|
04-Apr-2012 |
MÀN KỊCH BỊP BỢM “PHÉP LẠ LỘ ĐỨC”
DO VATICAN VÀ HOÀNG GIA PHÁP
DÀN DỰNG NĂM 1858
ĐÃ NÔ LỆ HÓA NHỮNG LINH HỒN MÊ MUỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM
Để
trình bày chuyện bịp
“hang đá Lộ Đức” một
cách rành rẽ và để qúi
vị độc giả dễ nắm bắt
các tình tiết hết sức
phức tạp của câu chuyện
này, tôi phải bắt đầu kể
chuyện hầu qúi vị bằng
những khám phá mới nhất
của Nhân Chủng Học
(Anthropology) mới được
công bố và được các tuần
báo lớn nhất của Mỹ loan
báo trong tháng 6-2003
vừa qua. Sau đó tôi sẽ
đối chiếu với khoa thần
học hoang tưởng của St.
Augustine để tố cáo thủ
đoạn lừa bịp của Vatican
qua các tín điều do họ
công bố nhằm mục đích
đầu độc và nô lệ hóa con
người. Cuối cùng là
vạch trần âm mưu của
Vatican cấu kết với
chính quyền hoàng gia
Pháp giữa thế kỷ 19
trong việc dàn dựng màn
kịch bịp bợm “hang đá Lộ
Đức” như thế nào. Từ đó
chúng ta sẽ thấy rõ tinh
thần nô lệ đáng xấu hổ
của giáo hội Công giáo
Việt Nam là giáo hội
luôn luôn chỉ biết cúi
đầu vâng phục Vatican
một cách mù quáng hèn hạ
nên đã đạt kỷ lục xây
cất nhiều “hang đá Lộ
Đức” vượt trội tất cả
các giáo hôi công giáo
khác trên khắp thế giới
!
Đây là một hiện tượng bất bình thường trong
sinh hoạt chung của cộng
đồng Công Giáo hoàn vũ.
Hiện tượng bất thường
này đã vô tình hé mở
cánh cửa bí mật của lịch
sử để chúng ta thấy được
một phần nào của sự thật
đã bị che khuất về vai
trò gián điệp của nhân
vật Nguyễn Trường Tộ. Có
một điều mà toàn dân
Việt Nam nên nhớ:
Cả hai soạn giả
kiêm đạo diễn của vở
kịch bịp bợm “Phép lạ Lộ
Đức” là Giáo Hoàng Pio
IX và hoàng đế Pháp
Napoléon III đã luôn
luôn sát cánh với nhau
trong chủ trương xâm
chiếm Đông Dương để mở
rộng thuộc địa và nước
Chúa. Cả hai
nhân vật chóp bu
về thần quyền và thế
quyền này đều có quan hệ
mật thiết với các giáo
sĩ Pháp nổi tiếng ở Việt
Nam thời đó là giám mục
Pellerin, giám mục
Puginier, linh mục Huc,
giám mục Gauthier và
“gián điệp”Nguyễn
Trường Tộ. Giám
mục Gauthier là thầy dậy
của Nguyễn Trường Tộ
trong 10 năm. Nguyễn
Trường Tộ luôn luôn tỏ
ra trung thành với các
giám mục Pháp, hết lòng
tuân phục Giáo Hoàng và
tuyệt đối trung thành
với Tòa Thánh Vatican.
Tóm lại màn bịp
bợm “Phép lạ Lộ Đức”
chẳng những là một biến
cố thần học trong nội bộ
giáo hội Công Giáo. Đồng thời về mặt
chính trị, “Phép lạ Lộ
Đức” cũng có
những hệ lụy oan trái in
hằn lên vận mệnh đau
thương của dân tộc Việt
Nam trong giai đoạn đầu
của lịch sử mất nước hồi
hậu bán thế kỷ 19.
Đây là một vấn đề nhức
nhối dễ gây tranh cãi và
dù sao cũng còn là một
nghi vấn lịch sử cần
được các sử gia làm sáng
tỏ thêm. Do đó, tôi xin
dành vấn đề này lại để
trình bày trong một bài
viết riêng. Sau đây, tôi
chỉ xin đề cập đến những
vấn đề liên quan trực
tiếp đến “Phép lạ Lộ
Đức” mà thôi.
I.- Nhân chủng học
đối diện với lịch sử qua
bằng chứng cụ thể về “Bà
Evà thật”.
Tuần báo Newsweek, số ra
ngày 23-6-2003 (trang
14) có đăng bài “Nhân chủng học đối diện
với lịch sử”
(Anthropology in the
face of History). Kèm theo bài báo là hình
ảnh chiếc sọ hóa thạch
của một phụ nữ, bên dưới
có ghi chú: “Tất cả
sự thật về Bà Evà: Tấm
ảnh chụp sọ người cổ xưa
nhất đã được tìm thấy
tại Phi Châu” (All about
Eve: Portrait of the
oldest human from Africa).
Tác giả bài báo Mary
Carmichael viết: “Đối
với họa sĩ Michael
Angelo thì bà Evà là một
phụ nữ da nâu, mắt đen
dễ thương. Đối với họa
sĩ Pháp Rodin thì bà Evà
là một phụ nữ đầy cám dỗ
nhục dục. Đối với các
nhà khoa học, khuôn mặt
thật của bà tổ nhân loại
thật khó nắm bắt (the
human matriarch’s face
has always been
elusive). Tuy nhiên
vào năm 1987, các nhà di
truyền học (geneticists)
đã kết luận rằng: Bà
Evà Phi Châu (có
hình sọ kèm theo bài
báo) đã sống trên mặt
đất 160,000 năm trước
đây là “bà tổ cuối cùng”
của toàn thể loài người
(The African Eve who
lived 160,000 years ago,
was the last ancestor of
all humans). Đó là
sọ hóa thạch của con
người khôn ngoan (Homo
Spiens) cổ nhất nhân
loại đã được tìm thấy.
Gọi là “tổ tiên cuối
cùng” vì con người khôn
ngoan (Homo Sapiens) là
loại người xuất hiện
trong giai đoạn chót của
quá trình tiến hoá của
nhân loại.
Các cuộc khảo cứu tổng
hợp của các nhà khoa học
khảo cổ, nhân chủng học,
di truyền học và cổ sinh
vật học đã đi đến hai
kết luận :
1.- Nguồn gốc con người
xuất phát từ Phi Châu,
từ đó con người di
chuyển đến các lục địa
khác trên thế giới.
2.- Điều đặc biệt đáng
chú ý là từ xưa đến nay
người ta chỉ tìm thấy
các sọ người hóa thạch
một cách riêng rẽ và
chưa bao giờ tìm thấy sọ
cùng với xương thân mình
và xương chân ở một chỗ.
Đây là bằng chứng cụ thể
về thói tục ăn thịt
người (cannibalism)
trong sinh hoạt thường
ngày của loài người Homo
Sapiens. Trước khi bị ăn
thịt, đầu của nạn nhân
luôn luôn được chặt ra
để vứt bỏ, thân mình và
tay chân của nạn nhân
được nướng chín trên
đống lửa hoặc được nấu
chín. Do đó, chỉ có
xương sọ là còn tồn tại
đến ngày nay, còn các
xương mình và tay chân
đều đã bị hủy hoại và bị
vứt bỏ riêng rẽ cách xa
xương đầu.
Tuần báo Time, số ra
ngày 23 tháng 6-2003,
hai tác giả Lemonick và
Dorfman cho chúng ta
biết thêm nhiều chi tiết
về “bà Evà thật của nhân
loại” (trang 56-58) như
sau: “Người khôn
ngoan đầu tiên của nhân
loại có hình hài như
chúng ta, đi đứng như
chúng ta và trong một số
phương cách nào đó, họ
cư xử như chúng ta” (The
first Homo Sapiens look
like us, walked like us
and in some ways acted
like us as well).
Sở
dĩ sọ người phụ nữ có
hình in trên báo
Newsweek được coi là “Bà
Evà của khoa học” vì đó
là sọ người khôn ngoan
(homo spiens) cổ nhất.
“Người khôn ngoan” là
loại người xuất hiện
trong giai đoạn chót của
quá trình tiến hóa của
nhân loại. Nếu con người
bị coi là bắt đầu biết
phạm tội thì chỉ có thể
phạm tội khi bắt đầu có
trí khôn mà thôi. Người
đàn bà đầu tiên của
“loài người đứng thẳng”
(Homo Erectus) cách
chúng ta 2 triệu năm
không được coi là “bà tổ
Evà” của nhân loại vì
“bà tổ” (matriarch) này
giồng vượn nhiều hơn
giống chúng ta !
Sọ
người đàn bà Homo
Sapiens cổ nhất đã được
tìm thấy tại miền Herto
thuộc nước Ethiopia do
một sự tình cờ vào năm
1987. Vào dịp đó, một
cơn bão làm nước biển
dâng lên tràn ngập miền
Herto làm trơ ra rất
nhiều xương hóa thạch đã
từng bị chôn vùi nhiều
ngàn năm dưới những lớp
đất sâu.
Sọ
của “bà Evà thật” được
phát hiện cùng một lúc
với nhiều bộ xương hóa
thạch của hà mã, cá sấu,
sư tử, ngựa vằn và chó
rừng. Tất cả các hóa
thạch này đều có chung
một niên đại là 160,000
năm. Điều đó cho thấy
các tổ tiên xa xưa của
chúng ta đã phải chiến
đấu rất gay go để tồn
tại giữa một môi trường
đầy thú dữ và với đồng
loại thích ăn thịt đồng
loại.
Cuộc khảo sát “sọ bà Evà
Homo Sapien” là một công
trình khoa học quốc tế, được đặt dưới sự điều
khiển của giáo sư Tim
White thuộc đại học Berkeley tiểu bang
California. Đầu tháng
6-2003, ủy ban khoa học này công bố kết quả
nghiên cứu trước báo
chí: “Sọ người khôn
ngoan đầu tiên được xác
định niên đại 160,000 năm” (The very first
true Homo Sapien dated
160,000 years ago). Trong khi đó “Bà Evà
của Thánh Kinh Cựu Ước
Do Thái” tính tới
nay mới có 6 ngàn năm mà
thôi. Điều này cho thấy
bà Evà của huyền thoại
tôn giáo “trẻ” hơn bà
Evà của khoa học tới
154,000 năm.
Trong quá trình tiến hóa
hai triệu năm từ “loài
người đứng thẳng” (homo
erectus) đến loài người
khôn ngoan (homo
sapiens) có những giống
người khác xuất hiện.
Đáng kể nhất là giống
người Neanderthals.
Giống người này xuất
hiện tại Phi Châu
500,000 năm trước đây,
sau đó họ di chuyển qua
Âu Châu và bị hoàn toàn
diệt chủng vào 30,000
trước. Giống người này
được coi là một nhân
chủng ngoại tộc (a side
branch) không thuộc dòng
tiến hóa của loài người
hiện đại của chúng ta.
Những kết qủa nghiên cứu
về sọ hóa thạch của “bà
Evà Phi Châu” mới được
Ủy Ban Khoa Học Quốc Tế
công bố trong tháng 6,
2003 là những kiến thức
khoa học giá trị dung để
cập nhật hóa sự hiểu
biết của chúng ta về
nhân chủng học. Qua đó,
chúng ta nhận thức được
một điếu rất rõ rệt là:
Trí óc của con người
đã tiến triển hết sức
chậm chạp. Từ trí óc
của loại “vượn người
đứng thẳng” (Homo
Erectus) đến trí óc của
loại người Homo Sapiens
đòi hỏi một thời gian
tiến triển tới 2 triệu
năm! Trí óc của “bà Evà
Phi Châu” cách đây
160,000 năm thực sự cũng
chỉ ở trình độ trí óc
một em bé sơ sinh ngày
nay mà thôi. Từ trí óc
“sơ sinh” đó đến trí óc
“trưởng thành” của nhân
loại ngày nay đòi hỏi
một thời gian 160,000
năm !
Đó
là sự thật không thể
chối cãi về qúa trình
tiến hóa của tâm linh và
trí tuệ loài người. Sự
thật khoa học đó xác
định rằng:
Không thể bỗng dưng
có ngay một bà Evà hoàn
chỉnh được Thiên Chúa
tạo nên từ một khúc
xương sườn cụt của
Adam!. Cách đây 6000
năm, ngay từ lúc vừa mới
được tạo thành, bà Evà
đã có đủ trí khôn phân
biệt thiện ác, và có đủ
“ý chí tự do” để quyết
tâm chống lại Thiên Chúa
bằng cách xúi chồng ăn
trái cấm để phạm cái tội
tày trời là TỘI TỔ TÔNG!
Thần thuyết “Tội Tổ
Tông” là nền tảng của Ki
Tô Giáo (gồm cả Công
Giáo – Tin Lành) đã hoàn
toàn bị sụp đổ trước các
bằng cớ xác thực của
khoa học và lương tri
con người. Các thần
thuyết khác như Sự Cứu
Chuộc của Jesus, Phép
Rửa Tội, các tín điều về
Đức Mẹ, v.v… đếu là
những chuyện ngụy tạo vì
tất cả đều đã được suy
luận ra từ thần thuyết
Tội Tổ Tông.
II.- St. Augustine và
học thuyết Tội Tổ Tông.
St. Augustine sinh năm
354 tại Algeria, cha là
người ngoại đạo, mẹ là
tín đồ Kitô Giáo. Khi
Augustine lên 16 tuổi
được mẹ dẫn qua Ý và đến
thăm thành phố Milan.
Tại đây, Augustine có
dịp nghe giám mục
Ambrose thuyết giảng về
Thiên Chúa Ba Ngôi, tội
Tổ Tông và nhiều điều về
bà Maria. Khi trở lại
Algeria, Augustine say
mê nghiên cứu Kitô giáo
và viết sách liền trong
34 năm, tạo dựng nên cả
một tòa lâu đài đồ sộ về
thần học Kitô giáo. Do
công trình vĩ đại về
thần học, Augustine được
cử làm giám mục địa phận
Hippo ở Algeria. Y chết
năm 430, thọ 76 tuổi.
Augustine được các triết
gia Tây Phương coi như
người thứ hai sáng lập
đạo Kitô sau PhaoLồ và
là bậc thầy tư tưởng Tây
Phương thời Trung Cổ.
Chỉ tiếc một điều là
Augustine đã xây dựng cả
một nền thần học Kitô
giáo đồ sộ trên đống
cát, đó là huyền thoại
Vườn Địa Đàng của
Babylon (The Garden of
Eden). Huyền thoại Vườn
Địa Đàng nguyên là sản
phẩm tưởng tượng của
dân Babylon từ 5000 năm
trước Công Nguyên. Trong
thế kỷ 10 đến thế kỷ 6
TCN, những người viết
Kinh Thánh Cựu Ước Do
Thái đã vay mượn chuyện
Vườn Địa Đàng để phịa ra
chuyện ông Adam và bà
Evà tổ tông của loài
người ăn trái cấm nên đã
phạm tội tổ tông di hại
cho cả loài người tới
ngày nay !
Căn cứ vào huyền thoại
Vườn Địa Đàng, Augustine
đã xây dựng các học
thuyết thần học hão
huyền cho Kitô giáo.
Quan trọng hơn hết là
học thuyết về Tội Tổ
Tông, vì đây là học
thuyết căn bản và tử đó
đẻ ra các học thuyết
khác của Kitô Giáo :
Học thuyết Tội Tổ
Tông :
Augustine giải thích
nguồn gốc mọi đau khổ
của nhân loại đều bắt
nguồn từ tội lỗi “ăn
trái cấm” của tổ tiên
loài người là Adam và
Evà. Tội này được gọi là
“Tội Tổ Tông” hay
“Nguyên Tội” vì đây là
tội đầu tiên của loài
người chống lại Thiên
Chúa (The Original Sin).
Tội Tổ Tông được di
truyền cho con cháu muôn
đời do sự giao cấu tội
lỗi của cha mẹ. Dù
là sự giao cấu hợp pháp
giữa vợ chồng cũng là
điều tội lỗi vì hành
động giao cấu đã bị ô
nhiễm do sự thúc đẩy của
sự ham muốn nhục dục
(The inherited guilt was
passed on to all his
descendants through the
sexual act which was
polluted by what is
called concupiscene).
Dựa vào lý luận này,
Augustine viết thêm cuốn
“On Female Dress” để
nguyền rủa phụ nữ. Augustine gọi mỗi người
phụ nữ trên thế gian là
một Evà, kẻ đồng lõa với
ma qủi và luôn luôn xúi
giục đàn ông chống lại
Thiên Chúa. Chính vì tội
lỗi xấu xa bắt nguồn từ
phụ nữ mà chúa Jesus là
con một (the only son)
của Thiên Chúa đã phải
chết. Đàn ông là
hình ảnh của Thiên Chúa
(vì Thiên Chúa là Đàn
ông Toàn Năng – The Male
Almighty), còn đàn bà
là cửa hỏa ngục (the
devil’s gate). Chính
Augustine là người đã
đem lại cho những người
Công giáo niềm tin rằng
chỉ có Đức Mẹ Maria là
người duy nhất trên thế
gian không mắc tội Tổ
Tông. Vì thế Đức Mẹ được
tôn xưng là Đấng Vô
Nhiễm Nguyên Tội! Chỉ có
một phụ nữ duy nhất trên
thế gian không bị
Augustine nhục mạ, đó
chính là đức mẹ Maria.
Đức Mẹ trở thành một
biệt lệ vĩ đại !
Mọi người Việt Nam bình
thường chúng ta khi nghe
nói đền chuyện Adam Evà
trong Vườn Địa Đàng đều
hiểu rằng đó chỉ là một
chuyện thần thoại để kể
cho con nít nghe chơi mà
thôi. Còn chúng ta có
nghe ai thuyết giảng về
“Tội Tổ Tông” chắc chắn
đa số chúng ta chỉ mỉm
cười nghe qua rồi bỏ.
Nhưng chúng ta không thể
tưởng tượng nổi là cái
chuyện hoang đường Adam
Evà ăn trái cấm đã khống
chế tâm linh Âu Châu
suốt 16 thế kỷ qua do
những học thuyết thần
học hoang tưởng của
Augustine!
Học thuyết “Tội Tổ
Tông” của Augustine đã
trở thành hòn đá tảng vĩ
đại của nền văn hóa Kitô
giáo Tây Phương và là
nền tảng giáo lý cho tất
cả các đạo Kitô gồm có
Công Giáo, Tin Lành, Anh
Giáo và Chính Thống
Giáo. Các đạo Kitô
bề ngoài có vẻ khác
nhau, nhưng thực sự chỉ
khác nhau về tổ chức và
về một số nghi lễ mà
thôi.
Nội dung chính yếu về
giáo lý của Công Giáo,
Tin Lành, Anh Giáo và
Chính Thống Giáo đều
đồng nhất như sau :
“Tất
cả mọi người đều sinh ra
trong tội lỗi (born in
sin) và bị Thiên Chúa
ruồng bỏ vì Tội Tổ Tông.
Chỉ vì Tội Tổ Tông mà
con người phải đau khổ
và phải chết. Không một
ai có thể tự cứu mình
khỏi tội Tổ Tông, chỉ có
một con đường cứu rỗi
duy nhất là tin thờ Chúa
Jesus là Chúa Cứu Thế mà
thôi”.
Chính vì tin vào thuyết
Tội Tổ Tông như trên nên
các đạo Kitô đều coi
trọng Phép Rửa Tội
(Baptism). Nhiều
người nghĩ rằng Phép Rửa
Tội là một hình thức cải
đạo cho những người tân
tòng nhập đạo Kitô hoặc
là một “phép bí tích” để
cho một đứa bé sơ sinh
nhập đạo Chúa một cách
long trọng chính thức.
Thực sự không phải vậy.
Chính vì các người Kitô
giáo tin rằng mọi người
sinh ra đều nhiễm tội Tổ
Tông, cho nên các đứa
trẻ mới được sinh ra
cũng cần phải được rửa
tội để nó được lãnh nhận
ơn cứu chuộc của chúa
Jesus! Mặc dầu đứa bé
sơ sinh hoàn toàn vô tội
về phần nó, nhưng nó đã
bị nhiễm tội Tổ Tông do
Adam và Evà truyền lại
qua sự giao cấu tội lỗi
của cha mẹ nó. Đó là
lý do chính yếu dẫn đến
sự rửa tội cho mọi đứa
bé mới sinh theo học
thuyết của Augustine
(The inherited guilt was
passed on to all his
descendants through the
sexual act of their
parents).
Nhưng nếu chúng ta suy
nghĩ kỹ sẽ nhận ra một
điều mâu thuẫn là khi
hai người nam và nữ làm
đám cưới tại nhà thờ là
đã “thánh hóa” bởi phép
“bí tích hôn phối”. Vậy
chẳng lẽ “phép bí tích
hôn phối” của Chúa lập
ra không có khả năng
“thánh hóa” việc chăn
gối của vợ chồng bắt
buộc phải có để sinh con
hay sao? Vậy vợ chồng
làm phép hôn phối theo
đúng luật đạo để làm gì
khi hành động giao cấu
giữa vợ chồng rất tự
nhiên và hợp pháp ấy vẫn
cứ truyền tội Tổ Tông
cho đến muôn đời?
Thật sự ngày nay chẳng
còn mấy tín đồ Kitô giáo
tin vào tội Tổ Tông,
nhưng người ta vẫn cứ
mang các đứa bé sơ sinh
đến nhà thờ rửa tội theo
truyền thống lâu đời của
gia tộc. Giáo hội cũng
biết chẳng làm gì có tội
tổ tông, nhưng vẫn cứ để
nguyên cho các linh mục
có công việc làm để kiếm
ăn và giáo hội vẫn tiếp
tục tồn tại trong bình
an vô sự. Chẳng những
thế, hầu hết những người
ngoại đạo muốn lấy vợ
hay chồng theo Kitô giáo
đều phải cam kết cho
phép các con sẽ sinh ra
sau này được chịu phép
rửa tội. Đây chỉ là một
mánh lới lưu manh của
các giới lãnh đạo Kitô
giáo dùng để dành dựt
tín đồ qua đường hôn
nhân mà thôi. Việc
rửa tội cho các đứa bé
sơ sinh là một hình thức
vi phạm quyền tự do tín
ngưỡng của đứa bé một
cách thô bạo và trắng
trợn. Muốn tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng
thật sự, người lớn phải
đợi đến khi đứa bé lớn
khôn để tự nó chọn lựa
tín ngưỡng cho riêng
mình.
Cái gọi là “Phép Bí Tích
Rửa Tội” (Baptism) hoàn
toàn dựa trên thuyết
thần học hoang tưởng của
Augustine về Tội Tổ
Tông. Những khám phá của
khoa học hiện đại đã
hoàn toàn phủ bác sự
hiện hữu của “bà Evà xúi
chồng ăn trái cấm” như
được kể trong Kinh Thánh
Cựu Ước. Do đó chúng ta
có thể khẳng định rằng:
Tội Tổ Tông là chuyện
hoàn toàn hoang đường và
ấu trĩ. Cả loài người
chúng ta sinh ra hoàn
toàn vô tội, do đó chúng
ta chẳng cần phải “chịu
phép rửa tội” để tẩy xóa
bất cứ một thứ dấu vết
tội lỗi nào mà chúng ta
không hề có.
Nhân tiện, tôi có vài
điều muốn nói với ông Đỗ
Mạnh Trí, tác giả cuốn
“Ngón Tay và Mặt Trăng”.
Nơi trang 55 và 62, ông
Trí viết: “Nhiều bạn
nhắc tới ý niệm tội và
tội tổ tông trong Kitô
giáo một cách miả mai,
thậm chí phẫn nộ”. Trần
Văn Kha trích Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ: “Adam
Evà không phải thủy tổ
loài người vì con người
đại khái đã xuất hiện
cách đây khoảng nhiều
triệu năm. - Nếu Adam
Evà không phải thủy tổ
loài người thì làm gì có
tội tổ tông? - Nếu
không có tội tổ tông thì
làm gì có chuyện Chúa
phải giáng trần để cứu
chuộc? Vậy Kinh Thánh
hoàn toàn huyền hoặc,
phi lý và “đạo Thiên
Chúa hoàn toàn đã được
xây dựng trên những ảo
tưởng” như lời của
Nguyễn Văn Thọ trên
kia?”
Nơi trang 63-64, ông Đỗ
Mạnh Trí xác nhận:
“Truyện Adam Evà ăn trái
cấm rồi bị Giavê phạt,
chẳng phải là nhà
kinh-thánh-học ta cũng
có thể tưởng đó là một
huyền thoại”. Sau khi đã
thú nhận chuyện Adam-Evà
ăn trái cấm chỉ là một
huyền thoại (myth), ông
Trí đã tìm cách lý luận
vu vơ và hoàn toàn lạc
đề để cuối cùng tránh né
không dám trả lời thẳng
hai câu hỏi của ông
Nguyễn Văn Thọ đã nêu.
Vậy ông nêu lên vấn đề
tội tổ tông trong sách
“Ngón Tay và Mặt Trăng”
(từ trang 55 dến trang
68) để làm gì?
Một khi ông đã dám nhìn
nhận chuyện Adam Evà ăn
trái cấm là một huyền
thoại (myth )tức là một
chuyện phịa (a fictious
story) thì với lương tâm
tối thiểu của một người
trí thức lương thiện ông
cần phải đi tiếp vài
bước: - Nếu chuyện Adam
Evà ăn trái cấm là
chuyện phịa thì “tội tổ
tông”là chuyện hoang
đường không có thật. –
Vì không có tội tổ tông,
nên cũng chẳng cần Chúa
phải mất công giáng trần
để cứu chuộc, vì con
người chẳng cần phải cứu
chuộc để làm sạch cái
tội mà họ không hề có.
- Vì không có tội tổ
tông nên không riêng một
mình bà Maria là “Đấng
Vô Nhiễm Nguyên Tội” mà
tất cả mọi người chúng
ta đều là “các dấng vô
nhiễm nguyên tội” cả !
Ông Đỗ Mạnh Trí có dám
nhìn nhận những sự thật
hiển nhiên đó không? Ông
hãy can đảm lên tiếng
trả lời để xứng đáng là
một người biết trọng
danh dự và lẽ phải.
III.
Từ
học thuyết hoang đường
về Tội Tổ Tông dẫn đến
tín điều “Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội” do
Giáo Hoàng Pio IX công
bố năm 1854.
Augustine nguyên là một
thanh niên phóng đãng
trụy lạc nhiều năm trước
khi y trở thành giám mục
của địa phận Hippo
(Algeria). Do đó, về
phương diện sinh lý,
Augustine là một người
bất bình thường. Y có
rất nhiều quan niệm lệch
lạc về sinh lý, và những
bệnh hoạn sinh lý của y
đã có ảnh hưởng lớn đến
khoa thần học của Kitô
giáo (Công giáo, Tin
Lành, Anh giáo, Chính
Thống giáo).
Căn cứ trên nền tảng
giáo lý xuất phát từ
huyền thoại về Tội Tổ
Tông, Augustine nêu lên
học thuyết “Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội” (The
Virgin of the Immaculate
Conception) qua lăng
kính méo mó về sinh lý
của y như sau :
Đức Mẹ không sinh ra
Chúa Jesus do sự giao
cấu với chồng là ông
Joseph nên Đức Mẹ vẫn
còn đồng trinh. Chúa
Jesus sinh ra do phép
của Chúa Thánh Thần và
Đức Mẹ Đồng Trinh nên
Chúa hoàn toàn không bị
nhiễm tội tổ tông
(sinless/immaculate
conception).
Những lý luận lẩm cẩm
về thần học của
Augustine đã thống trị
linh hồn Kitô Giáo Âu
Châu liên tục trên một
ngàn năm ! Mãi đến giữa
thế kỷ 16 mới có một số
trí thức Âu Châu dám
viết sách báo lên tiếng
đả kích những thuyết
thần học của Augustine
về một số điểm quan
trọng sau đây :
- Trước hết, họ chê
Augustine đã thổi phồng
quá đáng việc bà Evà xúi
chồng ăn trái táo ở vườn
địa đàng. Chuyện đó
chẳng qua chỉ là chuyện
quá nhỏ, không thể khiến
cho con một của Thiên
Chúa phải xuống thế làm
người và chịu chết để
cứu chuộc. Nếu
chuyện đó là thật thì
người đáng trách không
phải là bà Evà mà là
Chúa Cha lẫn Chúa Con
đều ngu quá vì đã không
tìm ra được phương cách
nào đơn giản hơn để giải
quyết cái vụ ăn trái táo
của Adam – Evà !
- Khi có cơ hội thư thả
tinh thần, đọc lại
chuyện Adam-Evà, người
ta mới khám phá ra rằng:
ông bà tổ tiên loài
người không có con gái.
Adam-Evà chỉ có hai
người con trai là Cain
và Abel. Abel bị Cain
giết chết nên trên thế
gian lúc đó chỉ có hai
người đàn ông là Adam và
Cain. Từ đầu đến cuối
chuyện chỉ có một mình
Evà là phụ nữ duy nhất
trên thế gian mà thôi.
Vậy ai là vợ của Cain?
Chẳng lẽ Cain lấy mẹ
mình là bà Evà để sinh
ra loài người hay sao?
Chuyện Adam-Evà là tổ
tiên loài người đã đi
vào ngõ cụt !
- Cũng theo thần học của
Augustine thì sau khi
Adam – Evà phạm tội,
loài người bị Thiên Chúa
tước đoạt nhiều ân sủng
nên mọi người đều phải
chết, đàn ông phải làm
việc cực nhọc mới có
miếng ăn, đàn bà phải
mang nặng đẻ đau mới có
con.
Nhưng sau khi Jesus phải
chết trên thập giá để
“chuộc tội tổ tông” thì
mọi hậu quả của tội tổ
tông trên số phận loài
người cũng vẫn còn y
nguyên: con người vẫn
phải chết, đàn ông vẫn
phải vất vả mới có ăn,
đàn bà vẫn mang nặng đẻ
đau như lúc Jesus chưa
cứu chuộc. Vậy cái gọi
là công ơn cứu chuộc của
Chúa chỉ là chuyện xảo
trá bịp bợm và hoàn toàn
vô ích (salvation for
nothing).
Phe cấp tiến Âu Châu
dùng lý luận của
Augustine phá học thuyết
“Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên
Tội” để đạt mục tiêu
cuối cùng của họ là “hạ
bệ Jesus”. Họ lý
luận rằng:
Nếu Jesus sinh ra
thuộc dòng David thì
Jesus phải là con của
Joseph và bà Maria, vậy
bà Maria không thể đồng
trinh và Jesus cũng có
100% tội tổ tông vì cả
Joseph và Maria là cha
mẹ ruột của Jesus đã
được sinh ra do sự giao
cấu của cha mẹ họ.
Nếu Jesus là con của
Chúa Thánh Thần thì
Jesus chỉ được miễn
nhiễm 50% tội tổ tông mà
thôi vì bà Maria đã
nhiễm tội tổ tông do sự
giao cấu tội lỗi của cha
mẹ là ông Joachim và bà
Anna. Vậy Jesus đã bị
nhiễm 50% tội tổ tông do
bà Maria truyền qua nên
Jesus không thể được coi
là đấng chí thánh, và do
đó, Jesus không thể là
Thiên Chúa !
Cuộc bút chiến giữa
các phe thần học Âu Châu
chung quanh vấn đề “Đức
Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội”
kéo dài tới 30 năm trong
thế kỷ 16. Tòa
Thánh La Mã không thể
dùng lý luận để dập tắt
cuộc bút chiến này nên
đã phải vận dụng đến
biện pháp mạnh của các
tòa án dị giáo để đưa nhiều ngàn người lên dàn
hỏa. Nhờ đó, cơn
sóng gió về thần học đã
lắng xuống và tòa lâu
đài thần học đồ sộ của
Augustine vẫn còn đứng
vững thêm vài thế kỷ !
Đúng 300 năm sau, tức
vào giữa thế kỷ 19,
quyền uy của tòa thánh
La Mã đã bị sút giảm
nhiều trước cao trào dân
chủ lớn mạnh ở Âu Châu.
Các tòa án dị giáo bị
dẹp bỏ. Cuộc bút chiến
vể những học thuyết thần
học lại có cơ hội bùng
lên.
Những
vấn đề được nêu lên
chung quanh học thuyết
“Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên
Tội” có nguy cơ phá sập
thanh thế của chúa Jesus
và uy tín của giáo hội
Công Giáo La Mã. Vatican
lúc đó đã bị dồn vào thế
đường cùng nên buộc lòng
Giáo Hoàng Pio IX phải
công bố tín điều “Đức Mẹ
Vô Nhiễm Nguyên Tội”
ngày 8-12-1854.
Bằng cách xử dụng quyền
uy tối thượng của người
đại diện Chúa Kitô
(Vicar of Christ), giáo
hoàng buộc toàn thể giáo
hội Công Giáo tin rằng:
Đức Mẹ là một ngoại lệ
đặc biệt do quyền phép
của Thiên Chúa ban cho
là “không hề mắc tội tổ
tông”. Do đó, Đức Mẹ đã
sinh ra Chúa Jesus hoàn
toàn vô tội (sinless)
nên Chúa là đấng chí
thánh và cực thanh cực
sạch vô cùng !
IV
–
“Phép lạ Lộ Đức” là màn
kịch bịp bợm của Vatican
và chính quyền hoàng gia
Pháp năm 1858:
Tác phẩm “The Great
Apparitions of Mary” của
Ingo Swann (The
Crossroad Publishing
Co., NY 1996) kể chuyện
Phép Lạ Lộ-Đức ở Pháp
năm 1958 (trang 69-84)
như sau :
Lourdes (Lộ Đức) là một
thị trấn nhỏ trên sườn
núi phía bắc của dẫy
Pyrénées. Vào giữa thế
kỷ 19 thì thị trấn này
chỉ có khoảng 300 dân,
hầu hết đều nghèo khổ vì
thị trấn này không có
một nguồn lợi kinh tế
nào cả. Các thị trấn lân
cận đều khá vì có nhiều
suối nước nóng thu hút
du khách và kiếm lời do
việc khai thác kỹ nghệ
nước suối có muối kháng
(mineral waters). Tại
Lộ Đức có một vách đá
dốc đứng cao như ngọn
tháp (a towering rock
cliff) có tên là
Massabielle, trong vách
đá có một cái hang lớn
(a grotto). Chính nơi
đây đã được Vatican
tuyển chọn để diễn màn
kịch bịp bợm.
Nhân vật chính của màn
kịch này là cô bé
Bernadette. Cô sinh năm
1844, là con gái đầu của
8 anh chị em. Cha mẹ là
ông Fracois và bà Louise
Soubirous. Khi cô bé
Bernadette lên 8 tuổi
thì cha bị tai nạn mù
mắt trái và bị thất
nghiệp. Cả gia đình lâm
vào cảnh sống cùng quẫn.
Khi cô bé lên 11 tuổi
thì cô bị bệnh thổ tả và
bệnh suyễn trầm trọng.
Cha cô bị bắt về tội
trộm. Em trai cô tên
Jean Marie đói quá nên
chạy đến nhà thờ ăn cắp
cây đèn cầy bằng sáp để
ăn, chẳng may bị cha xứ
bắt gặp và bị cha hăm bỏ
tù. Vào đầu tháng 2 năm
1858, lúc gia đình cô
sắp chết đói thì mẹ cô
được một bà nhà giàu
mướn làm đầy tớ (a
servant). Do sự xếp
đặt của bà chủ nhà giầu
này, với sự đồng ý của
cha mẹ, cô bé được chỉ
dẫn đến hang đá
Massabielle. Lúc này
cô bé lên 14 tuổi, nhưng
mù chữ vì chưa được đi
học ngày nào.
Ngày 11 tháng 2 năm
1858, cô Bernadette cùng
với một đứa em gái và
một đứa bạn tên Jeanne
Abadie đến hang đá
Massabielle. Một mình cô
đến qùi trước cửa hang
một lúc rồi cô nói cho
em gái và đứa bạn biết
là cô đã nhìn thấy “một
cô gái đẹp trong ánh
sáng mờ” (a beautiful
girl appeared in the
soft glow).
Sau khi trở về nhà, em
của Bernadette kể chuyện
cho mẹ, còn cô bạn
Jeanne Abadie đi khắp
thị trấn loan tin
Bernadette đã nhìn thấy
Đức Mẹ hiện ra tại hang
Massabielle. Chỉ hai
tuần sau, cả thị trấn
Lourdes qui tụ một đám
đông tín đồ Công Giáo
lên tới 8,000 người và
họ rủ Bernadette cùng đi
với họ đến hang đá
Massabielle.
Khi tới nơi, chỉ có
một mình Bernadette nói
là có nhìn thấy “một cô
gái đẹp” còn tất cả mọi
người khác đều không
thấy gì cả ! Mặc dầu
vậy, tin đồn về chuyện
Đức Mẹ hiện ra tại Lộ
Đức đã lan nhanh khắp
nơi như một đám cháy
rừng.
Ngày 25 tháng 3 năm
1858, vào lúc 5 giờ
sáng, cha mẹ Bernadette
đánh thức con gái dậy để
cùng đi với một đám đông
tín đồ đến hang đá
Massabielle. Sau khi qùi
một mình trước hang đá
một lúc, cô bé
Bernadette dõng dạc
tuyên bố với mọi người :
Cô bé đã hỏi
“cô gái đẹp” là ai, thì
cô gái đẹp đó trả lời:
“Ta là Đức Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội” (I am the
Immaculate Conception).
Kể từ đó, hàng ngày có
nhiều tín đồ Công Giáo
đến hang đá Massbielle
để lần chuỗi Mân Côi.
Sau đó, có khoảng 50
người tự nhận là có nhìn
thấy “Đức Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội” ở trong
hang, nhưng không một ai
đưa ra bằng chứng nào cả
!
Vì
lý do những sinh hoạt
bất thường của đám đông
giáo dân ở Lourdes có
thể gây nhiều chuyện bất
an ninh, nên cảnh sát
địa phương đã làm hàng
rào cản không cho giáo
dân kéo đến Massabielle
mỗi ngày mỗi đông. Sự
việc này được báo cáo
lên hoàng đế Napoléon
III. Nhà vua đã đích
thân ra lệnh cho cảnh
sát ở Lourdes phải rỡ bỏ
tất cả các rào cản đó để
cho các tín đồ được tự
do đến viếng hang đá
Massabielle.
Năm 1862, giám mục
Laurance cai quản địa
phận Tabres chính thức
công bố thư luân lưu xác
nhận “Đức Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội” là Mẹ Chúa
Trời đã thực sự hiện ra
với Bernadette Soubirous
ngày 11 tháng 2 năm 1858
và những lần kế tiếp,
tổng cộng 18 lần cả
thảy. Tòa Giám Mục cho
phép sự tôn thờ “Đức Mẹ
Vô Nhiễm Nguyên Tội” tại
hang đá Lộ Đức trong địa
phận (The Virgin Mary
Immaculate, Mother of
God, really appeared to
Bernadette Soubirous on
11 February 1858 and on
subsequent days,
eighteen times in all.
We authorize the cult of
our Lady of the Grotto
of Lourdes in our
diocese). Từ 1858,
mọi phương tiện truyền
thông của nước Pháp được
vận dụng tối đa để
quảng bá khắp nơi về
“phép lạ” Đức Mẹ hiện ra
tại Lộ Đức. Song
song với mọi nỗ lực
tuyên truyền và quảng
cáo, cựu bộ trưởng tài
chánh Pháp là Achille
Toul vận động với hãng
xe lửa Southern Railway
Company làm đường xe lửa
nối liền thành phố
Tarbes với Lourdes. Các
công ty xây dựng đổ xô
đến Lourdes xây cất rất
nhiều khách sạn, nhà
hàng và các phương tiện
du lịch.
Năm 1906, hang đá Lộ Đức
và nhà thờ lớn tại đây
thuộc về tài sản quốc
gia Pháp. Nhưng từ 1910,
quyền sở hữu này lại
được chuyển về cho thị
trấn Lourdes. Kể từ năm
1990, thị trấn Lourdes
tuy nhỏ nhưng có tới 400
khách sạn, hàng trăm
restaurants, hàng ngàn
gift shops và một phi
trường quốc tế. Hàng
năm, số khách hành hương
từ khắp nơi trên thế
giới kéo về hang đá Lộ
Đức đã cung cấp cho số
dân ở thị trấn nhỏ bé
này một khoản tiền là
400 triệu đôla! (Looking for a Miracle,
by Joe Nickell,
Prometheus Book 1993 –
page 152). Lộ Đức
(Lourdes) đã trở thành
một “con gà đẻ trứng
vàng” của nền kinh tế
Pháp.
Những tín đồ cuồng tín
luôn luôn tung tin đồn
rằng Đức Mẹ Lộ Đức đã
chữa cho nhiều người
khỏi bệnh khi họ đến nơi
đây cầu khấn với Đức Mẹ.
Tuy nhiên, họ đều không
biết rằng: nhân vật
chính của “phép lạ Lộ
Đức” là cô bé Bernadette
đã chết lúc 32 tuổi
(16-4-1879) vì bệnh
suyễn, bệnh sưng phổi và
lao xương. Nếu Đức Mẹ có
quyền năng làm phép lạ
chữa bệnh cho nhiều
người, tại sao Đức Mẹ
không chữa bệnh cho
người có công nhất với
Đức Mẹ trong việc tuyên
xưng Người là “Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội” ? Một điều mỉa mai ai cũng
thấy là ở Lộ Đức người
ta treo đầy những chiếc
nạng của những người què
(giả vờ), nhưng tuyệt
nhiên chưa từng có một
người cụt tay, cụt chân
nào được Đức Mẹ chữa
lành cả !
Sau khi giáo hoàng Pio
IX công bố tín điều “Đức
Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội”
năm 1854, Vatican đã cấu
kết với hoàng gia Pháp
dựng lên màn kịch “Phép
lạ Lộ Đức” với tin đồn
Đức Mẹ đã đích thân hiện
ra và tự xưng mình là
“Đức Trinh Nữ vô nhiễm
nguyên tội”. Trò bịp này
đã củng cố niềm tin của
đại đa số tín đồ dân quê
chất phác thời đó tại Âu
Châu. Tuy nhiên, giới
báo chí đã lớn tiếng tố
cáo trước dư luận : Trong vụ “Phép lạ Lộ
Đức”, Vatican đã giúp
Pháp có thêm một trung
tâm hành hương với số
lợi thu hàng năm không
phải là nhỏ. Ngược lại,
Pháp giúp cho Vatican có
cơ hội củng cố niềm tin
của tín đồ Công giáo đối
với uy quyền của Tòa
Thánh. Đây chẳng qua
là chuyện cộng tác
thực hiện một âm mưu
nhằm phục vụ quyền lợi
của cả hai bên mà thôi.
Dư luận báo chí đã khiến
cho tinh thần của nhiều
giáo dân chao đảo và đưa
họ đến chỗ nghi ngờ về
thẩm quyền của giáo
hoàng trong việc công bố
các tín điều. Họ lập
luận rằng : dù cho ở
chức vụ đứng đầu giáo
hội, giáo hoàng cũng vẫn
chỉ là một con người,
nghĩa là vẫn có thể có
những sai lầm trong
quyết định của mình. Vậy
giáo hoàng không thể có
quyền độc đoán buộc mọi
tín đồ phải tin theo
những quyết định riêng
của giáo hoàng, dù cho
quyết định riêng đó là
một tín điều (dogma).
Trước áp lực của báo
chí và dư luận bất lợi
của giáo dân Âu Châu,
giáo hoàng Pio IX đã
phải triệu tập Công Đồng Vatican I
vào năm 1869.
Để cứu vãn sự sinh tồn
của Tòa Thánh, phần đông
các hồng y và giám mục
tham dự Công Đồng I đã
bỏ phiếu tán thành một
tín điều mới, đó là tín
điều “Giáo Hoàng không
thể sai lầm” (The dogma
of Papal Infallibility)
buộc mọi tín đồ Công
giáo phải tin tưởng vào
huấn quyền tuyệt đối của
Tòa Thánh và phải tin
Giáo Hoàng là người duy
nhất trên thế gian có
thẩm quyền xác nhận hay
phủ nhận chân lý.
Người Mỹ chế diễu
đức tin Công Giáo theo
kiểu này là “Đức tin
Shotgun” (Shotgun
faith)!.
Sau khi Công Đồng
Vatican I bế mạc, Tòa
Thánh ra lệnh cho các
giáo hội Công Giáo trên
khắp thế giới phải xây
thêm tại khuôn viên nhà
thờ một “hang đá Lộ Đức”
để nhắc nhở toàn thể
giáo dân về hai tín điều
là “Đức Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội” và “Giáo
Hoàng không thể sai
lầm”. Đó là tất cả ý
nghĩa của cái gọi là
“hang đá Lộ Đức” !
Như chúng ta đã biết,
tín điều “Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội” là một
học thuyết của Augustine
dựa trên huyền thoại bà
Evà xúi chồng ăn trái
cấm trong vườn Địa Đàng.
Đây là một chuyện hoàn
toàn hoang đường về tội
Tổ Tông đã bị các ngành
khoa học hiện đại bác
bỏ. Vậy, tín điều
“Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên
Tội” đã trở thành vô
nghĩa vì nguyên tội (tức
tội tổ tong) không hề
có, nên chẳng có một ai
bị nhiễm cả, không riêng
gì một mình bà Maria.
Ngày nay, tín điều “Giáo
Hoàng không thể sai lầm”
thực sự chẳng thuyết
phục được ai, nó chỉ
càng làm cho mọi người
thấy rõ hơn cái bản chất
ngoan cố bất lương của
Vatican mà thôi.
V.-
Tinh thần nô lệ đáng xấu
hổ của Công Giáo Việt
Nam
:
Bất cứ ai đã từng sống
trên đất Mỹ cũng nhận
thấy một sự khác biệt
rất rõ rệt giữa Công
Giáo Mỹ và Công Giáo
Việt Nam là : không
một giáo xứ Công Giáo Mỹ
nào xây hang đá Lộ Đức
trong khuôn viên nhà thờ
thuộc giáo xứ họ. Trái
lại, tại Việt Nam, các
giáo xứ từ Bắc vào Nam
đều xây bên cạnh nhà thờ
một hang đá gọi là “hang
đá Lộ Đức” ! Điều
đó đủ cho thấy giáo hội
Công giáo Việt Nam đã
thi hành triệt để mọi
mệnh lệnh của Vatican
một cách hết sức mù
quáng. Đối với Vatican,
hàng giáo phẩm VN luôn
luôn có thái độ khúm núm
sợ sệt chẳng khác nào
những tên nô lệ đối với
chủ của chúng vậy. Mặc
dầu cũng là những tín đồ
Công giáo, nhưng Công
giáo Mỹ tỏ ra độc lập và
tự trọng đối với
Vatican, chứ không đến
nỗi lệ thuộc quá đáng
như Công giáo VN. Sự
khác biệt này đã được
trình bày khá rõ rệt
trong tác phẩm “How to
Save the Catholic
Church” của linh mục
tiến sĩ Andrew Greenley
và nữ tu sĩ tiến sĩ Mary
Dukin, Viking Penguin
xuất bản tại Canada
1984.
Hai tác giả đều là tu sĩ
Công giáo viết : Trình
độ trí thức của giáo dân
Mỹ da trắng càng cao bao
nhiêu thì giáo hội Công
giáo Mỹ càng xuống dốc
bấy nhiêu. Từ thập niên
1960, một nửa giáo hội
Mỹ là di dân vừa nghèo
vừa dốt (By 1960’s, half
of the American
Catholics were poor and
uneducated immigrants –
page 11). Những cái
gì xấu xa do người Mỹ
trắng thải ra đều được
chuyển qua đám di dân
Công giáo da màu.
Điển hình là vụ hang đá
“Đức Mẹ Sầu Bi” ở
Portland thuộc tiểu bang
Oregon. Hang đá này đã
bị Công giáo Mỹ phế bỏ
thành một cái hang “khỉ
ho cò gáy” từ nhiều thập
niên qua. Vậy mà đám
giáo dân Công giáo Việt
Nam qua Mỹ sau 1975 đã
khôi phục nó thành một
trung tâm hành hương sầm
uất thu hút hàng chục
ngàn người (toàn là
Việt!). Đó là việc mà
hàng giáo phẩm Mỹ đã
không làm nổi. Nhưng đám
tu sĩ Công giáo Việt Nam
đã làm được, không phải
vì tu sĩ Công giáo Việt
Nam tài giỏi mà vì số
giáo dân Việt Nam mê
muội tại hải ngoại còn
đông quá !
Hai tác giả tu sĩ Mỹ còn
cho biết : Hầu hết các
mệnh lệnh của Vatican
đều được hội đồng Giám
Mục Hoa Kỳ duyệt xét lại
và sửa đổi trước khi phổ
biến đến toàn thể giáo
dân.
Trong thực tế, giáo hội
Công giáo Mỹ là một giáo
hội tự trị (American
Catholic Church became a
Do-It-Yourself
Catholicism – page 8).
Nay xin điểm qua tình
hình Công giáo Á Châu,
tờ Asia Week số ra ngày
19-12-1997 tường thuật
như sau :
Sri-Lanka (Tích Lan) là
một đảo quốc có 15 triệu
dân, đại đa số theo đạo
Phật, 8% (tức 1.2 triệu)
theo đạo Công giáo. Linh
mục Tissa Balasuriya
(tốt nghiệp thần học và
thụ phong linh mục tại
Rome trong thập niên
1940) thuộc giáo hội
Công giáo Sri-Lanka đã
viết sách bằng Anh ngữ
tựa đề “Mary and Human
Liberation” chống lại
Tòa Thánh vào thập niên
1990. Sách này được dịch
sang tiếng Pháp để phổ
biến tại Âu Châu dưới
tựa đề “Marie ou la
libération humaine”.
Linh mục Tissa đưa ra
quan điểm của ông về
“Đức Mẹ thật” là một phụ
nữ thất học và nghèo khổ
tại Do Thái. Đức Mẹ
không thể đồng trinh vì
có nhiều con và điều này
đã được xác nhận trong
Tân Ước. Tội tổ tông là
một huyền thoại, nên các
tín điều “Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội” là vô
nghĩa.
Tất cả các tín điều về
Đức Mẹ đều là những sản
phẩm của môn thần học kỳ
quặc, không phù hợp với
não trạng của người Á
Châu. Muốn giải phóng tư
tưởng người Công giáo
thì cần phải bỏ các tín
điều đó và bỏ luôn tín
điều “Giáo hoàng không
thể sai lầm”.
Cuốn sách “thần học cách
mạng” của linh mục Tissa
đã bị Hồng Y Ratzinger,
bộ trưởng Bộ Giáo Lý của
Vatican, hạch tội tỷ mỉ
trong một bản phúc trình
55 trang đệ trình giáo
hoàng John Paul II ngày
2-1-1997. Giáo hoàng đã
đích thân tuyên phạt
linh mục Tissa án phạt
tuyệt thông và trục xuất
ông ra khỏi giáo hội. Lý
do được nêu lên là linh
mục Tissa đã dám chống
lại huấn quyền tuyệt đối
của Tòa Thánh.
Trong tháng 10 – 1997,
Bộ Giáo Lý Vatican cũng
ra lệnh cho hội đồng
Giám Mục Hàn Quốc cấm
các linh mục thần học
Kong Soel, Yangmo và Re
Jemin không được viết
sách báo chống Tòa
Thánh. Hội đồng Giám Mục
Nhật Bản lên tiếng chỉ
trích Tòa Thánh là
“chẳng hiều gì về văn
hóa Á Châu” cả!
Các bản tin ngắn nói
trên đủ cho ta thấy
nhiều giáo hội Công giáo
Á Châu không đến nỗi hèn
vì họ vẫn có thái độ
khảng khái nói lên quan
điểm của họ chống đối
Vatican.
Là
một người Việt Nam,
chúng ta phải đau lòng
công nhận một sự thật
không thể chối cãi là
Công Giáo Việt Nam có
một tâm cảm nô lệ hết
sức mù quáng đối với Tòa
Thánh La Mã. Thậm chí có
người đã mỉa mai nói
rằng: “Dù cho Tòa Thánh
đánh rắm, Công Giáo Việt
Nam cũng khen thơm”.
Thật qủa đúng vậy. Cái tín điều nhảm nhí
“Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên
Tội” chỉ là một cái rắm
thối của giáo hoàng Pio
IX năm 1854 đã được cả
giáo hội Công Giáo Việt
Nam vừa hít vừa rối rít
khen thơm. Trước
1954, cái danh hiệu “Đức
Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội”
đã được địa phận Bùi Chu
tôn vinh làm Thánh Bổn
Mạng của địa phận. Mới
đây, vào đầu năm 2003,
giáo xứ Đức Mẹ Lộ Đức là
một giáo xứ lớn của Việt
kiều tại thành phố
Houston đã xây một “Hang
Đá Lộ Đức” tại khuôn
viên nhà thờ của giáo xứ
với tổn phí 800,000 đôla
!
Ngày nay, người Công
giáo Việt Nam có đầu óc
chẳng còn mấy ai tin vào
chuyện Adam-Evà ăn trái
cấm và do đó họ cũng
nghi ngờ phần nào về cái
tín điều “Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội” và tín
điều “Giáo Hoàng không
thể sai lầm”. Nhưng vì
truyền thống lâu đời của
gia tộc họ vẫn tiếp tục
duy trì thói quen là cầu
nguyện trước hang đá Lộ
Đức sau khi xem lễ xong
tại nhà thờ. Họ thích
đứng trước Hang Đá Lộ
Đức để cầu nguyện riêng
với Đức Mẹ mà họ yêu mến
hơn yêu Chúa. Đối với
họ, Thiên Chúa cao xa
qúa nên rất khó gần gũi
thân mật. Chỉ có Đức Mẹ
là Mẹ dịu hiền và Mẹ có
đầy quyền uy trước mặt
Chúa. Đức Mẹ xin Chúa
điều gì cũng được, nên
họ thích cầu nguyện với
Đức Mẹ để xin Mẹ ban cho
họ mọi thứ mà họ muốn.
Niềm tin đó còn khi
người Công giáo VN chưa
tỉnh ngộ thì các Hang Đá
Lộ Đức vẫn tồn tại.
Nhưng thực tế hiển nhiên
đã chứng tỏ rằng: màn
kịch “hang đá Lộ Đức” là
biểu tượng cho hai tín
điều bịp bợm: “Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội” và
“Giáo Hoàng Không Thể
Sai Lầm” do Pio IX và
Napoléon III âm mưu dựng
lên để lừa gạt đồng bào
Công giáo Việt Nam đã
trên một thế kỷ qua. Nay
đã đến lúc đồng bào Công
giáo Việt Nam nên bình
tĩnh dùng lý trí xét lại
những giáo điều mà
Vatican đã áp đặt lên
giáo hội Công giáo Việt
Nam. Các hang đá Lộ
Đức thật sự chỉ là một
hình thức của nhiều
công cụ tâm lý nhằm đầu
độc và nô lệ hóa các tín
đồ nhẹ dạ dễ tin. Xin đồng bào Công giáo
Việt Nam đừng để những
trò lừa bịp đó giam hãm
qúy vị trong ngục tù tư
tưỏng của chính mình và
đừng để hành động mù
quáng tuân phục Vatican
làm tổn hại đến quyền
lợi của dân tộc.
Charlie Nguyễn
Tháng
7-2003
Cùng đề tài:
► Màn Kịch Bịp Bợm Đức Mẹ Lộ
Đức - Charlie Nguyễn
► Làm Gì Có Phép Lạ! - Trần
Tiên Long
► Sự Thật Về Lộ Đức (Lourdes) -
Trần Chung Ngọc
Các chương khác trong sách:
Alexandre De Rhodes và Chữ Quốc Ngữ
Con Đường Cụt của Vatican (Charlie Nguyễn)
Các Hoạt Động Chính Trị của Đạo Quân Thứ 5
Hồ Sơ Tội Ác của Hội Thừa Sai ...
In God We Trust
Màn Kịch Lộ Đức
Một Vấn Đề về Huyền Thoại Giáng Sinh
Nhận Xét về Thư của Phan Dình Diệm
Quan Niệm Ông Trời của Người Việt
Từ Thái Độ Khinh Miệt ...
Việt Nam cần thực hiện ...
Đòi Lại Đất bị Nhà Thờ Chiếm Đoạt
Độc Thần Giáo ...