Thi hành biện pháp 3 có nghĩa phải tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa nhân
dân bằng tất cả các khả năng và phương tiện của chính quyền với tất cả những
thủ đoạn hay mánh mung chẳng hạn như dùng miếng mồi vật chất và chức vụ trong
chính quyền để dụ khị và câu nhử những phường tham lợi, háo danh và thèm khát
quyền lực lao vào bắt mồi mà theo đạo, hoặc là ban hành những luật lệ dưới một
hình thức chính trị như chống Cộng hay tố Cộng để kiếm cớ dồn người dân dưới
quyền vào thế kẹt phải theo đạo để được an toàn sinh mạng. Tất cả những sự thực
này đều được sách sử ghi lại rõ ràng. Sách Thập Giáo Và Lưỡi Gươm viết:
“Bên cạnh chủ nghĩa hiếu thắng bề ngoài đó, phải nói thêm một thứ hiếu
thắng khác về "mục vụ" như là đặc điểm của Giáo Hội trong thời kỳ này, đó là
việc đưa dân ngọai vào đạo. Giám-mục Ancel phụ tá địa phận Lyon (Pháp), đã nhắc
lại lời Giám-mục Thục: "Có những làng nguyên vẹn xin chịu phép rửa. Người ta
không làm sao dạy giáo lý kịp cho họ...! Và ông kết luận: "Đây là nước duy nhất
tại Viễn Đông (không kể Philippines) đang trên đà trở lại đạo cả nước". Những
con số người lớn chịu rửa tội, nhất là tại địa phận Qui Nhơn xem ra phù hợp với
cảm tưởng của vị giám mục Pháp: 16.323 năm 1956-1957, 27.385 năm 1958-1959,
37.429 năm 1960-1961, Năm 1959, tại Qui Nhơn, chỉ trong một tháng, 61.000 người
xin chịu phép rửa. Ơn Chúa hình như đùng một phát tuôn xuống như mưa trên địa
phận của Giám-mục Chi, giám mục phụ trách di cư những năm 1954-1955, ông đã
nhận được từ cơ quan Viện Trợ Công Giáo Hoa Kỳ 38 triệu đô la, và của tổ chức
viện trợ Pháp cũng như Caritas quốc tế còn nhiều triệu khác nữa.
Phong trào trở lại đạo hàng loạt như thế vừa là kỳ diệu vừa gây khó chịu,
bởi vì dân chúng các vùng đó đã sống dưới quyền kiểm sóat của Việt Minh trong
thời chiến tranh Pháp - Việt. Giám-mục Chi đã cho chúng tôi biết rằng phép lạ
đó, một phần đã nhờ có việc tuyên truyền "thuyết nhân vị" của chính phủ, dọn
đường cho quần chúng tại đây tìm gặp được đạo Công Giáo và đàng khác là nhờ các
việc từ thiện Công Giáo, các trường học, cô nhi viện, nhà thương, điểm phát quần
áo, bánh mì và lương thực. Có người cho rằng việc theo đạo hàng lọat đó chỉ là
lặp lại theo ngụ ngôn "đi đạo lấy gạo mà ăn" thôi. Quả thế, viện trợ Công Giáo
từ ngòai vào đều do các linh mục tự tiện thao túng và thường chỉ dành để phân
phát cho người Công Giáo. Dân chúng miền Trung này, là vùng nghèo nhất miền Nam,
chẳng qua đã tìm nơi việc theo đạo Công Giáo một phương thế kiếm ăn.
Có những người cũng cho rằng họ vào đạo để khỏi bị sách nhiễu về chính
trị. Quần chúng ở đây, vì đã từng sống lâu năm dưới chế độ Việt Minh, nên bị
tình nghi có liên hệ với "kẻ địch", bây giờ vào đạo là gặp được con đường để tỏ
lòng trung thành với chế độ, hoặc ít ra cũng tránh được những quấy nhiễu của
cảnh sát.”[28]
Với việc thi hành ba biện pháp trên đây, chính quyền đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình
Diệm đã biến miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1963 giống y hệt như nước
Croatia dưới thời bạo chúa Da-to Ante Pavelich trong những năm 1941-1945. Cũng
nên biết chỉ trong vòng có 4 năm chế độ đạo phiệt Ca-tô Ante Pavelich tàn sát
tới hơn 700 ngàn người dân Chính Thống Giáo, Hồi Giáo và những người theo đạo Do
Thái trong tổng số người dân trong toàn nước Croatia chỉ vỏn vẹn có vào
khoảng ba
triiệu vào thời điểm lúc bấy giờ. Trong khi đó, trong thời gian 1954-1963, chế
độ đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm tàn sát tới 300 ngàn người dân ở trong các tỉnh
Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Khánh Hòa và hàng ngàn nạn nhân ở
các nơi khác trên toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Xin xem lại Chương 83 tiểu
mục nói về các nhân vật lãnh đạo ở trên.
Thi hành biện pháp 4: Đây là biện pháp làm cho người dân thành những
người vứa ngu xuẩnkhông biết sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật,
vừa dốt đặckhông biết gì về những bước tiến hóa của nhân loại
khởi đầu từ cái thuở hồng hoang cho đến thời đại tin học như ngày nay. Biện pháp
này được sách sử gọi là chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ. Người chủ trương
chính sách này chỉ cho phép người dân biết những gì mà họ muốn cho biết. Những gì nằm
trong kho tàng kiến thức của nhân loại mà bất lợi cho đường lối quản trị nhân
dân hay tôn giáo của họ thì họ cho là những thứ cấm ky, phải được bưng bít hay
giấu nhẹm, không cho nhân dân dưới quyền được biết rằng ở trên cõi đời này lại
có những thứ đó và triệt để nghiêm cấm, không được du nhập và
cũng không được phổ biến những thứ
cấm kỵ này.
Đồng thời, họ còn tìm cách làm cho nhân dân dưới quyền không bao giờ sử dụng
lý trí để phân tách và tìm hiểu sự vật. Muốn làm được như vậy, tại các lớp học,
hoc sinh bắt buộc phải học thuộc lòng những gì đã biên soạn sẵn và
giáo viên chỉ có việc theo
đó mà thi hành, cho học sinh phải học thuộc lòng như con vẹt.
Học sinh không được thắc mắc hay hoài nghi gì hết. Cái
lối dạy học kiểu này được Giáo-sư Lý Chánh Trung kể lại trong cuốn Tìm Về Dân
Tộc về kinh nghiệm bản thân của ông với nguyên văn như sau:
"Bây giờ, vào trường Taberd là thế giới của đạo giáo. Đạo giáo bao trùm
đời sống và việc học. Kinh kệ khởi đầu và kết thúc mỗi hoạt động. Mỗi buổi sáng,
nửa giờ đầu luôn luôn dành cho giáo lý.
Phương pháp là học và trả thuộc lòng. Ông thày chỉ một chú học trò và gõ
thước cái cốp, chú này đứng dậy trả câu thứ nhất: "Hỏi: Đức Chúa Trời là gì? -
Thưa: Đức Chúa Trời là đấng tạo nên trời đất muôn vật..." (bằng tiếng Pháp).
Thước lại gõ cái cốp và chú học sinh thứ hai đứng dậy... cho đến khi hết bài.
Tôi là thằng làm biếng tổ, sáng nào cũng co rúm người, cố làm cho mình nhỏ lại
như hột cát để thoát khỏi cái nhìn của Sư huynh.
Nhưng cái cực hình kinh khủng nhất là đầu lớp học buổi trưa, học sinh phải
lần nguyên một chuỗi tràng hạt. Trời nóng như thiêu, giọng kinh trầm trầm kéo
dài như không bao giờ dứt, đứng yên một chỗ không cục cựa, tôi cảm thấy tứ chi
ngứa ngáy như có trăm ngàn con kiến đang bò lên.
Nhưng riết rồi cũng quen và một khi đã thuộc kinh tôi cũng ê-a hằng giờ
với mấy đứa kia, không còn bực bội nữa: Tiên học lễ, hậu học."[29]
Tiếp nhận kiến thức theo cái lối dạy học như trên, tất nhiên là học sinh
không cần phải sử sụng đế lý trí để suy nghĩ hay lý luận. Chúng ta biết rằng,
những dụng cụ làm bằng sắt nếu không được sử dụng trong nhiều ngày và không được
bảo trì đúng mức thì sẽ bị sét dỉ, và nếu tình trạng này kéo dài trong nhiều
năm thì các dụng cụ đó sẽ hư hại, không còn sử dụng được nữa. Trí óc người ta
cũng tương tự như vậy. Nếu lâu ngày không vận dụng trí óc vào việc suy nghĩ,
phân tách và lý luận, thì các tế bảo lý trí trong não bộ sẽ bị èo ọt, còm cõi
và hư
hại. Những người ở vào tình trạng này sẽ trở nên lười suy nghĩ, nếu cố gắng suy
nghĩ, thì họ sẽ bị nhức đầu và đành
phải buông xuôi, rồi chỉ còn biết nghe theo và tuân hành những lệnh
truyền của những người chỉ huy họ, giống như phản ứng của một con chó được nhà
bác học Pavlov sử dụng làm con vật thí nghiệm. Những người ở vào tình trạng này
được gọi là những người “bị điều kiện hóa”.
Vì đã bị điều kiện hoá, cho nên con chó ở trong phòng thí nghiệm của nhà bác
học Pavlov chỉ biết phản ứng theo hiệu lệnh của ông chủ hay người điều khiển nó.
Tương tự như vậy, tín đồ Ca-tô và những người tiếp nhân sở học của họ qua chính
sách ngu dân và nhồi sọ của Giáo Hội La Mã chỉ biết suy tư, phát ngôn và hành
động theo lời dạy dỗ của Giáo Hội hay theo lời chỉ dẫn của các đáng bề trên trực
tiếp với họ.
Chỉ dẫn đồng nghĩa với chăn dắt, đồng nghĩa với chữ “mục” có nghĩa là chăn
nuôi súc vât. Giáo Hội coi tín đồ như súc vật nên mới gọi họ là con chiên (tức
con cừu) và goi người chăn dắt họ là linh mục, tức là người chăn nuôi đàn súc
vật. Đàn súc vật này không phải là đàn súc vật khôn ngoan như trâu, bò, chó,
ngựa, mà là đàn súc vật ngu xuẩn nhất trong các loài súc vật.
Chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Giáo Hội La Mã đã làm cho tín đồ
Ca-tô trở thành những người siêu ngu xuẩn nhưng cũng là những hạng người siêu
hám lợi, siêu háo danh và cực kỳ thèm khát quyền lực. Vì đã ở vào tình trạng ngu
xuẩn như trên, Giáo Hội La Mã mới có thể cấy vào đầu óc họ những lời dạy như là
"Phải tuyệt đối vâng lời cán đấng bề trên", "Vâng lời quý hơn của lễ",
“niềm tin tôn giáo không cần đến ánh sáng của khoa học và cũng không cần phải
sử dụng lý trí để tìm hiểu”, và đặc biệt nhất là lời dạy chống lại dân tộc
và, chống lại đất nước Việt Nam:
"Người Công Giáo Việt Nam đừng thừa nhận quyền lực của Nhà Vua và luật
pháp của nước họ. Đức Giáo Hoàng ở La Mã (Rome) mới là vị vua tối cao duy nhất
của họ, họ chỉ phải tuân phục quyền lực của Tòa Thánh Vatican mà thôi.”[30]
Như trên đã nói, một trong những điểm quan trọng trong chính sách ngu dân là
không cho học sinh và người dân dưới quyền biết được những điều mà họ chủ
trương muốn bưng bít hay giắu nhẹm không muốn cho ai biết. Đối Với Giáo Hội La
Mã, những điều mà Giáo Hội không muốn phổ biến cho tín đồ và người dân dưới
quyền biết là toàn bộ lịch sử thế giới và tất cả những việc làm bất chính của
Giáo Hội từ thế kỷ 4 cho đến ngày nay. Đã có quyết định không cho tín đồ và
người dân dưới quyền biết những điều Giáo Hội không muốn cho biết, tất nhiên là
Giáo Hội phải ra lệnh hoặc là công khai bằng giấy trắng mực đen dưới hình thứ
giáo luật hay luật pháp nhà nước (nếu là chính quyền làm tay sai cho Giáo Hội),
hoặc là bằng khẩu lệnh. Trường hợp ở miền Nam Việt Nam trong những năm
1954-1975, việc cấm không cho đưa toàn bộ môn sử thế giới vào trong chương trình
học bậc trung học là ở vào trường hợp khẩu lệnh. Do đó chúng ta mới không thể nào
tìm thấy một văn thư nào nói về vấn đề này. Chúng ta biết được sự kiện này là do
những tác giả biên soạn sách sử thế giới là nhà văn Nguyễn Hiến Lê trở thành nạn
nhân kể lại như sau:
"Đầu niên khóa 1954-55 trong chương trình Trung Học Đệ Nhất Cấp có thêm
môn Lịch- sử Thế-giới dạy trong 4 năm. Ông Thiên Giang lúc đó dạy sử các lớp đệ
lục, đệ ngũ. Tôi bàn với ông soạn chung bộ sử thế giới càng sớm càng tốt cho học
sinh có sách học, khỏi phải chép "cua" (cours). Ông đồng ý. Chúng tôi phân công:
tôi viết cuốn đầu và cuốn cuối cho lớp đệ thất và đệ tứ; ông viết hai cuốn giữa
cho lớp đệ lục và đệ ngũ. Chúng tôi bỏ hết công việc khác, viết trong 6 tháng
xong; tôi bỏ vốn ra in; năm 1955 in xong trước kỳ tựu trường tháng chín. Bộ
(Lịch-sử Thế-giới) đó khá chạy, sau tôi nhường cho nhà Khai Trí tái bản.
Một chuyện đáng ghi là vì bộ (sử) đó mà năm 1956 bị một độc giả ở Cần Thơ
mạt sát (tôi) là "đầu óc đầy rác rưởi" chỉ vì chúng tôi nhắc qua đến thuyết của
Darwin về nguồn gốc loài người. Chẳng cần nói ai cũng biết độc giả đó là người
Công Giáo.
Sau đó lại có một linh mục ở Trung yêu cầu bộ Giáo Dục cấm bán và tịch thu
hết bộ (lịch sử thế giới) đó vì trong cuốn II viết về thời Trung Cổ, chúng tôi
có nói đến sự bê bối của một vài ông Giáo-hoàng. Bộ phái một viên bí thư có bằng
cấp cử nhân tiếp xúc với tôi. Ông này nhã-nhặn khen tôi viết sử có nhiệt tâm,
cho nên đọc hấp dẫn như đọc bộ sử Pháp của Michelet; rồi nói rằng sách của tôi
được bộ Thông Tin cho phép in, lại nạp bản rồi, thì không có lý gì tịch thu, cấm
bán được, chỉ có thể ra thông cáo cho các trường đừng dùng thôi: cho nên ông ta
chỉ yêu cầu tôi bôi đen vài hàng trên hai bản để ông ta đem về nộp bộ, bộ sẽ trả
lời linh mục nào đó, còn bán thì tôi cứ bán, không ngại gì cả. Tôi chiều lòng
ông ta. Ông ta lại hỏi lớp mẫu giáo của tôi đã được phép của bộ chưa. Tôi đáp:
Đơn nộp cả năm rồi, giấy tờ đủ cả, tôi đã nhắc Sở Giáo Dục thành phố, mà người
ta cứ làm thinh, không cho phép mà cũng không cấm. Ông ta chỉ gật đầu. Hồi đó bộ
Lịch Sử Thế Giới của tôi chỉ còn một số ít. Tôi hỏi các nhà phát hành, được biết
có lệnh cấm các trường ngoài Trung dùng nó, trong Nam thì không. Chỉ ít tháng
sau bộ đó bán hết. Tôi không tái bản. Công Giáo thời đó lên chân như vậy. Nghe
nói một ông tỉnh trưởng ở miền Tây không dám cho hội Phật Giáo cất chùa trong
thị xã và bảo: "Công Giáo cất nhà thờ, bây giờ Phật Giáo cũng xin cất chùa, bộ
các người muốn kình với Công Giáo hả?"
Một hôm bà láng giềng của tôi cho hay: "Ít lâu nay tôi thấy ngày nào cũng
có một hai người ngồi ở quán cà phê bên kia đường nhìn về phía nhà thầy và nhà
tôi như rình cái gì. Hôm qua một người vào nhà hỏi tôi: "Ông Lê ở nhà bên lúc
này đi đâu mà không thấy?" Tôi đáp: "Ông ấy đau, nằm ở trong phòng, chứ đi đâu?
Thầy cứ vô mà hỏi. Rồi họ đi". Vậy là mật vụ rình tôi mà tôi không biết. Vì tôi
là công chức thời Pháp mà tản cư lâu quá, về lại không hợp tác với chính phủ
Diệm, hay vì bộ Lịch Sử Thế Giới mà họ theo dõi như vậy? Có lẽ cả hai. Hơn một
chục năm sau, một giáo sư ở Huế vào thăm tôi, hỏi: "Tại sao hồi đó ông không làm
đơn trình bày rằng ông đã dùng sách nào để viết về các ông giáo hoàng thời Trung
Cổ đó, rồi xin cho bộ sử của ông được dùng trong các trường?" Tôi đáp: "Không
khi nào tôi làm việc xin xỏ đó". Sau ngày 30-4-1975, giáo sư đó lại thăm tôi
nữa, bảo: "Tôi phục tư cách của ông từ hồi đó."[31]
Vì không được học môn toàn bộ lịch sử thế giới, cho nên tất cả tín đồ Ca-tô
và những người tiếp nhân sở học qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của
Giáo Hội, trong đó có những người sinh ra, lớn lên và theo học hết bậc tiểu học
và trung học ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975, đều không biết gì về
lịch sử loài người từ cái thuở bầy người đầu tiên còn sống lẻ loi và rời rạc
theo quan hệ gia đình, chưa biết làm nhà để trú nắng trú mưa, chưa biết làm ra
vật liệu may quần áo để che thân, rồi tiến dần sang giai đoạn biết quần tụ lại
với nhau để chống lại những nghiệt ngã của thiên nhiên, biết học hỏi
và phát minh
ra những dụng cụ hay phương tiện hữu hiệu hơn để mưu sinh, rồi cải tiến những gì
đã có và phát minh ra những phát minh mới, đặc biệt là phải liên tục chiến đấu
chống lại các thế lực cường quyền, và liên tục chống lại bọn người lưu manh nhân
danh tôn giáo luôn luôn luôn tìm cách liên kết với cường quyền, với phong kiến
phản động, với đế quốc thực dân xâm lược trong mưu đồ kìm kẹp con người dưới
quyền trong tình trạng ngu dốt để thoả mãn tham vọng bất chính về quyền lực. Nhờ
vậy mà con người ngày nay mới có thể tiến lên kiến tạo được những cơ chế chính
trị, những tổ chức xã hội tương đối có tình người để cùng nhau duy trì và khai
triển những tiến bộ của khoa học nhằm phục vụ cho con người ở
trong cõi đời nay, chứ
không phải là để phục vụ cho một ông thần ông thánh tưởng tượng ở trong cõi xa
xăm mà chúng gọi là thiên đường hay nước Chúa của chúng. Vấn đề này đã được
trình bày đầy đủ trong Mục XXII ở trên.
Nhìn lại, chúng ta thấy chính sách ngu dân và giáo dục của Giáo Hội được thi
hành ở miền Nam trong những năm 1954-1975 đã làm cho những người tiếp nhận sở
học của họ ở các bậc tiểu học và trung học ở miền Nam trong thời gian này :
1.- Không biết sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật,
2.- Không biết gì về lịch sử thế giới,
3.- Hiểu biết sai lạc về lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại,
4.- Hoàn toàn mất hết tình thương đối với đất nước và dân tộc,
5.- Đặt quyền lợi của Giáo Hội La Mã lên trên quyền lợi của tổ quốc và dân
tộc,.
6.- Biểu hiện rõ rệt cái đặc tính “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”
của họ.
Chúng ta có thể kiểm chứng sự kiện này qua những trường hợp thuộc hai lãnh
vực hoạt động tập thể và cá nhân dưới đây:
A.- Tập thể: Một một số người Việt ở hải ngoại vẫn còn có những suy tư
và hành động hết sức ngu xuẩn, lao đầu vào làm những việc làm hết sức vô liêm sỉ
và hết sức lố lăng. Điển hình là những người:
1.- Suy tôn tên tam tứ đại Việt gian lên làm chí sĩ và anh hùng dân tộc và
cho ra đời cái gọi là Phong Trào Phục Hưng Tinh Thần Ngô Đình Diệm.
2.- Hè nhau thành lập cái gọi là Tổ Chức Viêt Nam Cộng Hòa Foundation rồi
viết thư gửi ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc và chính quyền Hoa Kỳ thỉnh cầu dùng
quyền lực để cưỡng bách chính quyền Việt Nam tái lập lại tình trạng chia đôi đất
nước như trong những năm 1954-1975 với dã tâm là phục hồi quyền lực của Giáo Hội
La Mã tại Miền Nam.
3.- Cổ võ lằn ranh Quốc Cộng với dã tâm đào sâu hố chia rẽ giữa người Việt
với người Việt ở hải ngoại, khích lệ bọn cuồng nô vô tổ quốc “thà mất nước,
chứ không thả mất Chúa” tiếp tục làm tay sai cho Vatican đánh phá tổ quốc và
chính quyền Việt Nam hiện nay.
4.- Vận động đòi đổi tên Thành Phố Hồ Chí Minh bằng tên Sàigon nhằm hạ giá vị
anh hùng dân tộc đã có công lãnh đạo nhân dân chiến đấu đánh đuổi Liên Minh Đế
Quốc Thực Dân Xậm Lược Pháp và Liên Minh Mỹ - Vatican để giành lại chủ quyền tộc
lập cho dân tộc và thống nhất cho đất nước. Bản văn E-mail dưới đây được phổ
biến trong các nhóm điện thư trong tháng 1/2005 là một trong những bằng chứng
cho chúng ta thấy rõ tình trạng ngu dốt và vong bản phản dân tộc của những lớp
người tiếp nhận sở học của họ qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ ở miền
Nam trong những năm 1954-1975:
Subject: CONG DONG NGUOI VIET TREN TOAN THE GIOI KY TEN HO TRO THINH NGUYEN
THU KINH GUI TOA THANH (DANH SACH CAP NHAT TINH DEN NGAY 16/6/2006)
“CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TRÊN TOÀN THẾ GIỚI KÝ TÊN HỔ TRỢ THỈNH NGUYỆN THƯ
KÍNH GỬI TÒA THÁNH XIN ĐỔI TÊN TGP/TPHCM TRỞ LẠI TÊN TGP/SG
“Cuộc Vận Động Chữ Ký của người Công Giáo Việt Nam và những người không
phải là Công Giáo muốn hỗ trợ cho Thỉnh Nguyện Thư kính xin Toà Thánh(sic) đổi tên
TGP/TPHCM trở lại tên TGP/SG, được bắt đầu từ ngày 23 tháng 11 năm 2005.
Chúng tôi, xin phép thay mặt các thành viên trong Ban Vận Động Chữ Ký,
chân thành cảm tạ quý vị lãnh đạo tôn giáo trong và ngoài nước, quý cơ quan
truyền thông, quý đồng bào trong và ngoài nước đã mạnh mẽ hưởng ứng tham gia ký
tên hổ trợ cho Thỉnh Nguyện Thư….
Tạm tổng kết tính đến ngày 16/1/2006 lúc 6:56:42PM gồm có: 4236 chữ ký.
Con số chữ ký sẽ được cập nhật và phổ biến đến quý vị và các bạn vào mỗi
thứ Hai hằng tuần.
Kính mời quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, quý đồng bào trong và
ngoài nước không phân biệt tôn giáo đồng ý ký tên vào Thỉnh Nguyện Thư kính xin
Toà Thánh đổi tên TGP/TPHCM trở lại tên TGP/SG…”[32]
Thiển nghĩ rằng 4236 người Việt Nam ký tên vào bản thình nguyện
"Tòa Thánh Vatican" của họ như đã nói ở trên đây là
những người đã tiếp nhận sở học của họ qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi
sọ của Giáo Hội La Mã ở Việt Nam từ năm 1954 trở về trước hay ở miền Nam Việt
Nam trong những năm 1954-1975, cho nên họ mới suy nghĩ và hành động một cách cực
kỳ ngu xuẩn như vậy. Quả thật họ là mọt hạng người siêu
ngu xuẩn, ngu xuẩn hơn cả con cừu cho nên họ mới thỉnh cầu Tòa Thánh Vatican cho
phép họ đổi tên Thành Phố Hồ Chí Minh thànhThành Phố Saigòn mà không biết rằng
cái "Ổ Điếm Vatican" (The deadly Roman Church Institution was the
whore of the Revelation.) [Jack T. Chick Smokescreens (Chino, CA: Chick
Publications, 1983), p.37]) không có tư cách gì xía vào nội bộ của nước Việt Nam
thuộc đã được hoàn toàn độc lập từ ngày 2/9/1945 và thự sự thống nhất từ ngày
30/4/1975.
5.- Vinh danh lá cờ vàng ba sọc đỏ (ba sọc đỏ là tượng trưng cho Chúa Ba
Ngôi) do Giáo Hội La Mã đặt ra và được cho ra đời vào ngày 5/6/1946 cùng với
chính quyền bù nhìn do Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican dựng nên và dán cho cái
dãn hiệu là Chính Quyền Quốc Gia rồi đưa ông vua gỗ Bảo Đại lên đóng vai Quốc
Trưởng và biến cái chính phủ Nam Kỳ tự trị (Cộng Hòa Năm Kỳ) của băng đảng Việt
gian Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Hữu thành chính phủ quốc gia đầu
tiên của cái trò hề này.
6.- Dùng đủ mọi thủ đoạn đê hèn và ngôn từ hạ cấp để làm hạ giá những vị anh
hùng đã có công trong cuộc kháng chiến chống lại Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm
Lược Pháp – Vatican và Liên Minh Mỹ -Vatican để giành lại quyền tự chủ cho dân
tộc và mang lại thống nhất đất nước. Họ sử dùng từ “Việt gian” để
gán cho những vị anh hùng này. Đồng thời, họ lại tôn vinh những thằng Việt gian
Ca-tô đã mấy đời tiếp nối nhau bán nước cho các đế quốc thực dân xâm lược thành
nhà ái quốc và anh hùng dân tộc. Đây là trường hợp tên tam đại Việt gian Ca-tô
Ngô Đình Diệm..
7.- Sống ở các nước dân chủ tự do như ở bắc Mỹ và ở Tây Âu mà họ vẫn tưởng
như là họ đang sống ở miền Nam Việt Nam trong thời chế độ đạo phiệt Ca-tô Ngô
Đình Diệm hay quân phiệt Ca-tô Nguyễn Văn Thiệu. Dưới đây là bằng chứng:
a.- Sự kiện họ lớn tiếng đòi Việt Nam phải có tự dân chủ tự do, nhưng ở ngay
Hoa Kỳ và Canada, họ lại không tôn trọng quyền tự do dân chủ của những người
Viêt bất đồng chính kiến với họ. Họ chửi bới và hạ nhục những văn nghệ sĩ từ
trong nước ra hải ngoại trình diễn, chửi bới và hạ nhục những ca nhạc sĩ từ hải
ngoại về nước trình diễn và sinh sống. Họ chửi bới và hạ nhục tất cả tác giả
nào có tác phẩm nói lên sự thật của lịch sử có liên hệ tới những việc làm tội ác
của Vatican chống lại nhân loại, chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam.
Họ hạ nhục
tất cả các tác giả có tác phẩm nói lện những sự thật liên hệ tới các chế độ đạo
phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm, bất kể gì là tên Ca-tô Việt gian này đã có tới ba bốn
đời nối tiếp nhau là Việt gian bán nước cho Vatican, cho Pháp; và chính bản thân
Ngô Đình Diệm đã có những thành tích bán nước cho Vatican, cho Pháp, cho Nhật và
cho Mỹ. Ngoài ra, vì những hành động bạo ngược và dã man của hắn trong hơn chín
năm cầm quyền ở miền Nam Việt Nam đã khiến cho các nhà viết sử trên thế giới đã
xếp hắn vào danh sách 100 tên bạo chúa độc ác nhất trong lịch sử nhân loại. Ấy
thế mà tín đồ Ca-tô người Việt lại tôn vinh hắn là “chí sĩ yêu nước”, “nhà ái
quốc” v.v…. Sự kiện này cho chúng ta thấy độc kế ngu dân và giáo dục nhồi sọ của
Giáo Hội La Mã đã làm cho bọn người này trở thành hạng người siêu ngu xuân trong
cộng đồng nhân loại ngày nay.
b.- Sự kiện họ lớn tiếng đòi tự do tôn giáo cho Việt Nam, nhưng lại không tôn
trọng tự do tôn giáo của những người khác. Điển hình là khi có người khác tôn
giáo muốn thành hôn với người yêu là con em của họ, thì họ đòi hỏi đương sự phải
từ bỏ tôn giáo cổ truyền của gia đình, phải theo học lớp giáo lý Ca-tô và phải
làm lễ rửa tội theo đạo rồi mới được làm lễ thành hôn.
c.- Sự kiện hằng năm, họ tổ chức lễ giỗ linh đìnhthằng
tam đahi Việt gian Ca-tô Ngô Đình Diệm, và sự
kiện trong
bất cứ cuộc họp mặt nào, họ cũng trưng bày la liệt cờ vàng ba sọc đỏ (do Vatican
sáng chế ra) ở khắp mọi nơi họ họp mặt, nhưng lại lên án, chửi bới, hạ nhục và
tổ chức biểu tình để khủng bố ông Trần Trường khi ông này trưng bày hình ông Hồ
Chí Minh và lá cờ đỏ sao vàng dù là chỉ trưng bày ở trong căn phòng giao dịch
buôn bán của ông ta.
e .- Sự kiện họ đòi phải phục hồi cho Giáo Hội La Mã quyền làm chủ khối bất
động sản kếch sù mà Giáo Hội đã ăn cướp của dân tộc ta trên toàn lãnh thổ từ năm
1885 cho đến năm 1945, và riêng ở miền Nam Việt Nam từ năm 1862 cho đến ngày
30/4/1975. Khối tài sàn này đã được trình bày ở trong
Phần III, Mục X, Chương 29 với tựa đề là "Vatican Cướp Chùa, Chiếm Để Xây Nhà
Thờ và Chiếm Đoạt Ruộng Đất Của Nhân Dân Ta". Chương sách này đã được đưa lên
sachhiem.net từ ngày 14/1/2008.
f.- Sự kiện vào năm 1995, họ cố gắng phá thối buổi ra mắt cuốn sách Đối
Thoại Với Giáo Hoàng John Paul II do anh em trong nhóm Giao Điểm tổ chức ở
Westminster, California vào ngày 19/8/1995.
g.- Sự kiện một nhóm tín đồ Ca-tô do các ông Bùi Bỉnh Bân, Đòan Thế Cường và
Vạn Võ Hành Khuyên dẫn đầu một nhóm tín đồ Ca-tô đến chùa Việt Nam vào thượng
tuần tháng 6 năm 1996 để hạch sách thày Pháp Châu về điều mà họ cho rằng nhà sư
này có “thái độ thân Cộng”.
h.- Sự kiện một nhóm tín đồ Ca-tô mưu đồ biểu tình và phá thối buổi hội thảo
văn hóa của anh em văn nghệ sị Bắc Mỹ do Tiến-sĩ Vũ Ngự Chiêu và người viết tổ
chức tại Seattle, Washington vào ngày 20/12/1997.
i.- Sự kiện một nhóm tín đồ Ca-tô tổ chức biểu tình và bao vây ngôi chùa Đức
Viên ở San Jose khởi đầu vào buổi chiều ngày 18/5/1998 và kéo dài trong nhiều
ngày, khi Đại Lão Hòa Thượng Thích Dũng từ Việt Nam qua Hoa Kỳ tham quan và lưu
trú tại đây.
k.- Sự kiện vào Tháng 7 năm 2001, Bà Minh Anh Hodge, Giám đốc Chương Trình
ESL, Ngoại Ngữ và Tiểu Học tại Nha Học Chánh Tacoma, Washington cũng trở thành
nạn nhân của chúng chỉ vì, khi được mời thuyết trình về đề tài Người Việt Tị Nạn
Ở Washington vào cuối tháng 4/2000 tại Tacoma Community College (kỷ niệm 25 năm
của nguời Việt tị nạn), bà đã cho trình chiếu nhiều tấm hình về cuộc chiến Việt
Nam trong đó có tấm hình Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, hình Đại Tá Nguyễn
Ngọc Loan đang nhắm bắn một tù nhân hai tay bị trói ké quặt lại sau lưng và hình
em bé Kim Phúc bị cháy phỏng bởi bom lửa với thân hình trần truồng vừa chạy vừa
khóc trong kinh hoàng. (Độc giả có thể kiểm chứng sự kiện này bằng cách tiếp xúc
với bà Minh Anh Hodge hay các nhân viên trong ban giảng huấn ESL hay nhân viên
văn phòng ESL và Ngoại Ngữ tại Sở Học Chánh Tacoma).
l.- Sự kiện ông Ca-tô Nguyễn Xuân Tùng hai lần chỉ huy đoàn người đồng đạo mà
họ gọi là Diến Đàn Ki-tô Hữu đến bao vây ngôi Chùa Việt Nam ở Garden Grove để
khủng bố tinh thần thày Thích Pháp Châu chỉ vì nhà sư này vừa là chủ bút tạp
chí Hoa Sen vừa là trường ban điều hành Đài Phát Thanh Quê Hương Việt Nam:
Lần thứ nhất xẩy ra vào 27/10/2002, lần thứ hai xẩy ra vào
ngày 24/4/2004 và kéo dài tới ngày 31/5/2004 (tất cả là 55 ngày),
trong đó có ngày đại lễ Phật Đản vào ngày 30 5/2004. (Độc giả có thể kiểm chứng
sự kiện này bằng các tiếp xúc với thày Pháp Châu ở ngôi chùa này).
m.- Sự kiện một số tín đồ Ca-tô biểu tình, khủng bố và mưu đồ phá thối buổi
ra mắt cuốn sách Trả Ta Sông Núi của Cựu Đại Tá Phạm Văn Liễu được tổ
chức ở San Jose, California vào tháng 7 năm 2003.
n.- Sự kiện họ chửi bới và hạ nhục những văn nghệ sĩ trình diễn những bản
nhạc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, chửi bới và hạ nhục những người sản xuất những băng nhạc mà họ cho rằng tuyên truyền cho
Cộng Sản, rồi gièm pha và chửi bới cả những người ái mộ những nhạc sĩ và ca sĩ
đã bị họ lên án. Từ khi cuốn băng Thúy Nga Paris 40 được phát hành vào năm 1996,
nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên, các ca sĩ như Hương Lan, Ái
Vân, Băng Kiều, Thanh Tuyền, Thanh Lan, Ngọc Huyền, Hồng Nhung, Trần Thu Hà, Thu
Phương, Lam Trường, Phương Thanh, v.v... cũng đã trở thành nạn nhân của bọn
người cuồng nô vô tổ quốc này. Tệ hại hơn nữa, cả những người ái mộ nhạc sĩ
Trịnh Công Sơn cũng bị chúng ghét cay ghét đắng và bị chụp mũ là thân Cộng hay
Cộng Sản nằm vùng.
o.- Sự kiện họ chửi bới và hạ nhục những người Việt hải ngoại về thăm quê
hương. Điển hình là vụ tổ chức một buổi lễ tẩy chay ông Nguyễn Cao Kỳ chỉ vì ông
Kỳ về thăm Việt Nam trong dịp Tết Giáp Thân 2004. Những hành động vừa trẻ con
vừa độc tài này còn tệ hơn chế độ Phát xít Ý và Đức Quốc Xã.
B.- Cá nhân: Khá nhiều ấn phẩm của các ông văn nô Ca-tô chứng tỏ họ
không biết gì về lịch sử thế giới và hiểu sai lầm về lịch sử Việt Nam trong thời
cận và hiện đại. Tất cả những tác phẩm này hoặc là đều có dã tâm che giấu những
hành động tội ác của Giáo Hội La Mã và của tín đồ Ca-tô người Việt chống lại dân
tộc và tổ Quốc Việt Nam từ cuối thể kỷ 18 cho đến ngày nay, hoặc là cố tình đánh
bóng những người được Giáo Hội La Mã và đế quốc Pháp hay đế quốc Mỹ đưa lên cầm
quyền trong những năm 1948-1975, hoặc là dùng những lời lẽ hạ cấp rất Ca-tô đề
sỉ vả và hạ nhục những người Việt yêu nước đã hy sinh trọn đời trong cuộc chiến
giải phóng dân tộc ta thoát khỏi ách thống trị bạo tàn của Liên Minh Thực Dân
Xâm Lược Pháp – Vatican và Liên Minh Mỹ - Vatican. Dưới đây là một số trong
những tác phẩm thuộc loại này:
1.- Việt Nam Tôn Giáo Chính trị Quan” của Linh-mục Vũ Đình Hoạt (Falls
Church, VA: Alpha 1991).
2.- Bộ Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo của Linh-mục Bùi Đức Sinh (Sàigòn: Chân Lý,
1972).
3.- Bộ Việt Nam Giáo Sử của Linh-mục Phan Phát Huồn (Sàigòn: Cứu Thế Tùng
Thư, 1965).
4.- Những bài viết và cuốn Việt Nam Chính Sử của ông Nguyễn Văn Chức
(Arlington, VA: Văn Nghệ Tiền Phong 1989).
5.- Hai cuốn sách Những Bí Ẩn Đằng Sau Cuộc Thánh Chiến Tại Việt Nam (Garden
Grove, CA: TXB, 1994) và Những Bí Ẩn Lịch Sử Đàng Sau Cuộc Chiến Việt Nam
(Garden Grove, CA: TXB, 1999) của ông Lữ Giang.
6.- Cuốn Trần Lục (Montreal, Canada, 1996) của mấy ông Ca-tô Nguyễn Gia Đệ,
Lê Hữu Mục, Bằng Phong, Phạm Xuân Thu và Trần Trung Lương.
7.- Cuốn Việt Nam Mất, Lỗi Tại Ai? (Toronto, Canada: Quế Phương, 1993) của
ông Ca-tô Nguyễn Đức Chiểu (anh ruột
ông Da- Nguyễn Văn Chức).
8.- Cuốn Tổ Quốc Ăn Năn (Paris: TXB, 2001) của ông Ca-tô Nguyễn Gia Kiểng,
9.- Cuốn Việt Nam Ba Mươi Năm Máu Lửa (Falls Church, VA: Alpha, 1991) của ông
Ca-tô Cao Thế Dung.
10.- Cuốn Ngô Đình Diệm và Bang Việt Mỹ của ông Ca-tô Phạm Đăng Lưu.
11.- Cuốn Thuyền Ai Đợi Bến Văn Lâu của ông Ca-tô Nguyễn Lý Tưởng.
12.- Cuốn Việt Nam Cuộc Chiến Tranh Quốc Gia- Cộng Sản (Santa Clara, CA:Nhân
Chứng, 2002) của nhóm các ông Dương Diên Nghị, Nguyễn Châu, Lương Văn Toàn, Lê
Hữu Phú và Hoàng Đức Phương.
13.- Cuốn Việt Nam 1945-1995 (Bethesda. MD: Tiên Rồng, 2004) của ông Lê Xuân
Khoa.
14.- Cuốn Xóm Đạo (Đông Kinh: Tân Văn, 2003 của nhà văn Ca-tô Nguyễn Ngọc
Ngạn, trong đó ông đóng vai trò ông thày dạy sử nhằm xuyên tạc sự thật lich sử
Việt Nam trong thời cận và hiện đại để chạy tội cho Giáo Hội La Mã. Đặc biệt hơn
nữa, trong cuốn băng nhạc Paris By Night 81, ông nhà văn
Ca-tô này còn tuyên bố một
điêu trái ngược hẳn với sự thật lịch sử, rồi dựa vào lời tuyên bố ẩu này, ông ta
suy diễn và đưa ra nhiều chính kiến để chống lại những người đã hy sinh cuộc
đời cho đại cuộc giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước đem lại vinh quang
cho tổ quốc và dân tộc Việt Nam ta.
Những sự kiện về các tác phẩm mang số 12, 13, 14 và 15 trên đây đã được trình
bày đầy đủ trong cuốn Khi Nhà Văn Luận Về Lịch Sử (đã được đưa lên tranh nhà
sachhiem.com và sẽ được phát
hành vào mùa thu 2007 này).
Tạm kể ra sơ sơ 14 trường hợp như trên. Nếu muốn nói cho hết, chắc chắn là
cái danh trên đây sẽ dài lắm, kể hàng chục trang giấy cũng chưa chắc đã nói được
hết.
Văn tức là người. Đọc những cuốn sách này những ấn phẩm trên đây, chúng ta
thấy rõ:
1.- Tình trạng không biết gì về lịch sử thế giới và hiểu biết sai lại về lịch
sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại của các tác giả nảy dù là đã có văn bằng
đại học ở miền Nam Việt Nam hay ở các nước như Pháp, Mỹ, Úc, Canada chỉ vì họ đã
tiếp nhận sở học của họ ở bậc trung học ở Việt Nam trong thời 1885-1954 hay ở
miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 qua chính sách ngu dân và giáo dục
do Giáo Hội La Mã chủ trương..
2.- Tinh thần nô lệ của họ đối với Toà Thánh Vatican và cái bản chất bồi bút
của họ qua những thủ đoạn bóp méo sự thật và cung cách diễn dịch những sự kiện
lịch sử cùng những mánh mung lấp liếm, che giấu tội ác cho Giáo Hội La Mã (qua
việc các nhà truyền giáo đi truyền đạo ở các lục địa ngoài Âu Châu) và cho những
người đồng đạo của họ!
3.- Không biết sử dụng lý trí để nhìn ra tính cách phi lý, không thuận lý
trong những luận điệu của họ và những điều sai lạc về sự thật lịch sử mà họ đưa
ra hay nêu lên trong những tác phẩm của họ.
Ngoài ra, lại còn có những bài viết được đưa lên một vài diễn đàn điện tử nếu
đọc qua, chúng ta sẽ thấy tác giả của những bài viết này thuộc loại người chỉ
biết đặt quyền lợi của Giáo Hội La Mã lên trên quyền lợi của tổ quốc và dân tộc.
Họ sử dụng những lời lẽ hết sức thiếu giáo dục để sỉ vả những nhà ái quốc đã
suốt đời tận tuy hy sinh thân thế cho đại cuộc đánh đuổi Liên Minh Đế Quốc Thực
Dân Xâm Lược Pháp – Vatican để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc. Một số
trong những hạng người này là Minh Võ và Huỳnh Lương Thiện. Có lẽ vì không thể
khoanh tay đứng nhìn những hạng người "ếch ngồi đáy giếng" mưu đồ"múa
rìu qua mắt thợ" như
trên, cho nên Giáo-sư Trần Chung Ngọc bất đắc dĩ phải viết bài viết Vài Nét Về
Cụ Hồ trong đó có mấy đoạn với nguyên văn như sau:
“Ông Minh Võ cũng như ông Huỳnh Lương Thiện hiển nhiên là những người
không biết ngượng vì chính cái trình độ hiểu biết thấp kém của mình về xã hội
Việt Nam so với một người ngoại quốc như Peter A. DeCaro. Nhưng, như đã nói ở
trên, các ông thuộc lớp người chỉ viết bậy, cốt hả lòng thù hận, cho nên không
cần đến trí tuệ, không cần đến kiến thức, không cần đến trình độ, và không cần
đến liêm sỉ. Tôi nghĩ rằng đối với những người như các ông, tôi không nên phí
thêm thời gian để phê bình nữa. Nhưng có điều các ông cần biết, là thủ đoạn và
trình độ của các ông không thể qua mắt được lớp trẻ ngày nay. Vậy sau đây, tôi
xin nhường chỗ cho vài tiếng nói của lớp trẻ trên Đàn Chim Việt:
1.- Tôi cho rằng chính vì không tự mình tìm hiểu vấn đề một cách chủ động,
giống như ông bạn Lương Thiện đăng đàn ở trên, bạn đã rơì quá dễ dàng vào những
thứ lý sự quá đơn giản của những nhà nghiên cứu nửa mùa kiểu Minh Võ. Bạn hãy
thử đề nghị Minh Võ đem dịch cuốn sách của mình ra tiếng Mỹ để xem những học giả
Mỹ nghĩ gì. Cam đoan với bạn không đáng một cái nhếch mép! Trong nghiên cứu, kết
luận về vấn đề nêu ra không quan trọng bằng cái phương pháp nghiên cứu đã dẫn
đến kết luận ấy, đó là điều căn bản. Xin bạn lưu ý: đây là một vấn đề sử học,
một vần đề khoa học chứ không phải là chuyện biểu diễn lập trường, hoặc tệ hơn
nữa bộc lộ oán thù, phục hận.
2.-… …
3.- Anh Lương Thiện và Minh Võ đã lấy cái định kiến ác ý cuả chính mình,
hội đoàn mình để chủ trương bôi nhọ chủ tịch Hồ Chí Minh- Một nhân vật vĩ đại,
kiệt xuất số một; vô tiền, khoáng hậu trong lịch sử VN và nhân loại. Đó là những
lời vu khống; Lập lờ đánh lận con đen; câu chữ cắt xén, biạ đặt một cách có chủ
ý, có kế hoạch hòng làm lu mờ thần tượng vĩ đại của dân tộc ta.
Những người có thiện ý, thiện tâm... thường có con mắt bao dung, độ lượng,
nhìn vào mặt sáng, khai thác mặt sáng - mặt tích cực,.công đức và thành tựu mà
các vị giáo chủ hay vĩ nhân đó đã làm được cho dân, cho nước và nhân loại. Còn
kẻ tiểu nhân đã mang sẵn định kiến hận thù thì sẽ làm ngược lại. Họ cũng biện
chứng, dẫn chứng, có lang, có lớp như ai.. Nhưng đó chỉ là cách ngụy biện rẻ
tiền. Chỉ cần chú ý đôi chút là ta sẽ nhìn rõ chân tướng chúng.
4.- Rêu rao là người hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa cộng sản nhưng kiến
thức của Minh Võ về vấn đề này chỉ là một con số không to tướng. 1) Minh Võ đã
sai lầm hoàn toàn khi đồng hoá Marx với Đệ tam Quốc tế của Lenin. Học thuyết
Marx là sản phẩm của xã hội tư bản phương Tây thế kỷ 19 trong khi đó Đệ Tam Quốc
Tế là phản ứng của những nước ngoại vi với các nước giàu đã trở thành thực dân,
đế quốc. 2) Minh Võ chỉ biết Marx qua Tuyên ngôn cộng sản 1848, không đếm xỉa gì
đến những tác phẩm khác của Marx. Ngay cả với Tuyên ngôn này, Minh Võ cũng chỉ
bám vào những từ ngữ tách rời khỏi hệ thống lý luận mà Marx đã mang ý nghĩa cho
chúng (tư hữu, vô sản, quốc tế vô sản, chuyên chính…). 3) Minh Võ không hiểu
biết gì về những mâu thuẫn thực tế của lịch sử hiện đại – giữa các quốc gia
(giàu/giàu, giàu/nghèo, thực dân/bị trị, phát triển/chậm tiến…) , giữa các ý
thức hệ (chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa tư bản, cộng sản, phát
xít…) do đó đã trút tất cả vào mâu thuẫn cộng sản/ chống cộng sản một cách máy
móc. 4) Riêng với những nước bị thực dân thống trị vấn đề cướp nước và chống
cướp nước đã bị Minh Võ đầy lùi về phía sau một cách cố ý rồi mượn luận điệu của
thực dân đồng hoá cộng sản với khủng bố, nổi loạn để biện hộ cho tội cướp nước
của chúng. Bị cộng sản kết cho cái tội “Việt gian” không có gì là oan cả…”[33]
Những trường hợp đã được trình bày ở trên đều là hậu quả trược tiếp của chính
sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ chủ trương bởi Giáo Hội La Mã ở hậu trường sân
khấu chính trị Đông Dương trong những năm 1885-1954 và ở hậu trường sân khấu
chính trị ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975