quyền lực và mở rộng ảnh hưởng ra ngoài lục địa
Âu Châu.[23] Có
làm như vậy, giáo hội mới có thể dựa vào bạo lực cúa nhà nước
để (1) cưỡng bách nhân dân dưới quyền phải theo “cái tôn
giáo ác ôn” này) để làm nô lệ cho giáo hội, (2) hủy diết
các tôn giáo hay nền văn hóa khác, (3) triệt hạ uy tín và sát
hại những người biết rõ bộ mặt thật cực kỳ ghê tởm của giáo
hội, (4) thi hành chính sách ngu dân và nhồi sọ, (5) kiểm
soát tất cả mọi phương tiện sản xuất và các phạm vi sinh hoạt
trong xã hội, v.v… Vấn đề này sẽ được người viết trinh bày
đầy đủ trong Chương 6, Mục III, Phần II, sách Lịch Sử Và Hồ
Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã.
Để đạt được tham vọng bất chính, đại gian và đại ác này, giáo
hội đã phải dùng cả trăm phương ngàn kế để rèn luyên con người
thành bày súc sinh mà giáo hội gọi là “bầy chiên”. Tất cả đã
được trình bày trong chương sách này nơi các các phần 2B,
3B, 4B và 5B ở trên.
Biến con người thành bầy chiên có nghĩa là làm con người
mất hết tình người và lý trí không còn ý thức được tình nghĩa
đối với những người thân thương trong gia đình, xã hội, dân
tộc và tổ quốc..
Có như vậy, giáo hội mới có thể sử dụng những người thân thương
trong gia đình để (1) nằm vùng rình mò dò xét lẫn nhau rồi
báo cáo với các đấng bề trên hay nhà thờ của họ (phi luân
và vô gia đình, đúng như lời Chúa Con Jessus phán dạy (Matthew
10: 34-36), và (2) đoàn ngũ hóa tín đồ bản địa thành những
đạo quân thứ 5 nằm vùng chờ lệnh của giáo hội để “hiệp
thông cầu nguyện” nổi loạn tiếp tay cho các thế lực ngoại
xâm liên kết với giáo hội để đem lại cái thứ hòa bình và công
lý ăn cướp của giáo hội (vong bản, phản dân tộc và phản quốc).
Đây là sự thực mà hầu như tất cả các nhà sử học chuyên về Giáo
Hội La Mã đều có nhận xét như vậy. Sự thật này cũng được nhà
báo Long Ân ghi nhận:
“Con người đã nhân danh tôn giáo để làm những chuyện điên
cuồng nhất, đã nhân danh tôn giáo để biện minh cho quyền lực
phi nhân áp đặt lên đầu kẻ khác. Con người đã phản lại tôn
giáo, đã chặt đứt cây cầu đưa đến cuộc tìm kiếm chính mình,
đã cúi đầu trên bốn chân để từ con người trờ về với nguồn gốc
con người súc sinh.”[24] .
[12] Nguyễn
Mậu: "Thời Sự Trong Tuần" Chính Nghĩa -
Bộ Mới Số 251 [San Jose, California] ngày 03/12/1994.
[13] David
Brígg (The Associated Press).”Clergy ponder Dahmer’s death.” The
Columbian (Vancouver, WA) December 19, 1997. Nguyên
văn: "His crimes were so horrific as to be almost
umimaginable in civilized society: killing, multilating
and sometimes cannibalizing 17 young men and boys. So
there were no outpouring of sympathy when Jeffrey Dahmer
was brutally murdered on Wisconsin prison this week..."
[14] The
Associated Press. “Father pleads guilty to keep daughter
in dungeon for years.” The News Tribune [Tacoma, Washington]
19 March 2009, Morning edition: A3. Nguyên văn:
“St. Poelton, Austria.- Father pleads guilty to keep daughter
in dungeon for years: Josef Fritzl abruptly pleaded guilty
to all of the charges against him Wednesday – a surprising
twist (đặc tính) amid discolsures that the daughter he
imprisoined for 24 years in a dungeon where she bore him
seven children secretly sat in on the trial. Adding intrigue
to a case that has drawn worldwide attention, Fritzl calmly
acknowledged his guilt, including to homcide, and said
his change of heart came after hearing his daughter’s heart
wrenching videotaped testimony. “I declare myself guilty
to the charges in the indictment,” Frirzl, 73, told a panel
of judges, referring to what he called “my sick behavior.”
A Verdicts and sentences were expcted today after chosing
statements.”
[15] Sàigòn Nhỏ số 640,
ngày 20/3/2009 – trang 12, nguyên văn như sau:
“Áo: Kẻ loạn luân ra tòa.- (SGN – TH)
– Josef Friztl giấu mắt sau chiếc kẹp tài liệu màu xanh
và nói với luật sư: “Tôi sợ lắm” trước phiên tòa xử y
về tội giam giữ và cưỡng hiếp con gái suốt 24 năm trời.
Fritzl tiếp tục giấu mặt sau kẹp tài liệu này khi thẩm
phán bắt đầu làm việc. Phiên tòa được bảo vệ an ninh
nghiêm ngặt diễn ra ở thành phô St. Pollen cách thủ đô
Áo 65 km, hôm nay. Fritzl bị buộc tội giết người, cưỡng
hiếp, loạn luân, giam và bắt con gái làm nô lệ một cách
bất hợp pháp….
“Giới chức Áo cho hay Fritzl tống giam và liên tục
cưỡng hiếp con gái - Elizabeth - trong gần một phần tư
thế kỷ dưới căn hầm không cửa sổ mà ông ta xây ở thị
trấn Amstetten. Elizabeth sinh cho ông ta 7 đứa con,
trong đó một đứa chết khi vừa ra đời. Công tố viện truy
tố Fritzl tội giết người vì cho rằng đứa bé này có thể
sống nếu y đưa nó đi bệnh viện.
Ba trong số những đứa con lớn lên dưới căn hầm ở Amstetten
chưa từng thấy ánh nắng mặt trời cho tới tháng 4 năm
ngóai (2008) khi vụ việc được phanh phui. Ba đứa khác
được bà ngoại nuôi dưỡng ở căn nhà trên mặt đất. Những
đứa bé này cùng với Elizabeth được điều trị tại bệnh
viện tâm thần. Họ đang sống ở một nơi cách biệt và được
đảm bảo an ninh.
Không một nạn nhân nào sẽ ra mặt làm chứng trước tòa.
Thay vào đó, 8 thành viên bồi thẩm đoàn sẽ xem đoạn băng
ghi lại lời khai của Elizabeth và một trong số những
người anh của cô.”
[16] Peter
de Rosa, ibid.410.Nguyên văn: "In Avignon, the
avaracious John XXII allowed priests to keep their mistresses
on payment of a tax. Even the few chaste priests had to
pay up just in case they, too, fell into the arms of a
woman."
[17] Peter
de Rosa. Ibid., p.101. Nguyên văn: "Sixtus ' favourite
was Pietro Riario, whom the historian Theodor Griesinger
believed was his son by his own sister.... Sixtus was the
first pope to license the brothels of Rome; they brought
him in thirty thousand ducats a year. He also gained considerably
from a tax imposed on priests who kept a mistress. Another
source of income was granting privileges to rich men "to
enable them to solace certain matrons in the absence of
their husbands."
[18] Peter
de Rosa, Sđd.,tr. 408.Nguyên văn: "Promiscuity
was rife in monasteries and convents. The great Ivo of
Chartres (1040-1115) tells of whole convents with inmmates
who were nuns only in name. They had often abandoned by
their families and were really prostitutes.”
[19 ] Peter
de Rosa, Sđd., tr.406. Nguyên văn:"A priest
of Orange in France committed aldultery with his father's
second wife in the year 1064, Pope Alexander (1061-1073),
instead of dismissing him, refused even to deprive him
of holy communion. Liniency was called for because he had
not committed matrimony. Two years later, a priest from
Padua confessed to incest with his mother. The pope deal
very kindly to him and left it to his bishop to decide
whether he should continue in the ministry or not. For
Pope Alexander II (1061-1073)], adultery even incest was
preferable to a priest marrying."
[20] The
Associated Press. "Jewish family protests Pius' beatification." The
News Tribune [Tacoma, WA] Sept. 3, 2000. " Nguyên
văn: That mother was deprived of her son," Giacomo
Saban, an Italian Jewish leader, told the crowd. "The
injury is still alive. It's still felt." Other speakers
read from the passages of Pius' writing, including one
in which he allegedly wrote that Jews were not citizens
but "dogs."Xin xem Chương 4, Mục II, Phần I,
sách Lịch Sử Và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã để biết
đầy đủ chi tiết về vấn đề này.
[21] Trần
Chung Ngọc, Công Giáo Chính Sử (Garden Grove, CA:
Giao Điểm, 1999), tr 268
[22] Phan
Đình Diêm.“Mea Culpa Bai 3 – Giáo Hội Công Giáo Roma La-tinh
Cáo Thú Tội Lỗi Ngàn Năm” Kitohoc.com/BaiNet066.html Ngày
5/5/2000.
[23] Avro
Manhattan, Why Did We Go? (Chino, CA:Chick Publications,
1984), tr 157.
[24] Nguyễn
Mạnh Quang, Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư
1954-1975 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000), tr. 340.