HỦY DIỆT NỀN VĂN MINH NHÂN LOẠI VÀ
NHỮNG THÀNH TÍCH TÀN SÁT LƯƠNG DÂN
1. GIÁO HỘI GIAN ÁC
Charlie Nguyễn
Trên đời này chẳng có tôn giáo nào cao hơn
Lẽ Thật vì Lẽ Thật là chân lý hằng cửu. Cũng chẳng có tình nào cao đẹp hơn
tình người với người, chứ không phải chỉ yêu Thiên Chúa, chà đạp con người
như các tu sĩ của Vatican. Cả cái hệ thống tu sĩ của Vatcian là một tổ chức
vĩ đại của những kẻ đạo đức giả. Chúng dựng lên thần linh quái đản là Thiên
Chúa Ba Ngôi rồi nhân danh Thần Linh để khủng bố loài người và giết hại trên
200.000.000 sinh mạng vô tội trong 16 thế kỷ qua. Họ là cha đẻ ra các tai
họa khủng khiếp cho loài người qua các chế độ nô lệ, chủ nghĩa diệt chủng Do
Thái, chủ nghĩa phát Xít, chủ nghĩa Quốc Xã, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa
kỳ thị phụ nữ, kỳ thị tôn giáo, kỳ thị chủng tộc và thậm chí cả chủ nghĩa
Cộng Sản.
Năm 1917, Vatican đã viện trợ cho đảng Bolshervik của Lenin 660 triệu đô la
(trị giá bằng nhiều tỷ đô la ngày nay) để Cộng Sản lật Nga Hoàng và diệt
Chính Thống Giáo cho Vatican. Người Tây Phương có quá nhiều kinh nghiệm về
Vatican nên đã gọi nó bằng một danh từ rất tượng hình và nhiều ý nghĩa, đó
là Con Bạch Tuộc của Đức Chúa Trời (Octopus Dei). Sở dĩ mọi tổ chức tội ác
còn tồn tại trên thế giới ngày nay là vì cái đầu của con bạch tuộc là
Vatican vẫn còn tồn tại. Chỉ khi nào cái đầu của con bạch tuộc chết đi thì
các cái vòi của nó là các thứ chủ nghĩa tội ác mới thật sự bị tiêu diệt.
Tất cả các cuộc chiến đấu của nhân loại
ngày nay chỉ qui vào một cuộc chiến đấu duy nhất, đó là cuộc chiến đấu của
những người thiện lành chống lại những thế lực tội ác do Vatican ngấm ngầm
lãnh đạo. Con bạch tuộc khổng lồ Công Giáo La Mã cũng là đầu não của mọi hình
thức khủng bố: Tòa án dị giáo với các dàn hỏa thiêu sống con người, bắt cóc
ban đêm và đủ kiểu tra tấn hết sức dã man không kể xiết. Muốn hiểu tòa án dị
giáo của Vatican kinh khủng như thế nào xin hãy đọc The Inquisition, Hammer
of Heresy của Edward Burman, 254 trang. Dorset Press NY. 1992. Ngay trang đầu
của cuốn sách, tác giả viết: "Tòa án dị giáo đồng nghĩa với khủng
bố, bắt người ban đêm và đủ thứ tra tấn". Nó cũng được mô tả trong The Pit
and The Pendulum của Edgar Poe, trong kịch Opera của Don Alhambra, trong
những chuyện kinh dị của Gilber, Sullivan, Verdi và cả trong thơ của
Tennyson..." The (Inquisition is synonymous with terror, noctural arrest
and torture...)
Qua 16 thế kỷ gieo rắc khủng bố cho loài
người, tội ác chồng chất của Công Giáo La Mã đã cao ngất như núi. Đã đến lúc
cái giáo hội của tội ác này phải đền tội và phải chết. Mới đây, nữ tu sĩ
Angelica là người đứng đầu hệ thống truyền hình Công Gíao Mỹ "Eternal World
Television Network" có 55 triệu khán giả tại 38 quốc gia có hệ thống tiếp
vận của nó, đã tuyên bố trong một talk-show rằng: Thế giới Công Giáo không
thể tránh khỏi đại thảm họa. Ngày tận thế của nó chỉ trong tầm tay. (Its end
times are at hand). Mọi người Công Giáo đều tin rằng thế giới này sẽ có ngày
tận thế, nhưng họ đã lầm. Thế giới này vẫn muôn đời tồn tại, chỉ có cái giáo
hội khốn nạn của họ phải đến ngày tận số mà thôi!
Hòn đá tảng Phêrô đang biến thành bùn và
cả tòa lâu đài Vatican đang lún xuống bùn dưới sức nặng của tội ác cao như
núi đang đè lên đầu nó. Cái chết vô cùng nhục nhã của nó đang đến và phải
đến trong những năm của thế kỷ 21. Cả thế giới còn lại sẽ thở phào nhẹ nhõm
vì đã vứt đi được cái ung nhọt cương mủ trên cơ thể nhân loại ròng rã trong
hơn 16 thế kỷ qua (tính từ ngày Constantine đẻ ra nó vào đầu thế kỷ thứ tư).
Cả loài người thiện lành sẽ từ đây ung dung bước đi chững chạc vào một trật
tự thế giới mới trong ánh bình mình đẹp vô cùng của thiên niên kỷ thứ ba.
Khi "con bạch tuộc của Chúa Trời" không còn nữa, tất cả loài người sẽ dành
lại vườn địa đàng của mình là trái đất này để kiến tạo cuộc sống thanh bình
hạnh phúc cho các thế hệ con cháu đến muôn đời. Hallelujah! Hallelujah!
Thượng đế [Chữ Thượng Đế nói đây không
cùng nghĩa với tín đồ Kitô giáo gọi.] chứ không phải Jehovah (con bò El) đã
đang và mãi mãi tiếp tục kiến tạo vũ trụ hoàn toàn trong thinh lặng. Ngài đã
mặc nhiên trao trái đất này cho toàn thể loài người chúng ta với lòng yêu
thương vô hạn của Ngài. Thượng đế yêu thương loài người nên chẳng bao giờ
Ngài muốn làm khổ con người. Chỉ có quỉ mới muốn làm khổ con người nên đã
xúi bậy con cái của nó là Công Giáo gieo rắc đủ thứ tai họa cho loài người
mà thôi. Chẳng có tôn giáo nào do Thượng Đế tạo ra mà tất cả đều là sản phẩm
của con người. Tôn giáo chỉ có thể là chính đáng khi nó thật sự phục vụ con
người. Mọi thứ tôn giáo nhân danh Thượng Đế chà đạp con người đều là tà đạo
của sa tăng rồi phải bị tiêu diệt. Thánh linh của Thượng Đế cũng như Phật
tính đều có sẵn trong tâm linh của mọi người chúng ta, đúng như lời Phật
dạy: "Phật tại tâm". Các thứ Phật hay Chúa trong các chùa và nhà thờ đều là
đồ giả [Vì thế nên một hôm trời lạnh, một vị thiền sư bảo đệ tử đem cái
tượng Phật bằng gổ chẻ làm củi.] do các tu sĩ của các tôn giáo tạo ra để lừa
bịp con người. Đỉnh cao của mọi thứ đạo đức thật sự là lòng yêu thương Sự
Thật. Tình yêu thương dàn trải giữa mọi người với nhau là nguồn hạnh phúc
vĩnh cửu trên cõi đời này. Đó là thiên đàng duy nhất có thật chứ chẳng có
một thiên đàng nào khác. Loài người làm khổ nhau do lòng tham lam ích kỷ là
địa ngục duy nhất có thật chứ cũng chẳng có một địa ngục nào khác ở ngoài
thế gian này.
Các tổ chức giáo hội là nguyên nhân gây ra
thảm họa cho loài người chúng ta. Giáo hội tạo ra những ốc đảo tôn giáo chia
rẽ con người. Các ốc đảo tôn giáo đó tranh chấp nhau để dành tín đồ nhằm tụ
bè kết đảng không ngoài mục đích củng cố quyền lực cho các tu sĩ lưu manh
của nhiều tôn giáo chứ cũng chẳng riêng gì của Công Giáo La Mã.
Cả ba tôn giáo Phật Khổng Lão đều đã du
nhập vào nước ta gần 2000 năm qua mà dân tộc Việt nam không hề coi ba tôn
giáo đó là ngoại lai. Cả ba tôn giáo, với các chủ trương đối nghịch nhau, đã
hòa làm một trong lòng dân tộc mà ta thường gọi là "TAM GIÁO ĐỒNG NGUYÊN".
Sở dĩ cả ba tôn giáo Phật Khổng Lão đã hòa đồng một cách tốt đẹp như vậy là
nhờ ở yếu tố của ba tôn giáo đều không có giáo hội. Sau 1.11.1963, các tăng
sĩ Phật Giáo bắt chước Công Giáo thành lập "Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất". Như Vậy, Phật Giáo hình như đã chủ trương đi vào con đường thế
tục như Vatican từ đây? [Ban biên tập xin phép tác giả bỏ một trang vì thấy
thiếu sử liệu.]
Giáo Hội Công Giáo Việt Nam luôn luôn phục
vụ quyền lợi ngoại bang và đàn áp tôn giáo là một động lực thúc đẩy nhiều
người Phật Giáo tham gia Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất để chống lại
Công Giáo. Đối với nhiều người Phật Tử thì Công Giáo nguy hiểm hơn gấp trăm
lần các tổ chức Cộng Sản, Công Giáo là yếu tố khiến cho chiến tranh Việt Nam
kéo dài và càng ngày càng thêm thảm khốc.
Giáo Hoàng Gioan XXIII ủng hộ việc lật đổ
và tiêu diệt chế độ Ngô Đình Diệm vì cho rằng chế độ Diệm đã đe dọa phá hoại
chính sách hiệp thông của Vatican. Giáo Hoàng Gioan XXII đã chính thức gửi
văn thư mắng nhiết Ngô Đình Diệm năm 63 về tội đàn áp Phật Giáo. Báo chí Hoa
Kỳ xác nhận: "Giáo Hoàng Gioan XXIII bí mật hợp tác với Cộng Sản để chuẩn bị
cho một nước Việt Nam thống nhất dưới chế độ Mác-xít của Hồ Chí Minh". (Pope
John XXIII secretly cooperated with the Communists in preparing a future
united Marxist Việt Nam under Ho Chi Minh).
Ngày 30.1.1967, báo chí thế giới loan tin
về cuộc tiếp tân của Giáo Hoàng Paul VI tại Vatican long trọng chào đón thủ
tướng Liên Xô Podgorny để củng cố sự hợp tác toàn diện với Liên Xô và các
nước Chư hầu của Cộng Sản tại Đông Âu (The new policy of Paul VI of full
cooperation with Soviet Russia and the Communist satellites of Eastern
Europe). Báo chí thế giới cũng xác nhận Paul VI là cha đẻ ra liên minh
Vatican-Moscow. Liên minh này đã phá tan chiến lược chống cộng của Hoa Kỳ ở
cả hai lục địa Âu châu và Á Châu. Liên minh Công Giáo với Cộng Sản đã trở
nên một yếu tố quan trọng cho cuộc thất trận của Hoa Kỳ tại Việt Nam. (Paul
VI fathered the Vatican-Moscow Alliance which undermined the Anti-Russian
strategy of the US in Europe and Asia. This alliance became an important
factor in the final defeat of the US is Viet Nam).
Paul VI dư biết Vũ Ngọc Nhạ là gián điệp
Cộng Sản qua hai đời tổng thống Công Giáo đã góp phần quan trọng trong việc
làm sụp đổ VNCH ngày 30.4.1975 nhưng y vẫn ban thưởng cho tên gián điệp Cộng
Sản này huy chương cao quí của Tòa Thánh là "Huy Chương Hòa Bình" có
in hình của giáo hoàng. Vì thế, Việt Nam Cộng Hòa rất cay đắng không bao giờ
quên mối hận này đối với hai giáo hoàng Gioan XXIII và Paul VI. Giáo Hoàng
Jean Paul II hiện nay đang lên tiếng kêu gọi nhân dân toàn thế giới tha tội
cho các tội ác của Công Giáo La Mã trong 16 thế kỷ qua nhưng chưa đả động gì
tới các tội ác của Công Giáo đối với dân Việt Nam.
Trong chiến tranh, các cha cố đã bòn rút
viện trợ Mỹ che chở cho kẻ buôn lậu, đào binh, trốn quân dịch. Nhiều giáo xứ
Công Giáo là những khu an toàn lý tưởng của Việt Cộng và các tội phạm đủ
loại.
Công Giáo Bùi Chu Phát Diệm do Lê Hữu Từ,
Phạm Ngọc Chi lãnh đạo chỉ tôn thờ thực dân Pháp, trước cũng như sau 1954.
Trước 1954, họ chống Cộng điên cuồng, lợi dụng vũ khí của Pháp đi cướp phá
các làng Phật Giáo, chiếm chùa làm nhà thờ, giết hại dân lành để cưỡng bức
người ngoại đạo phải "trở lại đạo Công Giáo". Chúng chống Cộng sản do lệnh
của Giáo Hoàng Pius XII, một tên đồ tể của Đức Quốc Xã tại Rome.
Sau 1954, họ trở cờ hòa hợp với Cộng Sản,
các khu đông giáo dân như Hố Nai, Gia Kiệm là các trung tâm khai thác gỗ bất
hợp pháp. Họ phá rừng lấy gỗ kiếm tiền lo làm giàu và đóng thuế nuôi Việt
Cộng. Hoàng Quỳnh, Lê Hữu Từ liên kết với bọn Mafia Bảy Viễn chống VNCH để
làm lợi cho thực dân Pháp và Vatican của John XXIII và Paul VI. Ngày
12.11.1974, tập đoàn Hoàng Quỳnh Vũ Ngọc Nhạ và các nghị sĩ Công Giáo trong
liên minh Nguyễn Gia Hiến đã đến xã trung lập Củ Chi gặp gở các đại diện của
MTGPMN và Cộng Sản Bắc Việt để lập chính phủ ba thành phần thân Cộng Sản
(Sách Ông Cố Vấn tập 3, trang 32-33).
Tất cả các Việt gian trong thành phần thứ
ba gồm các cường hào ác bá của Bảo Hoàng trong chính quyền và quân lực VNCH,
cũng như các tu sĩ làm chính trị đã là các thủ phạm chính yếu dẫn đến sự sụp
đổ của VNCH ngày 30.4.75.
Tất cả chúng đều bỏ chạy sau 30.4.75 và
hiện đang chiếm lãnh các tổ chức cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Họ liên
tục chống phá tại hải ngoại dưới các hình thức chống Cọng giả vờ như đòi
Nhân quyền Dân chủ cho Việt Nam... chúng đang lớn tiếng hô hào Tự do Tôn
Giáo, thực chất là để biến tôn giáo thành nơi trú ẩn an toàn cho bọn Việt
gian đủ loại ngõ hầu sau này chúng sẽ xuất phát từ các giáo hội trở ra chống
phá chính quyền mới của Việt Nam.
Một số ít tu sĩ Phật Giáo cũng đi vào con
đường hủ hóa với lối sống xa hoa và hưởng thụ chẳng khác gì các tu sĩ Công
Giáo. Với tổ chức giáo hội, Phật Giáo Việt nam có lẽ đang đi vào vết bánh xe
đỗ của Công Giáo La Mã.
Tự do tín ngưỡng (Freedom of beliefs) là
một hình thức của tự do tư tưởng không có nghĩa là tự do thành lập giáo hội.
Mọi người đều có thể có tín ngưỡng của riêng mình nhưng không nhất thiết
phải có giáo hội. Tín ngưỡng là niềm tin trong lòng, còn giáo hội là một tổ
chức có hệ thống tu sĩ chỉ huy và với những đoàn thể được đoàn ngũ hóa để
theo đuổi những mục tiêu nặng về thế tục hơn là tâm linh tôn giáo. Giáo hội
là định chế chính trị lũng đoạn quốc gia và chia rẽ dân tộc. Muốn bảo toàn
sự thống nhất quốc gia và hạnh phúc dân tộc, việc cần thiết là phải xóa bỏ
mọi tổ chức giáo hội, không phân biệt là của tôn giáo nào.
Sở dĩ Công Giáo La Mã đã biến thành một tổ
chức tội ác lớn nhất lịch sử loài người chính vì nó đã tiêu diệt các chi
phái Kitô để thành lập một giáo hội duy nhất do đế quốc lãnh đạo. Trước thế
kỷ thứ 4, Kitô Giáo đã có nhiều chi phái chủ trương không thành lập giáo
hội, không xây nhà thờ mà chỉ có phòng hội, không thờ ảnh tượng và không có
giáo lý cứng nhắc.
Giáo phái Macionism gọi Jehovah của đạo Do
Thái là quỉ. Họ tin rằng Thiên Chúa thật phải là Thiên Chúa của Tình Thương
(Real God: God of Love).
Giáo phái Gnosticism thịnh hành tại Ai Cập
và Tiểu Á, phân biệt Tinh Thần là Thiện, Vật Chất là Ác. Thiên Chúa là Tinh
Thần cao thượng còn Vật Chất (matter) là Satan, biểu tượng của lòng tham vật
dục thấp hèn. Họ cho rằng con rắn cám dỗ Adong Evà không phải là Satan mà là
vị thần của sự khôn ngoan và tinh thần cao thượng. Con rắn đó thật tâm muốn
giúp tổ tiên loài người ăn trái cây hiểu biết (The Tree of Knowledge) để trở
nên khôn ngoan sáng suốt ngõ hầu thoát khỏi sự thống trị độc đoán của
Jehovah. Con rắn không phải là quỉ mà là một đại ân nhân của loài người. Chỉ
vì lòng sợ hãi hèn yếu mà Adong Evà đã không dám ăn trái cây hiểu biết nên
đã không thoát ra được kiếp sống đau khổ triền miên do sự áp chế của ác thần
Jehovah. Jesus là thần Logos, hiện thân của sự khôn ngoan, dạy loài người
thoát khỏi trầm luân của thế giới vật chất. Jehovah không khôn ngoan bằng
Logos. Danh từ Hy Lạp Gnostic có nghĩa là sự hiểu biết (knowledge), muốn ám
chỉ Jesus là sự hiểu biết đích thực.
Giáo phái thứ ba là giáo phái thịnh hành
tại Pháp do Irenaeus, giám mục tại Lyon, chủ trương. Năm 185, Irenaeus viết
sách Against the Heretics" để chống lại hai giáo phái Macionism và Gnostic.
Iranaeus chủ trương công nhận Jehovah của đạo Do Thái là Chúa Cha. Jesus là
con duy nhất của Jehovah. Ý niệm về Đức Chúa Thánh Thần rất mơ hồ. Irenaeus
xác quyết Chúa Jesus thực hiện cuộc cứu thế bằng cái chết đau khổ và 3 ngày
sau sống lại hiển vinh. Cuốn sách Against the Heretics đã dọn đường cho sự
hình thành bản tóm lược giáo lý gọi là "Đức Tin của các tông đồ" The Creed
of Apostles) được Công Đồng Nicaea do Constantine triệu tập thông qua. Đó là
sự xuất hiện của bài kinh đầu tiên của Đạo Công Giáo La Mã gọi là Kinh Tin
Kính. Công Giáo La Mã là tôn giáo được cấu tạo bởi quyền lực của
Constantine, dựa trên giáo lý của giám mục Pháp Irenaeus và được hoàn chỉnh
bởi Augustine (như có trình bày ở đoạn trước).
Tất cả mọi giáo phái Kitô khác đi ngược
lại với giáo lý của Irenaeus và Augustine đều bị Constantine và đế quốc La
Mã tiêu diệt bằng bạo lực khủng bố. Có thể nói Công Giáo La Mã là tôn giáo
của Chủ nghĩa khủng bố quốc tế. Cuộc chiến đấu của nhân loại ngày nay là
cuộc chiến đấu của những người thiện lành chống lại các thế lực tội ác đã
gieo rắc đau khổ cho con người từ xưa đến nay. Thế giới chỉ có thể xây dựng
được một trật tự mới khi nào các thế lực tội ác, dẫn đầu là Công Giáo La Mã,
phải bị tiêu tan hoàn toàn và triệt để. Lương tâm và lương tri của nhân loại
nhất quyết không thể cho phép nó tồn tại lâu hơn để kéo dài thêm nữa những
chuổi ngày bi thảm của nhân loại.
Mọi người Việt Nam chúng ta phải góp công
sức cùng toàn thể những người thiện lành trên thế giới mau chóng đẩy con quỉ
Công Giáo La Mã xuống đáy địa ngục để chấm dứt hoàn toàn cái lịch sử tội ác
gần 2000 năm của nó. Cần từ bỏ ác thần Jehovah và đám con cái của ác quỉ để
dành lại vườn địa đàng của chúng ta là trái đất này. Chỉ có ác quỉ chứ không
phải Thiên Chúa mới xua đuổi con người ra khỏi vườn địa đàng mà thôi.
Vatican trước đây đã đạt tới đỉnh cao danh
vọng do cấu kết chặt chẽ với các chủ nghĩa quân chủ phong kiến, chủ nghĩa
thực dân đế quốc, chủ nghĩa phát-xít và chủ nghĩa Đức Quốc Xã. Nó cấu kết
với các bố già Mafia Ý và bọn khủng bố quốc tế... Tất cả các thế lực tội ác
đồng lõa với Vatican đã gần như đang bị dồn vào thế cô lập. Ngày tận thế của
nó không bao xa. Xưa kia Jesus thường hăm dọa mọi người là ngày tận thế đã
đến gần trong tầm tay (Doomsday is at hand). Nhưng 2000 năm qua vẫn không có
tận thế và sẽ chẳng bao giờ có. Cái mà Jesus không biết tới là cái giáo hội
Công Giáo La Mã đang bên bờ "tận thế". Cái câu nói của Jesus "Doomsday is at
hand" chỉ đúng cho tình trạng hiện nay của Công Giáo La Mã mà thôi. Lịch sử
tội ác của Công Giáo La Mã chống loài người là một hồ sơ dầy cộm đã đến lúc
phải kết thúc. Các giáo hoàng tự xưng là đại diện của Chúa Cứu Thế (Vicars
of Christ) chính là một danh hiệu làm nhục Chúa Cứu Thế hơn bất cứ cái gì
khác.
1.- Đại diện Chúa Kitô như Giáo Hoàng
Innocent (but not innocent) chỉ trong một buổi chiều giết 12.000 giáo dân
tại Rome vì những người này đã dám chống lại y. Giáo hoàng này vượt xa hơn
bất cứ một bạo chúa nào trên thế gian về tội giết người. Y là kẻ đã phát
minh ra tòa án dị giáo (the Inquisition) gieo kinh hoàng tại Âu Châu liên
tiếp trong 3 thế kỷ (13-16) và tiếp tục gây tội ác cho đến giữa thế kỷ 19
mới chấm dứt. Nỗi ám ảnh của dân Âu Mỹ về tòa án dị giáo được phản ảnh trong
sử sách và trong cả những chuyện ghê rợn của Allan Edgar Poe. Sullivan,
Verdi, Tennyson. Muốn tìm hiểu về tội ác của Giáo Hoàng Innocent này xin hãy
đọc The Inquisition Hammer of Heresy, 253 trang của Edward Burman Dorset
Press NY. 1992. Tội ác của Innocent kéo dài hơn 6 thế kỷ,10 triệu sinh mạng
hầu hết bị thiêu sống trên dàn hỏa. Tòa án dị giáo là hiện tượng có tầm quan
trọng căn bản trong lịch sử Âu Châu. Đó là một định chế xuất hiện từ thế kỷ
13 nhưng ảnh hưởng của nó còn kéo dài đến ngày nay. (Phenonmenon of
fundamental importance in the history of Western Europe. As an institution,
it came into being in the thirteenth century. Its effect are still felt
today). Tuy nhiên, đề cập đến tên vô địch dâm tặc phải kể đến đấng đại diện
Chúa Kitô là Rodrigo Borgia tức "Đức Thánh Cha" Alexander VI (The Bad Popes,
by E.R. Chamberlin. Dorset Press NY. 1969 pages 159-205).
2.- Giáo Hoàng Alexander VI cai trị Hội
Thánh 11 năm (1492-1503). Lên ngôi giáo hoàng không do ai bầu mà do cậu ruột
là Giáo Hoàng Calistus III truyền ngôi cho. Trước khi lên ngôi giáo hoàng
thì y đã có vợ và 4 con đã lớn và thêm một đứa con hoang ngoài hôn thú. Việc
đầu tiên là giáo hoàng phong chức cho đứa con trai tên Ceasare 18 tuổi và
đứa con hoang chức vụ hồng y giáo chủ. Năm 1497, Alexander VI định đưa con
thứ tên Juan lên ngôi giáo hoàng thì bỗng nhiên Juan bị giết bằng nhiều nhát
dao và bị ném xác xuống sông Tiber. Người ta vớt xác Juan đem về cho giáo
hoàng coi. Giáo hoàng xúc động quá đến phát điên. Y cho rằng giới quí tộc ở
Rome đã hãm hại con trai yêu quí của y. Do đó, y bèn khởi động một cuộc
khủng bố đẫm máu chống giới quí tộc La Mã.
Tuy là một bạo chúa, nhưng Alexander lại
là một kẻ yêu chuộng nghệ thuật. Y đã để lại một kho tàng nghệ thuật là Đền
Thánh Phêrô với các bức họa và tượng điêu khắc của hai vô địch kỳ tài là
Michael Angelo và Leonardo Vinci. Chỉ vì muốn tạo cảm hứng cho Leonardo
Vinci có thể mô tả sự đau khổ một cách linh động, y có sáng kiến đem các nạn
nhân của tòa án dị giáo ra tra tấn trước mặt nhà nghệ sĩ tài danh này.
Alexander VI có cô con gái rất xinh đẹp tên là Lucrezia. Mặc dù Lucrezia đã
được gã chồng nhưng hai anh của nàng đều yêu nàng nên đã sát hại chồng nàng.
Lucrezia trở về sống tại Tòa Thánh với cha ruột và hai anh mình. Lucrezia
làm tình với cả cha và hai anh mình. Chỉ vì quá ghen, Ceasar đã giết em là
Juan chứ chẳng phải là ai khác trong giới quí tộc La Mã. Mấy cha con của
Giáo Hoàng Alexander VI thích ngồi xem những người khác làm tình tập thể. Do
đó, Vatican thường xuyên diễn ra các cuộc dạ tiệc hết sức sang trọng tốn
kém. Mỗi buổi dạ tiệc thường được triệu tập 50 gái điếm tuyển lựa tại Rome
để vũ thoát y ngay tại phòng hội của Tòa Thánh. Các tu sĩ và nhân viên Tòa
Thánh sau đó làm tình tập thể tại chỗ. Giáo hoàng cho người đi hứng các tinh
dịch của đàn ông làm tình để phát thưởng. Ai có khả năng làm tình nhiều lần
và xuất tinh nhiều lần đều được giáo hoàng và con gái phát thưởng! Sau đó,
Lucrezia sinh ra một đứa con trai, không biết là con ai. Tuy nhiên, lúc đứa
bé được 6 tháng tuổi, Giáo Hoàng Alexander đã công khai cho Lucrezia bế đứa
nhỏ 6 tháng ngồi bên cạnh y khi dự các buổi tiếp tân công cộng. Từ đó, dân
La Mã truyền tụng nhau một câu thơ "Giáo Hoàng Alexander là cha, là chồng,
là cha chồng và là cha của cô dâu xinh đẹp Lucrezia". Alexander không chỉ
loạn luân với con gái của y mà còn loạn luân với hai cô em ruột. Một trong
những vợ bé của giáo hoàng nầy là Vanozza del Cantanel có con gái riêng tên
Rosa. Rosa sinh cho giáo hoàng tới 5 đứa con! (Babylon Mystery Religion,
page 89). Với quá nhiều oán thù, ngày 18.8.1503, Alexander VI bị đầu độc
chết bằng chất bột trắng (white poison powder).
Kể chuyện tội ác và các tật dâm ô vô đạo
của các Giáo Hoàng La Mã thì thật vô tận. Xin quí độc giả tự tìm kiếm lấy
tài liệu để đọc thêm. Ở đây tôi chỉ muốn bày tỏ một nỗi đau buồn là đồng bào
Công Giáo Việt Nam hoàn toàn bị đám tu sĩ bưng bít nên họ cứ tưởng giáo
hoàng là các bậc thánh sống để họ tôn thờ. Gia đình Công Giáo nào cũng
thường có hình giáo hoàng được gia chủ đóng khung kiếng và treo ở nơi trang
trọng gần như ảnh thờ. Các sách kinh nguyện Việt Nam có rất nhiều bài kinh
cầu cho giáo hoàng. Giáo hoàng được giáo dân tôn kính và cầu nguyện cho
nhiều lần gấp bội số lần cầu nguyện cho những người thân nhất của mình. Tại
Rome, thỉnh thoảng cũng có các đám rước giáo hoàng ngồi trên kiệu do nhiều
người khiêng. Năm 1951, chính kẻ viết bài này cũng đi dự một đám rước kiệu
tấm hình lớn của đồ tể Pio XII tại Bùi Chu! Thật là một điều mỉa mai đau xót
mà tôi khó có thể diễn tả bằng lời...
Cả thế giới ngày nay người ta đã biết
nhiều về bộ mặt xấu xa tội lỗi đáng ghê tởm cùng cực của cái gọi là Tòa
Thánh và những kẻ được tôn xưng làm "Đại Diện của Chúa Kitô" (Vicars of
Christ). Nhưng tôi vô cùng ngao ngán và phải nói rằng tuyệt đại số đồng bào
đồng đạo của tôi không biết tí gì về các điều đó. Mặc dầu tôi đã kể chuyện
một số giáo hoàng tội lỗi tiêu biểu ở những đoạn trên, nhưng tôi tin rằng
những chuyện đó chưa đủ để làm thay đổi cái não trạng đen tối của những
người đồng đạo. Đây là lý do khiến tôi phải cố gắng viết thêm nữa về Vatican
và giáo hoàng. Những điều tôi kể sau đây cũng chỉ là một số rất ít trong cả
một rừng tài liệu hiện có trong các thư viện. Các tài liệu hết sức phong phú
lên án Vatican và giáo hội Công Giáo sẽ không có tác dụng gì nếu không có
người đem nó ra trình bày bằng Việt Ngữ để giáo dân Việt Nam có phương tiện
tìm hiểu. Chính sự thiếu hiểu biết của giáo dân đã làm cho các tu sĩ lộng
hành và khuyến khích họ tìm mọi cách ngăn cản giáo dân tìm hiểu sự thật về
giáo hội. Chính sách ngu dân luôn luôn là một phương tiện hữu hiệu nhất của
kẻ thống trị xử dụng để bảo vệ thế quyền cũng như thần quyền của họ. Giáo
dân có mê tín mới đem tiền đến nhà thờ xin lễ hoặc dâng cúng, các cha cố mới
có nhiều tiền để xây nhà thờ to đẹp hầu phô trương uy thế của mình. Giáo dân
càng ngu dốt bao nhiêu, càng khúm núm ngoan ngoãn cha cố bấy nhiêu. Giáo dân
khúm núm quị lụy với cha cố bao nhiêu, càng làm cho họ lên mặt bấy nhiêu.
Nếu để cho cha cố tiếp tục lộng hành lũng đoạn cả khối giáo dân, chúng có
thể sẽ tạo thêm nhiều Ngô Đình Diệm cai trị đất nước. Với cương vị là tổng
thống đứng đầu một quốc gia, nhưng Ngô Đình Diệm vẫn lấy tư cách giáo dân
trung thành của Vatican để cúi đầu khom lưng hôn nhẫn, hôn tay các hồng y
đại diện Tòa Thánh. Cử chỉ đó của Ngô Đình Diệm đã nói lên tinh thần nô lệ
của Công Giáo Việt Nam và đã làm nhục quốc thể không ít.
Sự ngu đốt là nguyên nhân đầu cùng của mọi
hành vi sai trái. Tất cả những hành vi sai trái nói trên của tập thể giáo
dân đều xuất phát từ sự tối tăm không biết gì về thánh kinh, giáo hội và tu
sĩ: Thánh kinh là sản phẩm bịa đặt tạo ra một giáo hội gian dối. Giáo hội
gian dối tạo ra một hệ thống tu sĩ gian manh. Sự ngu dốt là nền tảng của tất
cả những thứ đó.
Hệ thống tu sĩ Công Giáo thế giới là hệ
thống tu sĩ thiếu lương thiện, đứng đầu là giáo hoàng. Chức vị giáo hoàng
chẳng phải do Chúa trao cho mà thường do cướp đoạt bằng đủ mọi thủ đoạn: hối
lộ, mua chuộc, vận động chính trị và rất nhiều trường hợp là do mưu sát lẫn
nhau. Chỉ trong vòng 12 năm (891-903), có 10 giáo hoàng liên tục giết lẫn
nhau để đoạt ngôi giáo hoàng. Chức vị giáo hoàng là mục tiêu quyền lực mà kẻ
lãnh đạo cao cấp trong giáo hội luôn luôn nhắm tới để tranh đoạt. Chẳng cần
nói đâu xa, đương kim giáo hoàng Jean Paul II lên ngôi giáo hoàng năm 1978
là do y đã can dự vào việc mưu sát giáo hoàng tiền nhiệm là Jean Paul I bằng
chất độc vào đêm 5.9.1978. Việc sản xuất chất độc giết người là nghề của
Jean Paul II. Trong thời đệ nhị thế chiến, Jean Paul II lúc đó là thanh niên
Ba Lan mang tên Karol Wojtila, giữ chức vụ Saleman cho công ty Đức Farben
Chemical chuyên sản xuất độc khí thủy ngân (Cyanicgas) cung cấp cho Đức Quốc
Xã dùng chế tạo hơi ngạt giết 6 triệu Do Thái trong các trại tập trung. Việc
xử dụng chất độc được gọi là "Lentulo", một thứ bột trắng chết người (the
lethal white powder), là một truyền thống lâu đời của triều đình Vatican. Có
lẽ khởi đầu từ thế kỷ II. Sử sách giáo hội La Mã ghi nhận con gái giáo hoàng
Alexander VI là Lucrezia là một chuyên viên xử dụng chất độc giết hại nhiều
người. Chính giáo hoàng Alexander VI cũng chết vì bị đầu độc năm 1503. Sách
"The Pope Encyclopedia" liệt kê danh sách nhiều giáo hoàng bị mưu sát bằng
chất độc bột trắng: Giáo hoàng duy nhất tại Vatican có gốc Đức quốc là
Utrech bị mưu sát bằng thuốc độc năm 1073. Từ đó, người Ý dành độc quyền làm
giáo hoàng cho đến ngày Jean Paul II lên ngôi năm 1978 không phải là người
gốc Ý. Các giáo hoàng sau đây đều đã bị người kế nhiệm đầu độc để cướp ngôi:
Pio VIII (1830), Leo XIII (1903). Pio X (1914) và Pio XI (1939).
Sách Babylone Mystery Religion liệt kê các
vụ giáo hoàng kế nhiệm trả thù giáo hoàng tiền nhiệm. Điển hình là vụ Giáo
Hoàng Stephen VI (896-897) trả thù giáo hoàng tiền nhiệm là Formosus
(891-896). Sau khi giáo hoàng Formosus chết được 8 tháng, giáo hoàng Stephen
VI vẫn ra lệnh quật mồ lấy bộ xương của giáo hoàng này đặt lên ghế giáo
hoàng. Stephen VI đứng phía trước bộ xương tra hỏi và chửi rủa. Stephen VI
kết án bộ xương của Formosus rồi truyền vứt bộ xương ra đường phố, cuối cùng
được vứt xuống sông Tiber. Stephen VI kết tội Formosus rối đạo và sai lầm.
Giáo Hoàng Honorius I
(625-628), sau khi chết cũng bị Tòa Thánh họi hội nghị đem hồ sơ ra xét xử
vào năm 680. Giáo hoàng Honorius I bị kết án là sai lầm rối đạo! Vậy mà
giáo dân vẫn đọc kinh “Đức Chúa Trời đã đặt Đức Giáo Hoàng lên quyền rất
trọng, là cai trị các giáo hữu đời này, cho nên khi Đức Giáo Hoàng truyền sự
nào chung cho các giáo hữu, cùng phán dạy phải tin cùng điều nọ chẳng nên
tin thie Đức Chúa Trời hằng soi sáng cùng giữ gìn Đức Giáo Hoàng cho nên
chẳng có lẽ nào ai lâm được.” (Toàn Niên Kinh Nguyện Bùi Chu, tr. 326),
(95). 95)
CHARLIE NGUYỄN
www.dongduongthoibao.net Tháng 3/2005
Phụ Bản 2: ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI LA-VANG NHƯ THẾ NÀO?
A.- TÀI-LIỆU:
1.- Báo “L'Osservatore
Romano” của Vatican, ra ngày 12-8-98, có đăng bài “Sự-Tích Đức-Mẹ Hiện Ra Tại
Rừng La-Vang Ở Việt-Nam” trong đó có đoạn:
“... Cùng với gia-đình, các Ky Tô Hữu vào trốn
trong rừng La Vang, cách xa nhà họ chừng 60 cây số. Họ họp hằng ngày dưới một
cây lớn và đọc kinh lần chuỗi vinh-danh Đức Mẹ. Một hôm, Đức Mẹ với hai
thiên-thần vây quanh và bồng Chúa Hài-Đồng trong tay, hiện ra với họ lần đầu
tiên, hứa sẽ bảo-vệ và an-ủi họ. Sau đó, còn có những lần hiện ra tiếp theo...”
2.- Báo “Églises d'Asie” (EDA), số 270 ra ngày
1-9-98, có đăng bài “Ky Tô Hữu Hành-Hương Tại La-Vang”, trong đó có đoạn:
“... Việc hành-hương tại La Vang bắt nguồn từ
cuối thế-kỷ 18. Năm 1798, dưới triều Tây Sơn, vua Cảnh Thịnh đã ban-hành một
cuộc đàn-áp rất khắc-nghiệt khiến cho giáo-dân phải chạy trốn vào trong một
thung-lũng, tập-trung cầu-nguyện ở một khoảng đất trống lẻ-loi giữa rừng dày đặc
nằm về hướng Tây của Tỉnh Quảng-Trị. Họ họp nhau quanh một bức tượng Đức Mẹ đặt
trên cành của một cây đa lớn, xin đước đấng mà họ gọi là “Mẹ” an-ủi và ban cho
sức mạnh. Vào cuối thế-kỷ 19, một nhà thờ được dựng lên chỗ đó...
3.- Báo “Thằng Mõ”, số 832 ra ngày 28-3-98, có
đăng bài “Tinh-Thần La Vang” của Trần Văn Trí, trong đó có đoạn:
“... Lm Ng. V. Ngọc kể: “Trong lúc lánh nạn
tại đây, ban đêm họ họp nhau cầu-nguyện và lần chuỗi. Bỗng nhiên họ thấy một bà
đẹp-đẽ mặc áo choàng hiện ra gần một cây đa đại-thụ, mà họ nhận biết ngay là Đức
Mẹ, có bồng Chúa Hài-Đồng, hai bên có hai thiên-thần cầm đèn chầu...
4.- Báo “Mẹ Việt-Nam” số 102 ra ngày 15-8-98,
có đăng bài “Linh-Địa La Vang” của Nguyễn Lý Tưởng, trong đó có đoạn:
“... Tương-truyền Đức Mẹ đã hiện ra tại
gốc cây đa cổ-thụ. Dân làm rừng thường đến đó van-vái, về sau họ nghe nói
có một Bà linh thiêng hiện ra tại đây nên họ đã đắp một cái nền dưới gốc cây đa,
gọi là nền vọng, và rào chung quanh.
5.- Báo “Saigon USA”, số 97 ra ngày 14-9-98,
có đăng bài “Linh-Địa La Vang” trong đó có đoạn:
“... Cây đa đại-thụ: Theo cổ-truyền ngày xưa
Đức Mẹ đã hiện ra gần gốc nó, nay không còn tăm dạng gì.. .... LM Giuse Nguyễn
Xuân Cảnh (Kim Long) đã ở Phó tại Cổ Vưu dưới thời hai Cha Sở: Bonin (Ninh) và
Cadière (Cả)...... Đến sau Cha Cadière (Cả) đã sắm một bàn kiệu...
B.- NHẬN XÉT:
1.- Báo “L'Osservatore Romano” là cơ-quan
chính-thức của Vatican, có uy-tín và khả-tín nhất, trên tất cả, đã đơn-giản kể
lại việc “Đức Mẹ” hiện ra lần đầu như thế nào trước giáo-dân tại La Vang: bài
báo không nói cụ-thể xuất-hiện ở vị-trí nào so với cây đa đại-thu, và cũng không
đề-cập đến áo choàng cùng với đèn chầu.
2.- Thư tin song-ngữ “Églises d'Asie” của các
Hội Truyền-Giáo Ngoại-Quốc tại Paris, chuyên về Á Châu, cũng có tầm-vóc quốc-tế,
đã không đề-cập đến việc “Đức Mẹ xuất-hiện” mà chỉ mô-tả cảnh tín-đồ Ky Tô Giáo
hội họp để cầu-nguyện ở đó, với “bức tượng” của Đức Mẹ, và nói rõ là tượng ấy
được đặt trên cành cây -- những chi-tiết không thấy có trong các “tài-liệu”
khác. Không có Chúa Hải-Đồng và hai thiên-thần, là những chi-tiết được xem là
quan-trọng nhất trong lần hiện ra đầu tiên.
3.-Trần Văn Trí trên báo “Thằng Mõ”, căn-cứ
vào Lm Nguyễn Văn Ngọc, thì xác-nhận rằng Đức Mẹ hiện ra lần đầu (“bỗng nhiên họ
thấy”) không phải trên cành, mà là gần (bên cạnh) cây đa.
4.- Nguyễn Lý Tưởng trên báo “Mẹ Việt-Nam” thì
khẳng-định rằng dân La Vang đã tụ họp ở đó để cầu nguyện trước khi họ nghe nói
rằng xưa kia có một Bà Linh-Thiêng xuất-hiện ở đó, và do nghe nói như thế họ mới
đắp cái “nền vọng” dưới gốc cây đa. Ngoài ra, bài viết không đề-cập đến Chúa
Hài-Đồng và hai thiên-thần, là những chi-tiết tiêu-biểu hầu-như-không-thể-thiếu
cho sự-tích này.
5) Báo “Saigon USA” thì đề-quyết rằng Đức Mẹ
hiện ra gần gốc cây đa. Bài viết rất dài, tỷ-mỷ, nhưng lại không đả-động gì đến
Chúa Hài-Đồng và hai thiên-thần, mà đáng lẽ phải được kể ra, nếu có, vì đó là
những điểm chính quan-trọng hơn mọi nét tả linh-tinh khác.
C.- Ý-KIẾN:
1.- Theo báo “Églises d'Asie” thì (kể từ đời
Cảnh Thịnh) mãi cho đến cuối thế-kỷ 19 mới có một nhà thờ được dựng lên. Nhưng
theo Nguyễn Lý Tưởng trong “Linh-Địa La Vang” trên báo “Mẹ Việt-Nam” số 102 thì
ngay từ “khoảng đầu đời Minh Mạng (1820-1840= đầu thế-kỷ 19) ba làng đồng-thuận
nhường chỗ đó lại cho bên Công Giáo... và cha xứ đã cho sửa-sang nơi đó thành
một nhà thờ bằng tranh. Đây là ngôi nhà thờ đầu tiên tại La Vang.”
2.- Các tác-giả viết về “sự xuất-hiện của
Đức-Mẹ tại La Vang”, vì muốn tô vẽ thêm cho sự-tích tăng phần khả-tín mà lại chỉ
căn-cứ vào cổ-truyền, lời đồn (nghe nói), đồng-thời dựa vào ấn-tượng và
tưởng-tượng cá-nhân, một chiều, cho nên thiếu cơ-sở trung-thực, khiến mâu-thuẫn
nhau, làm cho người đọc thấy sự bịa-đặt rõ-ràng.
3.- Khi mà chính sự hiểu biết của giám-mục tên
tuổi Hồ Ngọc Cẩn còn bị linh-mục Lê Thiện Bá (cả hai đều có gốc-gác Quảng Trị)
bác bỏ, và cứ như thế, thì làm sao mà người đọc có thể tin được các tác-giả khác
trong cùng đề-tài, khi mà chính họ không hề đích-thân trực-tiếp tiếp-cận với các
sự-việc hoặc bằng-chứng chính-xác về sự-việc lúc đang xảy ra của sự-tích
“lịch-sử” này?
4.- Tóm lại, ngay chính báo “L'Osservatore
Romano” cũng đã đưa ra kết-luận, liền sau đoạn viết về sự xuất-hiện của Đức Mẹ
tại La Vang: “Tiếc thay, hiện nay không có một tài-liệu viết nào viết về
những lần Đức Mẹ hiện ra: những tài-liệu ấy có lẽ được lưu-trữ ở Huế và đã bị
tiêu-hủy trong hai cuộc chiến địa-phương, năm 1833 dưới thời Minh Mạng, và năm
1861 dưới thời Tự Đức”* (hơn một thế-kỷ trước khi có lễ “kỷ-niệm 200 năm”
này, là dịp để các tác-giả kể trên tha-hồ đặt điều, phịa chuyện).
CHÚ-THÍCH
1.- Nguyễn Lý Tưởng trong bài “Linh-Địa La
Vang” trên báo “Mẹ Việt-Nam” đã viết: “Lm Stanilas Nguyễn Văn Ngọc đã trích
dẫn một đoạn trong bức thư của Lm Lôrensô Lâu, ở vùng Dinh Cát (Quảng Trị) đề
ngày 17-2-1691 gởi về Roma”: Như thế rõ-ràng là các báo-cáo từ vùng Dinh Cát
(gồm có La Vang) đã được gởi về thấu tận Roma từ hơn một thế-kỷ (1691-1798)
trước khi có vụ gọi là “Đức-Mẹ Hiện Ra Tại La Vang; và Trần Văn Trí trong bài
“Tinh-Thần La Vang” trên báo “Thằng Mõ” cũng đã viết: “Vài Nét Lịch-Sử Về
La-Vang: 1717-1739: xảy ra một số xáo trộn mà Tòa Thánh phải trực-tiếp can-thiệp...”
Đây cũng là một bằng-chứng nữa rằng Roma đã theo dõi sít-sao tình-hình cộng-đồng
Ky Tô Giáo tại La Vang hơn năm thập-niên (1739-1798) trước vụ gọi là Đức-Mẹ Hiện
Ra Tại La-Vang. Tất-nhiên, ai nấy đều thấy: sở-dĩ hiện nay không có tài-liệu
viết về vụ này lưu-trữ tại Vatican, chỉ vì một lý-do quá đơn-giản: Đức Mẹ Không
Hề Hiện Ra Tại La Vang.
2.- Nguyễn Lý Tưởng còn viết: “Năm 1886 Đức
Giám-Mục Caspar ở Huế mới quyết-định xây nhà thờ bằng gạch... phải mất 15 năm
mới hoàn-thành. Đại-Hội Đức-Mẹ La Vang lần thứ I và khánh-thành nhà thờ vào các
ngày 6, 7 và 8 tháng 8 năm 1901.” Vậy thì trong suốt thời-kỳ 15 năm này (từ
1886 đến 1901, hơn 88 năm sau vụ gọi là “Hiện Ra” vào năm 1798, và ít nhất là 25
năm sau lần “tài-liệu bị tiêu-hủy dưới thời Tự Đức” vào năm 1861) tại sao không
có người nào tìm ra được một tài-liệu nào khả-tín, nếu có, về sự xuất-hiện của
Đức Mẹ tại La Vang?
*
* *
Vấn-đề bây giờ là: những chi-tiết mới được
thêm-thắt trong các bài viết dẫn trên, nếu không được làm sáng tỏ, thì hẳn là sẽ
bị sử-dụng như là “tài-liệu căn-bản”, “bằng-chứng lịch-sử” để tiếp-tục
lưu-truyền Sự Giả (nghịch với Sự Thật) cho các thế-hệ con cháu của chúng ta
trong tương-lai.
Mỗi học thuyết, mỗi tôn giáo, đều có một luận
thuyết tác hưởng đến người tín đồ, cho dù là tập quán tín ngưỡng nhân gian, cũng
có thể thay đổi phong cách cả một quốc gia, một khu vực, ví dụ Khổng giáo đối
với dân tộc Á châu, Hồi giáo đối với Apganixtan sau khi xóa sạch PG, Kitô giáo
đối với những quốc gia bị xâm thực, PG đối với Thái Lan, Miến, Sri-lanka…
Tín ngưỡng nhân gian là sản phẩm phát sanh từ
những đối hệ trong đời sống. Tôn giáo là một tín ngưỡng được nâng cấp có hệ
thống, có triết thuyết, có giáo điều, có tín lý, có giáo chủ và có tổ chức. Các
tổ chức Thần học là đặc trưng cho một tôn giáo. PG, Khổng, Lão tuy không đủ tiêu
chuẩn của một tôn giáo, chỉ là một học thuyết cho một nghệ thuật phát triển tâm
thức, vẫn được quy kết là tôn giáo, vì trải qua thời gian, do niềm tin của quần
chúng, Tam giáo phải chuyển mình vào một mô thức cho thích hợp, vì vậy biến
thành một tổ chức, một giáo hội, một nghi thức có nghi lễ, có giáo chủ, có giáo
lý, tuy không có tín điều, không có giáo quyền và nhất là không có một Thượng
đế! Đó là cái khác nhau cơ bản giữa Tam giáo và các tôn giáo Thần học, thế mà
chủ trương của Rome muốn lồng Kitô giáo vào Tam giáo như một khuôn đúc sẳn của
Thượng đế đề trong vài thế kỷ, Kitô giáo sẽ đồng hóa và thay thế tất cả những
tôn giáo, những tín ngưỡng tại Châu Á bằng một nền Thần học xa lạ đối với các
dân tộc đó, vì họ bảo rằng, Thượng đế đã sản sanh ra những nền tín ngưỡng tiền
đạo để dọn đường đón nhận đức tin Thượng Đế, trong chiều hướng di dời giáo đô
tại Ý, VN được chọn làm vùng đất thánh lý tưởng cho những thế kỷ sắp tới, Hồng y
Thuận cũng có thể ‘được chọn’ làm Giáo hoàng kế vị, tuy VN chiếm 5% dân số tin
theo Chúa.
Trong Tam giáo tại Á châu, có một đặc tính
chung: - không bảo thủ, cố chấp, không kiêu ngạo, không có tinh thần bạo lực, có
bản chất nhân ái thực sự, và mang tính triết lý không phản khoa học. Nhờ những
đặc tính đó mà thâm nhập vào bất cứ quốc gia nào, dân tộc nào cũng hài hòa và
không để lại vết thương bạo lực, nhất là vẫn duy trì những tín ngưỡng bản địa,
không xóa sạch những tập quán của địa phương và không gia công truyền đạo. Tam
giáo un đúc cho dân tộc một tinh thần khiêm tốn nhưng kiên cường, một lòng ái
quốc tột đỉnh nhưng hiếu hòa, đó là đặc tính chung ở những quốc gia thấm đượm
nền văn hóa Tam giáo như VN, Nhật Bản, Trung Hoa, Triều Tiên… và nếu là một quốc
gia thuần túy PG như Thái, Miến, Lào, Srilanka, Campuchea…bản sắc dân tộc có một
nét riêng tư dể nhận, cá tính nhân hậu, không khát máu hận thù, không thủ đọan
xâm lược.
Tinh thần bất bạo động của PG, bị một số quá
khích không chấp nhận, nhưng nếu là bạo động như một số tôn giáo cực đoan, chắc
chắn nhân loại càng khổ hơn vì tôn giáo, lịch sử chiến tranh hủy diệt sự sống,
tôn giáo cực đoan góp phần không nhỏ cho công trạng mở mang nước Chúa và vì một
Thượng đế được vinh danh. Giáo Hòang đương nhiệm có lý khi bảo PG là vô thần
trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng, nhờ không sùng phụng một thần
tượng mà PG không làm đổ máu anh em như Tin Lành và Kitô giáo La mã, như Kitô
giáo và Hồi giáo! PG chấp nhận bị triệt tiêu tại Ấn Độ, quê hương của Đức Phật
khi Hồi giáo xâm chiếm, sát hại. Đại học Nalanda trên mười ngàn tăng sinh và
giáo thọ sư bị thiêu đốt và cơ sơ vật chất cháy suốt mấy tháng liền, triệt hạ
một số thánh tích và xóa sạch nền văn hóa PG trong đời sống nhân dân; mà mãi đến
ngày nay PG tại Ấn Độ vẫn chưa phục hồi sức lực; gần đây, tại Thái Lan, Hồi giáo
cũng sát hại năm nhà sư mà PG Thái không hề phản ứng, tại VN, Kitô giáo cũng để
lại nhiều vết thương lịch sử đối với PG khi những thừa sai tháp tùng theo gót
chân xâm lược của Pháp, một sô cơ sở và chùa cũng bị chiếm đọat làm tài sản của
hội thánh mà PG không hề chống đối. Phải chăng, những nhân cách từ bi, bất bạo
động đó được ươm mầm từ giáo lý, những giáo dục chân thật từ vị giáo chủ vị tha
thật sự ! Với những phản ứng đương nhiên của con người, PG vẫn im lặng trước sự
mạ lỵ, xuyên tạc từ những giáo sĩ Kitô giáo, Đức Phật bị xem như quỷ thần ngọai
đạo mà PG cũng chả hề phủ bác thanh minh, ngoại trừ vài học giả lên tiếng vì tôn
trọng sự thật, Đức Phật đến để Khai Thị Chúng Sanh Ngộ Nhập Phật Tri Kiến chứ
không phải mang gươm đao và chiến tranh cho nhân loại.
Lão giáo giúp con người có một phong thái vượt
thóat an nhiên trước cuộc đời phiền trược, Khổng giáo đem lại trật tự an lành
cho một xã hội tôn ti, PG cho con người thấy rõ thực chất của cuộc sống, cung
ứng cho nhân loại một hướng giải quyết ngay trong thực tại mà không hứa hẹn một
thế giới viễn tưởng, Tam giáo đưa con người trở về nội tâm nên không phạm phải
sai lầm tôn sùng ngẩu tượng, nô lệ cho bất cứ thần quyền hay tập đòan giáo sĩ ;
Tam giáo không được lãnh đạo bởi một hội thánh nên không mù quáng vâng phục và
hiếu chiến, không bôi bác, xuyên tạc lẫn nhau.
Gần đây, dư luận phản ứng trước vấn đề hình
Phật in trên đồ lót, trong cộng đồng PGVN lên tiếng qua loa, nếu là Hồi giáo,
vấn đề sẽ không dừng lại ở đó, PG không lên tiếng, càng tốt, vì đó là động thái
của những người không bình thường, trò trẻ con của những tâm địa hẹp hòi được
giáo dục bởi một giáo thuyết xuẩn động, thiếu nhân cách. PG quan niệm: Nhất
thiết hữu vi pháp, như mộng huyển, bào ảnh, vì vậy ảnh tượng chỉ là giả, dù
in trên đồ lót hay trên thập ác cũng vậy thôi, Phật không chỉ ở bàn thờ mà ngay
cả trong nhà xí cũng có Phật, nhục mạ PG như đấm vào hư không, như ngữa mặt phun
nước bọt lên trời. Đối với PG, những hành động như vậy không quan trọng, vì từng
có thiền sư chẻ tượng Phật để sưởi ấm, cái quan trọng là nhân cách của kẻ hành
động, không những nhân nào quả đó mà còn nói lên một ý thức đồi bại đáng thương,
người tín đồ PG không hề hủy báng ngọai đạo, vì Đức Phật không dạy đệ tử lòng
ganh tỵ căm thù, nhân cách của một Phật tử thể hiện tính độ lượng, trượng phu
của vị giáo chủ mình, phải chăng kẻ thực hiện hủy báng đó đã thể hiện một
nhân cách tôn giáo của mình một cách rõ nét? Tại sao chúng ta phải nói như
vậy, vì không một nhà kinh doanh nào điên dại làm chuyện đó, các nhà chính trị
làm như thế để được gì! Cổ nhân đã dạy: nhìn trò biết thầy, chả lẽ nhân cách tôn
giáo không ra khỏi chiếc quần lót cho dù mọi sự cũng từ đồ lót mà ra. Ngày nay
nhân lọai văn minh nên có đồ lót, ngày chúa bị nạn chỉ có chiếc khố che thân.
Ngoài ý tưởng mạ li, nếu thánh hóa chiếc quần lót như vậy, kẻ đó xem mọi sự
không hơn chiếc quần lót, nghĩa là vạn vật vũ trụ do chúa tạo ra vẫn thua cái đồ
lót đàn bà.
Rất tiếc một đất nước gọi là văn minh, có luật
pháp nghiêm minh, tôn trọng tự do, kể cả tự do xúc phạm, giá trị con người đi về
đâu khi mà sự sống bị đe dọa bởi bạo lực, bởi sa đọa cuồng tín, mạnh được yếu
thua, hay đó là động thái dãy dụa trước cơn hấp hối của một nền thần học vong
bản một nhân cách tôn giáo thời tiền sử rút lui khỏi mãnh đất một thời thao
túng! để các giáo thuyết nhân bản phương Đông đáp ứng khát vọng của dân trí ngày
một thực tế hơn của khoa học tiến bộ, cái thực tế của Tam giáo không phải cái
thực dụng của duy vật phương Tây, cũng không là hiện sinh của Jean Paul Sartre,
mà là cái nhìn và cách sống chân thật từ nội tâm đối với hiện tượng ngọai giới.
Xã hội Phương Tây thực sự thay ngôi đổi chủ, trước khi hoán chuyển ngôi vị,
họ phải làm cái gì đó để nhớ đời, không dùng bạo lực của thời Trung cổ nữa mà
trí óc trong cơn điên dại, không nghĩ xa hơn chiếc quần lót, làm sao đủ trí tuệ
cứu rỗi nhân lọai, liệu Á châu có là mãnh đất mầu mở xây nền móng thần học, hay
VN sẽ là mãnh đất chôn vùi bao học thuyết ngọai xâm như lịch sử đã minh chứng