III. - Tôn
Giáo và Chính Quyền, Và Vấn Đề Quản Lý Tôn Giáo
Quan niệm khác nhau về mối tương quan giữa tôn giáo và
chính quyền cũng như cách quản lý tôn giáo trong xã hội
theo văn hóa Đông phương và xã hội theo Ki-tô giáo. Đây
là một vấn đề vô cùng quan trọng có liên hệ đến tất cả
mọi sinh hoạt của con người trong bất kỳ xã hội theo nền
văn minh nào và trong bất cứ thời đại nào. Vì thế mà chúng
ta cần tìm hiểu cho thấu đáo vấn đề này. Ở đây, chúng tôi
xin giới hạn trong ba yếu tố: đạo
lý, chính quyền và tôn giáo.
Về hai yếu tố chính
quyền và tôn giáo, thiết tưởng không có gì phải thắc mắc định nghĩa và thực
thể, dù ở bất kỳ xã hội nào, Đông Phương cũng như Tây Phương.
Thế nhưng, về vấn đề đạo lý, thiết tưởng cần phải được làm
cho sáng tỏ vì nó có tính cách chủ quan. Bằng chứng rõ ràng
là Nếu tìm hiểu lịch sử và nếp sinh hoạt hàng ngày của mọi
thành phần trong xã hội Ca-tô, chúng ta sẽ thấy trong xã hội
này không có đạo lý, chỉ có những tín điều Ki-tô, giáo
luật và lời phán dạy của Giáo Hội La Mã mà tín đồ và nhân dân
dưới quyền bắt buộc phải tin tưởng và tuân thủ. Ai triệt để
tin tưởng và tuân thủ những thứ này, thì được gọi là ngoan
đạo và có khi được phong thánh, nếu không thì sẽ bị cho là tà đạo, vô đạo,
man di, mọi rợ. Phần trình bày dưới đây sẽ làm sáng tỏ vấn đề này.
A.- Nền đạo lý vị tha của các dân tộc Đông
Phương.
Nền đạo lý của các dân tộc Đông Phương
theo tam giáo đồng nguyên có những quy tắc thành văn hay
bất thành văn. Tất cả những quy tắc này đều có tính cách
vô tư, công bằng, có lợi chung cho tất cả mọi thành phần trong xã hội,
không có một
quy tắc nào nhằm để phục vụ cho riêng một giới người nào. Vì thế mà nền đạo
lý này là nền đạo lý vị tha.Đây là một sự thật
bất khả phủ bác và đã được thể hiện ra thành những nếp sống
văn hóa mà sách sử đều ghi rõ. Bất kỳ người dân nào có khả
năng sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật và sự việc đều có
thể kiểm nghiệm được vấn đề này.
1.- Phân biệt đạo lý khách quan và tôn giáo chủ quan:
Ngay từ thời thượng cổ, nền đạo lý vị tha của các dân
tộc Đông Phương đã khẳng định rằng những người hành nghề tôn giáo phải biết
rõ vai trò cũng như giới hạn của và giá trị của tôn giáo. Sách The Ageless
Chinese nói rõ như sau:
"Sự tách rời đạo lý ra khỏi tôn giáo không phải là
không có phúc lợi. Đây là một nét đặc thù của nền văn
hóa Trung Hoa. Người Trung Hoa cho rằng các tiêu chuẩn
đạo đức quan trọng hơn các tiêu chuẩn tôn giáo. Trong trường
hợp có sự xung đột giữa đạo lý và tôn giáo thì tiêu chuẩn
đạo lý phải luôn luôn chiếm phần ưu thế. Người Trung Hoa
quan niệm rằng các tiêu chuẩn đạo lý và tôn giáo không cần
thiết phải giống nhau, trái lại đôi khi còn trái ngược nhau...
Trong khi các tiêu chuẩn của một tôn giáo có vẻ kỳ dị đối
với một hay hay với nhiều tôn giáo khác thì các tiêu chuẩn
đạo lý lại có tính bao quát phổ thông và phải được áp dụng
cho tất cả mọi người. Không nên cưỡng bách những người khác
phải theo tôn giáo của mính. Làm như vậy (bắt người khác
phải theo tôn giáo của mình) là "ngoan đạo", có
tinh thần tôn giáo, nhưng chắc chắn là phi luân lý, phi
đạo đức. Những người cuồng tín về đạo giáo cương quyết chỉ
trích, lên án và hủy diệt tất cả những tôn giáo khác bằng
tất cả những phương tiện và biện pháp mà chúng có thể sử
dụng được. Đó là một sự suy đồi của xã hội và chúng không
đáng được đồng bào của chúng thương xót. Xã hội muốn tồn
tại thì các tiêu chuẩn đạo ly phải đứng lên trên tất cả
các tôn giáo và các tôn giáo phải tuân hành các tiêu chuẩn
đạo đức. Mộttiêu chuẩn đạo đức như vậy phải được
áp dụng để điều hành sự liên hệ giữa các tập thể (như
là các giáo phái) cũng như giữa những cá nhân trong một tập
thể. Khi đã tách rời đạo đức ra khỏi tôn giáo và coi đạo
đức có giá trị cao hơn tôn giáo, người Trung Hoa thoát khỏi
cảnh cuồng tín về đạo giáo, thoát khỏi cảnh ngược đãi và
khủng bố nhau vì lý do tôn giáo. Trong khi đó các tôn giáo
khác nhau vẫn sống bên nhau một cách hài hòa nếu so sánh
với nhiều quốc gia khác (ở Âu châu).”[1]
Qua các phần trình bày trên đây, chúng ta thấy
rằng nền đạo lý vị tha của các dân tộc Đông Phương coi đạo
lý là quan trọng hơn hết. Đạo đức đứng trên các hình thức chính quyền, bất
kể là chính quyền quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, quân
chủ lập hiến hay dân cử. Cuối cùng mới đến tôn giáo.
2.- Chính quyền có nhiệm vụ thay mặt đạo lý để kiểm soát
tôn giáo:
Điểm đặc biệt trong nền đạo lý vị tha của các
dân tộc Đông Phương là chính quyền được coi như là có trách
nhiệm thay mặt đạo lý để kiểm soát, quản lý và xử lý các
tôn giáo. Chính quyền ở xã hội Đông
Phương đã từng thẳng tay trừng trị những kẻ lưu manh tự phong
là thày cúng, mượn danh thần linh bịa đặt ra những điều huyễn
hoặc để mê hoặc, phỉnh gạt và lừa bịp người đời hầu thủ lợi. Vấn đề này đã được trình bày rõ ràng trong Phần
1, Mục 2 ở trên. Đây là truyền thống đã có từ thời thượng
cổ ở trong xã hội Đông Phương.
Ông Tây Môn Báo - ảnh minh họa
Chuyện quan Thái Thú Tây Môn Báo
đất Nghiệp Đô ở nước Ngụy (Trung Hoa) trong thời Tiền Tấn đã thẳng
tay trừng trị nghiêm khắc bọn thày cúng và đồng cốt ở ven sông Chương
Hà là bằng
hùng hồn nhất cho sự kiện chính quyền thay mặt cho đạo lý kiểm
soát và xử lý tôn giáo. Chuyện rằng bọn đồng cốt bịa đặt rằng
ông thần hà bá ở khúc sông này đòi mỗi năm phải cưới cho ông ta
một cô vợ trẻ đẹp. Bọn này cấu kết với cường hào ác bá địa
phương để cưỡng bách nhân dân trong vùng phải đóng tiền cho chúng lo
việc hôn nhân bố láo như vậy. Để biết rõ chi tiết về chuyên này, xin
độc giả tìm đọc Đông Chu Liệt Quốc – Quyển 3 do học giả Mộng Bình Sơn
chuyển dịch (Fort Smith, AR: Sống Mới, (không nói năm phát hành), tr.
972-974.
Việc trừng trị bọn đồng cốt này cũng chứng minh rõ ràng
là tôn giáo được coi như là ở hàng thấp nhất trong nếp sống
sinh họat văn hóa của các dân tộc Đông Phương.
B.- Quan niệm của Giáo Hội La
Mã về liên hệ giữa tôn giáo và chính quyền.
Vì khái niệm tôn giáo trong xã hội Ki-tô luôn luôn ở vị trí độc tôn, đặt
trên tất cả các sinh hoạt xã hội, vấn đề đạo đức theo nghĩa khách quan không
còn có chỗ đứng, và ngay cả vị trí của chính quyền cũng đặt dưới tôn giáo.
Đây là điều trái ngược với văn hóa truyền thống Á Đông.
1.- Xã hội Ki-tô: tôn giáo thay vì đạo lý.
Ki-tô giáo chỉ quan trọng tôn giáo chủ quan và không nhất thiết phải là đạo
lý khách quan. Nói cách khác, dường như vấn đề đạo lý không được nhắc đến
trong xã hội này. Để làm sáng tỏ vấn đề có hay không có đạo lý trong xã hội
Ki-tô hay trong Giáo Hội La Mã, trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu đạo
lý là
gì.
Theo Hán Việt Từ Điển của học giả Đào Duy Anh, “đạo lý là
cái nghĩa lý đương nhiên ai cũng công nhận”, và theo Việt
Nam Tự Điển của học giả Lê Văn Đức, “đạo lý là cái lý đương
nhiên phải vậy.”
Căn cứ vào các định nghĩa trên đây và căn cứ vào quy tắc đạo
lý mà mọi người phải tuân thủ để có thể sống hài hòa với nhau
là phải triệt để tuân theo quy tắc "kỷ
sở bất dục vật thi ư nhân" (hành xử sao
cho vừa mắt ta, ra mắt người),
phải thành thật và khiêm cung “tri chi
vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giã”(biết
thì thưa thốt, không biết thi dưa cột mà nghe), không
được gây thiệt hại hay làm tổn thương cho những người khác
về sinh mạng, tinh thần và vật chất. Có như vậy
thì mới hy vọng xã hội được an bình và ổn định.
Trái lại, qua kinh nghiệm
lịch sử như đã trình bày trong Phần 2B (Phương Cách Truyền Bá
Tư Tưởng) ở trên, Giáo
Hội La Mã luôn luôn sử dụng những thủ đoạn
bất chính, gian ác và bạo lực để thỏa mãn tham vọng của giáo
hội. Một vài sự kiện dưới đây được nhắc lại để thấy rõ ràng là trong Giáo
Hội La Mã không có khái niệm về đạo lý, không có công đạo, và cũng không
có công bằng theo nghĩa khách quan.
a.- Che giấu tội lỗi. Giáo hội dạy tín đồ rằng, “bổn
phận của tin đồ ngoan đạo là phải giấu kín những chuyện tội
lỗi dù có thật, không nên để cho người ngoại đạo được biết”[2] .
b.- Bất công và vô lương tâm. Việc nhà thờ xét xử đánh
đập nạn nhân mà không xét xử tội phạm trong quyển "Xóm Đạo"
của nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn là việc hết sức bất công và vô
lương tâm. Khi chuyện yêu đương của Thày Bốn Phán (sắp thành
linh mục) trên 25 tuổi và nữ tín đồ nai tơ tên Mai (mới 16
tuổi) yêu nhau tha thiết bị lộ ra cho người trong Xóm Đạo Tân
Hạ (Trại Định Cư Tân Ha) đều biết, thì Cha Xuân quản nhiệm
xóm đạo này và bộ tham mưu của ông ta quyết định lôi bé Mai
ra trừng phạt về tội du dỗ thày Bốn Phán, và thày Bốn Phán
được coi là vô sự và vô trách nhiệm.[3]
c.- Không tuân theo pháp luật. Chính Giáo Hoàng John
Paul II (1978-2005) và đương kim Giáo Hoàng Benedict XVI đã
ra lệnh cho các hồng y, tổng giám mục và giám mục cai quản
các giáo phận không được báo cáo cho cảnh sát hay chính quyền
thế tục biết những hành động tội ác hãm hiếp các trẻ em vị
thành niên và nữ tín đồ trong phạm vi quản nhiệm của họ. Vấn
đề này đã được nói rõ trong bản văn trích dẫn ở trong Phần
1, Mục B, Tiểu Muc 3 với tựa đề là “Biệt Đãi Giới Tu Sĩ…” ở
trên.
-- o0o ---
Vấn đề đặt ra là, không có đạo lý, không theo công đạo, thì
mọi người trong
Giáo Hội La Mã dựa vào
đâu để đối xử với nhau?
Câu trả lời là Ki-tô giáo cư xử với nhau theo (1)
những tín lý Ki-tô ghi trong kinh thánh, (2) những tín
lý do chính Giáo Hội La Mã bịa đặt ra, (3) những giáo luật,
và (4) những lời dạy phán dạy của giáo hội mà quan trọng
nhất lời phán dạy của đương kim giáo hoàng và của linh mục
đương nhiệm quản lý họ đạo của họ. Sư kiện này được Linh-mục
Trần Tam Tỉnh nói rõ như sau:
“Ngoại trừ các cụm nhà thành thị dân chúng sống lẫn lộn, người công giáo
thường được tập trung thành làm xóm riêng, tách rời khỏi người lương, sống
chen chúc quanh tháp nhà thờ xây theo kiểu Tây, chọc lên trời, cao vượt khỏi
lũy tre. Bị đóng khu và được đoàn ngũ hóa bởi hàng giáo sĩ, họ trở thành một
lực lượng quần chúng ghê sợ khi cha xứ kêu gọi họ đứng lên bảo vệ đức tín,
bảo vệ nhà thờ. Hệ thống ốc đảo đó tách biệt và cô lập phần lớn giáo dân
khởi liên hệ với đồng bào, từ khước, tẩy chay bất cứ điều gì không được giáo
hôi chính thức phê chuẩn, chẳng hạn sách Truyện Kiều, một kiệt tác thở
cổ của Việt Nam, hoặc tài liuệu cách mạng đều cho là ngược với đạo. Các sách
của Voltaire, Montesquieu, khỏi nói tới Các Mác (Karl Marx), vừa bị nhà nước
thuộc địa cấm, vừa bị giáo luật khai trừ…”[4]
“…. nơi một cộng đồng Ki-tô hữu đã từng bị giam nhốt trong sự ngu dốt,
và trong một kiểu đạo nói được là thời trung cổ. Trong cái ốc đảo khép kín
đó của giáo dân, những gì gọi là “Bí mật của Đức Mẹ Fatima đều được coi như
là tín điều bắt buộc, đang khi nó chỉ dựa vào mớ tuyên truyền nhảm nhí. Nếu
những năm 1949-1953, các linh mục đã thề biến giáo dân hiền lành vô tội
thành những tên sát nhân cuồng nhiệt, nhờ khẩu hiệu “tiêu diệt Cộng Sản
để làm vinh danh Chúa”, thì họ chẳng khó khăn gì trong việc tạo ra cuộc xuất
hành vĩ đãi vào 1954-1955.” [5]
Các nhà sử học đều cho rằng tất cả những tín lý Ki-tô ghi trong
kinh thánh hay do giáo hội bịa đặt ra cũng như các giáo luật
và những lời phán dạy của giáo hội không những chủ
quan và trịch thương giống như huấn lệnh chính trị và quân
sự của một chính quyền đế quốc thực dân xâm lược, mà còn nặng
tính cách mê hoặc, phỉnh gạt, lừa bịp, phản khoa học, phản
nhân luân, phản quốc, bất nhân, gian tham, tàn độc, vị kỷ,
v.v… Vấn đề này sẽ được nói rõ trong Phần 4, Mục B ở sau. Tất
cả các thứ này cho chúng ta thấy rằng Giáo Hội La Mã hay đạo
Ki-tô hoàn toàn không
có đạo lý mà chỉ có
tín điều và lời phán dạy vị kỷ của giáo hội mà thôi.
2.- Vị thế của tôn giáo đối với chính
quyền trong xã hội Ki-tô giáo.
Trong xã hội Ki-tô
giáo, tôn giáo được đưa lên hàng vị thế cao nhất, đứng trên
chính quyền và chỉ đạo chính quyền. Tôn giáo này luôn tìm
cách tạo nên chính quyền để điều khiển sao cho bộ máy chính quyền
phải phục vụ tôn giáo của họ. Thực
trạng này được các nhà sử học và chính trị học gọi là “tôn
giáo chỉ đạo chính quyền” hay “thần quyền chỉ đạo
thế quyền.” Thực trạng này cũng được nhà văn Ca-tô Nguyễn
Ngọc Ngạn ghi lại bằng một câu vè “Nhất Chúa, nhì Cha, thứ
ba Ngô Tổng Thống”. Câu vè này quả thật đã nói lên cái
thứ bậc trên dưới về tôn giáo và chính quyền ở trong các
xóm đạo hay trong xã hội Ki-tô và ở bất kỳ nơi nào mà quyền
lực của Vatican vươn tới như ở miền Nam Việt Nam trong những
năm 1954-1975.
IV. - Quan Niệm Khác Nhau Về Nghĩa Vụ
Của Cá Nhân Đối
Với Gia Đình, Xã hội Và Chính Quyền
Như đã trình bày ở trên, trong xã hội cổ truyền Đông Phương, con
người được coi như là đối tượng để phục vụ mà ta gọi là phục nhân
sinh. Trái lại, trong Giáo Hội La Mã hay đạo Ki-tô, con người cũng
như tất cả mọi tổ chức và hoạt động trong xã hội đều được coi như
là những công cụ phục vụ cho tôn giáo mà họ gọi là “phục vụ Chúa”,
thực ra là phục vụ Giáo Hội La Mã hay Vatican. Những cụm từ mà
Giáo Hội La Mã thường sử dụng như “phụng sự Chúa”,
“làm việc tông đồ”, “con chỉên”, “chủ chăn”,
“tôi tớ hèn mọn của Giáo Hội”, “con cái Chúa”,
“con cái của giáo hội”, v.v…, là những bằng chứng nói
lên sự kiện này.
Vì khác nhau như vậy, cho nên quan niệm về nghĩa vụ của một cá
nhân đối với gia đình, với bạn bè, xóm làng và với chính quyền của
người dân trong xã hội Đông Phương hoàn
toàn khác hẳn với xã hội Ca-tô Rôma giáo.
A.- Nghĩa vụ của cá nhân đối với xã hội và chính
quyền trong xã hội cổ truyên ở Đông Phương.
Như đã
nói ở trên, nền đạo lý vị tha của các dân tộc Đông Phương là một
nền đạo lý vị nhân sinh, con người được coi như là đối tượng để
phục vụ, cho nên, trong xã hội này, mọi người đều phải có nghĩa
vụ hỗ tương đối với nhau tùy theo vị thế của mình. Trong xã hội này,
không có một lớp người hay giai cấp nào được tôn vinh như thần thánh,
như chủ chăn, đươc ưu đãi đặc biệt, và cũng không có một
lớp người nào được coi là nô lệ hay “tôi tớ hèn mọn”, hoặc là bị
gọi là con chiên, con cừu. Tất cà
đều là con người, và tất cả đều được đối xử theo tiêu chuẩn
giữa con người đối với con người và đều cớ nghĩa vụ hỗ tương
đối với nhau. Sự kiện này được sử gia Dun J. Li ghi nhận
như sau:
“Xã hội là một tập thể nhiều người thuộc nhiều
thành phần và địa vị khác nhau và mỗi người có một trách nhiệm
riêng biệt. Tuy nhiên, chính quyền không có nghĩa là một chế
độ độc tài chuyên chế. Theo Khổng Tử thì mỗi chức vụ của một
người có kèm theo một nghĩa vụ. Không làm tròn cái nghĩa vụ
được giao phó cho mình thì ý nghĩa của cái chức vụ của mình
sẽ không còn nữa. Như vậy, một ông vua sẽ không thể gọi là
vua được nếu không làm tròn cái nghĩa vụ đã giao phó cho ông
ta. Nếu ông ta dùng quyền hành để theo đuổi những mục đích
ích kỷ thay vì chăm lo phúc lợi cho muôn dân thì ông ta chỉ
còn mang cái tên ông vua thôi, chứ thực sự ông ta không còn
là vua nữa. Nhà lãnh đạo nắm quyền cai trị cũng như người
dân bị trị đều có nghĩa vụ thiên định. Người cầm quyền cai
trị muôn dân phải nêu gương tốt cho muôn dân noi theo. Chỉ
khi nào người cầm quyền là người hiền đức thì mới hy vọng
được muôn dân trung thành và tuân phục. Cái nguyên tắc này
cũng được áp dụng trong mối liên hệ tương quan giữa những
người trong cùng một gia đình. Dầu rằng người chồng có quyền
thế hơn người vợ, cha mẹ có quyền hơn con cái, anh có quyền
hơn em, nhưng cũng phải có những nghĩa vụ hỗ tương đối với
nhau: người trên phải thương yêu và che chở cho kẻ dưới, và
bổn phận của kẻ dưới thì phải trung thành và tuân phục người
trên. Bằng cách nào đi nữa thì sự kính trọng và tùng phục
của kẻ dưới đối với người trên cũng không phải là tự động.
Khổng Tử đã nói rằng chỉ khi nào nhà vua biết dùng lễ đối
với quần thần và muôn dân thì mới hy vọng họ đem lòng trung
đáp lại. Tương tự như vậy, một người cha tàn ác và bất nhân
đối với con cái là tự làm mất đi cái quyền đòi hỏi con cái
phải có lòng hiếu thảo đối với mình. Mối tương quan đúng
nghĩa và chính đáng là phải áp đặt nghĩa vụ cho cả kẻ trên
và người dưới; kẻ nào không sẵn lòng hay không có thiện ý
hy sinh làm tròn nghĩa vụ của mình thì không có quyền đòi hỏi
người khác phải làm đầy đủ nghĩa vụ của họ đối với mình . " [6]
Bản văn sử trên đây cho chúng ta thấy rõ trong nền đạo lý
Đông Phương, có một quy ước minh thị rõ ràng về bổn phận hay
trách nhiệm hỗ tương giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân
với mọi người trong gia đfinh và giữa cá nhân với chính quyền
hay nhà lãnh đạo chính quyền. Bản quy ước này nói rõ người
nào ở cương vị nào thì có bổn phận của mình ở cương vị đó đối
với mọi người khác trong gia đình cũng như trong cộng đồng
dân tộc. Những quy ước này được đưa vào chương trình học để
rèn luyện thanh thiếu niên và phổ biến sâu rộng cho mọi người
thấu hiểu. Vấn đề này được sách Lễ Ký nói rõ ràng và được sách
Khổng Học Tinh Hoa ghi lại với nguyên văn như sau:
“Khi nói rằng Thánh-nhân có thể làm cho thiên hạ hợp thành
một nhà, Trung Quốc trở thành như một người, không phải nói
là Thánh-nhân có thể thực hiện được nguyên bằng ý chí. Muốn
đạt được mục phiêu ấy, cần biết rõ nhân tình. Giảng dạy
cho họ biết bổn phận và giải thích cho họ biết thế nào là
lợi hại.
Nhân tình là gì? Nhân tình là hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục
(vui, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, muốn). Bảy tình đó chẳng
cần học cũng vẫn có.
Thế nào là bổn phận làm người? Bổn phận làm người có mười
điều là “Cha phải hiền, con phải thảo, anh phải tốt, em phải
ngoan, chồng phải biết điều, vợ phải biết nghe, người trên
phải rộng rãi, người dưới phải kính thuận, vua phải nhân,
tôi phải trung (Phụ từ, tử hiếu, huynh lương, đệ đễ, phu
nghĩa, phụ thính, trưởng huệ, ấu thuận, quân nhân, thần trung,
thập giả vị chi nhân nghĩa). Cố gắng tu nhân tích đức,
gây niềm hòa hiếu, đó là cái lợi cho con người. Tranh
đoạt tàn sát lẫn nhau, đó là cái hại cho con người. Phương
pháp bình trị con người của Thánh-nhân tức là dạy dỗ mười
bổn phận làm người, dạy họ tu đức lập thân, gây niềm hòa
hiếu, tránh mọi sự tranh đoạt.” [7]
Cũng vì thế mà nhân dân các quốc gia theo nền đạo lý vị tha
của các dân tộc Đông Phương đều hiểu rằng họ có quyền truất
bỏ hay khử diệt những người ở vào cương vị lãnh đạo quốc gia
hay phụ mẫu chi dân Nếu những người này không làm tròn bổn
phận của họ đối với quốc dân.Vấn đề này đã được nói
rõ ở trên (Phần 2 ”Sự Khác Nhau Về Phương Cách Truyền Bá Tư
Tưởng, Muc A, Tiểu Mục 5 ở trên.)
B.- Nghĩa vụ của một cá nhân đối với gia đình, bạn
bè, xóm làng và chính quyền trong xã hội Ki-tô Giáo.-
Như
đã trình bày trong Phần 3, Mục B, Tiểu Mục 1 ở trên, trong
xã hội Ki-tô giáo, không có những
quy tắc đạo lý vị tha để theo đó mà đối xử với nhau. Trái
lại, họ chỉ theo tín lý Kitô, giáo luật, và theo lời
phán dạy của các vị chức sắc các cấp trong Giáo Hội,
đặc biệt là những lời phán dạy của đương kim giáo hoàng và
của vị linh-mục đương nhiệm quản lý họ đạo tại đia phương mà
họ đang sống. Đáng buồn là những thứ này đều nặng tích cách
hoang tưởng, và ích kỷ. Nói cho rõ hơn là tín hữu Ca-tô
không đặt nặng nghĩa vụ (1) đối với những người thân thương
ruột thịt trong gia đình, (2) đối với bạn bè và xóm làng, và
(3) đối với dân tộc và tổ quốc. Tất cả phải nhường bước cho
nghĩa vụ đối với Giáo Hội La Mã .
Theo các học giả chuyên về giáo dục, tâm lý học và xã hội
học, KHI MÀ người ta đã mất hết (hay không có) tình cảm (1)
đối với những người thân thương ruột thịt trong gia đình, (2)
đối với bạn bè và xóm làng, và (3) đối với tổ quốc và dân tộc,
THÌ HỌ SẼ trở thành hạng người vô văn hoá, mất hết nhân tính
và chỉ còn biết hành xử theo thú tính hay theo luật rừng mà
thôi. Như vậy là con người trong xã hội Ca-tô được rèn luyện
thành hạng người vô gia đình (phản nhân luân), vô tổ quốc (vong
bản, phản quốc), ích kỷ (lấn lướt, vơ vào), gian tham, tàn
ngược, xảo trá và dã man, còn tệ hơn cả loài súc sinh. Đây
là sự thật bất khả phủ bác mà mọi người đều có thể kiểm chứng
được bằng chính những lời văn
1.- Trong các sách trong Cựu Ước và Tân Ước như Deteronomy
(19:21), Exodus (21: 23-25), Dân Số (25:3-5,31:1-54), Leviticus
24:19-20, 26: 1-43), Phục Luật (6:14, 7:1, 2 và 16, 12: 2-3,
13:6-9. 18: 4 và 20, 20:14-16, 22: 13-21 và 23), Xuất Hành
(13:12, 20 11, 22: 20), Matthew (10: 34-36) hayLuke (19:27.
2), v.v… Thí dụ như trong Matthew (10: 34-36), quý vị
sẽ thấy, Chúa Ki-tô Jesus phán dạy rằng rằng:
“Đừng nghĩ rằng ta xuống trần để mang lại hòa bình trên trái đất. Ta không
xuống đây để mang lại hòa bình mà là gươm giáo. Vì ta xuống đây để làm cho
con trai chống đối cha, con gái chống đối mẹ, và con dâu chống đối mẹ chồng.
Và những kẻ thù của một người thì ở ngay trong nhà hắn.”
2.- Tìm đọc những lời dạy phản nhân luân và hành động dã man
của Giáo Hội La Mã: Dưới đây là một số trong khu rừng lời dạy
và hành động phản nhân luân, tham tàn và man rợ này:
a.- “Nếu bố tôi là dị giáo đồ, tôi cũng sẽ chụm củi thiêu
sống ông ta luôn..” lời tuyến bố của Giáo Hoàng Paul IV
(1555-1559).[8]
b.- “Phải tuyệt đối tin tưởng vào các tín lý Ki-tô”, “Phải
tuyên đối tuân hành những lời dạy của các đấng bề trên.”
c.- “Người Công Giáo Việt Nam đừng thừa nhận quyền lực
Nhà Vua và luật pháp nước họ. Họ nói với các “con chiên”:
Đức Giáo Hoàng ở La Mã (Rome) mới là vị vua tối cao duy
nhất của họ, họ chỉ tuân phục quyền lực Tòa Thánh Vatican.” [9]
d.- “Giữ đạo, chứ không giữ nước.” và “Thà mất nước,
chứ không thà mất Chúa.” Đây là lời của Linh-mục Hoàng
Quỳnh hô hào giáo dân trong cuộc biểu tình do chính ông cùng
với Linh-mục Mai Ngọc Khuê và nhà trí thức Ca-tô Nguyễn Gia
Hiến tổ chức vào ngày 27/8/1964 tại cổng chính Bộ Tổng Tham
Mưu, Đường Võ Tánh, Gia Định để làm áp lực đòi hội đồng tướng
lãnh phải phục hồi quyền lực cho các phẩn tử trong Đảng Cần
Lao của chế độ Ngô Đình Diệm.[10]
e.-”Giáo Hội La Mã đã được Thiên Chúa ban truyền toàn
bộ sự thật cần thiết cho sự cứu rỗi và chỉ giáo Hội mới
có quyền giải thích hoặc khai triển sự thật đó. Tất cả những
gì ở ngòai sự thật nói trên hoặc trái với lời giải thích
chính thức của Giáo Hội. chỉ có thể là sai lầm. Mà Giáo có
quyền và có bổn phận tiêu diêt sự sai lầm để bảo vệ
sự thật hầu hoàn thành sứ mạng cứu rỗi của Giáo Hội. Lẽ dĩ
nhiên, Giáo Hội chỉ tiêu diệt sự sai làm còn chính con người
sai lầm thì vẫn được kính trọng (de homme foi), và những
“võ khí” mà Giáo Hội dùng để tiêu diệt sự sai lầm đều là
những “võ khí tinh thần” như Thánh Phao Lồ đã viết.”
f.- Sắc Chỉ Romanus Pontifex bàn hành vào ngày 8/1/1454 trong
thời Giáo Hoàng Nicholas V (1447-1455) với nội dung:
"...., quyền lợi của Bồ Đào Nha đã được phân định
rõ ràng trong sắc chỉ "Romanus Pontifex" do Đức
(Giáo Hoàng) Nicholas V (1447-1455) ra ngày 8 tháng Giêng
năm 1454. Theo quyền lực Chúa ban và quyền lực của Tòa Thánh,
Đức Giáo Hoàng ban cho triều đình Lisbon (Bồ Đào Nha) "toàn
quyền tự do xâm lăng, chinh phục, chiến đấu, đánh giặc và
khuất phục tất cả các quân Sarrasins (tức người Ả Rập), các
dân ngoại đạo và các kẻ thù khác của Giáo Hội, gặp bất cứ
nơi nào: được toàn quyền chiếm cứ tất cả các vương quốc,
lãnh địa, vương hầu, đất đô hộ và tài sản của chúng; toàn
quyền chiếm đoạt tất cả của nổi và của chìm của chúng và
bắt tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn."[12]
g.-“Lịch sử cho thấy rằng, từ khi Giáo Hội trở thành “Quốc
Giáo” dưới triều đại Hoàng Đế Constantine và nắm được những
thế lực lớn lao thì “cây gươm tinh thần” của Thánh Phao Lồ
đã luôn cám dỗ được biến thành cây gươm thép thật sự.
Kể từ dạo ấy, mỗi khi hoàn cảnh cho phép, Giáo Hội
đã không ngần ngại dùng thế lực để tiêu diệt những tôn giáo
khác, đập phá các đền thờ “tà thần”, đốt sách vở ngoại đạo
và đốt luôn bọn người bị xem là “lạc đạo” nếu không
chịu sửa sai.”[13]
h.- Giám-mục Emmanuel Milingo 71 tuổi, nguyên gốc
là người nước Zambia (Châu Phi). Ngày 27/5/2001, ông giám mục
này đã thành hôn với bà Maria Sung 43 tuổi, một y sĩ người
Nam Hàn. Họ đã thành vợ chồng có hôn phối và đã làm phép cưới
tại một nhà thờ Thiên Chúa Giáo (thuộc hệ phái khác) tại New
York do tu sĩ Sun Myung Moon làm chủ lễ. Khi được tin này,
Tòa Thánh Vatican cho người tiếp xúc với Giám-mục Milingo và
đòi ông phải đến gặp giáo hoàng vào ngày Thứ Ba trong tuần
đầu tháng 8/2001. Khi đến gặp Giáo Hoàng John Paul II, Giám
Mục Milingo bị cưỡng bách phải bỏ rơi bà vợ yêu quý của ông
trước ngày 20/8/2001, nếu không thì sẽ bị rút phép thông công.
Sự kiện này được tờ The News Tribune (Tacoma) loan tin như
sau:
"Tòa Thánh Vatican đe dọa sẽ phạt vạ tuyệt thông ông
Milingo nếu ông không bỏ rơi người vợ cúa ông vào ngày 20/8;
ra lệnh cho ông phải cắt đứt mối liện hệ với giáo phái của
mục sư Moon, phải công khai hứa sống đời độc thân, "phải
biểu lộ lòng tuân phục đối với Giáo Hòang" (“Vatican
had threatened to excommunicate Milingo if he didn’t leave
his wife by August 20, sever his ties with Moon’s movement,
publicly promise to remain celibate and “manifest his obedience
to the Supreme Pontiff." ) Nicole Winfield “Archishop’s
wife pleads with Vatican.” The News Tribune [Tacoma,
WA]. August 12, 2001: A5.
3.- Tìm đọc những tài liệu lịch sử nói về những hành động
phản quốc, tham tàn và dã man của tín hữu Ca-tô và quân lính
thập tự::
a.- Những hành động phản quốc của tín đồ Ca-tô người Pháp
và những năm tiếp theo Cách Mạng Pháp 1789 được sách Cách Mạng
Và Hành Động ghi lại như sau:
“Sau cuộc lẩn trốn của nhà vua tới Varennes, các nước Âu
Châu lại sôi nổi. Lần này, Louis XVI cam tâm chấp nhận những
điều kiện can thiệp của các nước Âu Châu. Do đó nước Áo và
Phổ bắt đầu động binh tới biên giới Pháp - Ở trong nước,
nhiều địa phương trung thành với Giáo Hội và nhà vua, cũng
bắt đầu nổi loạn. Nhất là miền Bretagne, Normandie, Vendée
vốn là những miền sùng đạo, cũng võ tráng bênh vực các tu
sĩ không chịu tuyên thệ với cách mạng. – Tình trạng Pháp
quốc lúc đó thực hết sức lung lay.”[14]
b.- Những hành động phản quốc của tín
đồ Ca-tô người Việt trong suốt chiều dài từ cuối thế kỷ 18
cho đến ngày nay. Tiêu biểu là những trường hợp sau.
b1.- Ông Da-tô Petrus Trương Vĩnh Ký viết thư thỉnh cầu
vị chỉ huy đạo quân thập ác của nước Pháp còn nằm ở ngoài khơi
Việt Nam gấp rút tiến đánh Việt Nam. Lá thư này được ghi lại
trong sách Các Vua Cuối Nhà Nguyễn 1883-1945 -Tập 1 với nguyên
văn như sau:
"Tháng 3/1859, Petrus Key viết "Grand
Chef et Vous Tous, très honorables officers de la flotte
francaise": Ayez pitié de nous; Ayez pitié de nous.
Vous êtes nos libérateurs et la main des ennemis nous a touchés! Hala!
The wearer knows very well where the shoe pincheth. Nous
savons aussi que qui trop embrasse mal étreint; Et cependant
nos souffrances nous poussent à invoquer votre puissance
et à vous exposer du fond du coeur tout ce que je vient de
soumettre à votre prudence et à votre sagesse."[15] .
b2.- Những hành động này được giả Ca-tô Charlie Nguyễn ghi
nhận trong Tiểu Mục có tựa đề là “Truyền Thống Phản Quốc
Của Công Giáo Việt Nam” (Mục: Vai Trò Chính Quyền Trong
Mối Tương Quang Công Giáo – Dân Tộc) trong sách Thực Chất
Đạo Công Giáo Và Các Đạo Chúa, trong đó có mấy đoạn với nguyên
văn như sau::
“Truyền thống phản quốc của Công Giáo Việt Nam bắt đầu
từ những ngày đầu tiên có người theo đạo này trên đất nước
ta. Những kẻ đầu tiên nhập đạo chính là những kẻ đã đặt Tổ
Quốc ở phía sau lưng chỉ còn biết tôn thờ Thiên Chúa và Giáo
Hội La Mã ở phương trời xa. Họ không còn công nhận đất nước
Việt Nam là quê hương vì quê hương thật của họ là Nước Chúa
ở trên trời. Đồng bào ruột thịt của họ bỗng trở nên xa lạ
vì dưới con mắt họ, những người bên lương chỉ là những “con
cái của bụt thần ma quỉ” hoặc chỉ là bọn “tà ma ngoại đạo”.
Đất nước Việt Nam biến thành “nơi chim muông cầm thú đáng
khinh dể”, còn quê hương thật là nơi họ có thể được “hơp
làm một cùng vua Đa-vít” (Kinh Nhựt Khóa của Tổng Giáo Phận
Sàigòn, trang 330). Với bản chất phi dân tộc, người Công
Giáo không bao giờ muốn hy sinh cho đất nước Việt Nam. Nhưng
họ sẵn sàng “tử vì đạo” chỉ vì họ muốn có cơ hội thực hiện
lời Thánh Kinh (Matthiew 10: 32): “Ai tuyên xưng danh Ta
- Jesus - trước mặt thế gian thì Ta sẽ tuyên xưng danh nó
trước mặt Cha Ta ở trên Trời”.
Những kẻ tử đạo chính là những kẻ đặt Tổ Quốc ở phía sau
rất xa với những lời hứa vĩnh cửu hão huyền của giáo lý Công
Giáo.
Cùng với bản chất phi dân tộc, người Công Giáo đã coi những
ngoại nhân mũi lõ mắt xanh đồng đạo như những người thân
đáng tin cậy. Trái lại, họ xem đồng bào ngoại đạo như những
kẻ thù. Bọn thực dân đế quốc xâm lược hiểu rõ những đặc tính
này của người Công Giáo nên bọn chúng đã khai thác triệt
để khối nhân lực Công Giáo để phục vụ cho mục tiêu bình định
và thống trị của chúng. Chúng ta có thể kể đến một số vụ
điển hình:
b3.-Trong cuộc binh biến của Lê Văn Khôi ở Gia Định vào
những năm 1833-1835, có rất nhiều linh mục và giáo dân Công
Giáo tham gia.
b4.- Năm 1859, Phao-lồ Hạnh - thuộc đám tàn quân của Lê
Văn Khôi, đã dẫn Pháp đánh chiếm đồn Cây Mai.
b5.-Năm 1837 nhiều giáo sĩ thừa sai lãnh đạo giáo dân
nổi lên chống lại triều đình ở Hải Dương, Sơn Tây, Nam Định
và Hưng Yên (Tâm Thư Đỗ Mậu, trang 98-99).
b6.-Cuối thế kỷ 19, Linh-mục Trần Lục tiếp trợ cho Pháp
bình định các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Sau khi
được Giám-mục Puginier ban phép lành, Trần Lục dẫn 5 ngàn
giáo dân giúp Pháp tấn công căn cứ Ba Đình của nhà yêu nước
Đinh Công Tráng. Do vậy mà căn cứ Ba Đình thất thủ (Thập
Giá và Lưỡi Gươm của LM Trần Tam Tỉnh, tr 45-46)
Ngoài ra, Trần Lục còn tuyển mộ cho Francis Garnier từ
12 ngàn đến 14 ngàn lính đánh thuê trong cuộc Pháp đánh chiếm
Bắc Kỳ vào năm 1873 mà đại đa số là dân Công Giáo. (Các Vua
Cuối Triều Nguyễn I, Vũ Ngự Chiêu, tr 225-226)...” [16]
4.- Một số tài liệu khác cũng nói lên những
sự tân tình của giáo dân địa phương giúp sức cho lực lượng xâm lăng
như sau:
a.- Phúc trình của Đô đốc thực dân Pháp Page:
“Không có giáo dân Việt Nam thì nước
Pháp như con cua không có càng”, 1859 (Sau khi đức
cha Trần Lục dẫn 5000 giáo dân Việt Nam giúp quân thực dân
Pháp đánh chiếm chiến lũy Ba Đình của anh hùng Đinh Công Tráng),
Đạo Thiên Chúa và Chủ nghĩa Thực dân tại Việt Nam, Cao
Huy Thuần..
b.- “Đức cha Nguyễn Bá Tòng đọc
bài diễn văn tỏ lòng cám ơn chính phủ (Pháp), tỏ lòng
trung thành con dân Việt-Nam đối với Mẫu Quốc.” Trong Autour
des Fêtes du 3 Décembre 1940 à Phát Diệm (trang 33 đến 41) - Trích
lại từ “Hội hè Đình đám”, Toan Ánh, 1969, Sài
Gòn
c.-Đức cha Phêrô Máctino Ngô
Đình Thục: “Chúng con hết lòng thành kính hiến
dâng Giáo Hội và tổ quốc Việt Nam cho Đức
Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” - Diển văn tại Tiểu Vương
cung Thánh đường La Vang, Quảng Trị, 1960. Một Phật tử,
nhận xét sự kiện này trên một số diễn đàn vào tháng 10/2011
như sau: "Hơn 90% người Việt không theo
đạo Chúa có cho phép ông Ngô Đình Thục, dù là anh của
tổng thống Diệm, dâng
Tổ quốc của mình cho một người đàn bà Do Thái xa
lạ không ? Việt Nam trở thành toàn tòng Công giáo lúc
nào mà ông muốn dâng tổ quốc cho ai thì dâng ?"
d.- Bà Trần Lệ Xuân, đạo theo,
vợ của Cố vấn Ngô Đình Nhu, nói về vụ tự thiêu
của Hoà thương Thích Quảng Đức: “Hãy để chúng cháy
tiêu và chúng ta sẽ vỗ tay” (Let them burn and we’ll
clap our hands – Our Vietnam the War 1954-1975, Langguth
A.J., 2000, trang 216), và đó chỉ là “món đồ nướng”
(Barbecue) mà “ nếu Phật tử có
thiếu xăng và hộp quẹt thì
tôi sẽ cho" (New York Times,
25-8-1963, trang E1).
e.-Linh mục Tổng Chỉ huy Tự vệ Giáo
khu Phát Diệm Hoàng Quỳnh: “Thà mất Nước,
không thà mất Chúa”, Nhật báo Hòa Bình, tường thuật lại
lời tuyên bố trong cuộc biểu tình của giáo dân tại cổng Bộ
Tổng Tham mưu, Sài Gòn 1964.
f.- Trí thức Công giáo chủ trương
“Liên tôn” để chống Cọng Chu Tất Tiến: vu
khống rằng “Phật giáo Việt Nam giết hại hơn 100 nghìn người
cùng máu đỏ da vàng chỉ vì họ theo đạo Ca Tô”, “Đòn khiêu
khích tôn giáo của bọn tay sai Cộng sản”, phổ biến trên
các diễn đàn Internet, California, 12/2010.
g.- Trí thức Công giáo Vũ Linh Châu muốn
chạy tội tay sai theo giặc của Công giáo VN nên đề nghị Phật
tử cũng nên cảm ơn Thực dân Pháp: “Như vậy, phải chăng việc
Nguyễn Ánh giao Hoàng Tử Cảnh cho Giám Mục Bá Đa Lộc để cầu
viện nước Pháp là một sự lựa chọn …sáng suốt. Một hành
động sinh tử đối với Đạo Phật tại nước ta. Nếu Nguyễn
Ánh, thay vì móc nối với Bá Đa Lộc, lại giao Hoàng Tử Cảnh
cho một giáo sĩ …Tây Ban Nha, thì Việt Nam đã trở thành thuộc
địa của Tây Ban Nha và dân Việt Nam cũng đã toàn tòng 100%
Công giáo giống như Philippines và các quốc gia tại Trung
và Nam Mỹ châu rồi. Như vậy, phải chăng các tín đồ Phật
Giáo Việt Nam cũng nên nói lời cám ơn Lịch Sử và cám ơn
thực dân Pháp? Phải chăng Phật Giáo Việt Nam cũng
nên cám ơn Vua Gia Long, cám ơn Hoàng Tử cảnh và cám ơn
cả Giám Mục Bá Đa Lộc nữa.” (Diễn đàn Internet -
Quốc hận 2011).
Đây là loại ngụy biện đểu cáng. Chỉ có đầu óc nô lệ kiểu “con chiên con cừu”,
kiểu “tôi tớ hèn mọn” khấu đầu trước Cha Cố thực dân đang cướp nước
mình để cảm ơn, mới có lý luận phản quốc như thế!” [17]
(Để trả lời luận điệu thiếu văn hoa trên đây của chiên Vũ
Linh Châu, ngày 29/10/2011, ông Hoàng Thúc An hoangthucan@gmail.com viết:
“Các tôn giáo Phật - Lão - Khổng,
v.v... không có
liên quan gì đến việc cấm đạo Bạch quỷ (Kato) của các triều
đại Vua - Chúa (vua Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn) mà đó là
thi hành trách nhiệm bảo vệ phong hóa nước nhà của các
sĩ phu trí thức yêu nước thời bấy giờ, và trên hết là bảo
vệ quyền uy chính trị của các triều đại ấy trước những giáo
điều cuồng tín chà đạp thuần phong mỹ tục, văn hóa và thách
thức vai trò cầm quyền của các vị "thiên tử".Lấy việc
tự vệ của một dân tộc so sánh với việc áp đặt một tôn giáo
hiếu chiến lên chính trị, văn hóa, xã hội của một dân tộc
có hơn 4 ngàn năm văn hiến là lý luận của những tư duy phản
quốc (Việt gian), nối giáo cho giặc, hiến dâng tổ quốc
cho ngoại nhân. Người đã từng công khai cảm ơn thực dân Pháp
cùng các Cố Đạo cướp nước. Và "khuyên" Phật tử
phải biết ơn giặc Pháp chỉ vì chúng đã thất bại trong việc
cải đạo trước sức đề kháng của nền văn hóa 4 ngàn năm trong
âm mưu tiêu diệt văn hóa dân ta giống như họ đã
làm với dân Philippines, đến nổi đa phần dân tộc ấy bây giờ
không còn được mấy ai biết đến nguồn cội của họ nữa. - hta..”[18]
Để biết rõ hơn nữa về những hành động trời không dung đất
không ta của người tín hữu Ki-tô Việt Nam, xin đọc các từ trang
113 đến trang 188, và sách Thập Giá Lưỡi Gươm (Paris: Nhà Xuất
Bản Trẻ, 1978) của Linh Mục Trần Tam Tỉnh. Cả hai tác giả Charlie
Nguyễn và Linh-mục Trần Tam Tỉnh đều là các nhà trí thức Ca-tô
đã phản tỉnh.
Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ ràng là tín đồ
Ca-tô hoàn toàn không có bổn phận hay trách nhiêm đối với bất
kỳ cá nhân nào trong gia đình và xã hội cũng như đối với dân
tộc và tổ quốc, ngoại trừ bổn phận hay trách nhiệm đối với
Giáo Hội La Mã. Xin độc giả cho biết, những con người như vậy
là hạng người có đạo lý hay không? Phải sử dụng những ngôn
từ như thế nào mới nói lên đúng với cái thực chất của hạng
người này?
[1] Dun J.
Li, The Essence of Chinese Civilization (New York:
Van Nostran Reinhold Co., 1967), p. 70-71. Nguyên
văn:"The separation of ethics from religion,
a unique feature of the Chinese culture system, was not
without its blessing. In the Chinese mind, ethical standards
were more important than religious standards, and in case
of conflict between them, the former should always prevail.
As the Chinese looked at it, these two standards were not
necessarily the same and were sometimes contradictory...
While religious standards were pecular to a certain religion
or religions, ethical stansards were universal and should
be applied to all men. One should not impose his own religious
standards upon others who did not belong to his religion.
To do so might be regarded as religious from his point
of view; certainly it was not ethical. A religious fanatic
bent on the condemnation and destruction of all other
religions by whatever means he possessed was a social
degenerate, deserving no mercy from his fellow men. Above
religious beliefs was an ethical standards which all religions
must abide by if society were to survive. Such a standard
governed the relations between groups of individuals (such
as religious sects) as well as individuals themselves.
As ethics was separated from religion and was regarded
as superior to religion, the Chinese were remarkably free
from religious bigotry, and persecution on religious grounds,
while not absent altogether, was noticeably mild compared
with that of many other countries.”
[2] Nguyễn
Ngọc Ngạn, Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật Bản: Tân Văn,
2003), tr. 320.
[6] Dun J.
Li, The Ageless Chinese - A History (New York: Charles
Scribner’s Sons, 1978), tr 75-76. Nguyên văn: ”Society
was composed of a variety of individuals and each individual
had a special function to perform. However, authority did
not and should not imply despotism. With each name, according
to Confucius, there was a reality; without reality a name
would be deprived of its meanings. Thus a prince (name)
could not be rightly called a prince if he did not perform
the functions (reality) assigned to him. If, for instance,
he used his authority for selfish purposes instead of the
welfare of his subjects, he was a prince in name only,
but not a real prince. There was a heavenly imposed duty
on the ruler as well as on the ruled. A ruler should set
an example to his subjects. Only when the ruler was wise
and virtuous could the people be expected to be loyal and
obedient. The same principle was also applied to the household.
Though the husband was superior to his wife, parents superior
to children, and elder brothers superior to the young
ones, there were mutual obligations governing each other:
love and protection on the part of the superiors and loyalty
and obedience on the part of the inferiors. The respect
and obedience a superior received was not automatic by
any means. Only when a king treated his ministers with
li (propriety), said Confucius, could the ministers reciprocate
it with chung (loyalty). By the same token, a cruel,
unloving father forfeited all rights of demanding filial
piety from his son. A correct relationship imposed obligations
on both sides; those who were not willing to give should
receive either."
[7] Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ, Khổng Học Tinh Hoa. (Saigon: TXB,
1966), tr. 254-255.
[8] Phan Đình
Diệm, “Kiến Nghị 6.” Ngày 15/6/1999. Tanvien@kitohoc.com.
[9] Nguyễn
Xuân Thọ, Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Thuộc Địa Pháp
ở Việt Nam 1858–1897 (Saint Raphael, Pháp: TXB, 1995),
tr.17.
[10] Chu
Văn Trinh, Văn Sử Địa (Tavares, Florida: Ban Thu
Thư Tự Lục, 1989), tr. 80
[11] Lý Chánh
Trung, Tôn Giáo Và Dân Tộc (Sàigòn, Lửa Thiêng,
1973), tr.74.
[14] Nghiêm
Xuân Hồng, Cách Mạng Và Hành Động (Sàigòn: Quan
Điểm, 1964), tr. 46. Xin đọc them Chương 4, sách Nói Chuyện
Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX:
Đa Nguyên, 2004) của tác giả Nguyễn Mạnh Quang.
[15] Vũ Ngự
Chiêu, Các Vua Cuối Nhà Nguyễn 1883-1945 - Tập 1
(Houston, Texas: Van Hóa, 1999), tr 130
[16] Charlie
Nguyễn, Thực Chất Đạo Công Giáo Và Các Đạo Chúa (Garden
Grove, CA: Giao Điểm, 2003), tr . 134-136.