●   Bản rời    

 Tại Sao Tôi Là Người Không Tin? (I)

Tại Sao Tôi Là Người Không Tin?

(Why am I an agnostic?)

Robert Green Ingersoll / Trần Tiên Long dịch

http://sachhiem.net/TTL/TranTL15.php

04-Feb-2012

Lời Bàn

Tác giả Robert Green Ingersoll (August 11, 1833 – July 21, 1899) là một cựu đại tá, một cựu chiến binh của cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ, một nhà luật sư, một nhà chính trị thuộc đảng Cộng Hòa, và cũng là một nhà hùng biện tài danh. Ông được sinh ra và dạy dỗ trong một gia đình Thiên Chúa giáo, có người cha là một mục sư Tin Lành thuộc hệ phái Presbyterian bảo thủ.

Mặc dù vậy, sau khi đã trưởng thành, ông đã từ khước những niềm tin của gia đình và tổ tiên của ông để trở thành Người Không Tin Vĩ Đại (The Great Agnostic), một tước hiệu người đời đã tôn vinh ông, nhờ những bài diễn thuyết và tham luận rất thuyết phục về đề tài tôn giáo. Ông viết:

“Nếu chúng ta phải theo tôn giáo của cha mẹ chúng ta thì cha mẹ chúng ta cũng phải theo tôn giáo của họ. Như vậy thì đã không thể có sự tiến bộ trong lĩnh vực tư tưởng. Tôn giáo đầu tiên có lẽ đã là tôn giáo cuối cùng, và người con có lẽ đã chết trong sự ngu dốt như người mẹ. Sự tiến bộ có lẽ đã không có, và sự thông minh của nhân loại có lẽ đã bị hy sinh ở tại những ngôi mộ của các tổ tiên.”

Nhận thấy bài Tại Sao Tôi Là Người Không Tin của Ingersoll có thể trả lời cho những lập luận của một vài người đem việc tôi không còn tin những gì tôi đã bị nhồi sọ từ khi mới sinh ra đời, như chính tác giả Ingersoll đã từng kinh nghiệm, như là lý do để mạt sát và chửi bới liên tục trong các diễn đàn. Những cách thức ám sát tư cách cá nhân cho mục đích mạt sát thiên hạ đã dẫn đến việc không thể có sự trao đổi trong tinh thần học thuật. Việc tin hay từ chối tin những điều chưa có sự kiểm chứng là một quyết định hoàn toàn tự do của mỗi cá nhân. Nếu bạn có quyền tự do biện minh cho điều bạn tin thì bất cứ ai cũng có quyền tự do biện minh cho điều họ không tin. Và Ingersoll sẽ cho bạn biết tại sao ông lại là người không còn tin những điều mà ông bà, cha mẹ của ông đã nhồi sọ ông từ khi ông mới chào đời.

Hôm nay tôi biên tập lại bài dịch này để được hoàn thiện hơn, như là một đóng góp bé nhỏ để mong làm sáng tỏ một đề tài hiện đang được tranh cãi trong các diễn đàn: hiện tượng mạt sát chỉ vì không cùng một niềm tin.

Trần Tiên Long

***

(PART I)

       

Robert G. Ingersoll (1833-1899)

Bằng những tư tưởng nằm ngoài tầm với của tâm trí chúng ta

Những câu hỏi về tôn giáo phải được trả lời dựa trên những quy luật hoặc định luật xác suất như trong các lĩnh vực khác. Tuyệt đối không có điều nào liên quan đến con người lại bắt buộc phải tin mà không cần bằng chứng. Cũng chẳng có một nhân vật siêu nhiên, bằng bất cứ cách thế hiện hữu như thể nào, lại được tâng bốc, bợ đỡ bằng tác động của lòng nhẹ dạ, ngu dốt. Người không có thành kiến khi đọc và hiểu các kinh Cựu ước và Tân ước thì sẽ không còn là người Thiên Chúa giáo Cơ-đốc nữa. Người thông minh, khi điều tra với lòng dũng cảm và không thành kiến về một tôn giáo của bất kỳ quốc gia nào, thì sẽ không còn và không thể là người tin.

Phần đông, sau khi đi đến kết luận rằng Jehovah không phải là Thiên Chúa, Kinh Thánh không phải là cuốn sách được thần linh mặc khải, và Thiên Chúa giáo, cũng như bất cứ một tôn giáo nào khác, là sáng chế của con người, đều cho rằng: “Phải có một đấng Tối cao, nhưng Jehovah không phải là tên của Đấng đó, và Kinh Thánh không phải là lời của Ngài. Ở đâu đó phải có một đấng Quan Phòng cai trị hay một đấng Quyền Năng.”

Quan điểm này không đứng vững cũng như quan điểm kia. Đấng đó không thể hoà hợp những tàn ác trong Kinh Thánh với lòng nhân từ của Jehovah, những khủng khiếp trong thiên nhiên với lòng tốt lành và sự khôn ngoan của đấng gọi là Thần Linh. Đấng đó sẽ không có cách nào giải thích được tại sao có bệnh dịch và nạn đói, có động đất và mưa bão, có người nô lệ, có kẻ mạnh thống trị kẻ yếu, có vô số chiến thắng của điều bất công. Ngài sẽ thấy không thể nào giải thích được về các người tử vì đạo – về việc thiêu sống những người tốt lành, đáng kính phục, có lòng yêu thương, bởi những tên ngu dốt có ác tâm và bỉ ổi.

Làm sao người tin vào Thiên Chúa có thể giải thích một cách thoả đáng những khổ đau của đàn bà và trẻ em? Bằng cách nào để họ biện minh về việc khủng bố trong tôn giáo – lửa và gươm của lòng căm thù tôn giáo? Tại sao Thiên Chúa ngồi im lặng trên ngai vàng của Ngài, để cho những kẻ thù của Ngài đâm chém các bạn hữu của Ngài? Tại sao Ngài không trả lời những lời cầu xin của kẻ bị giam cầm, không có sự giúp đỡ? Và khi Ngài nghe tiếng roi quất trên lưng trần của người nô lệ, tại sao Ngài lại không nghe lời kêu van của hắn? Và khi những trẻ thơ bị giật ra khỏi vú của các bà mẹ để đem bán, tại sao Ngài không nghe lời than khóc của họ?

Đối với tôi, có vẻ như người biết về những giới hạn của trí tuệ, đặt một giá trị thích đáng vào chứng cớ của con người, nhất thiết phải là người không tin. Hắn từ bỏ hy vọng vào việc khẳng định chắc chắn các nguyên nhân đầu tiên hay cuối cùng, vào sự hiểu biết về một đấng siêu nhiên, hoặc vào sự nhận thức về một nhân vật vô hạn. Những danh từ như đấng Sáng Tạo, đấng Gìn Giữ, và đấng Quan Phòng, tất cả đều vô nghĩa.

Trí tuệ của con người theo đuổi con đường ít có chống đối nhất, và những kết luận đạt được của mỗi cá nhân tùy thuộc vào vật chất và cấu trúc của trí óc, vào kinh nghiệm, vào những thái độ hay khuynh hướng di truyền, và vào vô số những gì tạo nên sự khác biệt giữa các trí óc. Một người ở giữa những hiện tượng huyền bí sẽ đi đến kết luận rằng mọi sự đều là kết quả của thiết kế; rằng đằng sau mọi sự vật là một nhân vật vô hạn. – ý muốn nói một con người vô cùng tận; và hắn giải thích mọi vật bằng cách đơn giản cho rằng vũ trụ đã được sáng tạo và chuyển động bởi nhân vật vô hạn này, và vũ trụ được cai quản và duy trì một cách bí mật và siêu tự nhiên. Hắn thấy hoàn toàn rõ ràng là vật chất không thể tự tạo, và do đó hắn tưởng tượng về một người sáng tạo ra vật chất. Hắn tuyệt đối bằng lòng phải có sự thiết kế trong thế giới, và như vậy đã có người thiết kế. Hắn chẳng cần giải thích về sự tồn tại của nhân vật vô hạn. Hắn tin chắc không thể có thiết kế nếu không có người thiết kế, và hắn cũng tin bằng nhau có một người thiết kế mà không bị thiết kế. Sự vô lý quá lớn đến nỗi cần phải có chứng minh. Hắn chấp nhận vật chất đã được sáng tạo và người sáng tạo không cần được sáng tạo. Hắn giả sử đấng sáng tạo tự hiện hữu từ vô thuỷ vô chung mà không cần nguyên nhân, và từ hư vô Ngài đã sáng tạo ra cái thứ gọi là vật chất; hoặc, trong khi chưa có một thứ gì, đấng sáng tạo này đã làm ra mọi thứ mà chúng ta gọi là vật chất.

Có thể nào trí tuệ con người hiểu được về một nhân vật vô hạn không? Trí tuệ có thể tưởng tượng ra một hữu thể không có khởi đầu, toàn năng và toàn trí được không? Nếu có một hữu thể như vậy tồn tại thì phải có một thời gian vô tận, ở đó không có gì hiện hữu ngoài hữu thể này; bởi lẽ, nếu vũ trụ đã được sáng tạo thì đã có thời chưa có nó, và trước đó phải có một thời gian vô cùng tận, chẳng có gì tồn tại ngoại trừ nhân vật vô hạn đó.

Có thể tưởng tượng một nhân vật thông minh vô cùng ở trong hư vô từ vô thủy vô chung được không? Làm sao một hữu thể như vậy có thể thông minh? Mà thông minh về cái gì? Chỉ có một điều duy nhất biết, đó là đã chẳng có gì ngoài hữu thể này. Làm sao một hữu thể như vậy lại toàn năng? Chẳng có gì để đặt năng lực vào. Chẳng có gì trong vũ trụ để có nguồn cảm hứng. Không thể có mối tương quan – ngoại trừ tương quan giữa đấng thông minh vô cùng và hư vô.

Điều khó khăn lớn kế tiếp là công việc sáng tạo. Trí tuệ của tôi định rằng tôi không thể nào nhận thức một thứ gì được sáng tạo từ hư vô. Tôi cũng chẳng thể hiểu bất cứ thứ gì được sáng tạo mà không có một nguyên nhân. Hãy để tôi tiến xa thêm bước nữa. Thật khó có thể tưởng tượng một thứ gì được sáng tạo do một nguyên nhân cũng như không do một nguyên nhân nào. Đặt nguyên nhân thành một định đề không làm giảm khó khăn thêm một chút nào. Cho dù là vậy, đòn bẩy này vẫn không có điểm tựa. Chúng ta không thể nhận thức về tính hủy hoại của vật chất. Hòn đá có thể bị ghiền nát thành bột, rồi bột có thể xay cho thật nhuyễn, sao cho các nguyên tử chỉ có thể phân biệt được qua kính hiển vi mạnh nhất, và rồi chúng ta có thể tưởng tượng những nguyên tử này được phân chia và lại phân chia nữa; nhưng chúng ta không thể tưởng tượng được về sự triệt tiêu một phần nhỏ nhất của nguyên tử mà chúng ta có thể nghĩ ra. Như vậy, trí tuệ không thể tưởng tượng được về sự sáng tạo hay phá huỷ. Từ điểm này, thực là dễ dàng để đi đến một điều tổng quát, rằng cái không thể bị phá huỷ thì không thể được sáng tạo. Mặc dù vậy, những câu hỏi này sẽ được mỗi cá nhân trả lời theo cấu trúc trí óc của mình, theo kinh nghiệm của mình, theo thói quen mình suy nghĩ, và theo sự thông minh hoặc ngu dốt, thành kiến hoặc tài năng của mình.

Có lẽ một phần rất đông nhân loại tin vào sự tồn tại của những hữu thể siêu tự nhiên, và một số đông quốc gia văn minh tin vào một nhân vật vô hạn. Trong lĩnh vực tư tưởng, số đông không quyết định. Mỗi khối óc là một vương quốc, mỗi trí tuệ là một ông vua.

Sự phổ biến một niềm tin cũng không chứng minh được tính chân thật của nó. Một phần đông nhân loại tin tưởng vào đấng được gọi là Thiên Chúa, và cũng một phần đông nhân loại không kém đã mặc nhiên tin tưởng vào những thứ được gọi là quỷ dữ. Các hữu thể này đã được suy diễn ra từ những hiện tượng. Chúng phần lớn là sản phẩm của sự ngu dốt, sự sợ hãi, và lòng ích kỷ. Con người ở mọi thời đại đã cố gắng giải thích về những bí mật của sự sống và sự chết, của vật chất, của năng lực, về sự suy tàn và chuyển động của các sự vật, và về trái đất và các vì tinh tú. Người man rợ, ăn ở trong động, sinh sống nhờ các rễ cây và loài bò sát, hoặc nhờ những sinh vật giết được bằng gậy và đá, bị bao quanh bởi vô số những thứ kinh hãi, đứng bên con sông mà hắn tưởng như không có khúc nguồn hay khúc cuối, bên biển cả mà hắn chỉ biết có một bờ, là mồi ngon của những con vật mạnh hơn hắn, của những bệnh tật lạ lùng và mãnh liệt, run sợ khi nghe tiếng sấm, bị loá mắt vì tia chớp, cảm thấy mặt đất rung chuyển ở phía dưới, thấy bầu trời xám xẹt với những tia sáng của hỏa diệm sơn – nằm phủ phục và van xin sự che chở từ một đấng Vô Danh.

Trong đêm dài hoang dã, giữa những bệnh dịch và nạn đói, trải suốt những mùa đông dài thê lương, núp trong các sào huyệt đen tối, những hạt giống của lòng mê tín dị đoan đã được gieo vào trí óc của con người. Người man rợ tin tuyệt đối rằng mọi sự xảy ra đều có liên quan đến hắn; rằng những hành động của hắn có thể gây sự nổi giận, hoặc sự tôn thờ của hắn có thể làm xoa dịu sự phẩn nộ của nhân vật mà hắn không thấy. Bằng tài năng khôn khéo nhất, hắn vẽ lên đá hoặc lên gỗ ý tưởng của hắn về thần linh. Hắn xây một cái chòi, một căn lều, và cuối cùng là một ngôi vương cung thánh đường cho thần tượng này. Hắn quỳ lạy trước những hình tượng, và ở những miếu thờ này, hắn phung phí tiền bạc của hắn, hắn tìm sự che chở cho hắn và những người hắn thương yêu. Một số ít người lạm dụng một số đông ngu dại. Họ giả bộ như đã nhận được thông tin từ đấng Vô Danh. Họ đứng giữa đám người không có sự giúp đỡ và các thần linh. Họ là những người mang cờ đình chiến. Tại toà phán xét ở thiên đình, họ biện hộ cho con người, và họ sống nhờ công lao của những người đã chết.

Người Thiên Chúa giáo ngày nay thắc mắc về việc quỳ lạy trước thần tượng của người man rợ; và tuy nhiên, phải thú nhận rằng thạch thần cũng đã nhận lời cầu nguyện và che chở cho những người thờ lạy thần, giống hệt như Thiên Chúa của người Thiên Chúa giáo ngày nay nhận lời cầu nguyện và che chở cho những người thờ lạy Ngài.

Trí tuệ của tôi bắt buộc phải đi đến kết luận rằng vật chất thì vĩnh viễn; vũ trụ không có khởi đầu và sẽ không có kết thúc, nó tồn tại muôn đời; các mối tương quan thì ngắn ngủi và phù du; các sinh vật sinh sản rồi bị tiêu diệt; các dạng thức thay đổi, - nhưng phần vật chất của mọi vật thì vĩnh viễn trường tồn. Có thể các hành tinh được sinh ra và chết, các chòm sao sẽ biến mất trong không gian vô tận, vô số mặt trời sẽ nguội đi, - nhưng phần vật chất vẫn còn mãi mãi.

Những câu hỏi về nguồn gốc và định mệnh dường như nằm ngoài khả năng của trí tuệ con người.

Tính di truyền đi đôi với tính mê tín dị đoan. Tất cả sự ngu dốt của chúng ta biện hộ theo người già. Phần đông con người cảm thấy tổ tiên của họ quá tốt lành, can đảm, và khôn ngoan, và những quan điểm của tổ tiên về mọi điều liên quan đến tôn giáo cần phải được tuân thủ. Họ tin rằng cha mẹ họ là những người giỏi nhất, và điều gì làm họ hài lòng cũng sẽ làm con cháu họ hài lòng. Với lòng kính trọng, họ bảo rằng tôn giáo của mẫu thân họ thì tốt lành đủ, trong sáng đủ, và hợp lý đủ đối với họ. Bằng cách này, tình thương yêu cha mẹ và sự kính trọng tổ tiên đã mua chuộc lý trí trong vô thức, hoặc làm mù quáng con mắt của lý trí.

Trong thâm tâm người già có sự khát khao được sống và chết ở nơi chốn cha mẹ của họ đã sống và chết – một khuynh hướng muốn trở về lại những ngôi nhà của thời niên thiếu. Xung quanh cây sồi già trưởng thành là những cây nho leo mọc và dính bám chặt. Tuy nhiên, bảo rằng tôn giáo của mẫu thân tôi đủ tốt cho tôi thì càng khó khăn hơn là bảo rằng Địa Chất Học hay Thuật Chiêm Tinh hay Triết Học của mẫu thân tôi đủ tốt cho tôi. Mọi người đều có quyền phấn đấu cho những điều tốt đẹp nhất; và nếu có một chút xíu tiến bộ về tôn giáo của thân mẫu, người con có quyền thụ hưởng sự tiến bộ đó, và hắn không nên từ bỏ lợi ích đó bằng ý tưởng sai lầm rằng hắn có bổn phận đối với mẫu thân hắn là làm thành vĩnh viễn, theo cách kính trọng, những sai lầm u mê của bà.

Nếu chúng ta phải theo tôn giáo của cha mẹ chúng ta thì cha mẹ chúng ta cũng phải theo tôn giáo của họ. Như vậy thì đã không thể có sự tiến bộ trong lĩnh vực tư tưởng. Tôn giáo đầu tiên có lẽ đã là tôn giáo cuối cùng, và người con có lẽ đã chết trong sự ngu dốt như người mẹ. Sự tiến bộ có lẽ đã không có, và sự thông minh của nhân loại có lẽ đã bị hy sinh ở những ngôi mộ của các tổ tiên.

Chúng ta cũng biết rằng đã có tôn giáo của bộ lạc, của cộng đồng, và của quốc gia, và đã có cảm nghĩ cho là bổn phận của mỗi thành viên của bộ lạc hoặc cộng đồng, và của mỗi công dân của quốc gia, là phải đòi hỏi tôn giáo của bộ lạc đó, của cộng đồng đó, của quốc gia đó, tốt hơn tôn giáo của bất cứ nơi nào khác. Chúng ta biết rằng tất cả những thành kiến đối với các tôn giáo khác, và toàn thể tính tự cao tự đại của quốc gia và bộ lạc, đều để thiên vị cho lòng mê tín dị đoan địa phương. Mỗi một công dân phải ái quốc đủ để bám chặt vào tôn giáo của mình và từ bỏ các tôn giáo của những quốc gia khác. Và có một điều kỳ lạ nơi con người: hắn có thể nhận thấy những phi lý của các tôn giáo khác trong khi lại mù mắt đối với những phi lý của tôn giáo hắn. Người Thiên Chúa giáo biết rõ ràng Mohammed là kẻ lừa đảo. Họ biết điều đó chắc chắn, bởi vì dân thành Mecca là những người quen biết Ngài đã tuyên bố rằng Ngài không phải là đấng tiên tri; và điều tuyên bố này được người Thiên Chúa giáo chấp nhận như là bằng chứng Mohammed đã không có thần khải. Tuy nhiên, cũng chính những người Thiên Chúa giáo này thừa nhận rằng dân thành Jerusalem là những người quen biết đức Ki-tô nhưng đã từ chối Ngài; và họ xem sự từ chối này như là bằng chứng xác thực đức Ki-tô là con Thiên Chúa.

Người trung bình theo tôn giáo của quốc gia hắn, hoặc đúng hơn, tôn giáo quốc gia hắn nhận hắn. Hắn bị thống trị bởi lòng tự cao tự đại của giống nòi, lòng ngạo mạn của quốc gia, và lòng thành kiến còn được gọi là lòng ái quốc. Hắn không suy luận; hắn chỉ cảm thấy. Hắn không điều tra; hắn chỉ tin. Đối với hắn, những tôn giáo của các quốc gia khác là vô lý và bỉ ổi, và những thần linh của họ là những quái vật ngu dốt và tàn ác. Ở mỗi quốc gia, người trung bình này trước hết được dạy có một đấng Tối cao; thứ nhì, Đấng đó đã làm cho con người biết ý muốn của Ngài; thứ ba, Ngài sẽ thưởng công những ai tin theo Ngài; thứ tư, Ngài sẽ xử phạt những ai không tin, phỉ báng, và xúc phạm Ngài; thứ năm, có những lễ nghi tán dương làm Ngài vui lòng; thứ sáu, Ngài đã thành lập Giáo hội; thứ bảy, các linh mục là những người đại diện của Ngài ở trần gian. Và người trung bình không có khó khăn gì để xác định rằng Chúa của quốc gia hắn là Chúa chân thật; rằng ý muốn của Chúa chân thật này nằm trong các sách thiêng của quốc gia hắn; rằng hắn là một trong những kẻ tin đúng sự thật, rằng dân tộc của các quốc gia khác – nghĩa là những người tin vào các tôn giáo khác – là những kẻ phỉ báng; rằng chỉ có một Giáo hội chân thật là Giáo hội mà hắn là thành viên; và rằng những linh mục của quốc gia hắn luôn luôn có một chút ảnh hưởng với Chúa chân thật này. Tất cả những điều phi lý này đối với người trung bình được xem như những xác nhận hiển nhiên; và như vậy, hắn khinh bỉ mọi niềm tin khác, và tự khen mình là người được Chúa chân thật ưu đãi.

Nếu người Thiên Chúa giáo trung bình được sinh ra ở Turkey, có lẽ hắn đã là người Hồi giáo; và nếu người Hồi giáo trung bình được sinh ra ở Anh quốc và được giáo dục ở Andover, có lẽ hắn đã xem sự nguyền rủa vào địa ngục cho người ngoại đạo như là đầy tràn niềm vui lớn.

Các quốc gia có những điều lệch lạc, điều riêng biệt, và những ảo tưởng, và những thứ này được tìm thấy trong luật pháp, phong tục, lễ lạc, luân lý, và tôn giáo của quốc gia. Chúng phần đông được quyết định bởi địa lý, khí hậu, và vô số những hoàn cảnh đúc khuôn và thống trị đời sống và thói quen của các loài côn trùng, bởi những cá nhân, và bởi các quốc gia. Người trung bình mặc nhiên tin vào tôn giáo của quốc gia hắn, bởi vì hắn không biết gì về tôn giáo nào khác và cũng chẳng có hứng thú để biết. Tôn giáo hắn phù hợp với hắn bởi vì hắn đã được uốn nắn để phù hợp, và hắn xem sự phù hợp này như là chứng cớ của chân lý thần khải.

Con người có quyền nghiên cứu, điều tra tôn giáo của quốc gia mình - tôn giáo của chính cha mẹ mình không? Người Thiên Chúa giáo công nhận rằng những người công dân của các quốc gia không Thiên Chúa giáo có cái quyền này, và rằng đó là bổn phận nghiêm trọng của họ. Hằng ngàn nhà truyền giáo được sai đến những quốc gia ngoại đạo để thuyết phục những người tin các tôn giáo khác không những xét lại những điều mê tín của họ mà còn để khước từ chúng, và để chấp nhận tôn giáo của những nhà truyền giáo. Đó là bổn phận của người ngoại đạo phải từ bỏ tôn giáo của quốc gia họ và khinh thường tín ngưỡng của cha mẹ họ. Nếu những người công dân của các quốc gia ngoại đạo có quyền xem xét lại nền móng của tôn giáo họ thì những người công dân của các quốc gia Thiên Chúa giáo cũng phải có cái quyền này. Mặc dù vậy, những người Thiên Chúa giáo còn đi xa hơn nữa; họ nói với những người ngoại đạo rằng: Bạn phải xem xét lại tôn giáo của bạn, và không chỉ vậy mà còn phải từ bỏ nó; và, trừ phi bạn vất bỏ nó, và thay vào đó, chấp nhận tôn giáo của chúng tôi, còn không bạn sẽ bị đày vào địa ngục muôn đời. Rồi cũng chính những người Thiên Chúa giáo này lại nói với những người ở quốc gia Thiên Chúa giáo: Bạn chớ nên nghiên cứu; bạn chớ nên điều tra; nhưng cho dù bạn nghiên cứu hay điều tra, bạn phải tin, hoặc bạn sẽ bị đày vào địa ngục muôn đời.

Nếu có một tôn giáo chân thật thì làm sao có thể biết chắc chắn tôn giáo nào là tôn giáo chân thật? Chỉ có một cách duy nhất. Chúng ta phải nghiên cứu một cách không thiên vị những điều tuyên bố của mọi tôn giáo. Quyền nghiên cứu cần thiết đòi hỏi phải bao gồm cả quyền chấp nhận hoặc khước từ. Thực ra, đó không phải là quyền nhưng là sự cần thiết. Từ kết luận này, không thể có một lối thoát. Như vậy, nếu chúng ta có quyền nghiên cứu thì chúng ta cũng có quyền tuyên bố kết quả được tìm thấy. Người Thiên Chúa giáo đã nghiên cứu một số các tôn giáo khác, và họ đã nói lên ý kiến của họ với sự tự do hoàn toàn – nghĩa là họ đã từ chối tất cả như là sai lầm và lừa lọc; đã xem các thần linh của những người ngoại đạo như là thần tượng và thần thoại, và các thày tu như là những kẻ chuyên nghề lừa đảo.

Người Thiên Chúa giáo không nghĩ là nên đọc kinh Koran. Có lẽ không có đến một người trong một ngàn người Thiên Chúa giáo đã từng nhìn thấy một bản sao của kinh này. Và tuy nhiên, tất cả những người Thiên Chúa giáo hoàn toàn bằng lòng rằng kinh Koran là sản phẩm của kẻ mạo danh. Không có một người Tin lành Presbyterian nào nghĩ rằng nên để thì giờ nghiên cứu các hệ thống tôn giáo Ấn độ. Hắn biết rằng người theo Ấn giáo thì sai lầm, và những phép lạ của họ đều giả tạo. Không có người Tin lành Methodist nào bận tâm tìm hiểu về đời sống của đức Phật, và không có người Tin lành Baptist nào bỏ phí thời gian của hắn để học về nền luân lý của Khổng Tử. Người Thiên Chúa giáo thuộc mọi giáo phái chấp nhận rằng chỉ có một tôn giáo chân thật, và rằng tất cả mọi tôn giáo, ngoại trừ Thiên Chúa giáo, là tuyệt đối không có nền tảng. Thế giới Thiên Chúa giáo tin rằng tất cả những lời cầu xin của người Ấn giáo không được nhận lời; rằng hiến vật trên vô số bàn thờ của những người Ai cập, Hy lạp, và La mã đều không có kết quả gì. Họ tin rằng những quốc gia hùng mạnh này thờ cúng các thần linh của họ vô tích sự; những thày tu của họ là những người lừa dối hoặc bị lừa dối; các nghi lễ của họ thì đồi bại hoặc vô nghĩa; các đền miếu của họ đã xây dựng bằng sự ngu dốt và lừa bịp, và không có thần linh nào nghe tiếng hát tán tụng, lời than khóc vô vọng, lời cảm tạ của họ; sự việc hết bệnh dịch giải thích cho tôn giáo của họ; động đất và núi lửa, lụt lội và bão tố tiêu diệt họ – trong khi Thiên Chúa chân chính thì nhìn xuống họ, nhạo cười những tai ương và chế nhạo sự sợ hãi của họ.

Ngày nay, chúng ta nhận thấy sự phồn thịnh của các quốc gia tùy thuộc không phải vào tôn giáo của họ, không phải vào lòng tốt lành hoặc sự quan phòng của một thần linh nào đó, mà vào địa lý, khí hậu, và buôn bán, vào tài khéo léo, nền kỹ nghệ, và lòng can đảm của người dân, vào sự phát triển của trí tuệ, vào sự phổ biến nền giáo dục, vào sự tự do tư tưởng và hành động; và trong toàn cảnh hùng vĩ này về sức sống của quốc gia, lý trí đã xây dựng và lòng mê tín dị đoan đã phá hoại.

Đồng ý rằng mọi người tin chính xác như họ phải tin, và những tôn giáo đã được thành lập theo cách thức tự nhiên, tôi không khen ngợi hoặc phiền trách bất cứ ai. Những người tốt đã từng có những tín ngưỡng xấu, và những người xấu đã từng có những tín ngưỡng tốt. Đã có những người cao quý nhất trong loài người chiến đấu và chết cho điều sai lầm. Trí óc con người là chỗ tin cậy của những điều mâu thuẫn. Cảm xúc thường làm chủ lý trí, và rồi hiện trạng của con người, giống như một vương quốc nhỏ, phải chịu đựng thực chất của một cuộc nổi dậy.

Khi bàn cãi về những vấn đề tôn giáo hay thần học, chúng ta hầu như là trao đổi cho nhau những quan điểm cá nhân, và ngày nay, chúng ta cứu xét những luận cứ thay vì chụp mũ và nguyền rủa nhau. Những người thực sự tìm chân lý phải là những người bạn tốt nhất. Mỗi người đều biết rằng lòng ao ước khát khao của mình không bao giờ thay thế sự kiện, và rằng, trước khi đi tìm chân lý, cần phải có lòng danh dự tột bực trong việc tìm kiếm lương thiện.

Chúng ta thấy những con tàu trôi đi khắp nơi bởi cùng một cơn gió. Cũng vậy, con người khi đọc cùng một cuốn sách đã viết thành nhiều tín điều và thảo ra nhiều con đường đi lên thiên đường. Trong khả năng tốt nhất của tôi, tôi đã nghiên cứu những tôn giáo của nhiều quốc gia và các tín điều của nhiều giáo phái. Chúng rất giống nhau, và lời chứng mà chúng được hỗ trợ chỉ đại loại là một phần thưởng đời đời hứa cho những kẻ tin theo. Trong tất cả mọi sách thiêng, có đôi chút chân lý, một vài tia sáng, đôi ba chữ nghĩa chứa đựng tình yêu và hy vọng. Gương mặt của người man rợ đôi khi mềm nhủn vì một nụ cười – con người chiến thắng khải hoàn và trái tim vỡ thành ca khúc. Nhưng trong những cuốn sách này cũng có sự sợ hãi và lòng hận thù, và từ những trang sách đó, những con rắn bò ra, cuộn tròn, và kêu rít rít trên mọi nẽo đi của con người.

Phần tôi, tôi thích hơn những cuốn sách mà sự cảm hứng không có công bố. Bản chất của trí óc tôi thì như vậy đến nỗi Shakespeare cho tôi sự vui mừng lớn lao hơn tất cả các tiên tri của thời cỗ xưa.

Có những tư tưởng làm thoả mãn cơn đói của trí tuệ. Tôi bị thuyết phục rằng Humboldt biết nhiều về địa lý hơn tác giả cuốn kinh Sáng thế ký; Darwin là nhà tự nhiên học cao cả hơn người viết truyện về cơn lụt đại hồng thuỷ; Laplace quen thuộc với quỷ đạo mặt trời và mặt trăng hơn Joshua; Haeckel, Huxley, và Tyndall biết nhiều về trái đất và các vì tinh tú, về lịch sử con người, về triết lý sống – về công dụng của nó hơn cả chục ngàn lần – hơn tất cả các tác giả của những sách thiêng. Tôi tin vào tôn giáo của lý trí – thánh kinh của thế giới này; vào sự trưởng thành của trí tuệ, vào việc tích luỹ làm giàu kiến thức, vào kết cục con người sẽ được tự do thoát khỏi nỗi sợ hãi mê tín, vào việc cuối cùng hắn sẽ lợi dụng sức mạnh của thiên nhiên để tạo ra cơm ăn áo mặc cho cả thế giới.

Chúng ta hãy lương thiện với chính mình. Trước sự hiện diện của vô số điều huyền bí; đứng dưới bầu trời dầy đặc các chùm sao; biết rằng mỗi một hạt cát, mỗi một lá cây, mỗi một cọng cỏ, đặt cho mỗi một trí tuệ câu hỏi không có trả lời; biết rằng điều đơn giản nhất cũng thách đố một giải đáp; cảm thấy rằng chúng ta chỉ đối phó với cái mặt nổi và cái tương đối, và chúng ta bỏ qua cái thực chất và cái tuyệt đối, - hãy công nhận trí tuệ của chúng ta có giới hạn, và hãy can đảm và ngay thẳng để nói rằng: Chúng ta không biết.

Trần Tiên Long dịch

[Source: North American Review, December, 1889. http://www.holysmoke.org/an/rgi.htm - AGNOSTIC.ZIP (Phần I)]

(Xem tiếp Phần II --->)