GIÁO HỘI LA MÃ:
LỊCH SỬ VÀ HỒ SƠ TỘI ÁC
- Nguyễn Mạnh Quang -
http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH01.php
06-Jan-2012
1 2 3
PHẦN I
SỰ HÌNH THÀNH CỦA GIÁO HỘI LA MÃ VÀ NHỮNG TỘI ÁC CHỐNG NHÂN LOẠI CỦA VATICAN
MỤC I
NGUỒN GỐC VÀ SỰ HÌNH THÀNH CỦA GIÁO HỘI LA MÃ
Mục này gồm có:
Chương
1: Sự hình thành chế độ đạo phiệt Do Thái và đạo Ki-tô Do Thái
Chương
2: Đạo Ki-tô Do Thái biến thể thành đạo Ki-tô La Mã.
CHƯƠNG 1
SỰ HÌNH THÀNH ĐẠO PHIỆT DO THÁI VÀ ĐẠO KI TÔ DO THÁI
Người
viết gọi đạo Do Thái là chế độ đạo phiệt Do Thái vì tôn giáo này ôm đồm
cả quyền lực chính trị rồi đem những tín lý hoang đường, phi nhân bản,
phản khoa học cùng những giáo luật hà khắc, nặng tính cách vơ vào và
bóc lột biến thành luật pháp quốc gia để cưỡng bách người dân phải tuân
hành. Cũng vì thế mà ngay từ lúc mới hình thành, Do Thái Giáo (Judaism)
cũng là quốc giáo của dân tộc Do Thái. Tôn giáo này ra đời sớm nhất
và chia làm hai thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất (Pre-Mosaic Judaism) hình thành
vào khoảng năm 2000 TCN kéo đến khoảng năm 1266 TCN thì biến thể thành
đạo Do Thái mới gọi là Mosaic Judaism.
Trong
thời kỳ thứ nhất, đạo Do Thái (Pre-Mosaic Judaism), không có hệ thống
tín lý hoang đường, nặng tính cách phỉnh gạt, lừa bịp để mê
hoặc lòng người, không có những câu chuyện loạn luân, dâm loan, và cũng
không có những lời phán dạy phi luân, ngược ngạo, tàn ngượic dã man.
Hầu hết việc tuân hành luật đạo là do lòng tự nguyện của tín đồ hơn,
chứ không có chủ trương cưỡng ép bằng bạo lực
Trong
thời kỳ thứ hai (Mosaic Judaism), đạo Do Thái bị biến thể thành một thứ
đạo phiệt với những ác tính cực kỳ ghê tởm mà chúng ta có thể tìm thấy
trong Cựu Ước trong đó có (1) những chuyện hoang đường nặng tính cách
phỉnh gạt và lừa bịp để mê hoặc lòng người, (2) những chuyện loạnan
luân, dâm loạn biểu hiện một xã hội của những người của thời kỳ tối man
rợ, và (3) những giáo luật cũng như những lời dạy nặng tính cách phản
nhân luân, ích kỷ, tham tàn, gian ác, thâm độc, lấn lướt và vơ vào. Tất
cả đều dựa vào quyền lực của bạo quyền để cưỡng bách người dân phải tuân
thủ và tuân hành. Chính vì những nhược điểm như vậy mà về sau, đạo Do
Thái mới này lại phân hóa thành nhiều hệ phái khác nhau (sẽ được trình
bày ở phần sau).
1.-
Đạo Do Thái Trong Thời Nguyên Thủy (Pre-Mosaic
Judaism)
Vào
khoảng năm 2000 trước công nguyên, ông Abraham dẫn một nhóm người đồng
hương di cư từ thành Ur thuộc xứ Chaldée (ngày nay là nước Irak) ở phía
đông sông Euphrate đến định cư tại vùng đất Canaan nằm ở phía tây sông
Euphrate và đặt ra một số quy luật để quản lý đòan người tha phương cầu
thực này. Sách Công Giáo - Huyền Thoại và Tội Ác ghi lại sự kiện này
như sau:
“Năm
2000 trước Công Nguyên, Abraham được tôn lên làm vị lãnh đạo các tộc
trưởng Do Thái trong đế quốc Babylon (the leader of all patriarchs
of Jews). Abraham dẫn dân Do Thái rời khỏi đế quốc Babylon về miền
Đất Hứa là vùng Canaan, hiện nay được gọi là West Bank (tả ngạn phía
Tây sông Jordan). Tại đây, Abrahma kết hợp với các bộ lạc Do Thái
khác với ý định thành lập một quốc gia cho các nhóm dân tộc Do Thái.
Ông có nhiều vợ – dân tộc Do Thái rất tự hào xưng là con cháu của Abraham
(the children of Abraham), nhưng thuộc dòng Sarah, con trai của Abraham
và bà vợ cả của Abraham là Sarah. Các dân tộc Hồi, Ả Rập cũng tự xưng
là con cháu của Abraham, nhưng thuộc dòng Ismael, con trai của Abraham
và một bà vợ bé tên là Hagar.” [1]
Cũng
nên biết rằng, vào thời kỳ này, nhân loại đã bước vào Thời Kỳ Đồng Thau
[Bronze Age] (3150-1200), tương đương với Nhà Hạ (2205-1766 TCN) ở bên
Trung Hoa. Niềm tin tôn giáo của người Do Thái trong thời kỳ này là một
mớ tạp nham các truyền thuyết của các dân tộc sống trong vùng Lưỡng Hà
Châu (Mesopotamia), một vùng đồng bằng nằm trong lưu vực của hai con
sông Tigris và Euphrates. Vị thần linh được họ tôn thờ là Thượng Đế và
cũng gọi là Thiên Chúa Elohim có hình tượng là một con bò đực. Ông Charlie
Nguyễn giải thích ý nghĩa này như sau:
“Tiếng
Semitic (Do Thái) gọi El là Elim. Elim là danh từ số ít, Elohim là
danh từ số nhiều, nhưng lại có nghĩa là MỘT (Elohim is one) vì Elohim
bao hàm ý nghĩa thần El là vị thần của tất cả mọi sự (The All-God).
Thần El là Toàn Thể (The one who is All) gần tương tự như Toàn Năng
(The Almighty – The Absolute Power). Thần El là vị thần chân thực của
các thần (The one true God of gods) là vị thần được mọi người gọi bằng
nhiều tên khác nhau nhưng sự thực chỉ là một (many names of the one
true God). Thần El là tổng thể của mọi sự thiêng liêng (The totality
of the Divine.)” [2]
Người Do Thái sử dụng dạng số nhiều “Elohim”
là có ý muốn nói vị thần Elohim này là thần của tất
cả mọi người. Theo
các nhà sử học, vị thần linh này vốn là quan niệm về ông Trời của người
dân trong Đế Quốc Babylon trước đó. Ông Charlie Nguyễn viết:
Tập tục thờ Bò Thánh rất quen thuộc ở khắp
thế giới phương Tây thời cổ đại
trong tập Thánh Kinh của các thần tượng Bò Vàng -
ảnh http://en.wikipedia.org/wiki/Bull_(mythology)
“Căn
cứ vào các cổ vật và các sử liệu khách quan, các nhà nghiên cứu đã
xác định Babylon mới thực sự là nơi xuất phát đầu tiên của các đạo
Thiên Chúa. Trước đó, mọi người đã lầm tưởng Jerusalem, thủ đô Do Thái,
là thánh địa của các đạo này. Người Babylon quan niệm cuộc sống trên
thế gian chỉ là tạm bợ. Cuộc sống đời sau ở thiên đàng mới đích thực
là hạnh phúc vĩnh cửu. Họ tin rằng thế gian này sẽ bị tiêu hủy trong
một lúc nào đó gọi là ngày tận thế. Sau ngày tận thế, nước trời sẽ
được thiết lập ở thế gian. Hai ý niệm về thiên đàng và ngày tận thế
luôn luôn quyện với nhau. Đó là những ý niệm xuyên suốt từ Babylon
(Gate of God) qua Jerusalem (đạo Do Thái) và Vatican ngày nay (đạo
Kitô La Mã).
Những
tư tưởng đầu tiên của Abraham chưa hẳn là đã xác định có một Thiên
Chúa Duy Nhất (The Only One God) mà ông chỉ có ý định chọn một vị thần
mạnh nhất trong các vị thần của dân Sumerians để tôn thờ mà thôi. Vị
thần mà Abraham chọn là thần El, một con bò đực mạ vàng. Hiện nay,
tại bảo tàng viện Baghdah có trưng bày tượng bò đực mạ vàng của dân
Sumerians thuộc thời đại đế quốc Babylon (3000 TCN).” [3]
Chế
độ đạo phiệt Do Thái trong thời kỳ này còn ở trong một mức độ nhẹ nhàng
không chuyên đóan, không có giai cấp giáo sĩ và cũng không nặng tính
bóc lột tín đồ. Các nhà viết sử gọi thời kỳ này là đạo Do Thái Nguyên
Thủy (Pre-Mosaic Judaism). Đạo Do Thái Nguyên Thủy kéo dài được khoảng
750, (tức là vào khoảng từ năm 2000 TCN đến khoảng năm 1266 TCN) thì
biến thể thành đạo Do Thái Mới sau này.
Không
biết vì lý do nào mà người Hebrew lại bỏ thành Ur di cư về lập nghiệp
ở Canaan. Có giả thuyết cho rằng họ không chấp nhận cái tín ngưỡng đa
thần của người dân xứ Chaldée. Tương tuyền rằng khi vừa tới Canaan thì
ông Abraham nghe thấy Thượng Đế nói với ông rằng “Ta cho con cháu đất
này”. Thế là gia đình ông Abraham ở lại đây lập nghiệp. Ông Abraham trở
thành ông tổ của người Do Thái và là người sáng lập ra Do Thái giáo (Judaism).
Theo
học giả Nguyễn Hiến Lê viết trong cuốn Bài Học Do Thái thì trải qua đời
con ông Abraham là Isaac và đời con của Issac là Jacob rồi đến đời con
của Jacob là Joseph mới gây dựng nên “dân tộc” Do Thái. (Thiết tưởng
nên sử dụng từ “thị tộc” thay vì “dân tộc” vì lúc đó họ mới chỉ có một
số người giống như là một thị tộc.) Về sau, vì những biến chuyển của
thời thế, ông Joseph cùng một nhóm dân Do Thái, tất cả là 70 người (trang
27) di cư sang Ai Cập sinh sống. Những người theo đạo Ki-tô kể rằng ông
Joseph nhờ tài đoán chiêm bao mà được vua nước Ai Cập trọng dụng, cho
làm đến chức thượng thư (bộ trưởng) trong triều đình Ai Câp. Tuy nhiên,
sau đó họ lại bị bắt làm nô lệ.
Theo
sách Công Giáo – Huyền Thoại và Tội Ác thì vua Ai Cập là Ramses (1304-1237)
ham thích xây kim tự tháp cùng các đền đài và dinh thự nguy nga tráng
lệ. Vì nhu cầu cần có lao nô phục dịch cho các công trường xây cất những
đền đài và dinh thự trên đây mà dân Do Thái, một thứ dân ngụ cư (ăn nhờ
ở đậu), bị hy sinh phải làm nô lệ đáp ứng cho nhu cầu này (trang 115-116).
Theo sách Bài Học Do Thái thì đến năm 1583 trước Công Nguyên, vì căm
hận, những người dân Do Thái này đã tiếp tay với kẻ thù ngoại nhập trong
những năm Ai Cập bi quân Hyksos xâm lăng. Vì lý do này, chính quyền
Ai Cập mới bắt họ làm nô lệ và đối xử với họ rất là tàn nhẫn. Tình
trạng này kéo dài hơn 300 năm. Sự kiện này được học giả Nguyễn Hiến Lê
viết như sau:
“Khi
Ai Cập bị dân tộc Hyksos xâm lăng, họ (người Do Thái) bắt buộc phải
cộng tác với kẻ (chiến) thắng Sau khi đuổi được kẻ thù, Ai Cập oán
họ đã phản bội, bắt họ làm nô lệ. Họ cực khổ trăm chiều, muốn trốn
mà không được. Một vị thiếu niên anh tuấn đau lòng cho nòi giống, nhất
quyết dắt đồng bào thoát khỏi cái ách Ai Cập, vào chân núi Sinai, sống
đời lang thang, cực khổ... Vị trẻ tuổi ấy là Moise...” [4]
2.-
Đạo Do Thái Biến Thể Thành Một
Chế Độ Đạo Phiệt Từ Thời Ông Moses
Sách
sử Do Thái nói rằng khi ông Moses được ông Thượng Đế Jehovah "mặc
khải" phải dẫn đoàn người Do Thái về bờ biển phía Đông Hồng Hải
để nhận "luật" của ông thượng đế này theo đó mà cai trị dân.
Ông Moses tuân lệnh dẫn đoàn người Do Thái của ông về đến núi Sinai.
Tại đây, ông Moses gặp được vị thần có tên là Jehovah "mặc khải" (truyền
dạy) cho ông biết những tín lý thờ phượng ông thần này. Trong cuốn Bài
Học Do Thái, Học giả Nguyễn Hiến Lê ghi lại chuyện này như sau:
Núi Sinai
" Một
hôm ông (Moses) nghe được lời Thượng Đế ra lệnh phải giải thoát đồng
bào, dắt họ qua bờ bên kia Hồng Hải tới núi Sinai để nhận "luật" của
Thượng Đế. Thế là năm 1266 trước tây lịch ông cầm đầu đồng bào đưa
họ di cư về Đất Hứa. Tới Sinai, họ sống đời lang thang cực khổ nhưng
tự do của tổ tiên như vậy trong bốn chục năm. Ở Núi Sinai, Moise (Moses)
do Thượng Đế khải thị mà đặt cơ sở cho Do Thái giáo. Abraham trước
kia chỉ mới có một ý thức về một tôn giáo nhất thần. Nhờ Moise, tôn
giáo đó mới thực là thành lập, thờ thần Jahvé (Jehovah), một vị thần
vạn trí, vạn năng chí công, chí nhân tạo ra trời đất và là cha sinh
ra muôn loài." [5]
Luật
mà ông Moses nhận được từ ông Thượng Đế Jehovah là luật như thế nào?
Đây là một số rất nhiều luật được ghi trong các sách Sáng Thế, Phục Luật,
Dân Số, Leviticus, Xuất Hành, v.v... trong Cựu Ước Kinh. Một số những
luật này được ông Trần Quý ghi lại trong cuốn "Lòng Tin Âu Mỹ Đấy!" với
nguyên văn như sau:
Môi-se tuyên thệ trước con cháu của Israel,
in thạch bản từ một tấm thẻ Kinh Thánh
xuất bản vào năm 1907
“LUẬT
SỢ CHÚA: “Dùng danh nghĩa thiên-chúa Giê-hô-va, bọn giáo-sĩ chế (bịa)
ra các luật ở bảng thứ nhất để bắt dân phải cung phụng họ, chỉ được
thờ vị thần do họ đưa ra, phải diệt (hết) các đạo khác, phải giết nhưng
người thay đổi đạo mà họ đã đặt ra, phải giết vợ con, bạn hữu nếu những
người này tuyên truyền cho các đạo khác, phải không có lòng thương
xót khi giết người.
"LUẬT
QUY ĐỊNH VIỆC CUNG PHỤNG GIÁO SĨ: "Dân cúng thiên-chúa Giê-hô-va
bằng bò hay cừu thì phải dâng cho giáo-sĩ cái vai, cái hàm, cái bụng
(Phục-luật 18:3). Dân vừa mới thu hoạch được nông phẩm thì phải biếu
giáo-sĩ của đầu mùa từ rượu cho họ uống, gạo cho họ ăn cho đến lông
chiên (cừu) cho họ làm áo (Phục-luật 18:3).
LUẬT
QUY ĐỊNH VIỆC CUNG PHỤNG THIÊN CHÚA.- Môi-se ra lệnh cho đám dân Do
Thái giặc cướp phải giết hết người nam, giết hết đàn bà, con gái đã
ăn nằm với đàn ông, chỉ giữ lại con gái trinh thôi (Dân số 31:17-18).
Giê-ho-va đòi dân đi ăn cướp về phải chia của cướp được cho mình. Của
này phải giao cho các giáo sĩ giữ từ cừu, bò cho tới những người con
gái (Dân số 31:28 và 31:40). Thân hình thiên chúa Giê-hô-va và thân
hình người đàn ông (Sáng Thế 1:26) giống nhau nên vị thiên chúa đó
đòi dâng con gái của loài người không có gì là lạ. Cha sao, con vậy.
Thảo nào các con của vị thần đó cũng ham (Sáng Thế 6:4) con gái loài
người. Vị thần ăn cướp gọi là Thiên-chúa Giê-hô-va đòi tín đồ chỉ được
thờ có một mình mình thôi, cho nên vị thần ấy đòi tín đồ thẳng tay
tiêu diệt quyền tự do tôn giáo, đòi như sau:
Phải
dứt khoát giết những người đi lễ (bất kỳ) vị thần nào khác ngoài Giê-hô-va
(Xuất Hành 22:20)
Phải
giết những kẻ tiên tri nào dám nhân danh các vị thần khác mà nói (Phục
Luật 18:20)
Chớ
theo những vị thần của các dân tộc ở chung quanh các ngươi (Phục Luật
6:14).
ảnh minh họa Thiên Chúa của Moses đang giết
các con nít đầu lòng ở Ai Cập, nguồn
http://www.thegodmurders.com/Moses.html
Dân
Do Thái phải dâng con đầu lòng cho Giê-hô-va (Xuất Hành 13:12). Dân
Do Thái hay dân khác sống trên đất Do Thái mà dâng con cho thần Mo-lóc
thì phải bị xử tử (Lê-vi: 20:2). Không được tha mạng sống cho các thầy
phù thủy (Xuất Hành 22:18).
Những
người đi hỏi thầy phù thủy hay hỏi thầy bói cũng phải dứt khoát bị
trừng trị. Giê-hô-va nói: “Ta sẽ đối mặt kẻ đó và sẽ cắt phăng kẻ đó
khỏi dân chúng (Lê-vi 20:6).
Giê-hô-va
tự nhận là thần Ganh-ghét, không tiếc lời căn dặn tín đồ mọi chi tiết
về việc phá các đạo khác: Phàm những dân tộc nào mà các ngươi đuổi
đi được, các ngươi phải:*Phá sạch những nơi thờ thần của họ (Thánh
Kinh Tin Lành dùng cụm từ “chúng nó” thay cho “họ") trên núi cao,
trên đồi, dưới bóng cây xanh, đập tan bàn thờ, đâp vụn cột đền, lấy
lửa đốt rụi hết các tượng của họ, * đục khoét cho mất hết mọi hình
chạm trổ các tượng thần của họ,* và xóa tên những thần ấy ở những nơi
đó (Phục Luật 12:2-3). Một nhóm dân Do Thái thờ thần Ba-an Pê-o khiến
cho Giê-hô-va nổi giận lôi đình rồi ra lệnh cho Môi-se:“Hãy đem hết
các thủ lãnh của đám dân này ra treo cổ ở ngoài nắng trước mặt Gia-vê
để cơn giận của Gia-vê không chĩa vào dân Do Thái (Dân Số 25:3-5).
*LUẬT
BẮT NÓI ĐÚNG LỜI GIÊ-HÔ-VA: Phải giết kẻ tiên tri nào dám nhân danh
Ta nói điều gì Ta không bảo nói (Phục Luật 18:20).
LUẬT
GIẾT VỢ CON, BẠN HỮU Nếu NHỮNG NGƯỜI NÀY TUYÊN TRUYỀN CHO CÁC ĐẠO KHÁC:
Khi anh em một mẹ với ngươi, hay con trai ngươi hay con gái ngươi,
hay người vợ yêu mến của ngươi, kín đáo xúi giục ngươi bảo ngươi rằng
“Ta hãy đi thờ các thần khác.” Đó là những thần khác mà các ngươi và
tổ tiên các ngươi chưa hề biết. Đó là những thần của những dân tộc
sống chung quanh các ngươi hoặc gần hoặc xa... Các ngươi hãy chớ theo
nó. Các ngươi đừng thương nó. Các ngươi chớ có xót-xa mà che chở cho
nó, các ngươi phải giết nó. Các ngươi phải giết nó trước rồi mới tới
tay dân chúng (Phục Luật 13:6-9)....”.[6]
LUẬT
TRỊ NGƯỜI.-“Các luật trị người mang danh là của thần Giê-hô-va chẳng
qua là bắt chước bộ luật của Ham-mu-ra-bi khắc trên bia đá ở đền thờ
thần Ma-đúc (Marduk) trong thành Ba-by-lon. Bộ luật ấy có trước khi
Môi-se đắt dân Do-thái bỏ Ai Cập di chuyển về hướng Pa-le-stin cả bao
nhiêu thế kỷ. Vua Ham-mu-ra-bi (1792-1749 trước dương lịch) cai trị
xứ Ba-by-lon, là một người nổi tiếng anh hùng. Triều đình ông gom góp
nhiều luật đã được các chính quyền vùng lưỡng-hà tạo ra trong mấy trăm
năm thành một bộ luật để xét xử các vụ án từ các cuộc xung đột gia
đình đến các vụ phạm pháp nặng hay nhẹ trong xã hội. Năm 1901, một
nhà khảo cổ người Pháp tên là Jean-Vincent Scheil tìm ra thấy ở vùng
Susa một tấm bia đá khắc luật Ham-mu-ra-bi. Nhờ vậy mà ngày nay sử
gia mới biết rõ rằng nếu có thần Giê-hô-va thì vị thần này đã học luật
dân sự để trong đền thờ thần Ma-đúc (Marduk) rồi đọc cho Môi-se chép.
Nhóm
Lệnh Trị Người cho ta thấy dân thời cổ ở Trung Đông bị cai trị rất
là nghiêm khắc. Đằng sau lệnh “Hãy Hiếu Kính Với Cha Mẹ” có một bản
án tử hình. Đứa con khó dạy, bội-nghịch, hoang-đàng, say-sưa có thể
bị cha mẹ giao cho các trưởng lão trong thành, rồi bị dân chúng ném
đá cho chết (Phục-luật 21:18-21). Đằng sau lệnh “Chớ Tà Dâm” có nhiều
bản án tử hình. Con gái mất trinh trước khi lấy chồng, nếu bị chồng
tố cáo thì sẽ bị dẫn về nhà của cha mẹ đẻ rồi bị dân ném đá cho chết
tại đây. (Phục-luật 22:13-21). Con gái đã hứa hôn mà còn đi ngủ với
trai thì cả hai đều bị ném đá cho chết. (Phục-luật 22:23).
Giê-hô-va
(ban) ra biết bao nhiêu luật giết người, kể cả bắt người ta giết vợ
con để bảo vệ sự thờ cúng một mình mình. Các Lệnh Sợ Chúa trong bảng
thứ nhất được ưu tiên, vượt trên các Lệnh Trị Dân trong bảng thứ nhì…” [7]
Căn
cứ vào những "luật" trên đây, chúng ta có thể nói hệ thống
luật pháp này là một thứ đạo lý hỗn hợp gồm có những tín lý hoang đường
nhảm nhí nặng tính cách lòe bịp người đời được pha trộn với luật lệ
chuyên chế hà khắc của bạo quyền trong một tổ chức xã hội của thời bán
khai nhằm để củng cố quyền lực của giai cấp thống trị và cũng là để
cưỡng bách người dân phải làm nô lệ phục vụ cho cả tôn giáo lẫn chính
quyền. Nói một cách khác, Do Thái Giáo là một thứ tôn giáo nhập nhằng
và trộn lộn với chính quyền và hòa nhập với nhau làm một cơ chế duy
nhất, biến thành một hệ thống luật pháp ôm đồm cả hai thứ giáo luật và
quốc luật trộn lộn với nhau, rồi dùng bạo lực của chính quyền cưỡng
bách người dân qua đời này đến các đời kế tiếp theo đó mà ứng xử với
nhau. Như vậy là nhân dân bị cưỡng bách phải phục vụ cho tôn giáo và
chính quyền. Nói riêng về tôn giáo, ta gọi đó là thứ tôn giáo "cưỡng
bách nhân dân phải phục vụ cho tôn giáo”.(mà thực sự là phục vụ
cho giai cấp giáo sĩ và bọn người tay sai của họ).
Đây là một thứ
tôn giáo vô cùng bạo ngược, dựa trên một số tín điều láo khoét được bịa
đặt ra để lừa gạt người đời rồi dùng chính quyền chuyên chế (bạo lực)
làm phương tiện cho bọn tu sĩ biến người dân dưới quyền trở thành tín
đồ để làm nô lệ phục vụ cho họ. Nội dung của Luật Sợ Chúa và Luật Cung
Phụng Giáo Sĩ là bằng chứng cho chúng ta thấy rõ cái bản chất cực kỳ
dã man của cái tôn giáo này.
Qua
phần trình bày trên đây, chúng ta có thể nói tổ chức chính trị và tôn
giáo của ngườii Do Thái lúc đó là một chế độ đạo
phiệt đầu tiên trong lịch sử loài người và bản chất của nó là sử dụng những thủ đọan lừa bịp
đi kèm theo bạo lực để khống chế nhân dân dưới quyền với mục đích củng
cố quyền lực của nhóm thiểu số cầm quyền hay giai cấp thống trị. Từ thế
kỷ 4 trở về sau, loại chế độ chính trị bịp bợm và bạo ngược này được
Giáo Hội La Mã sử dụng, khai triển và phát triển rồi hệ thống hóa một
cách hết sức tinh vi để phục vụ cho tham vọng bá quyền thống trị toàn
cầu và nô lệ hóa nhân loại.
3.-
Nhóm Người Do Thái Lưu Vong Trở
Về Do Thái
Bản đồ "đất hứa" Canaan trước khi bị chia cắt
Mãi
tới đời sau, đời ông Josué, nhóm người Do Thái trên đây mới về chiếm
lại được xứ Canaan, nơi mà họ gọi là Đất Hứa. Rồi dần dà, họ lập thành
quốc gia Do Thái. Lúc đó, ông Saul được tôn lên làm vua và là vị quốc
vương đầu tiên của người Do Thái. Vua Saul lãnh đạo dân Do Thái đánh
đuổi người Philistin, nhưng chẳng may bị tử trận. Con ông Saul là David
lên nối nghiệp, tiếp tục chiến đấu và chiến thắng chiếm được toàn vùng
Canaan, thiết lập thủ đô tại Jerusalem. Ông David mất, ông Solomon lên
nối ngôi vào năm 977 trước CN và đưa nước Do Thái vào thời kỳ cực thịnh.
Ông tổ chức các cơ cấu hành chánh, tài chánh và quân sự giống như nước
Việt Nam ta vào thời nhà Lý. Cũng vào thời cai trị của vua Solomon, người
Do Thái đã biết sáng chế ra một thứ lịch giống như âm lịch do người Trung
Hoa phát minh.
Vua
Solomon băng hà vào năm 937 trước CN. Bảy năm sau, vào khoảng năm 930
TCN, nước Do Thái bị phân hóa ra làm thành hai nước nhỏ: nước Israel
ở miền Bắc và nước Judée ở miền Nam. Hai nước tranh giành nhau
khiến cho cả hai cùng suy yếu. Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi.
Năm 722 TCN, người Assyrians đến tấn chiếm nước Israel ở miền Bắc. Năm
586 TCN, người Babylone đến tấn chiếm nước Judée ở miền Nam.
Ít lâu sau,
người Ba Tư đến đánh đuổi người Babylone thống trị cả toàn vùng. Thời
gian sau, người Hy Lạp với sức mạnh của đoàn quân của Đại Đế Alexander
đến đánh đuổi người Ba Tư và trở thành chủ nhân ông vùng đất này. Sau
người Hy Lạp đến người Syrie. Năm 164 TCN, dân Israel nổi lên đánh đuổi
được người Syrians giành lại chủ quyền.
Năm 63 TCN, người La
Mã tràn tới chiếm xứ Judée làm thuộc địa, nhưng vẫn để vua bản địa
cai trị như một thứ vua gỗ, y hệt như Liên Minh Xâm Lược Pháp -Thập
Vatican để cho các vua Đồng Khá6nh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định và
Bảo Đại làm tượng gỗ trên cái ngai vàng của triều đình nhà Nguyễn tại
kinh thành Huế trong những năm 1885-1945.
Từ
năm 722 TCN, Do Thái liên tiếp bị các cường quốc lân bang tấn chiếm
và thống trị, dân tộc Do Thái trở thành dân bị trị của các cường lân
xâm lược. Tôn giáo của các cường quốc xâm lăng được tự do du nhập vào
Do Thái mà tín đồ Do Thái không có khả năng tuân hành những lời dạy của
Chúa ghi trong các sách Leviticus (26:1-18), Phục Luật (12:2-3, 13:
6-9), Dân Số (25:3-5) để tiêu diệt các tôn giáo khác.
Cũng
từ đó, giáo sĩ Do Thái cũng không còn quyền lực để cưỡng bách tín đồ
phải cung phụng cho họ như đã quy định trong sách Phục Luật (18:3),
cũng không thể cưỡng bách họ phải cung phụng Thiên Chúa như đã quy định
trong sách Dân Số (31:17-18) và cũng không thế áp dụng Luật Trị Người
như đã quy định trong sách Phục Luật (21: 18-21 và 22: 13-23).
Kết
quả là đạo Do Thái mất hẳn đi tính cách đạo phiệt của nó. Tất cả những
ác tính này đã trở thành dĩ vãng. Mất đi các quyền lực trên đây, giới
tu sĩ Do Thái mất luôn cả cái địa vị thượng đẳng trong xã hội, có còn
chăng thì cũng chỉ là còn trong kỷ niệm và mơ tưởng ngày PHỤC QUỐC và
cũng là PHỤC HỒI cái địa vị thượng đẳng của họ ở trong xã hội như ngày
nào. Tình trạng này y hệt như nhóm thiểu số người Trung Quốc trong các
tổ chức Phản Thanh Phục Minh từ năm 1644 trở về sau và cũng giống như
nhóm thiều số tín đồ Ca-tô người Việt ở miền Nam Việt Nam từ ngày 30/4/1975
cho đến ngày nay.
4.-
Nhận Xét Về Đạo Do Thái
Vào
khoảng năm 2000 trước công nguyên, ông Abraham đem đoàn người Hébrew
di cư từ thành Ur thuộc xứ Chaldée (ngày nay là nước Irak) ở phía đông
sông Euphrate sang định cư tại vùng đất Canaan lập ra nước Do Thái và
lập ra đạo Do Thái mà đối tượng thờ phượng là vị "Thần
El (có hình của con bò) là tổng thể của mọi sự thiêng liêng".
Không biết làm như vậy, phải chăng là ông Abraham có chủ tâm lợi dùng
uy quyền của thế giới thần linh để làm cho đám dân dưới quyền của ông
khiếp sợ mà khuất phục?
Cũng nên biết rằng thuở đó là thời bán khai,
người dân còn ở trong tình trạng ngu dốt lại nặng lòng mê tín dị đoan,
thường tin rằng bất kỳ nơi nào ở trong cõi trần gian này cũng đều có
một đấng thần linh ngự trị: Đất có thổ công, sông có hà bá, rừng có ma
rừng, núi có thần núi và bất kỳ hiện tượng thiên nhiên nào cũng do thần
thánh tạo nên hay gây ra cả. Tình trạng dân trí thấp kém như vậy đã giúp
cho ông Abraham thành công trong sứ mạng lãnh đạo đoàn người tha phương
cầu thực quy tụ với nhau ở nơi đất lạ xứ người để nương tựa nhau mà sống
và tồn tại. Cũng vì thế mà ông Abraham mới trở thành tổ phụ của nước
Do Thái và cũng là tổ phụ của đạo Do Thái.
Trong hoàn cảnh mới di cư
đến một vùng đất mới, tất nhiên là họ phải sát cánh nương tựa nhau để
đối phó với mọi bất trắc có thể xẩy ra vào bất cứ lúc nào. Những người
Do Thái đầu tiên ở đất Canaan này bắt buộc phải sống theo quy luật do
ông Abraham và những người thân cận của ông ta đặt ra. Những
luật lệ này vừa là những tín điều tôn giáo vừa là quy luật sống chung
của một tập thể.
Khi tập thể phát triển thành một dân tộc và chiếm cứ
một vùng lãnh thổ, thì cái luật lệ hỗn hợp này trở thành vừa là
tín điều của tôn giáo vừa là luật pháp của quốc gia. Sau này, chúng ta
thấy, Giáo Hội La Mã đã cũng biến những tín điều Ki-tô cùng những giáo
luật và những lời phán dạy của giáo hội thành như quy tắc đạo lý và cũng
là nếp sống văn hóa để cưỡng bách tín đồ và nhân dân dưới quyền phải tuân
thủ, và dựa vào đó mà đối xử với nhau.
Phần
trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ là ngay từ khi mới lập quốc,
Do Thái đã ở vào tình trạng tôn giáo nhập nhằng với chính quyền. Ta gọi
nó là một chế độ đạo phiệt ở vào thời kỳ phôi
thai. Dù là ở trong tình trạng phôi thai, tự nó cũng đã trở thành những
hạt giống của những gian dối, lừa bịp, thủ đọan, bóc lột và bạo lực.
Hoàn
cảnh của đoàn người Do Thái được ông Moses dẫn đi chạy trốn khỏi nước
Ai Cập về tới núi Sinai vào khoảng năm 1266 trước công nguyên (có sách
nói là năm 1250 TCN) không khác gì hoàn cảnh của đoàn người Do Thái
của ông Abraham mới tới định cự ở Canaan, và cũng không khác gì hoàncảnh
của đoàn ngươi Pilgrim đến định cư ở vùng ven biển thuộc tiểu bang Massachusetts
vào năm 1620. Ông Moses theo gương ông Abraham ngày trước đã làm, nhưng
lại thay đổi đạo Do Thái cổ xưa (do ông Abraham lập ra) bằng cách thay
đổi đối tượng thờ cúng (gọi là thượng đế) từ cái tên là “Elohim” sang
cái tên là “Yahveh” hay “Jehovah” và thêm vào các Luật Sợ Chúa, Luật
Trị Người, Luật Quy Định Cung Phụng Giáo Sĩ, Luật Quy Định Việc Cung
Phụng Thiên Chúa và nhiều luật khác. Những luật này đều có tính cách
sắt máu, phi nhân, bạo ngược, nặng tính vị kỷ và bóc lột nhân dân, nói
là để phục vụ Thiên Chúa mà sự thực là phục vụ cho giai cấp giáo sĩ
và giới người thống trị. Đây cũng là một chế độ đạo phiệt giống như chế
độ đạo phiệt trong thời ông Abraham, nhựng ở mức độ hà khắc hơn, tàn
ác hơn, gian tham hơn, dã man hơn, bóc lột nhân dân một cách tinh vi
hơn và tận tình hơn. Sự kiện này đã được nhà biên khảo lịch sử Trần Quý
ghi lại như đã trình bày trong Mục 2 ở trên.
Qua
lời nhận xét với những dẫn chứng đầy đủ trên đây của học giả Trần Quý,
ta có thể
thấy rõ hệ thống tín lý và giáo luật trong đạo Do Thái chẳng có một chút
gì là nhân bản cả. Rõ ràng là những ý niệm về tình thương, nhân ái,
khoan dung, độ lượng không có chỗ đứng trong cái tôn giáo này.
Như
vậy là khi dẫn đoàn người từ Ai Cập về tới núi Sinai, ông Moses đã phỏng
theo mô thức tổ chức chế độ đạo phiệt của ông Abraham trước kia để tổ
chức bộ máy quản trị tập thể người Do Thái của ông, nhưng với mức độ
hà khắc hơn và dành quá nhiều đặc quyền và đặc lợi cho giai cấp giáo
sĩ. Do đó, giáo
dân và giai cấp bị trị càng bị bóc lột nhiều hơn. Kể từ đó, bộ máy cai
trị chính quyền Do Thái được tổ chức theo mô thức này. Căn cứ vào những
luật đã được viện dẫn ở trên, ta có thể nói đạo Do Thái có những đặc
tính như sau:
1.-
Ôm đồm cả tôn giáo và chính quyền vào trong tay,
2.-
Lấy việc thờ phương ông Thượng Đế bạo ngược Jehovah với chủ đích là
để phục vụ cho nhu cầu chính trị (có thể cho là nhu cầu cấp thời vào
lúc bấy giờ),
3-
Tôn giáo chỉ đạo chính quyền (Chính quyền là công cụ của tôn giáo)
4.-
Người lãnh đạo tôn giáo (Do Thái Giáo) cũng là nhà lãnh đạo chính quyền.
4.-
Quy luật của tôn giáo cũng là luật pháp của quốc gia
5.-
Biến giai cấp giáo sĩ thành một lớp người thượng đẳng trong xã hội với
những đặc quyền về chính trị, xã hội, kinh tế và nắm độc quyền thao túng
chính quyền nắm độc quyền thống trị đất nước.
7.-
Biến tín đồ thành giai cấp bị trị, bị bóc lột đến tận xương tận tủy,
và họ bị đối xử như một bày nô lệ, không khác gì các ông chủ nô lệ người
da trắng đối xử với những người nô lệ da đen ở Mỹ Châu trước khi họ được
giải phóng vào ngày 1/1/1863. .
8.-
Không có công lý và công bằng xã hội vì rằng quy luật hay lời dạy trong
tôn giáo (do các giáo sĩ bịa đặt ra) thay thế cho công lý, mà quy luật
cua tôn giáo như Lụật Sợ Chúa và Luật Cung Phụng Giáo Sĩ, Luật Quy Định
Việc Cung Phụng Thiên Chúa, Luật Trị Người (như đã trình bày ở phần trên).
9.-
Kỳ thị và khinh rẻ nữ giới và biến họ thành một giai cấp nô lệ cho nam
giới.
10.-
Vi phạm nhân quyền một cách hết sức là trắng trợn.
11.-
Không công nhận sự hiện diện của các tôn giáo khác
12.-
Không công nhận quyền tự do tôn giáo của người dân
10.-
Hủy diệt tình thương lứa đôi, phá nát tình yêu thương giữa cha mẹ và
con cái, giữa con cái và cha mẹ, giữa anh em với nhau (Lụật Giết Vợ Con nói trên là bằng chứng).
11.-
Hủy diệt nền văn minh nhân loại
12.-
Giai cấp bị trị bị bóc lột đến tận xương tận tủy.
13-
Chấp nhận chế độ nô lệ
Với
những đặc tính trên đây, ta có thể nói đây là một chế độ đạo phiệt độc
ác, tàn ngược, dã man và bóc lột nhân dân tối đa (Luật Cung Phụng Giáo
Sĩ và Luật Quy Định Cung Phụng Thiên Chúa).
Như
vậy, đạo lý trong đạo Do Thái đã nhập nhằng đồng hóa giai cấp giáo
sĩ với tôn giáo và quốc gia, giống như Giáo Hội La Mã đã nhập nhằng
đồng hóa giáo hội và những ngưới "mang chức thánh" của
giáo hội với Chúa Cha Jehovah và Chúa Con Jesus, y hệt như thời quân
chủ phong kiến, người ta đã nhập nhằng đồng hóa nhà vua hay hoàng đế
với quốc gia hay tổ quốc.
Lịch
sử loài người đã từng có nhiều nhóm người từ bỏ quê hương đất tổ, kéo
nhau đến vùng đất mới để mưu tìm cuộc đời tốt đẹp hơn. Nhóm dân nào cũng
đặt ra luật lệ theo kinh nghiệm sống và trình độ hiểu biết của mỗi nhóm
để duy trì an ninh, trật tự và quản lý nội bộ. Nhưng không có nhóm dân
nào lại bị áp đặt những tín lý và quy luật hết sức bạo ngược, cực kỳ
tham ác và vô cùng dã man như nhóm dân Do Thái dưới quyền lãnh đạo của
ông Moses.
Nhận
xét về chuyện ông Moses được Thượng Đế ra lệnh phải giải thoát đồng
bào, dắt họ qua bờ bên kia Hồng Hải tới núi Sinai để nhận "luật" của
Thương Đế, ai cũng biết đây là chuyện bịa đặt. Trong lịch sử, không phải
chỉ có một mình ông Moses đã bịa đặt ra những chuyện láo khoét như vậy.
Ở bên Trung Hoa Hoa, bà Võ Tắc Thiên sau này cũng làm một chuyện bịa
đặt tương tự như vậy. Việc làm của Bà Võ Tắc Thiên được học giả Lâm Ngữ
Đường ghi lại như sau:
Võ Tắc
Thiên
http://vi.wikipedia.org
"Tháng
tư năm 688, y (Võ Thừa Tự) dùng một phiến đá cổ đẽo thành một tấm bia
lớn có khắc tám chữ “Thánh Mẫu xuống trần, Trường thịnh nghiệp đế.”
. Sau đó y sai người liệng tấm bia xuống sông Lạc. Một gã nhà quê tình
cờ trông thấy tấm bia bèn vào triều tâu cho Võ Hậu hay. Võ Hậu làm
bộ ngạc nhiên và hoan hỉ. Bà phong cho gã làm Khâm Sai Đại Thần và
cho đổi quốc hiệu là Trường Thịnh. Tháng năm và tháng sáu năm đó, Võ
Hậu tổ chức những buổi lễ Thiên Địa tại khu ngoại thành phía nam để
tạ ơn trời đất. Bà đổi tên sông Lạc thành sông Trường Thịnh, gọi tấm
bia đá kia là Bia Thánh Linh và gọi khúc sông tìm thấy tấm bia là Suối
Thánh Linh. Dân chài lưới không được đánh cá tại khu vực này. Ngoài
ra, bà còn ra lệnh ân xá các tội phạm để ăn mừng... Tất cả những hành
động của Võ Hậu khiến người ta có cảm tưởng rằng bà là một nạn nhân
khờ khạo của trò bịp bợm do chính bà bày ra. Tuy nhiên, bà không khờ
khạo. Bà biết rõ dân chúng thích thấy và tin tưởng những chuyện huyễn
hoặc, những phép mầu và những điềm lạ.”[8] .
Sau
này, trong cuộc chiến (1418-1427) đánh đuổi quân Minh ra khỏi đất nước,
cụ Nguyễn Trãi cũng dùng phương cách này để động viên nhân dân bằng cách
lấy mật viết tám chữ “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” vào
lá cây rừng, rồi để cho kiến ăn thủng lá và hiện ra những chữ trên đây.
Người dân trong vùng nhìn thấy những chiếc lá khác thường như vậy, rồi
loan truyền từ người này qua người nọ. Thế rồi, tiềng đồn lan truyền
ra nhiều nơi khác, và càng ngày càng có nhiều người tin rằng “Lê
Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”, có nghĩa là cuộc kháng chiến của
nhân dân ta do ông Lê Lợi làm minh chủ và ông Nguyễn Trãi làm quân sư
là do Trời đã xếp đặt. Chuyện này được sử gia Phạm Văn Sơn ghi lại như
sau:
Tranh truyền thần Nguyễn Trãi
ở nhà thờ họ Nguyễn,
làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội
http://vi.wikipedia.org/
“Cuối
năm Đinh Dậu (1417), binh lương khí giới đầy đủ, ông (Lê Lợi), chọn
ngày khởi binh vào sơ tuầng tháng Giêng năm Mậu Tuất (1418). Vì cuộc
bại trận của nhà Hồ và nhà Hậu Trần, lòng người còn hoang mang, Nguyễn
Trãi phải lợi dụng lòng mê tín của nhân dân như Trần Thắng của đời
Tần (Trần Thắng viết ba chữ “Trần Thắng Vương” vào mảnh lụa, giấu vào
bụng cá. Quân sĩ mổ cá thấy cho là trời đã định nên tin theo Thắng,
nhưng sau Thắng cũng thất bại), ông cho nhúng bút vào mật viết lên
nhiều lá cây trong rừng tám chữ; “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”,
sau đó kiến theo đường mật ăn thủng lá thành hình tám chữ kể trên.
Nhân dân cho là điềm thần dị, đồn đại rất nhiều nên người ta theo mỗi
ngày một đông.” [9]
Cuối
cùng, nhân dân ta đại thắng quân Minh và giành lại quyền tự chủ cho nước
nhà. Có thể là nhờ phương cách động viên này mà cuộc kháng chiến chống
quân Minh do ông Lê Lợi và ông Nguyễn Trãi lãnh đạo đã được đại khối
nhân dân ta lúc bấy giờ dốc lòng tin tưởng, nhiệt liệt ủng hộ và quyết
tâm lên đường vào chiến khu để cùng chung lo cho đại cuộc cứu nước.
Nhờ vậy mà cuộc chiến có thể kéo dài tới gần mười năm và cuối cùng quân
Minh phải cuốn gói ra đi. Vì thành tích này, trong thời gian từ tháng
7 năm 1954 cho đến tháng 4 năm 1975, tại miền Nam Việt Nam, cụ Nguyễn
Trãi được tôn lên là thánh tổ trong ngành tâm lý chiến.
Dù
sao, chúng ta cũng phải thành thực mà nói rằng cái phương cách động viên
nhân dân như vậy là một mưu kế chính trị có tính cách đoản kỳ để khích
động và lôi cuốn nhân dân hăng say lên đường chiến đấu chống lại kẻ thù
của dân tộc, chứ không phải phương cách trường kỳ dùng để hướng dẫn và
giáo dục người dân sống theo đạo lý.
Từ
chuyện Trần Thắng Vương của Trần Thắng qua chuyện “Thánh Mẫu
xuống trần, Trường thịnh nghiệp đế” của bà Võ Tắc Thiên đến chuyện
“Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trải vi thần” của cụ Nguyễn Trải trên
đây, chúng ta có thể suy ra rằng chuyện ông Moses được Thượng Đế "mặc
khải" cho ông viết những luật ở trên núi Sinai đều là chuyện láo
khoét. Những gì được ghi khắc trên hai tấm bia đá mà ông ta vác từ trên
núi Sinai xuống chân núi là do ông ta chủ mưu và sai người khắc vào đá,
rồi nói là do Thượng Đế làm ra với chủ đích động viên và làm cho
đoàn người Do Thái hăng say tin tưởng vào khả năng lãnh đạo của
ông trong công cuộc dẫn dắt họ vượt qua những khó khăn gian khổ trên
đường trở về đất tổ.
Tất
cả các ông Moses, Trần Thắng, bà Võ Tắc Thiên và cụ Nguyễn Trãi đều mượn
danh nghĩa Thượng Đế hay ông Trời đặt ra một chuyện láo khoét nặng tính
cách lừa bịp và mê hoặc lòng dân để lôi cuốn họ lao vào con đường phục
vụ cho một mưu đồ chính trị trong một giai đoạn cấp thiết nhất thời.
Trong những người này, ông Moses và cụ Nguyễn Trãi thì thành công vì
đã biết sử dụng phương cách lừa bịp này để động viện nhân dân hăng say
tham gia vào đại sự quốc gia. Trái lại, ông Trần Thắng và bà Võ Tắc Thiên
lại bị thất bại thảm thương, làm trò cười cho người đời và hậu thế vì
không có chính nghĩa, vì chủ tâm sử dụng thủ đoạn bịp bợm này vào một
việc làm vị kỷ, nhằm phục vụ cho quyền lợi cá nhân của họ, chứ không
phải cho phúc lợi của toàn thể cộng đồng dân tộc, cho nên không được
nhân dân ủng hộ.
Riêng
về trường hợp của ông Moses, sau khi thành công trong việc sử dụng mánh
mung bịp bợm này để phục vụ mưu đồ chính trị, chính ông Moses và những
người lãnh đạo Do Thái Giáo sau đó cũng như các hệ phái phát sinh từ
đạo Do Thái vẫn còn tiếp tục sử dụng và khai triển những mánh mung
này thành một hệ thống tín lý với những luật lệ mang nặng tích cách võ
đoán, tự tôn, chuyên chế, cưỡng bách, đượm mầu sắc huyền bí thiêng liêng,
nhưng lại nặng tính kỳ thị chủng tộc, kỳ thị tín ngưỡng, và dành những
đặc quyền đặc lợi cho giới giáo sĩ cùng giai cấp thống trị (tức là bóc
lột đại khối nhân dân bị trị). Đặc biệt và ghê gớm hơn nữa, sau này,
kể từ năm 325, cái hệ thống tín lý bịp bợm này lại được Giáo Hội La
Mã liên tục khai triển tối đa rồi tổng hợp với những tín lý, giáo
lý, giáo lụật, “lời của Chúa” và phép lạ cùng những phép bí tích do
chính giáo hội bịa đặt ra; rồi hệ thống hóa thành nền tảng triết lý thần
học cho cái gọi là "đạo cứu rỗi", để cho giáo hội dùng làm
chiêu bài tôn giáo như một bức bình phong che đậy cho dã tâm
lừa bịp và khai thác lòng mê tín dị đoan của người đời hầu thủ lợi.
(Chuyện này sẽ được trình bày rõ ràng hơn trong Chương 3 ở sau).
Như
vậy là đến thời kỳ này, gíống như ông Abraham trước kia, ông Moses cũng
lại ôm đồm cả tôn giáo và chính quyền vào trong tay, lấy việc thờ phương
ông Thượng Đế bạo ngược Jehovah làm phương tiện phục vụ cho nhu cầu
chính trị cấp thời của ông. Cũng nên biết, lúc đó, ông Moses vừa là
giáo chủ của Do Thái Giáo vừa là nhân vật lãnh đạo số 1 của đoàn người
Do Thái quy hồi cố hương với ý chí quyết tâm chiếm lại mảnh đất của tiền
nhân đã chiếm được trước kia làm cứ địa trường tồn cho dân tộc. Sự kiện
này cho chúng ta thấy rằng cả hai ông Abraham và ông Moses đưa ra chủ
trương tôn giáo nhập nhằng trộn lộn với chính quyền. Sự kiện này được
ông Charlie Nguyễn ghi nhận như sau:
"Lịch
sử Do Thái là lịch sử của Thánh Kinh Cựu Ước. Do đó, đối với Do Thái,
quốc gia và tôn giáo là một. Chết vì nước cũng là chết vì Chúa của
đạo Do Thái. Người Do Thái sống trong hiện tại với những chứng tích
của lịch sử. Tâm linh của người Do Thái trong hiện tại luôn luôn gắn
bó với tâm linh dân tộc trong lịch sử. Đó là lý do khiến người Do Thái
đoàn kết và kiên cường chiến đấu." [10]
Đây
là một thứ đạo phiệt (đứng trên
chính quyền), sử dụng chính quyền như là một công cụ để thi hành những
mệnh lệnh của tôn giáo. Những mệnh lệnh này vừa là giáo luật, vừa là
luật pháp và được coi như là những quy tắc đạo lý mà tất cả mọi người
dân đều bị cưỡng bách phải tuân hành. Như vậy là nhân dân bị cưỡng bách
phải phục vụ cho cả tôn giáo lẫn chính quyền. Nói riêng về tôn giáo,
ta gọi đó là thứ tôn giáo "cưỡng bách nhân dân phải phục vụ
cho tôn giáo” mà thực sự hay trong thực thế là phục vụ cho giai
cấp giáo sĩ và bọn người tay sai của họ. Đây là một thứ tôn giáo vô cùng
bạo ngược, dựa trên một số tín điều láo khoét được bịa đặt ra để phỉnh
gạt người đời rồi dùng chính quyền chuyên chế (bạo lực) làm
phương tiện cho bọn tu sĩ dùng để nô lệ hóa và bóc lột tín
đồ. Những luật như Luật Sợ Chúa, Luật Quy Định
Phụng Giáo Sĩ, Luật Quy Định Việc Cung Phụng Thiên Chúa, Luật Bắt Phải
Nói Đúng Lời Jehoah, Luật Giết Vợ Con, Bạn Hữu Nếu Họ Tuyên Truyền Cho
Một Đạo Nào Khác, Luật Trị Người, như đã nói ở trong Mục 2 ở trên, tất
cả là những bằng chứng bất khả phủ bác cho nhận định này.
(xem tiếp)->
[1] Charlie
Nguyễn, Công Giáo Huyền Thoại Và Tội Ác (Garden Grove, CA:
Giao Điểm, 2001), tr. 98-99.
[2] Charlie
Nguyễn, Sđd., Tr. 113.
[3] Charlie
Nguyễn, Sđd., Tr. 97-98.
[4] Nguyễn
Hiến Lê, Lịch Sử Thế Giới (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1994),
tr. 56-57 .
[5] Nguyễn
Hiến Lế, Bài Học Do Thái (Lancaster, PA: Xuân Thu, 1980?),
tr. 27.
[6] Trần
Quý, Lòng Tin Âu Mỹ Đấy! (Wesminster, CA: Văn Nghệ & Đồng
Thanh, 1996), tr. 124-127.
[7] Trần
Quý, Sđ d., tr. 128-129.
[8] Lâm
Ngữ Đường, Tình Sử Võ Tắc Thiên – Bản dịch của Vũ Hùng (Houston,
TX: Xuân Thu, 1980?), 228-229..
[9] Phạm
Văn Sơn, Việt Sử Toàn Thư (Glendale, CA: Đại Nam, 1980?),
tr. 359..
[10] Charlie
Nguyễn, Thực Chất Đạo Cộng Giáo Và Các Đạo Chúa (Garden Grove, CA:
Giao Điểm, 2003), tr. 340.