TIẾN TRÌNH ĐẠO KI TÔ DO THÁI
BIẾN THỂ THÀNH ĐẠO KI TÔ LA MÃ
LTS: Nhìn qua tựa đề, có lẽ bạn đọc không chú ý đến nội dung của Chương này. Sở dĩ chúng ta cần tìm hiểu giai đoạn thành hình của đạo Công Giáo La Mã vì chính giai đoạn này sẽ giải thích rất nhiều về những sự kiện "lạ lùng, kinh khủng" trong dòng lịch sử 2000 năm của đạo này. Biết lúc phôi thai của nó, bạn đọc sẽ hiểu tại sao các chức sắc trong Giáo Hội này không hề tin những điều họ rao giảng. Biết cấu tạo cơ bản của nó, bạn đọc sẽ xác tín những điều khác biệt trong hành động của Giáo Hội đối với những điều họ phỉnh gạt người khác. Biết những cuộc chém giết bạo động và tàn ác để giành ngôi của những người sáng lập, bạn đọc sẽ không ngạc nhiên về những lịch sử Giáo Hội luôn kết nối với "bạo lực", luồn lách, đi với kẻ "quyền thế", và sẽ không còn nghi ngờ về những hồ sơ tội ác của Giáo Hội La mã nữa. Xin kính mời xem (SH)
Như đã trình ở chương trước, Đế Quốc La
Mã tấn chiếm nước Do Thái từ năm 63 trước Công Nguyên và thống
trị quốc gia này kể từ đó cho đến ngày đế quốc La Mã sụp đổ. Ông Jesus
bị bắt và bị hành hình vào năm 33. Mãi tới cuối thế kỷ thứ
1 đạo Ki-tô
Do Thái mới xuất hiện. Vào thời đó, đại đa số người dân trong đế quốc
La Mã theo đa thần giáo. Tập quán của họ là thờ đủ mọi thứ thần như
thần núi, thần sông, thần đồng ruộng, thần ái tình, vân vân. Cũng
vì thế mà việc người Do Thái tôn vinh ông Jesus lên là Chúa Cứu Thế
và lập đạo để thờ cúng cầu khấn không bị chính quyền ngăn cấm.
1.- Đế Quốc La Mã Đàn Áp Đạo Ki-tô Do Thái
Cho tới đầu thập niên 230, thời Giáo Chủ Pontianus (230-235), tức
là vào khoảng hai trăm năm sau khi Chúa Jesus thọ hình, con số tín
đồ Ki Tô Do Thái trong Đế Quốc La Mã lên tới vào khoảng 70 ngàn người.
Con số này so với khối dân khổng lồ sống trong Đế Quốc La Mã thì thật
là quá khiêm tốn. Chính quyền đương thời thi hành chính sách khoan
dung đối với tất cả các tôn giáo ở trong đế quốc miễn rằng họ phải
tuân hành luật lệ của nhà nước. Trong khi đó thì các nhà truyền giáo
Ki Tô Do Thái lại rao truyền dạy dỗ tín đồ chỉ được thờ có Thượng
Đế Jehovah và Chúa Jesus thôi. Họ không được phép thờ bất cứ ông
thần nào khác. Đồng thời, tín hữu Ki Tô Do Thái lại từ chối, không
chịu tuân hành một số luật pháp của chính quyền, đặc biệt là họ từ
chối cái khoản luật lệ đòi mọi người phải thờ phượng vị thần mà Hoàng
Đế La Mã đang thờ cúng. Sự kiện này được sách Living World History
ghi lại như sau:
“Viên chức chính quyền La Mã lức bấy giờ chấp nhận nhiều tôn giáo
hiện diện ở trong đế quốc miễn là các tôn giáo này chấp nhận quyền
lực của chính quyền. Tuy nhiên, nhiều luật lệ của Đế Quốc La Mã,
đặc biệt là những luật về việc thờ phượng của hoàng đế lại bị các
tín đồ Kitô giáo từ chối, không chịu tuân hành.”[1]
Hậu
quả là họ bị coi như là kẻ thù của nhà nước, và tất nhiên là bị đối
xử như kẻ thù trong đế quốc, nghĩa là họ bị ngược đãi, bị bách hại,
bị tấn công và bị tàn sát không một chút nương tay.
2.- Họ Bị Bách Hại Như Thế Nào?
Thói đời không ưa thì dưa có giòi. Nếu chính quyền được ổn định,
mưa thuận gió hòa, nhân dân khắp nơi trong đế quốc làm ăn phát đạt,
người người sống yên vui trong cảnh thanh bình và an cư lạc nghiệp,
thì vạn sự được coi như là êm xuôi, thôi thì "dĩ hòa vi quý". Nhưng nếu tình hình
trở nên bất ổn, lại thêm thiên tai xẩy ra triền miên khiến cho nhân
dân đói khổ, loạn lạc nổi lên cướp phá và viên chức chính quyền trở
thành những thứ sâu dân mọt nước, gây nên rất nhiều bất công trong
xã hội và bất mãn trong nhân dân, thì cái gì sẽ xẩy ra? Trong trường
hợp này, tất nhiên là tín hữu Ki Tô Do Thái không thể nào tránh khỏi
tình trạng trở thành những con dê tế thần của chính quyền đế quốc,
và trăm tội sẽ đổ lên đầu họ.
Thường thì họ bị truy lùng, tóm cổ,
rồi bị đưa ra tòa xử tội và trừng phạt tùy theo chức vụ hay địa vị
của mỗi người trong tổ chức hay hội đoàn tôn giáo của họ. Hình phạt
sẽ được quyết định tùy theo thành tích đã làm của họ, tùy theo mức
độ thù ghét của chính quyền và tùy theo lòng dân địa phương đối với
họ. Có rất nhiều người bị xử tử theo kiểu ông Jesus thọ hình trước
kia. Có khị họ bị liệng cho thú dữ cào cấu và ăn thịt ở ngay giữa
đấu trường.
Hoàng đế Diocletian (284-305)
Hoàng Đế Neron (54-68) quy trách nhiệm cho người theo
đạo Ki Tô Do Thái về vụ hỏa hoạn trong kinh thành La Mã vào năm 64
sau TL. Ông ra lệnh trừng phạt họ rất là tàn nhẫn. Vào những năm từ
249 đến 251 và nhất là lần chót vào năm 303 dưới thời Hoàng Đế Diocletian
(284-305), tình trạng của họ thật là vô cùng khốn khổ. Người tín hữu
Ki Tô Do Thái sống trong cảnh ám ảnh không biết bị bắt và bị giết
vào lúc nào. Tình trạng này được sách The Decline And Fall Of The
Roman Church ghi nhận như sau:
“Từ khi Tông đồ Simon Peter chết vào năm 67 sau TL cho đến năm
312, có 31 vị kế nghiệp ông ta làm giáo chủ, giữ vai trò như là
vị giám mục tại La Mã. Không có ai trong số 18 vị giáo chủ đầu tiên
được chết yên lành trên giường bệnh. Tất cả đều là bất đắc kỳ tử.”[2]
“Cá nhân ông (Giáo Chủ Pontian), là một tín hữu Ki Tô (Do Thái),
dĩ nhiên, ông nhìn thấy tương lai rất là đen tối. Vào bất cứ lúc
nào, ngày hay đêm, ông cũng có thể bị giết ngay tại chỗ. Luật pháp
La Mã cho phép như vậy. Hoặc là ông có thể bị bắt, bị bỏ tù rồi
bị giết ở trong tù hay bị dẫn đi diễn hành tới một vận động trường
ở La Mã cho dã thú ăn thịt trước con mắt thích thú của khoảng chừng
80 ngàn khán thính giả để xem như một màn thể thao, hoặc là có thể
bị gửi đi làm việc cực nhọc cho đến chết trong các khu mỏ của người
La Mã ở một nơi nào quanh vùng Địa Trung Hải.”[3]
“Ngày 27/9/235, tân hoàng đế Maximinus ban hành một sắc lệnh theo
đó thì tất cả các nhà lãnh đạo Ki Tô giáo từ tu sĩ, phụ tế, học
giả cho đến các giám mục đều bị bắt; các tòa nhà của họ đều bị đốt;
nghĩa địa của họ bị đóng cửa; tài sản cá nhân của họ bị tịch thu.
(Trong những thời kỳ có chính sách khoan hồng, những người theo
đạo Ki Tô Do Thái được phép chôn cất người chết của họ ở những nơi
đặc biệt, và ngay cả khi còn sống ở ngoài xã hội, họ cũng không
được làm chủ bất động sản.” “Giáo Chủ Pontian bị lính của Hoàng
Đế Maximinus bắt vào ngày 27/9/235 và bị đưa vào Khám Đường Mamertine
ngay ngày hôm đó... Đồng thời ông Hippolytus 70 tuổi, một nhân sĩ
Ki Tô Do Thái có tiếng tăm cũng bị bắt vào ngày 29/9, và bị đưa
đi khu mỏ chì tại đảo Sardinia. Bị đưa đến La Mã, Giáo Chủ Pontian
bị tra tấn hành hạ vào khoảng mười ngày, hy vọng là ông sẽ khai
cho nhà cầm quyền biết những tin tức về các nhà lãnh đạo khác của
đạo Ki Tô Do Thái (nhưng ông đã không tiết lộ gì cả), rồi sau đó
ông cũng bị kết án và bị đưa đi các khu hầm mỏ ở Sardinia. Ông tới
đây vào ngày 12/10/235.” [4]
3.- Hoàn Cảnh Lịch Sử Đưa Đến Việc Đạo Ki-tô Do Thái Lột
Xác
Trong thời gian này, vì muốn gây thanh thế trong cuộc chiến giành
giật ngai vàng, Hoàng Đế Galerius đã từng nổi tiếng bách hại đạo
Kitô quay ra thay đổi chính sách bằng cách ban hành “Sắc Chỉ Khoan
Dung” (Edict of Toleration) vào ngày 30 tháng 4 năm 311 với mục đích
lôi kéo Giáo Hội Ki-tô và tín đồ của tôn giáo này về phe ông để chống
lại các đối thủ chính trị. Nhờ vậy mà các tu sĩ và tín đồ Kitô được
sống đời tự do, không còn bị bách hại như những ngày trước đó. "Bạng
duật tương trì, ngư ông đắc lợi." Cuộc chiến giành giật
ngai vàng vẫn còn tiếp diễn, các thế lực chống đối nhau cũng muốn
tỏ ra khoan dung và độ lương đối với tín đồ Ki-tô để lôi kéo họ về
phe cánh của mình. Không thể để cho Hoàng Đế Galerius độc quyền độ
lượng, Hoàng Đế Maxentius (anh em rể với Hoàng Đế Constantine) bèn
ra lệnh trả lại cho giáo hội và tín đồ Kitô tất cả những khoản tài
sản đã bị chính quyền tịch thu trong những năm trước đó. Nhưng rồi,
sáng sớm ngày 28/10/312 Hoàng Đế Maxentius bị Hoàng Đế Constantine
đánh bại trong trận đánh tại Cầu Milvian.
Hoàng Đế Constantine
Thấy rằng thu phục Giáo
Hội Kitô là một thủ đoạn chính trị khôn ngoan để gia tăng thanh thế,
vì thế mà ngay buổi chiều hôm đó, Hoàng Đế Constantine thân hành
đến gặp các nhà lãnh đạo của Giáo Hội Kitô Do Thái để thuyết phục.
Đây là một buổi họp giữa một bên là những người đại diện cho Giáo
Hội Ki-tô (thần quyền) là Giáo Chủ Miltiades (gốc Phi Châu sinh tại
La Mã), 62 tuổi, cùng với người phụ tá là Giám-mục Silvester 59
tuổi (thân mẫu rất có thể là người La Mã, và chính ông ta tự nhận
là gốc Đức, các sử gia nghi ngờ ông là người La Mã), và một bên đại
diện cho chính quyền Đế Quốc La Mã (thế quyền) là Hoàng Đế Constantine,
một người La Mã chính tông, mới có 31 tuổi. Chủ đích của Hoàng Đế
Constantine trong cuộc họp này là kiến tạo một liên minh giữa thế
quyền (chính quyền) và thần quyền (tôn giáo) với mục đích lôi kéo
khối tín đồ Kitô Do Thái về phe ông để tăng cường thế lực, và cũng
là dùng họ làm thành phần nòng cốt để bảo vệ chế độ.
4.- Hoàng Đế Constantine Và Giáo Hội Do Thái
Theo Collier's Encyclopedia, (Macmillan Education Company, New York:
1990, page 212), thì Hoàng Đế Constantine là con của Aurelius Valerius
Constantius và bà Flavia Helena (vợ thứ). Tên thật của ông là Flavius
Aurelius Constantinus và sinh vào khoảng năm 280 tại Naissus (ngày
nay nằm trong xứ Serbia). Ngày 1/5/305, Hoàng Đế Diocletian thoái
vị. Một hội đồng bốn người nhiếp chính được thành lập (a four-man
ruling body) và thân phụ của ông trở thành một trong bốn người trong
hội đồng nhiếp chính này. Cũng vào năm đó, thân phụ ông lên ngôi tức
là Hoàng Đế Constantius Đệ Nhất, và cũng từ đó ông thường theo cha
trong những chiến dịch tiến đánh người Picts tại Anh quốc. Năm 306,
Hoàng Đế Constantius Đệ Nhất qua đời. Ông được quân sĩ tôn lên nối
nghiệp cha, nhưng mãi hơn một năm sau ông mới được chính thức nhìn
nhận là hoàng đế. Lúc bấy giờ có nhiều người thuộc nhiều phe tranh
giành ngôi hoàng đế. Những người đó là:
1.- Constantine,
2.- Maximiian (bố vợ của Constantine, bị Constantine giết chết vào
năm 310)
3.- Galerius (chết vào năm 311)
4.- Maximinus (Marcus Aurelius Valerius Maximnus),
5.- Valerius Licinius
6.- Maxentius (Con của Maxmian, bị Constantine đánh bại vào năm 312)
7.- Maximinus Daia.
Constantine là con người đầy thủ đoạn, xảo quyệt, bất nhân và tàn
ác hơn bất kỳ chính trị gia nào khác từ trước tới lúc đó và cả cho
đến ngày nay. Khi phải đuơng đầu với quá nhiều đối thủ chính trị,
Constantine cầu hôn với công chúa Fausta, con gái của Maxiamin, với
thâm ý là làm giảm bớt đi được một kẻ thù. Cơ hội đến, ông giết luôn
cả cha vợ. Sau đó, ông lại giết luôn cả em vợ. Và cuối cùng khi thành
công rồi, vào năm 326, ông giết luôn cả người vợ thân yêu của ông
là bà Fausta và người con trai của ông là Crispus. “Cọp dữ không
nỡ ăn thịt con”, dã thú như loài cọp còn không nỡ ăn thịt con.
Ấy thế mà Constantine đã giết luôn cả người con ruột của ông ta. Như
vậy là ông ta còn tệ hơn cả loài dã thú. Việc làm bất nhân và bạo
ngược này khiến cho sử gia Caleb W. Davis phê bình rằng:
“Ông có nhiều đức tính đáng quý, nhưng việc sát hại người con
trai của ông là Crispus và người vợ của ông là bà Fausta vào năm
326, dù là vì lý do cá nhân hay chính trị thì nó cũng cho ta thấy
bề trái của cái đức tính tốt này của ông ta.” [5]
Dưới đây là sách lược thanh toán các đối thủ chính trị của Constantine. Khởi
đầu, năm 307, Constantine xin kết hôn với Công Chúa Fausta,
ái nữ của Maximian, một địch thủ mạnh nhất trong các địch thủ của
ông. Như vậy là ông đã có được một liên minh mạnh nhất, trội hơn
rất nhiều so với các đối thủ còn lại. Đến năm 310, ông tìm
cách hạ thủ bố vợ ông là Maximian. Năm 311, Galerius qua
đời. Như vậy, Constantine chỉ còn lại có hai đối thủ. Chính ông
và người em vợ của ông là Maxentius (em ruột của bà Fausta) thống
lãnh vùng lãnh thổ phía Tây. Valerius Licinius và Maximinus Daia
thống lãnh vùng phía Đông. Để giảm bớt số kẻ thù, Constantine
gả em gái cho Licinius. Thế là ông có Licinius liên minh với
ông để canh chừng và cầm chân đối thủ Maximinus Daia ở phía đông.
Ngay sau đó, ông tính đến việc thanh toán đối thủ ở ngay gần kế
ông là Maxentius, người em vợ thân yêu của ông.
Trận chiến ở cầu Milvian
Nhớ đến cái khối hơn 70 ngàn tín hữu Ki Tô Do Thái thà chết chứ không
bỏ đạo, ông liền nghĩ ra một kế hoạch vô cùng tinh vi để lôi cuốn
họ vào phe của ông. Sau khi thắng được trận đánh tại Cầu Milivian, ngày
28/10/312, ông thân hành đến gặp giáo chủ Miltiades có Giám Mục
(bishop) Silvester ở bên cạnh. Ông nói với hai nhà lãnh đạo tôn giáo
này rằng vào buổi chiều hôm trước khi chuẩn bị quân sĩ cho trận đánh,
ông thấy có một dấu hiệu: cây thánh giá của Jesus nằm đè lên mặt trời,
và có một giọng nói huyền diệu, (giống như thánh Phao Lồ (Paul) trước
kia đã nghe thấy trên đường đi Damascus), nói với ông rằng: “Trong
dâú hiệu này ngươi sẽ chiến thắng.” Ông cho biết chuyện đó xẩy
ra vào đêm hôm trước (đêm vừa qua). Sáng nay, ông ra trận với dấu
hiệu (thánh giá) đó sơn lên trên những tấm khiên (mộc) và đầu ngựa.
Ông tin rằng ông đã thắng trận đánh tại Cầu Milvian là do quyền lực
và sức mạnh của cái dấu hiệu (thánh giá) đó.” [6]
Để
tỏ ra là người thành khẩn tin vào sức mạnh huyền diệu của cây thánh
giá đó, ông khẩn khoản Giáo Chủ Miltiades cho ông
xin hai trong ba cái đinh kỷ vật mà trước kia đã được dùng đóng Chúa Jesus lên cây
thập giá khi thọ hình. Ông cho biết ông sẽ dùng
- một cái (đinh) cắm
vào vương miện của ông, và nói rằng ông sẽ nhân danh Chúa Jesus cai
trị Đế Quốc La Mã.
- Cái đinh thứ hai sẽ được dùng làm hàm thiếc cho
con ngựa của ông. Ông cũng nói cho họ biết rằng ông sẽ nhân danh Chúa
Ki Tô, cỡi con ngựa này ra trận chống lại tất cả kẻ thù của Chúa Ki
Tô cũng như chống lại kẻ thù của đại diện của Chúa (tức là vị giám
mục hay giáo chủ của giáo hội Ki Tô) tại La Mã). Ông nói: “Trong
tương lai, là tông đồ của Chúa Ki Tô, chúng ta sẽ tuyển chọn vị
giám mục tại La Mã (giáo hoàng)." Ngoài ra, ông còn hứa là
ông sẽ ra lệnh xây một ngôi thánh đường (basilica) Peter đồ sộ ở ngay
trên ngọn đồi tại La Mã và di hài của Thánh Phao Lồ sẽ được đưa đến
chôn cất ngay tại chỗ Ngài (Peter) bị giết.
Ngày hôm sau, ngay từ lúc rạng đông, Hoàng Đế Constantine cùng Hoàng
Hậu Fausta đến thăm Giáo Chủ Miltiades và Giám Mục Silvester, rồi
kéo nhau đi dạo quanh khu Đồi Vatican. Tất cả những lâu đài và dinh
thự trên vùng này trước kia thuộc gia đình Laterani (gia đình bà Fausta),
một gia đình danh gia vọng tộc ở La Mã. Đây là một dinh thự lớn nhất
và đồ sộ nhất, di sản của Hoàng Đế Maximian, và trở thành của hồi
môn của Hoàng Hậu Fausta. Hoàng Đế Constantine dẫn hai ông Miltiades
và Silvester vào trong căn dinh thự này và long trọng tuyên bố: “Kể
từ đây, tòa dinh thự này là của Giáo Chủ Miltiades và của những người
tiếp nối ngôi Tông Đồ Peter.[7]Sau
đó, tất cả trở lại nhà Giáo Chủ Miltiades. Hoàng Đế Constantine nhận
lãnh hai cái đinh. Giáo Chủ Miltades giữ lại cái đinh thứ ba.
5.- Giáo Hôi Ki-tô Do Thái Lột Xác Và Biến Thành Giáo Hội Ki-tô La Mã
Những lời tuyên bố và hứa hẹn hào hiệp cũng như tất cả những cử chỉ
ưu ái của Hoàng Đế Constantine làm cho Giáo Chủ Miltiades ngạc nhiên
như từ trên trời rớt xuống. Ngạc nhiên quá đến độ ông không thể trả
lời được câu nào mà chỉ gật đầu lìa lịa. Suốt đời ông, cho đến bây
giờ đã 62 tuổi trời, ông chỉ biết có những ngôi nhà thờ tầm thường
giống như một căn nhà nhỏ bé, chưa bao giờ ông lại mơ tưởng đến một
ngôi thánh đường nguy nga đồ sộ như Constantine vừa nói. Tuy nhiên,
ông chỉ ước mong chính quyền hủy bỏ chính sách khủng bố và từ bỏ chính
sách bách hại và ngược đãi đạo Ki Tô, để cho các tu sĩ và tín hữu
của ông được tự do truyền đạo và hành đạo. Có lẽ, trong thâm tâm,
ông muốn từ chối hết tất cả những đặc quyền, đặc lợi về chính trị
và vật chất do chính quyền ưu đãi.
Có thể ông đã biết rằng một khi
mà tôn giáo lãnh nhận ân sủng của quyền lực hay dựa vào chính quyền
để có những đặc quyền đặc lợi thì tôn giáo sẽ bị hư thối như tất cả
các tổ chức chính trị khác từ trước đến giờ, và hậu quả là tôn giáo
sẽ bị quần chúng khinh rẻ, coi như là một đảng cướp không hơn không
kém. Như vậy là phản lại cái lý tưởng cao đẹp của Chúa Ki Tô. Vì thế
mà ông chỉ muốn thi hành đúng theo những gì Chúa Ki Tô đã truyền dạy,
và không bao giờ ông lại mơ màng đến chuyện đem tôn giáo vào nương
bóng và dựa thế chính quyền để thị oai và mở rộng tôn giáo. Trong
khi đó thì Silvester lại cho rằng Constantine "có thể giúp
ích cho kế hoạch cứu rỗi toàn cầu của Chúa Jesus."[8]
Với kinh nghiệm nhiều năm lăn lộn trên chính trường và chiến trường,
với kinh nghiệm lão luyện đã từng sử dụng những mánh mung để loại
bỏ các đối thủ chính trị ra khỏi đấu trường, và với khả năng săc bén
trong việc nhận xét những người đối thoại, cho nên ngay khi vừa mới
tiếp xúc và nói chuyện với hai nhà lãnh đạo của Giáo Hội Ki-tô Do
Thái, Hòang Đế Constantine đã thoáng nhìn ra có sự bất đồng chính
kiến như trên giữa hai nhà lãnh đạo Ki-tô Do Thái giáo về vận đề cộng
tác với ông, và ông cũng đã nghĩ đến phương cách khai thác tình trạng
sức khỏe suy yếu của Giáo Chủ Miltidates để lôi kéo Giám-mục
Silvester đi theo ông. Vì thế ông nói lời bóng gió như nhắn nhủ với họ rằng:
"Trong tương lai, cùng là tông đồ của Chúa Ki Tô, chúng ta
sẽ giúp nhau tuyển chọn vị giám mục tại La Mã (giáo chủ).” [9]
Rõ ràng là câu nói này nhằm để khích lệ Silvester rằng nay mai khi
tuyển chọn vị giáo chủ kế tiếp, sẽ có bàn tay ông trong việc này.
Nói xong, ông đi liền ra mặt trận để thanh toán những kẻ thù còn lại.
Mười lăm tháng sau, tháng 1 năm 314, Giáo Chủ Miltiades qua đời.
Cho đến khi chết, ông vẫn giữ vững lập trường là giáo hội Ki Tô Do
Thái không nên nhận một đặc ân hay đặc quyền nào của chính quyền.
Ông nghĩ rằng giáo hội có thể lãnh nhận đất đai và các căn nhà ở của
nhà nước ban phát cho cũng đã là quá lắm rồi. Ông không thể nào chấp
nhận việc dùng quyền lực chính trị và quân sự để làm phương tiện
truyền bá đạo Kitô. Sau khi Giáo Chủ Miltiades qua đời, Hoàng Đế Constantine
cho tổ chức một hội nghị gồm tất cả các tu sĩ Ki Tô tại La Mã. Tại
hội nghị, ông tuyên bố:
“Chúng ta đã tuyển chọn để chấp nhận Silvester là người lên nối
nghiệp Giáo Chủ Miltiades và Tông Đồ Peter để làm đại diện của Chúa
Ki Tô Jesus.”.[10]
Toàn thể hội nghị đồng ý việc Hoàng Đế Constantine chọn ông Silvester
làm giáo chủ. (Đúng ra là Giám Mục ở địa phận Rome) Ngay sau đó,
Silvester được tấn phong long trọng mà có lẽ từ trước cho đến lúc
đó chưa có ông giáo chủ (giám mục ở Rome) nào có được cái vinh dự
này. Sau đó, Giám-mục Silvester [sau này được gọi là Giáo Hoàng Sivester
I (314-335)] cùng vào họp bàn với Hoàng Đế Constantine trong Dinh
Lateran. Không ai biết được hai người đã bàn thảo về những vấn đề
gì. Nhưng chắc chắn là họ đã thỏa thuận với nhau về nhiều vấn đề quan
trọng.
Kể từ đây, quyền hành điều khiển Giáo Hội nằm trong tay Hoàng Đế
Constantine và Giáo Hội Ki-tô Do Thái trở thành một tổ chức tay sai
tiếp sức cho Hoàng Đế Constantine củng cố uy quyền và duy trì quyền
lực. Vì thực trạng này, bộ máy quản trị tín đồ của giáo hội cũng được
tổ chức rập khuôn theo tổ chức bộ máy quản lý nhân dân của Đế Quốc
La Mã. Thế rồi, không biết vì lý do gì mà năm 324, Hoàng Đế Constantine
chia đôi Đế Quốc La Mã thành:
1.- Đế Quốc Tây Phương với thủ đô hành chánh là Rome,
2.- Đế Quốc Đông Phương với thủ đô hành chánh là Constantinople (thuộc
Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) .
Rồi ông dời đô sang Constantinople. Nhờ vậy mà vị giám mục ở Rome
(sau này gọi là giáo hoàng) được ủy nhiệm quyền hành rộng rãi về thế
tục và được hưởng rất nhiều đặc quyền đặc lợi trong đế quốc. Sự kiện
này được sách Thực Chất Đạo Công Giáo và Các Đạo Chúa ghi lại như
sau:
"Vào năm 324, Hoàng Đế Constantine quyết định bỏ Rome và
dời đô đến Constantinople, nay là thủ đô Istambul của Thổ Nhĩ Kỳ.
Lý do là lãnh thổ của Đế Quốc La Mã lúc đó trải rộng về phía đông
gồm có những quốc gia thuộc Bắc Phi, Trung Đông, Tiểu Á và một phần
Đông Âu. Thủ đô cũ của đế quốc đặt tại Rome trở nên quá xa đối với
lãnh thổ phía đông, cho nên không còn thích hợp cho việc cai trị
của đế quốc nữa. Thủ đô mới của Đế Quốc La Mã tại Constantinople
tồn tại và phát triển trong hơn một ngàn năm (từ năm 324 đến 1453)
với 88 đời hoàng đế kể từ Constantine.
Từ sau khi Rome bị các hoàng đế La Mã bỏ trống từ năm 324, thì
các giám mục ở Rome bắt đầu âm mưu củng cố quyền lực bằng cách liên
kết với các vua chúa của các nước Tây Âu để tách rời khỏi quyền
lực của hoàng đế La Mã tại Constantinople. Dần dần, Constantinople
không còn đủ sức kiểm soát lãnh thổ phía Tây gồm các nước Âu Châu
nên Đế Quốc La Mã bị tách làm hai. Kitô giáo gắn liền với đế quốc
cũng bị tách ra làm hai giáo hội
Giám-mục ở Rome tự xưng là "Thượng Phụ của Giáo Hội Tây Phương" (Patriarch
of the West Church) và giám mục tại Constantinople tự xưng là "Thượng
Phụ của Giáo Hội Đông Phương (Patriarch of the East Church) Hai
Giáo Hội Đông và Tây của Kitô Giáo vẫn cố gắng thuận thảo với nhau
từ thế kỷ 4 đến 1054 thì tách rời hẳn. Năm 1204, Vatican tổ chức
cuộc Thập Tự Chinh Thứ Tư (The Fourth Crusade) tàn phá Constantinople
gần thành bình địa. Constantinople trở thành thuộc địa của Vatican
trong 57 năm (1204-1261). [11]
Sự kiện này cũng được sách The Decline And Fall Of The Roman Church
ghi lại như sau:
“Cấp tiến nhiều hơn và việc ban cấp quyền hành là tổ chức mới
của giáo hoàng. Kinh thành Rome được chia ra thành 7 giáo khu, mỗi
giáo khu do một viên chức của Tòa Thánh Vatican quản nhiệm. Hoàng
Đế Constantine đã chia toàn thể các vùng có ảnh hưởng của giáo hội
ra làm 3 vùng:. Kinh thành La Mã (territory) hay địa phận Tông Đồ
là Rome, Alexelandria (Ai Cập) và Antioch (một thành phồ nằm trên
sông Orontes ở miên Nam nước Thổ Nhĩ Kỳ, ngày xưa là thủ đô của
nước Syria). Sau này, lại có thêm hai địa phận phi Tông Đồ nữa là
Jerusalem và Constantinople (một thành phố lớn thuộc lãnh thổ Thổ
Nhĩ Kỳ, có tên mới là Istanbul, nằm trên thủy lộ nối liền Hắc
Hải vớ Địa Trung Hải). Thẩm quyền của vị giám mục cai quản địa phận
Rome bao trùm cả Rome, Ý Đại Lợi, vùng Balkan (Ba Nhĩ Cán) Châu
Phi, Sicily (miền Nam Ý Đại Lợi ngày nay) Pháp, Đức và Anh. Với
thần quyền bao trùm như vậy, vị giám mục cai quản địa phận Rome
có ưu thế quyền lực trong các phạm vi chính trị, dân sự và ngay
cả quân sự nữa. Uy tín của ông ta lan rộng ra toàn cầu. Giáo hội
được sử dụng các phương tiện của chính quyền đế quốc (như đường
xá, trạm xe, xe cộ, quân binh hộ tống, trại lính, đồn binh, luật
sư, quan toà, tòa án, công thự và ngân khố) cho các công việc truyền
giáo. Giáo hội đã có chứng từ bằng khoán của những bất động sản
ở ngoài kinh thành Rome. như ở Campagna, ở Ostia (hải cảng Rome),
về phía đông trên bở biển Adriatic, xuống phiá nam ỏ Calabria và
Sicily. Tất cả những thứ này đã có trong thời Giáo Hoàng Silvester
I (314-335).” [12]
Như vậy là kể từ năm 324, Giáo Hội La Mã, với những mánh mung bịp
bợm được tàng hình bằng danh xưng tôn giáo, rồi dùng đủ mọi thủ đoạn
gian manh và bạo lực thiết lập các chế độ đạo phiệt tại các địa phương
để làm phương tiện cưỡng bách nhân dân dưới quyền phải tin theo niềm
tin quái đản của cái đạo quái đản Kitô La Mã. Sự việc này được sử
gia Malachi Martin ghi nhận như sau:
“Giữa bàn tay của Giáo Chủ Silvester và Hoàng Đế Constantine,
giáo quyền do ông Jesus trao cho ông Peter ở gần Hermon chỉ được
tập trung vào một nền văn hóa (La Mã), một nhóm chủng tộc (da trắng),
trong một vùng địa lý (Tây Âu), và nằm trong một tổ chức thống lãnh
chính trị (đế quốc La Mã).” [13]
6.- Tổng Kết
Kiểm điểm lại, chúng ta thấy, vì muốn lôi kéo khối tín đồ Ki-tô giáo
để củng cố thế lực trong cuộc chiến tranh giành quyền lực, năm
313, Hoàng Đế Constantine quyết định hợp pháp hóa đạo Ki-tô Do
Thái bằng Sắc Chỉ Milan (Edict of Milan), tức là kể từ đó, đạo Ki-tô
Do Thái được công khai hành sử quyền thờ phượng mà không bị đàn áp
nữa. Từ năm 314 trở đí, đặc biệt là sau khi Hoàng Đế Constantin
thanh toán xong các đối thủ chính trị, tình thế đã ổn định và đưa
ông Sylvester I lên làm giáo chủ, chính quyền lại tỏ ra trọng nể và
dành cho Giáo Hội Ki-tô Do Thái rất nhiều đặc quyền đặc lợi. Thế là,
đang từ một tôn giáo bất hợp pháp và bị ngược đãi tàn tệ, chỉ có
mấy năm sau, đạo Ki-tô Do Thái không những được công nhân được hoạt
động hợp pháp mà còn được chính quyền o bế coi như thành phần nòng
cốt bảo vệ chế độ.
Hoàng Đế Valentinian II
Trải qua mấy đời Hoàng Đế, năm 383, đời Hoàng Đế Valentinian II (371-392) và tại vị (375-392), giáo triều Vatican đồng mưu với chính quyền Đế Quốc La Mã quyết định dùng danh xưng "The Roman Catholicism" thay thế cho danh xưng cũ là Ki-tô Do Thái (The Jewish Christianity) với thâm ý cho rằng đạo này là đạo của cả Thế Giới. Lúc bấy giờ, Giáo Hội còn cho rằng trái đất này không phải là hình cầu, mà là một mặt phẳng bị giới hạn giữa các đại dương, và là trung tâm của vũ trụ. Kể từ đó, danh xưng Ki-tô Do Thái coi như là không còn nữa và bị thay thế bằng "Ki-tô giáo La Mã" hay "Thiên Chúa giáo La Mã" hoặc "Cơ -đốc giáo".
Thói đời, được đằng chân lân đằng đầu, thấy
rằng sử dụng danh xưng Công Giáo (Catholicism) một cách êm xuôi
trót lọt, không bị một thế
lực nào phản đối, năm 395 thời Hoàng Đế Theodosius (379-395),
chính quyền Đế Quốc La Mã lại đưa đạo Công Giáo lên hàng quốc giáo
và dành cho rất nhiều đặc quyền đặc lợi về kinh tế, xã hội và chính
trị như đã nói trên.
Kể từ đó, giáo hội quyết tâm khai thác tối đa những chuyện hoang
đường láo khóet, những chuyện loạn luân, dâm loạn, những lời phán
dạy gian tham, tàn ngược hết sức man rợ trong kinh thánh và bịa đặt
ra hằng hà sa số những chuyện hoang đường láo khoét khác để vừa phỉnh
gạt và lừa bịp người đời, vừa sử dụng quyền lực của nhà nước chuyên
chính để cưỡng bách nhân dân dưới quyền phải làm nô lệ cho giáo hội
mà không cần biết đến sự bất mãn, lòng khinh bỉ, căm phẫn và thù ghét
của nạn nhân và thân nhân của họ. Chính sách cưỡng bách người vào
đạo một cách ngược ngạo và dã man như vậy của giáo hội hoàn toàn
trái ngược với lời dạy “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” của
nền đạo lý cổ truyền của các dân tộc Đông Phương.
Cũng từ đó, càng về sau, chính sách bạo ngược và man rợ này càng
trở nên tàn độc hơn và tinh vi hơn. Bằng chứng rõ rệt là những người
lính đạo (cũng gọi là lính thập tự) của (1) chế độ đạo phiệt Da-tô
ở Pháp sát hại người Tin Lành trong mấy tuần lễ khời đầu vào ngày
22/8/1572, (2) ở Ai Nhĩ Lan vào ngày 23/10/1641, (3) Ở Croatia trong
những năm 1941-1945 (tàn sát đến hơn 700 ngàn người trong một dân
số chưa tới 3 triệu người, (J.T.C., Smokescreens (Chino, CA:
Chick Publcations, 1983), pp. 13-35. (4) ở Việt Nam trong thời Kháng
Chiến 1945-1954 với những hành động tàn sát những người dân lương
ở các làng tiếp cận các làng đạo Phương Xá (Thái Bình), Cao Mại (Thái
Bình) Quỳnh Lang (Thái Bình), Thân Thượng (Thái Bình), và giáo khu
Bùi Chu và Phát Diệm, (4) ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1963
(có tới hơn 300 ngàn người bị sát hai), và (5) ở Rwanda trong mấy
tháng giữa năm 1994, chính quyền đạo phiệt Da-tô nguời Hutu dưới
quyền lãnh đạo của Giám-mục Augustin Misago tàn sát tới hơn 800 ngàn
người Tutsi thuộc tôn giáo khác ở Rwanda (Phi Châu Xem thêm Những
Hoạt Động Của Bọn Phản Động Đội Lốt Thiên Chúa Giáo Trong Thời Kỳ
Kháng Chiến 1945-1954 của Quang Toàn & Nguyễn Hoài (Hà Nội: Nhà
Xuất Bản Khoa Học, 1965), tr. 87-120, Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy
Vọng hay Đến Bờ Ảo Vọng của Lê Trọng Văn (San Diego: Mẹ Việt Nam,
1996), tr 188-192), Trần Tương, Biến Cố 11 (Sàigòn: TXB, 1971) và
Những Bí Ẩn Lịch Sử Dưới Chế Độ Ngô Đình Diệm của Cửu Long Lê Trong
Văn (San Diego, Mẹ Việt Nam, 1989), Chín Năm Máu Lửa Dưới Chế Độ
Gia Đình Trị Ngô Đình Diệm của Nguyệt Đam và Thần Phong (Sagon: TXB,
1964), và Vatican Thú Tội Và Xin Lỗi? của nhiều tác giả (Garden Grove,
CA: Giáo Điểm 2000).
Theo nhà viết sử Lloyd M. Graham, tính từ thời Hoàng Đế Constantine
(280-337) cho đến thập niên 1990, với chủ trương theo đuổi tham vọng
thống trị toàn cầu và nô lệ hóa nhân loại bằng sách chính truyền
đạo ngạo ngược dã man như vậy, Đạo Da-tô hay Giáo Hội La Mã đã sát
hại tới hơn 200 gần 300 triệu người.[14]
Vì sự kiện này mà ông Charlie Nguyễn mới gọi đạo Công Giáo là “đạo
bịp” và “đạo máu” [15].
Chú thích:
[1] Arnold Schrier, & Walter T Wallbank,, Living World History (Glenview, Illinois: Scott Foresman and Company, 1974), p. 118. Nguyên văn: "Officials of the Roman government tolerated the many existing religions in the empire so long as the people accepted government authority. The Christians, however, refused to comply with many of the Roman laws - particularly that of emperror worship."
[2] Malachi Martin, The Decline and Fall of the RomanChurch (New York: G.P. Putnam’s Sons, 1981), p. 13-14. Nguyên văn: "Between the death of Simon Peter the Apostle in A.D. 67, and the year 312, there were thirty-one popes, successors as bishops of Rome. Not one of the first eighteen popes died in bed. All perished violently”).
[3] Malachi Martin, Ibid., p. 20 Nguyên văn: “Personally, of course, as a Christian his outlook was bleak. At any moment of day or night, he (Pontian) could be killed on the spot; Roman law permitted this. Or he could be arrested, imprisoned, then killed in prison or paraded in the Roman stadium to be eaten by animals to the delight of as many as 80,000 screaming fans, or be sent to work and to die in Roman mines somewhere around the Mediterranean.”
[4] Malachi Martin, Ibid., p. 24. Nguyên văn “On Septempber 27, 235, an edict came from the new emperor, Maximinus: Arrest all the Christian leaders - priests, deacons, scholars, bishops, all! Burn all their buildings. Close all their cemeteries. Confiscate their personal wealth. (During periods of guarded toleration, Christians were permitted to bury their dead in certain specified places, and even to live in society, but not to own property.” ... “Pontian was picked up by Maximinus' guards on that September 27, 235, and thrown into the Mamertine Prison.... In the meanwhile, the seventy- year-old Hippolytus, as a long-standing and prominent Christian, was also arrested, on September 29, and immediately shipped off to the lead mines on Sardinia. Back in Rome, Pontian was tortured about ten days in the hope that he would inform on other Christian leaders (he did not), and then he too was condemned to the Sardinan mines, where he arrived about October 12.”
[5] Collier’s Encyclopedia, (New York: McMillian Education Company, 1990), p. 212. Nguyên văn: “He had many admirable qualities, but the murders of his son Crispus and his wife Fausta in 326, for either personal or political reasons, are indicative of another side to his character.”
[7] .” Malachi Martin, Ibid., p. 34. Nguyên văn: “ Henceforth, this is the House of Miltiades and of every successor of the blessed apostle, Peter.”
[8] Malachi Martin, Ibid., p. 34. (“Constantine could serve in Jesus' plan of universal salvation).”
[9] Malachi Martin, Ibid., p. 33. ("In the future, we as the apostle of Christ will help choose the bishop of Rome.”)
[10] Malachi Martin, Ibid., p. 34-35. Nguyên văn: He tells them simply: “We have chosen to approve of Silvester as successor to Miltiades and to Peter, the Apostle, as representative of Jesus the Christ."
[11] Charlie Nguyễn, Thực Chất Đạo Công Giáo và Các Đạo Chúa (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2003), tr. 40-41.
[12] Malachi Martin, Ibid., p.50. Nguyên văn: “Far more radical and power-giving is the new papal organization. Rome is now divided into seven ecclesiastical districts, each one in the charge of a Vatican official. The Church as a whole is divided, has been divided by Constantine into three Aposttilic Patriarchates – Rome, Alexandria, and Antioch. Later, there will be the non-Apostolic Patriarchates of Jerusalem and Contanstinople. The bishop of Rome has full jurisdiction over Rome, Italy, the Balkan, Africa, Sicily, France, Germany, Britain. And, with that spritual jurisdiction, he wields already preponderant political, civil, even military power. His prestige is worldwide. The church’s missionary efforts use all the imperial facilities: roads, stations, convoys, guards, garrisons, lawyers, judges, courts, forts, public buildings, treasuries. Already, the bishop of Rome possesses by legal title huge estates ouside the city, in Campagna, over at Ostia (the port of Rome) eastward on the Adriatic coast, and down in Calabria and Sicily. All this has come under Pope Silvester’s rule.”
[13] Malachi Martin, Ibid., p.49["Between the hands of Silvester and Constantine, the spiritual power promised to Peter by Jesus near Hermon was concentrated exclusively within one culture (Roman), one ethnic group (white men) in one geographical area (Western Europe), and within one political governing structure (imperial Rome)".
[14] Lloyd M. Graham, Deceptions and Myths Of The Bible (Secaucus, N. J: Carol Publishing Group, 1999), p. 463
[15] ” (Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), tr 272 và 228).