Biến cố Phật giáo 1963 dưới cái nhìn của thế giới (Bùi Kha)
Ngọn lửa Quảng Đức và
biến cố Phật giáo 1963 dưới cái nhìn của thế giới
Bùi Kha
02 tháng 11, 2007
Sau Thế Chiến
Thứ II (1939-1945) hàng hóa và vũ khí của Mỹ để cung ứng cho
chiến tranh bị tồn đọng rất nhiều. Mỹ thay chân Pháp ở Đông
Dương biến miền Nam Việt Nam thành tiền đồn chống Cọng với khẩu
hiệu “Để chận đứng sự bành trướng của chủ nghĩa cọng sản tại
vùng Đông Nam Á”, nhưng thực tế cũng còn để tiêu thụ hết số
hàng hoá và khí giới thặng dư. Để thi hành hai mục tiêu then
chốt cùng một lúc tại Việt nam, chính phủ Mỹ sẽ chỉ chấp nhận
một chính quyền bù nhìn, dễ sai và phục tòng Mỹ, nghĩa là một
chính quyền Công Giáo (vì Tin Lành còn yếu vào thời điểm đó)
trong một quốc gia mà số tín đồ của họ chỉ có 5 % dân số. Chính
sách phản dân chủ ‘Đa số phục tùng thiểu số’ do
tay sai bản xứ của Mỹ tại Việt Nam thực hiện, do đó, đãlà một trong những nguyên nhân xa và gián tiếp đưa đến
vụ tranh đấu Phật Giáo 1963, và Ngọn đuốc Thích Quảng Đức và sáu
ngọn đuốc khác* nhằm thức tỉnh chính quyền Ngô Đình Diệm và đánh
động lương tâm nhân loại về một thực trạng bất công và bóc lột
đè nặng lên thân phận người dân Việt kể từ thời Pháp thuộc kéo
dài đến không những với chế độ Ngô Đình Diệm mà còn với chính
quyền Nguyễn Văn Thiệu, một chính quyền ‘bình mới nhưng rượu
còn nguyên’.
Phác họa lại vài nét đơn sơ về bối cảnh lịch sử như thế để
thấy cuộc tranh đấu của Phật giáo 1963 không phải chỉ được nhìn
một cách đơn giản là vì sự bất công giữa Phật giáo và Kitô giáo
(CG và TL) mà nguyên nhân chính, còn là, giữa hai tôn giáo mà
chính sách của chúng rất khác biệt. Một bên, nói theo ý của Giám
Mục Puginier, là cái càng của con cua thực dân**
do chế độ tôn giáo độc tài Ngô Đình Diêm nuôi dưỡng và ưu đải,
còn bên kia là các tín ngưỡng dân tộc chết sống với sự
thăng trầm của vận nước bị nhà Ngô đàn áp. Biến cố Phật
Giáo 1963 chỉ là một giọt nước làm tràn ly nước đã quá đầy. Vì
thế cuộc tranh đấu do Phật Giáo khởi xướng là một cuộc tranh đấu
không những của toàn dân miền Nam Việt Nam mà cũng là cuộc tranh
đấu của những người yêu chuộng tự do bình đẳng công bằng xã hội
trên khắp thế giới.
Với cái nhìn thoáng qua chiều dài lịch sử như thế chúng ta
mới biết được nguyên nhân tại sao cuộc tranh đấu nầy lại được
toàn dân và thế giới nhiệt liệt ủng hộ mà trong đó có nhiều nhân
vật lãnh đạo không có cùng một tín ngưỡng với người Phật tử Việt
nam và nhiều quốc gia dẫu có chung một khuynh hướng chính trị
với chính phủ Ngô Đình Diệm. Chiều hướng ủng hộ tích cực nầy
càng mạnh hơn sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự nguyện đem
thân làm ngọn đuốc để cảnh tỉnh lòng người.
Ngài sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, tỉnh Khánh Hòa, xuất
gia lúc 15 tuổi, tu học tại chùa Linh Mụ Huế. Trước lúc tự thiêu
Ngài trú tại chùa Quán Thế Am, Sài Gòn. Sau khi 8 Phật tử bị
giết tối ngày 8.5.1963 tại đài phát thanh Huế, và 5 nguyện vọng
chính đáng của Phật giáo không được chính quyền Ngô Đình Diệm
thỏa thuận, Hoà Thượng Thích Quảng Đức người đầu tiên trong lịch
sử Phật Giáo Việt Nam, sau nhiều tuần thiền định để tăng trưởng
thêm nội lực, đã tự nguyện hy hiến cuộc đời cho đại nghĩa giữa
ngã tư đường Phan Đình Phùng-Lê Văn Duyệt Sài-gòn sáng ngày
11.6.1963.
Khác với những lời xuyên tạc của những người bênh vực nhà
Ngô, ký giả Nữu Ước Thời Báo (New York Times) David Halberstam
đã tường thuật bằng những lời vừa ngạc nhiên vừa kính nễ:
“ Tôi được thấy lại cảnh tượng ấy, nhưng chỉ một lần cũng
đã quá đủ. Lửa phủ khắp người; thân từ từ khô lại, đầu cháy nám,
không khí bay mùi khét thịt, thân hình chìm trong lửa đỏ thật
kinh ngạc. Phía sau, tôi có thể nghe tiếng khóc của những người
đang lần lượt kéo đến. Tôi quá xúc động khóc không nên lời, quá
bàng hoàng để ghi chép hoặc hỏi vài câu, quá bối rối để suy
nghĩ... chìm trong biển lửa nhưng ngài vẫn bất động, thịt gân
không nhúc nhích, không một tiếng rên la, thân ngã xuống, những
người đang đứng xung quanh òa khóc.”
I was to see that sight again, but once was enough. Flames
were coming from a human being; his body was slowly withering
and shriveling up, his head blackening and charring. In the air
was smell of burning human flesh; human being burn surprisingly
quickly. Behind me I could hear the sobbing of the Vietnamese
who were now gathering. I was too shocked to cry, too confuse to
take notes or ask questions, too bewildered to even think... As
he burned he never move a muscle, never uttered a sound, his
outward composure in sharp contrast to the wailing people around
him (quoted by Jollie Hicks): (http://www.uwec.edu/greider/BMRB/culture/student.work/hicksr/
).
Những bài tường thuật của Malcolm Browne về cuộc tự thiêu của
HT Thích Quảng Đức được hảng thông tấn AP gởi về Mỹ nhanh chóng,
và những bức hình tự thiêu do ông chụp cũng được hầu hết các tờ
báo khắp thế giới đăng lên trang đầu. Từ đó, lần đầu tiên độc
giả khắp nơi bắt đầu tò mò về những gì đang xẩy ra tại Việt Nam,
một quốc gia xa lạ ở vùng Đông Nam Á.
‘Tuy nhiên, tháiđộ của phái bộ (thông
tin) Hoa Kỳ lúc đầu là cố gắng làm giảm cường độ một số các
nguồn tin chính thức thường cung cấp cho giới truyền thông.
Nhưng đây không phải là một công việc dễ mặc dầu bản doanh của
báo giới bị buộc chặt, có nhóm đoàn kết chặt chẻ, và có nhóm lo
sợ. Cảnh sát ngầm của chính phủ Diệm lại lén thu băng các cuộc
điện đàm của các nhà báo, theo giỏi các máy điện tín, gài người
vào các văn phòng và chạy theo ký giả trên các đường phố. Dẫu
vậy, qua việc xử dụng các người thăm viếng, nhân viên hàng
không, và ngay cả những cảm tình viên quân sự nên giới nhà báo
vẫn chuyển đi được các bản tin mà họ chứng kiến. Vì thất bại
trong việc điều khiển nguồn cung cấp tin nên chính phủ Kennedy
đã phải đưa công việc nầy lên một đơn vị cao hơn.’ (A
Reader, The American Experience in Vietnam, edited by
Grace Savey, University of Oklahoma Pess, 1989 pp. 112 & 113).
Làm đủ mọi cách, nhưng cả phái bộ truyền tin của Mỹ và của
Việt Nam đã không thể ngăn chận nỗi các tin tức về cuộc tranh
đấu của Phật giáo, nhất là sau khi HT Quảng Đức tự thiêu, nên cả
thế giới hầu như được biết tường tận về biến cố vĩ đại nầy.
a. Quảng Cáo trên New York Times và Washington Post...
: Ký giả kiêm nhiếp ảnh gia Malcolm W. Browne viết :
“Những bức hình mà tôi chụp về cái chết của HT.
Quảng Đức đã trở thành một sở hữu vật mà người ta gởi đi cùng
khắp thế giới. Những bức hình đó mang nhiều ý nghĩa tùy theo cái
nhìn và mục đích xử dụng của mỗi người.
Một người quen ở Lisbon gởi thư cho tôi biết rằng những
bức hình về cái chết của ngài Quảng Đức được thành phần diều hâu
bày bán khắp cùng ngõ hẻm. Một nhóm giáo sĩ nỗi tiếng người Mỹ
cũng dùng một trong những bức hình nầy để tạo sự Chú ý
cho những trang quảng cáo của họ trên Nữu Ước Thời Báo (New
York Times) và báo Hoa Thịnh Đốn (Washington Post) với hàng chữ
“Chúng ta cũng phản đối: We, too,
protest”. Sự phản đối của họ là nhắm vào việc người
Mỹ ủng hộ chế độ Diệm.” Malcolm W. Browne, The New Face
Of War, Revised Edition, The Bobbs-Merrill Company, Inc.
Indianapolis-New York,1968, Tr. 261-262. Xin xem thêm Christian
G. Appy, Patriots The Vietnamese War Remembered From All
Sides, tr. 60-65).
b. Trung Hoa: “Hình tự thiêu của ngài Quảng Đức
được Hoa Lục in ra hằng triệu bản (printed millions of copies).
Một trong những bức hình đó đã gởi cùng khắp các quốc gia Á-Phi
với hàng chữ lớn “Một tăng sĩ Phật Giáo hy sinh thân mạng để
chống chủ nghĩa đế quốc Mỹ-Diệm.”
Hình tự thiêu của HT. Quảng Đức cũng là một ấn tượng ảnh
hưởng đến tòa Bạch-ốc. Tôi (Browne) được biết rằng lúc
ông Henry Cabot Lodge đến gặp cố Tổng Thống Kennedy về việc được
bổ nhiệm chức đại sứ tại Việt Nam, Kennedy cũng đã có một bức
hình tự thiêu của HT. Quảng Đức trên bàn giấy. Cái chết của ngài
Quảng Đức có lẻ là một trong những yếu tố chính để cuối cùng Bộ
Ngoại Giao và Toà Bạch-ốc chống đối chính phủ Diệm, đang đổi
hướng lịch sử Việt Nam” {...Quang Duc’s death probably was
one of the factors that finally turned the State Department and
White House against Diem, altering the course of Vietnamese
history to some extent} (Malcolm W. Browne, The New Face of
War, tr. 263).
c. Báo Le Monde, Pháp ngày 13.6.64 viết: “Trước hành động tự sát để đấu tranh, kẻ tàn bạo nhất cũng phải
chùn bước.” (Minh Không Vũ Văn Mẫu, Sáu Tháng Pháp Nạn
1963, bản Ronéo 1984, tr.320)
d. Báo La Gazette de Lausanne tại Thụy sĩ:
Viết những lời rất cảm động về cuộc tự thiêu của HT Quảng Đức
như sau:
“Sự hy sinh rất khích động của vị tăng sĩ thiêu sống ngay
tại Sài Gòn buộc người ta phải kính trọng. Sự hy sinh vì Chính
Pháp của ông khiến chúng ta liên tưởng tới những người Gia Tô
đầu tiên và sự liên tưởng nầy càng làm cho chúng ta cảm thấy oái
oăm.” (Hoành Linh Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương
Tôi, Hồi Ký Chính Trị, Hoa Kỳ 1986, tr. 640).
e. Báo Journal de Genève: Là một tờ báo khác
ở Thụy sĩ có ảnh hưởng lớn trên thế giới nhận định:
“Người ta có thể tuyên truyền rằng đó chỉ là cuộc nỗi
loạn của phe đa số khắc khổ kiếm chuyện vì chính phủ chỉ là một
thiểu số bó kết chặt chẻ với nhau mà bộ tịch lại vênh váo và
cứng nhắc. Nhưng việc phải hy sinh vì Chánh Pháp của Hòa Thượng
Thích Quảng Đức lại cho thấy rằng Phật Giáo Việt Nam đang phải
bảo vệ nếp sống và tư tưởng của họ.” (Đỗ Mậu, sách
đã dẫn, tr. 641).
g. Chính Phủ Ngô Đình Diệm: Sau vụ tự thiêu
chấn động dư luận của HT. Quảng Đức, Ngô Đình Diệm thực sự bối
rối nên ông qui trách người khác thiếu căn cứ:
“Ông Diệm vu khống nhiếp ảnh gia Browne đã hối lộ các nhà
sư Phật giáo để giết một nhà sư đồng nghiệp.”
Diem’s reaction was to accuse Browne of bribing the Buddhist
monks to murder their fellow monk. (Grace Sevy, sách đã dẫn,
tr.112).
Bà Ngô Đình Nhu: Lúc trả lời cuộc phỏng vấn
đài truyền hình MỸ, ký giả Mecklin viết rằng bà Nhu nói:
“Tất cả những việc mà Phật Giáo đóng góp cho đất nước từ
trước đến nay không có gì ngoài việc thiêu sống một nhà sư”...
và “Ông Thích Quảng Đức bị chích thuốc và bị cưởng bách thiêu
sống, nhưng về sau bà Nhu đã tìm cách từ chối một số các phát
biểu thiếu trách nhiệm nầy.”
All that the Buddhists have done for the country is to
barbecue the monk...She claimed that Thích Quảng Đức had been
drugged and burned against his will. She later tried to deny
having made some of her cynical comments. (Joseph Buttinger,
Vietnam: A Dragon Embattled, Volum II Vietnam at War,
Frederick A. Praeger, Publisher, New York, 1967, tr .1184).
Việc bà Nhu về sau muốn cải chính những phát biểu bồng bột và
thiếu suy nghĩ của bà, như ông Buttinger cho biết, cũng đáng để
chúng ta cảm phục và quí mến. Tin nầy cũng phù hợp với
TIN QUAN TRỌNG SAU ĐÂY:
Tôi (Bùi Kha) có người quen ở Orange County cho biết, cách
đây gần hai mươi năm, ông Ngô Đình Trác, con trai của bà Ngô
Đình Nhu ở tại Pháp, cùng với nhà thơ Du Tử Lê đến chùa Việt Nam
Los Angeles, California lúc 2 giờ sáng để gặp Hoà Thượng Thích
Mãn Giác. Hòa Thượng tiếp đón vui vẻ. Sau khi thắp hương và lễ
Phật, ông Ngô Đình Trác thưa rằng “Mạ con biểu con qua gặp
Hòa Thượng và xin Hoà Thượng trình lại với giáo hội Phật Giáo là
mẹ con và thay mặt gia đình xin sám hối những lời nói và việc
làm trước đây đối với tăng ni và Phật-tử Việt Nam...” Hòa
Thượng Mãn Giác rất xúc động, quí mến nghĩa cử của bà Nhu, và an
ủi ông Ngô Đình Trác rằng “Lúc đó bà còn nhỏ tuổi và không
ai cố vấn...” (HT. Thích Mãn Giác hiện sống tại Los Angles
và nhà thơ Du Tử Lê hiện ở Orange County, California).
Ông Ngô Đình Nhu: “Ngày 15 tháng 8 một
nhà sư khác tự thiêu ở Huế, ba ngày sau đó một ni cô tự thiêu ở
Ninh Hòa (Khánh Hòa có lẽ đúng hơn, BK). Để phụ hoạ với
vợ, ông Ngô Đình Nhu cũng nhẫn tâm giả vờ như không có gì hệ
trọng:
“Nếu Phật Giáo muốn có một vụ nướng thịt khác thì tôi rất
vui lòng cung cấp xăng.”
On August 15, another monk burned himself at Hue, followed
three days later by a nun at Ninh Hoa. Not wishing to lag behind
his wife in callousness, Ngo Dinh Nhu soon afterward stated that
“if Buddhists want to have another barbecue, I will be glad
to supply the gasoline”. (J. Buttinger, Ibid. p. 995).
Những cuộc tự thiêu đã thức tỉnh thế giới và chấn động lương
tâm nhân loại, nhưng ý nghĩa của nó thì thường bị hiểu lầm và có
người cho đó là một vụ tự tử (suiside) không hơn không kém.Để làm sáng rõ ý nghĩa các cuộc tự thiêu của Tăng Ni và
Phật Tử năm 1963, tôi xin trích dẫn hai ý kiến của hai tu sĩ sau
đây, một Tin Lành một Phật Giáo để làm sáng rõ thêm lịch sử.
* Mục sư Donald Harrington tại Nữu ước: Trong
buổi giảng tại một thính đường ở New York ngày 30.6.63, Mục sư
Harrington đã mô tả trung thực chân tình và cảm phục việc HT
Quảng Đức tự thiêu. Bài giảng đó cũng có đoạn nói lên ý nghĩa
đích thực của hành động tự thiêu:
“Cách đây hơn hai tuần, vào ngày 11.6.63 vị sư tên Thích
Quảng Đức đã ngồi theo kiểu tọa thiền trên đường nhựa nóng.
Trong tay Người cầm một xâu chuổi 54 hạt và bắt đầu niệm Phật
còn trên chiếc áo cà sa của Người thì đã tẩm ướt đầy xăng. Tất
cả Tăng Ni lùi lại, kính cẩn, kinh sợ. Khách bộ hành nhận thấy
một biến cố phi thường gì sắp xẩy ra nên tất cả đều dừng lại chờ
đợi.
Với vẻ yên lặng, bình thản trên khuôn mặt, Ngài Quảng Đức
niệm lớn: “Nam Mô A Di đàPhật”. Thế rồi Người bật một
que diêm và ngọn lửa phừng phực bốc lên phủ kín thân thể nhưng
Người không hề rên la hay lay động. Người ngồi thẳng trong mười
phút, thân hình chìm trong lửa đỏ, và khi lửa tàn, Người nằm
xuống bất động...
Người ta có thể tự hỏi sự khủng khiếp và niềm phẫn hận
nào đã có thể khiến cho một người của “Tình Thương” của “Hòa
Bình”, quyết chí tự thiêu?...
Nếu sự tuyệt vọng hoàn toàn và chán đời cực độ đã đưa con
người trên đời nầy đến chỗ tự tử, thì một lý tưởng cao cả
nhất và lòng yêu đời nồng nàn nhấtmột đôi khi cũng đã
sản xuất những người tử đạo quả cảm nhất trong lịch sử...
Hòa Thượng Quảng Đức hy sinh đời mình bằng cách tự
thiêuđể thức tỉnh lương tâm của Tổng Thống Diệm và lưu ý
cho toàn thế giới..
Người đã chịu đựng sự đau đớn của tia lửa hồng đang đốt
da thịt nhưng không một lời kêu than. Người gởi mấy lời của
Người cho Tổng Thống Diệm, và cho đến nay ông Diệm vẫn chưa chịu
nghe hay chú ý. Nhưng dù sao tiếng nói ấy vẫn làtiếng
nói của tình thương, tiếng nói mà trong thâm tâm của nó chứa
đưng sự giải thoát của miền Nam Việt Nam. Người đã để lại
một bóng đen sĩ nhục lên sự huy hoàng mà Giáo Hoàng Gioan đã
mang lại cho Giáo hội Thiên Chúa. Người đã làm và Người phải
làm, cho mỗi người Hoa Kỳ đi tìm linh hồn của Người và cho chính
phủ Hoa Kỳ biết rằng, trừ phi chính phủ Sài Gòn thực thi ngay
quyền bình đẳng tôn giáo cho Phật Giáo đồ và tự do cho dân chúng
Việt Nam, tất cả mọi viện trợ của Hoa Kỳ đều phải chấm dứt
ngay...
Ngọn lửa ấy có thể thành một tia hy vọng cho những người
từ lâu bị áp bức bởi người ngoại quốc hay bởi ngay chính đồng
bào của họ...” (Vũ Văn Mẫu, sách đã dẫn, tr.322-324. Xin
xem thêm trong cuốn: 1963-2003 Bốn Mươi Năm Nhìn Lại,
Giao Điểm 2003, tr.148-160).
* Ý Kiến của Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh:
“Báo chí gọi đó là một hành động tự tử, nhưng thực chất
không phải. Ngay cả đó không phải là một hành động phản đối.
Điều mà những vị sư đã viết trong những bức thư để lại trước lúc
tự thiêu là nhằm cảnh tỉnh, là để chuyển đổi tâm tư của những
nhà cầm quyền, và để kêu gọi thế giới quan tâm đến những nỗi
thống khổ triền miên của người dân Việt Nam. Người tự thiêu là
để chứng tỏ rằng nguyện vọng mà họ đề cập là rất tối ư quan
trọng...Tu sĩ Việt Nam tự thiêu là để nói lên với tất cả sức
mạnh và quyết chí rằng tôi có thể chịu đựng sự khổ đau cùng cực
nhất để bảo vệ cho đồng bào của tôi...Để bày tỏ ước vọng bằng
cách tự thiêu của một người, vì thế, không phải là một hành động
hủy diệt mà là một hành động tạo dựng, đó là, để đau khổ và để
chết cho người khác. Như thế, tự thiêu không phải là một hành
động tự tử.”
The press spoke then of suiside, but in the essence, it is
not.It is not even a protest. What the monks said in the letters
they left before burning themselves aimed only at alarming, at
moving the hearts of the oppressors, and at calling the
attention of the world to the suffering endured then by
Vietnamese. To burn oneself by fire is to prove that what one is
saying is of the utmost importance. The Vietnamese monk, by
burning himself, says with all his strength and determination
that he can endure the greatest of sufferings to protect his
people. To express will by burning oneself, therefore, is not to
commit an act of destruction but to perform an act of
construction, that is, to suffer and to die for the sake of
one’s people. This is not suicide.
Thầy Nhất Hạnh đi xa hơn để giải thích tại sao sự tự thiêu
của HT Thích Quảng Đức không phải là một cuộc tự tử, tự tử là
trái với lời dạy của Đức Phật:
“Tự tử là một hành động tự hủy do những nguyên nhân sau
đây: (1) thiếu ý chí để sống và gặp những khó khăn; (2) thất bại
trong cuộc sống và tuyệt vọng; (3) không muốn sống...Vị tu sĩ tự
thiêu (Thích Quảng Đức) không mất nghị lực, không thiếu
hy vọng; cũng như không phải không muốn sống. Trái lại, ngài có
đầy nghị lực, tràn hy vọng và mong ước một cái gì tốt cho tương
lai. Ngài không có ý nghĩ tự hủy; nhưng tin vào những hoa trái
tốt từ sự tự hy hiến đời mình cho kẻ khác...Tôi tin chắc rằng
tất cả các vị sư tự thiêu không muốn những người cai trị chết,
nhưng chỉ nhằm thay đổi chính sách của họ. Kẻ thù của chúng ta
không phải là con người. Kẻ thù của chúng ta là sự thiếu khoan
dung, cuồng tín, độc tài, tham đắm, hận thù và kỳ thị, chúng
đang nằm sẵn trong tâm của con người.”
(Suicide is an act of self-destruction, having as
causes the following: (1) lack of courage to live and cope with
difficulties; (2) defeat by life and loss of all hope; (3)
desire for non exsistence... The monk who burns himself has lost
neither courage nor hope; nor does he desire nonexsistence. On
the contrary, he is very courageous and hopeful and aspires for
something good in the future. He does no think that he is
destroying himself; he belives in the good fruition of his act
of self-sacrifce for the sake of others ... I believe with all
my heart that the monks who burned themselves did not aim at the
death of their oppressors but only at a change in their policy.
Their enemies are not man. They are intolerance, fanaticism,
dictatorship, cupidity, hatred, and discrimination which lie
within the heart of man.” (Vietnam: Lotus in a Sea of Fire.
Hill and Wang, Inc. New York,1967, pp. 106 &107).
Sau cuộc bố ráp chùa và bắt tăng ni đêm 20.8 bằng kế hoạch
“Nước Lũ” của chính quyền Ngô Đình Diệm, thế giới ngày càng hiểu
rõ hơn nguyện vọng chính đáng của Phật Giáo Việt Nam. Vì thế, họ
đã lên tiếng mạnh mẽ ủng hộ Phật Giáo và chỉ trích chính sách kỳ
thị bạo ngược của chính phủ Diệm.
Trong những cá nhân, đoàn thể và quốc gia ủng hộ cuộc tranh
đấu của Phật Giáo ta có thể chia làm ba thành phần. Những người
khác tín ngưỡng với Phật Giáo, những quốc gia đa phần theo Phật
Giáo và những nước tân tiến kỹ thuật. Sau đây là một số trích
dẫn.
1. LM. Lê Quang Oánh***: Từ hồ Than Thở Đà
Lạt ngày 12.5.1963, Linh Mục Lê Quang Oánh đại diện khối Giải Sĩ
Đồng Tâm, Linh Mục T. Võ Quang Thiêng, nữ sinh M. Ngọc Lan
Hương... gởi thư cho Hoà Thượng Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt
Nam bày tỏ sự đồng tình cuộc tranh đấu của Phật Giáo. Thư có
đoạn viết như sau:
“Chúng tôi lên án “Tội bất công” đã giết hại đồng
bào vô tội. Thật là tàn bạo, dã man, phản dân chủ, phản tự do,
phản đạo đức, làm nhục cho quốc thể Việt Nam, một nườc văn hiến
trên bốn nghìn năm lịch sử.
“Giám quả quyết rằng: “Nhân nghĩa sẽ thắng.”
2. Vatican:Giáo Hoàng Phao Lồ Đệ Lục cũng đã
ba lần lên tiếng về vấn đề Phật Giáo. Ngày 30.8.63 Giáo Hoàng
đọc một thông điệp gởi đến nhân dân Việt Nam, nhưng văn thư nầy
cũng bị chính quyền Ngô Đình Diệm ngăn cấm không cho phổ biến.
Một đoạn trong thông điệp nầy Giáo Hoàng viết như sau:
“Giáo Hoàng đã biểu lộ sự chú tâm và đau đớn theo dõi các
biến cố bi thảm đương dầy vò nhân dân Việt Nam và sự lo âu của
Giáo Hoàng ngày càng thêm sâu sắc...Giáo Hoàng cầu nguyện để cho
tất cả mọi người, trong mối hợp tác khoan dung và trong sự tương
kính các quyền tự do chân chính, đoàn kết với nhau để tái lập
tương thân và tình huynh đệ.”
Le Pape exprime sa douloureuse préocupation
au sujet des tristes évènements qui affigent le cher peuple
Viêtnamien, tandis que l’angoisse devient de jour en jour plus
profonde et lancinante...Et il fait des voeux que tous, dans une
généreuse collaboration et dans un mutual respect des libertés
legitimes, unissent pour rétablir la concorde réciproque et la
fraternité (Bốn Mươi Năm Nhìn Lại tr.126.
3. Cao Miên: Sau ngày HT Quảng Đức tự thiêu, ông Trần Văn Được, hội trưởng hội
Phật Giáo Việt kiều tại Cao Miên, đã viết thư lên án chính phủ
Ngô Đình Diệm và thỉnh cầu Quốc Trưởng Sihanouk yêu cầu Liên
Hiệp Quốc can thiệp. Sau khi các chùa bị tấn công, tăng ni bị
bắt đêm 20.8.63, chính phủ Cao Miên ngày 23.8.63 đã chính thức
ra thông cáo kịch liệt lên án chính phủ Việt Nam. Một đoạn trong
thông cáo viết:
“Chính phủ Hoàng gia Cam Bốt kinh hải khi
nhận đươc tin Chính phủ Sài Gòn đã đàn áp dã man tín đồ Phật
giáo...Chính phủ Hoàng gia Cam Bốt hoàn toàn ủng hộ các Tăng Ni
Phật tử Việt Nam” (Bốn Mươi Năm
Nhìn Lại, sách đã dẫn, p.133).
Đến ngày 27,8.63, chính phủ Cam Bốt gởi văn
thư đoạn giao với Việt Nam bằng những lời lẻ rất nặng nề:
“..Toàn thể dân tộc Cam Bốt cũng như tất cả các dân tộc
khác trên thế giới đều công phẫn và ghê tởm trước những hành
động dã man đàn áp Phật Giáo Việt Nam...” (BMNNL,
tr . 134).
4. Tích Lan: Ngọn lửa từ bi hùng tráng Thích
Quảng Đức và sự ngược đải Phật tử tại Việt Nam đã khiến bà
Sirimavo Bandaranaike, thủ tướng Tích Lan, vô cùng xúc động. Bà
kêu gọi các nước theo Phật giáo tại Á châu ủng hộ Tích Lan trong
việc yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp vào vấn đề đàn áp Phật
Giáo tại Việt Nam. Ngày 26.8.63 hội nghị Phật Giáo Tích Lan yêu
cầu các đoàn thể Phật Giáo trên toàn quốc treo cờ rũ để tang các
Phật tử hi sinh vì tín ngưỡng (BMNNL, tr.136).
5. Miến Điện: Sau ngày các chùa tại Việt nam
bị bố ráp, chính phủ Miến Điện càng công phẫn hơn. Báo
Guandiantai tại Rangoon, thủ đô Miến Điện, cực lực lên án chính
sách bạo ngược của chính phủ Ngô Đình Diệm. Báo viết rằng:
“Mỹ sẽ lầm khi nghĩ rằng tiếp tục ủng hộ một chính phủ
đang ngự trị trên thân xác đau thương của những Phật tử Việt Nam
mà có thể giữ được nguyên vẹn tình cảm ngoại giao với các quốc
gia trong vùng Đông Nam Á” (BMNNL, tr.138).
6. An Độ: Nhiều hội Phật Học An yêu cầu thủ
tướng Néru can thiệp. Ngày25.8.63, Tổng Thư Ký đảng Quốc Gia An
rất công phẫn chế độ Ngô Đình Diệm và cảm nhận nỗi đau thương
của tín đồ Phật Giáo Việt Nam:
“Nhữn gtin tức loan đi từ Sài Gòn đã làm chấn động dư
luận tại An Độ, quê hương của Phật Giáo. Những sự tàn bạo mà các
đạo hữu Việt Nam là nạn nhân càng làm cho ta phẫn nộ khi nhớ
rằng Phật Giáo chủ trương bất bạo động.”(BMNNL,
tr.138).
7. Thái Lan: Ngày 22.8.63 thống chế Sarit
Thanarat, thủ tướng Thái Lan, đề nghị triệu tập một hội nghị sơ
bộ gồm các nước Phật giáo trước lúc đưa vấn đề Phật Giáo Việt
Nam ra Liên Hiệp Quốc. Bốn ngày sau đó Đại tá Mutukhan, Phó giám
đốc nha Tôn giáo thuộc bộ Giáo Dục, đã khuyến cáo chính phủ Việt
Nam bằng những lời gay gắt và như một tiên tri:
“Vì đã đàn áp Phật tử Việt Nam, Tổng Thống Ngô Đình Diệm
sẽ hứngg chịu hết những tai hoạ dưới đủ mọi hình thức, hiểu theo
giáo lý nhà Phật, kể cả giệt vong và đọa địa ngục...” (BMNNL,
p.141).
8. Đài Loan: Bộ ngoại giao Đài Loan tuyên bố
rất lo ngại cuộc khủng hoảng tôn giáo tại Việt Nam và mong mõi
chính phủ Việt Nam sớm có giải pháp thích hợp để chấm dứt cuộc
khủng hoảng.
9. Nam Hàn: Đại đức Kapchong, Hội chủ Tổng
Hội Phật Giáo, gởi thư cho chính phủ Việt Nam yêu cầu chấm dứt
việc đàn áp Phật tử. Tướng Chang Chung Sơn, nhân viên trong hội
đồng Quân nhân cách mạng, đã gởi thư lên án chíng phủ Việt nam
đàn áp Phật tử một cách vô nhân đạo.
10. Nhật Bản: Tổ đình Bổn Nguyệt Tự tổ chức
một buổi lễ đại cầu siêu cho cố HT. Quảng Đức và Phật tử Việt
Nam hy sinh vì tín ngưỡng. Mặc dù dè giặt nhưng Thứ trưởng Ngoại
giao ông Shigenobu Shima tiếp xúc với Đại sứ Việt Nam tại Nhật
để biểu lộ sự lo âu về biến cố Phật Giáo Việt Nam.
Báo chí và dư luận của các nước Tây Phương rất nhiệt tình và
ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam.
11. Báo Le Monde: Được xem là phản ảnh quan
điểm của Bộ Ngoại giáo Pháp. Số ra ngày 10.6.63 đã công kích
chính phủ Việt Nam bằng những lời lẽ kịch liệt như sau:
“Biến cố ở Huế đã xẩy ra do sự đàn áp tàn bạo của nhà cầm
quyền, và đã là một cơ hội tốt để sự bất mãn của nhân dân bộc
phát. Sự tranh chấp nầy đã lột trần sự cô lập và thất nhân tâm
của một nhóm thiểu số Thiên Chúa Giáo được ưu đải.” (BMNNL,
tr.144).
12. La Croix: Là một nhật báo có nhiều ảnh
hưởng trong giới Công Giáo Pháp đăng bài quan điểm chống đối
chính sách độc tôn của chính Phủ Ngô Đình Diệm và kêu gọi tín đồ
Công Giáo cầu nguyện cho Phật Tử Việt Nam. (Hoành Linh Đỗ Mậu,
tr. 640).
13. Báo New York Times (Nữu Ước Thời Báo): Số
ra ngày 8.8.1963 viết:
“... Chính phủ Hoa Kỳ đã tìm đủ mọi cách để buộc ông Diệm
phải giải quyết vấn đề Phật Giáo. Nhưng người ta hết sức kinh
ngạc khi nghe bà Ngô Đình Nhu, em dâu của Tổng Thống Diệm, vu
khống các lãnh tụ Phật giáo là phiến loạn, sát nhân, và áp dụng
chiến dịch Cọng sản. Có tin cho biết, chồng bà Nhu, em của Tổng
thống Diệm, có thể cầm đầu một cuộc đảo chánh đã làm cho Hoa Kỳ
lo ngại. Có nhiều người cho rằng những tin đồn về cuộc đảo chánh
như vậy là một phần trong chiến tranh tâm lý chống Phậ giáo, và
cũng là một sự hăm dọa đối với Hoa Kỳ.” (BMNNL, tr.147).
14. Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ: Liền
sau khi các chùa trên toàn miền nam bị tấn công, Bộ Ngoại giao
Hoa Kỳ phổ biến một tuyên ngôn, có đoạn như sau:
“Căn cứ vào các tin loan đi từ Sài goon, rõ ràng chính
phủ Việt Nam Cọng Hòa đã có những biện pháp đàn áp nghiêm khắc
các lãnh tụ Phật giáo Việt Nam. Hành động nầy là một vi phạm
trực tiếp của chính phủ Việt Nam vào lời cam kết theo đuổi một
chính sách hòa giải với tín đồ Phật Giáo. Hoa kỳ phiền trách các
hành động đàn áp loại nầy.”
Text of Statement issued by Department of State, Washington,
on August 21: On the basis of information from Saigon, it
appears that the Government of the Republic of Vietnam has
instituted serious repressive measures against Vietnamese
Buddhist leaders. The action represents a direct violation by
the Vietnamese Government of assurances that it was pursuing a
policy of reconciliation with the Buddhists. The United State
deplores repressive action of this nature. (Vũ Văn Mẫu, tr.333).
15. Liên Hiệp Quốc: Với những hình ảnh Phật
tử Việt nam bị đàn áp, bắt bớ, tù đày, vu khống bởi chính quyền
Ngô Đình Diệm được đăng tải vào trang nhất của hầu hết các báo
khắp thế giới, tổ chức Liên Hiệp Quốc đã không thể làm ngơ, nên
ngày 24.9.1963 một phái đoàn đặc biệt được gởi đến Việt Nam để
điều tra vụ Phật Giáo. Mặc dầu chính quyền Ngô Đình Diệm không
cho phái đoàn Liên Hiệp Quốc tự do đến những nơi cần thiết để
điều tra, nhưng cuối cùng phái đoàn cũng đã thu thập đủ bằng
chứng để kết luận rằng ‘Phật tử Việt Nam bị chính quyền Ngô
Đình Diệm kỳ thị, khủng bố, tra tấn, tù đày, giết hại và cải đạo
trong nhiều năm qua.’
Tóm kết, cuộc tranh đấu Phật giáo 1963 không
nằm hạn hẹp trong việc đòi hỏi sự bình đẳng và quyền tự do tôn
giáo mà còn là một cuộc đòi hỏi về công bằng xã hội và quyền
được sống an bình trong một quốc gia như bao nhiêu quốc gia khác
trên thế giới. Cuộc tranh chấp ý thức hệ mà Việt Nam là một bải
chiến trường để đọ sức. Khí giới, bom đạn, hàng hoá bị thặng dự
sau Thế chiến Thứ hai thì Việt Nam là một thị trường tốt để tiêu
thụ. Người Việt trở thành nạn nhân nhưng được các cường quốc che
dấu bằng những danh từ hoa mỹ.Vì thế, cuộc tranh đấu Phật Giáo
63 được toàn dân, toàn quân ủng hộ và thế giới tán đồng. Sự tự
hy hiến bi hùng của Bồ Tát Thích Quảng Đức cũng như những ngọn
lửa thiêng tiếp nối sau đó là để chính phủ Ngô Đình Diệm tỉnh
thức và thế giới lưu tâm. Kết quả là cộng đồng thế giới có lưu
tâm nhưng chính phủ Ngô Đình Diệm lại không đếm xĩa nên cuối
cùng, chế độ mất lòng dân và ngược thời đại nầy đã bị sụp đổ..
Những Ngọn lửa thiêng và biến cố 63 đã tạo cơ duyên tốt cho
Phật Giáo để chấn hưng và một vận hội mới cho quy trình cách
mạng xứ sở, nhưng tất cả đều tùy thuộc vào vận nước, vào thế
chính trị quốc tế, vào ý chí của toàn dân và nhất là tùy thuộc
vào những con người có lương tâm, trí tuệ và hùng lực của thành
phần lãnh đạo.
*Thượng Toạ Thích Tiêu Diêu, Đại Đức Thích Thanh Tuệ, ĐĐ
Thích Thiện Mỹ, ĐĐ Thích Nguyên Hương, Sư Cô Thích Nữ Diệu Quang
và Phật Tử Đặng Thị Ngọc Tuyền.
** Giám Mục Puginier nhận định “Không có giáo sĩ và giáo
dân thì người Pháp (rồi đến người Mỹ) như cua bị bẻ gãy
hết càng” (Sans les missionnaires et les chrétiens, ecrit Mgr.
Puginier, les Francais seraient comme les crabs auquels on
aurait cassé toutes les pattes).
***Tôi chỉ liệt kê một người khác tín ngưỡng tiêu biểu.
Sách Tham Khảo:
1. Giao Điểm: 1963-2003 Bốn Mươi Năm Nhìn Lại, Giao
Điểm 2003
2. Hoành Linh Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, Hồi
Ký Chính Trị, Hoa Kỳ 1993
3.Minh Không Vũ Văn Mẫu, Sáu Tháng Pháp
Nạn 1963, bản Ronéo 1984
4. Appy, Christian G. Patriots The Vietnamese War
Remembered From All Sides, New York 2003
5. Browne, Malcolm W. , The New Face Of War, Revised
Edition, The Bobbs-Merrill Company, Inc.
Indianapolis-New York,1968
6. Buttinger, Joseph, Vietnam: A Dragon Embattled, Volum
II Vietnam at War, Frederick A. Praeger, Publisher, New
York, 1967
7. Nhat Hanh, Vietnam: Lotus in a Sea of Fire. Hill
and Wang, Inc.New York,1967
8. Savey, Grace, A Reader, The American Experience in
Vietnam, edited by Grace Savey, University of
Oklahoma Pess,1989
9. Tucker, Spencer C. Editor Encyclopedia of the Vietnam
War, a Political, Social, and Military History, 1997-1998
10. Tuần báo New York Times (Nữu Ước Thời Báo),
tháng 6-8.1963