HỦY DIỆT NỀN VĂN MINH NHÂN LOẠI VÀ
NHỮNG THÀNH TÍCH TÀN SÁT LƯƠNG DÂN
Chương sách này nói về chủ trương và thành
tích hủy tích diệt nền văn minh nhân loại cùng với thành tích tàn sát lương
dân thuộc các tín ngưỡng khác và những người bị Giáo Hội nghi ngờ là không
tuyến đối tin tưởng vào hệ thống tín lý Ki-tô và tuân hành lệnh truyền của
Giáo Hội.
Trường hợp cắt đầu xảy ra ở Croatia năm 1943 (hình tài
liệu trong http://www.reformation.org/holoc7.html, CATHOLIC FRIARS, PRIESTS, EXECUTIONERS, BISHOPS AND MURDERERS
I.- CHỦ TRƯƠNG HỦY DIỆT CÁC NỀN VĂN MINH VÀ CÁC TÔN GIÁO KHÁC
Chủ trương của Giáo Hội La Mã là hủy diệt
nền văn minh nhân loại và tàn sát những người thuộc các tín ngưỡng khác để
thay thế vào đó bằng cái mà Giáo Hội gọi là “Nền Văn Minh Thiên Chúa Giáo”
trong đó tất cả mọi người phải được“Ki-tô hóa” và nằm dưới quyền chỉ huy của
Tòa Thánh Vatican. Chủ trương này bắt ngưồn từ các sách Phục Luật, Xuất
Hành, Leviticus (26:1-18), v.v..trong Cựu Ước Kinh. Thí dụ như sách Phục
Luật và sách Xuất Hành đều ghi rõ những điều dưới đây:
"Phá sạch những nơi thờ thần của họ
(Thánh Kinh Tin Lành dùng cụm từ “chúng nó” thay cho “họ") trên núi cao,
trên đồi, dưới bóng cây xanh. Đập tan bàn thờ, đâp vụn cột đền, lấy lửa đốt
rụi hết các tượng của họ. Đục khoét cho mất hết mọi hình chạm trổ các tượng
thần của họ, * và xóa tên những thần ấy ở những nơi đó." (Phục Luật 12:2-3).
"Phải giết những kẻ tiên tri nào dám nhân danh các vị thần khác mà nói (Phục
Luật 18:20). Chớ theo những vị thần của các dân tộc ở chung quanh các ngươi
(Phục Luật 6:14). Phải dứt khoát giết những người đi lễ (bất kỳ) vị thần nào
khác ngoài Giê-hô-va (Xuất Hành 22:20).
Và trong sách Leviticus (26:1):
"Các ngươi không được tạo ra những hình
tượng nào để sùng bái cho chính các ngươi; các ngươi cũng không được khắc
chạm một hình ảnh nào hay dựng nên một trụ cột thiêng liêng nào để nâng cao
cho chính các ngươi; ở trong vùng các ngươi cư ngụ, các ngươi cũng không
được dựng nên một hòn đá nào có khắc chạm để cúi đầu nghiêng mình trước nó;
vì rằng Ta là Thượng Đế của các ngươi.” (You shall not make idols for
yourselves; neither carved image nor sacred shall you rear up for
yourselves; nor shall you set up an engraved stone in your land, to bow down
to it; for I am the Lord you God).
Xin xem lại Chương 1.
Ông Charlie Nguyễn viết về chủ trương hủy
diệt nên văn minh nhân lọai của Giáo Hôi La Mã như sau:
"Thực chất Công Giáo cũng không phải là
Ki-tô Giáo (Christianity) vì đế quốc La Mã đã ra sức tiêu diệt Ki-tô Giáo
rất ác liệt trong hơn 3 thế kỷ đầu Công Nguyên. Từ năm 325 đến cuối thế kỷ
4, đế quốc La Mã lập ra đạo mới là đạo Công Giáo (Catholicism) trên xác chết
của Ki-tô Giáo nguyên thủy bằng cách tiêu diệt các giáo phái Ki-tô còn sót
lại dám chống Công Giáo. Đồng thời chúng hủy diệt các dấu tích thật về Chúa
Jesus còn sót lại ở Jerusalem, ngụy tạo Thánh Kinh, xuyên tạc lịch sử, đốt
phá các thư viện và đốt các sách thuộc văn minh nhân bản Hy Lạp. Sỡ dĩ đế
quốc La Mã phải diệt nền văn hóa nhân bản Hy Lạp vì nền văn hóa này hoàn
toàn đi ngược lại bản chất phi nhân bản (inhumanity) của Công Giáo La Mã do
chúng mới thành lập. Tội ác tiêu diệt văn hóa Hy Lạp của đế quốc La Mã đã
làm cho nền văn minh của nhân loại bị chậm lại cả ngàn năm. Từ năm 325 trở
đi, đế quốc La Mã không hề ngược đãi Công Giáo mà chỉ lo củng cố và bành
trướng tôn giáo này mà thôi vì Công Giáo là con đẻ của đế quốc. Đến thế kỷ
5, sự tiêu diệt nền văn hóa nhân bản cổ xưa của Hy Lạp gần như hoàn toàn đến
nỗi tổng Giám mục Chrysotom phải khoe rằng: "Mọi dấu vết về triết học và văn
chương của thế giới cổ đã bị xóa sạch khỏi mặt đất" (Every trace of the old
philosophy and literature of the ancient world has vanished from the face of
the earth – Bible Myths by Doane p. 436)."
[1]
Trên đây là nói về chủ trương, tức là cái
tư tuởng huỷ diệt các nên văn minh và tôn giáo khác cùng những nhóm dân dân
không phải là Ki-tô giáo. Phần dưới đây sé nói về những rặng núi tộ ác của
Giáo Hội trong nỗ lực huỷ diệt các nền văn minh và các tôn giáo khác.
II.- THÀNH TÍCH HỦY DIỆT NỀN VĂN MINH NHÂN
LOẠI
Tư tưởng biến thành hành động. Phần trình
bày trong Mục I trên đây là nói về cái tư tưởng độc ác của Giáo Hội La Mã
muốn “diệt tận gốc, trốc tận rễ” tất cả các nền văn minh và các tôn giáo
không phải là Ki-tô giáo để nắm quyền bá chủ toàn cầu hầu cưỡng bách tất cả
các dân tộc trên trái đất này phải theo đạo Ki-tô và nằm dưới ách thống trị
của Tòa Thánh Vatican. Mục II này sẽ nói về những nỗ lực Giáo Hội La Mã để
thể hiện cái chủ trương (tư tưởng) độc ác trên đây thành những hành động cụ
thể với những thành tích hủy diệt tất cả các công trình kiến trúc cùng tất
cả các di sản văn hóa của các nền văn minh và các tôn giáo khác không phải
là Ki-tô giáo.
Nói đến thành tích hủy diệt nền văn minh
nhân loại và thành tích giết người cướp của của Giáo Hội La Mã, có thể nói
là phải dùng đến mấy chục ngàn trang giấy cũng chưa đủ để viết cho hết. Vì
giới hạn của chương sách này, người viết chỉ nêu lên một số tài liệu nói về
một số những trường hợp mà Giáo Hội đã tàn phá các công trình kiến trúc và
các di sản văn hóa của các dân tộc chẳng may bị quân đội thập ác của Giáo
Hội tiến đến. Hy vọng rằng, sau khi đọc những tài liệu lịch sử này, độc giả
có thể căn cứ vào đó mà suy ra và nhìn ra bộ mặt thật ghê tởm của Tòa Thánh
Vatican.
Một trong những trường hợp này được sách
The Dark Side Of Christian History ghi lại sự kiện này với nguyên văn như
sau:
“Giáo Hội đốt không biết bao nhiêu là
tác phẩm văn chương. Năm 391, tín đồ Ki-tô giáo đã đốt những thư viện lớn
nhất trên thế giới ở Alexandria (Ai Cập) trong đố có tới 7000 ngàn cuốn
sách. Tấc cả những sách này là của Gnostic Basilides, 36 quyển của Porphtry
rất nhiều cuộn của 27 trường phái Mysteries và 270 ngàn tài liệu do Ptolemy
Philadelphus thâu thập được cũng đề bị đốt hết. Những hàn lâm viện cổ xưa để
học hỏi đều bị đóng cửa. Mọi vấn đề giáo dục cho những người ngoài Giáo Hội
đều bị chấm dứt. Nguyên văn: “The Church burned enormous amounts
of literature. In 391, Christians burned down one of the world’s greatest
libraries in Alexandria, said to have house 700,000 rolls. All the books of
the Gnostic Basilides, Porphtry’s 36 volumes, papyrus rolls of 27 schools of
Mysteries, and 270, 000 ancient documents gathered by Ptolemy Philadelphus
were burned. Ancient academies of learning were closed. Education for anyone
outside of the Church came to and end.”[2]
Trong cuốn Công Giáo Chính Sử, Giáo sư
Trần Chung Ngọc dịch nguyên vản mấy đọan văn trong cuốn Deceptions And Myths
Of The Bible (Secaucus,
N.J: Carol Publishing Group, 1975) nơi trang 444-447)
nói về thành tích của Giáo Hội La Mã về việc tàn sát hàng triệu người thuộc
các tôn giáo khác và hủy diệt công trình văn hóa và văn minh của các dân tộc
nạn nhân này ở Âu Châu và ở vùng Trung Đông trong thời Trung Cổ như sau:
"Sự hủy diệt mọi chứng tích về phái Tự
Ngộ và những nguồn tài liệu về đa thần là "việc làm đầu tiên" của Kitô Giáo.
Chính các nhà truyền giáo đã khởi sự ở Antioch như được nói đến trong sách
"Công Vụ Các Sứ Đồ" (Acts) Do lệnh của Giáo Hội Gia-tô La Mã, tất cả kinh
sách của những người ủng hộ phải Tự Ngộ đều bị đốt, cũng như 36 cuốn của
Porphyry (Porphyry là một triết gia (232-305) có chủ trương cho rằng triết
lý là phương tiện giải thoát và nhấn mạnh đến lối tu khổ hạnh để tinh khiết
hóa con người; TCN) Giáo Hoàng Gregory VII (1073-1085) đốt thư viện Apollo
chứa đầy kiến thức cổ xưa. Hoàng Đê Theodosius [Roman Emperor (379-395)] đốt
sạch 27 ngàn tài liệu về học phái huyền bí vì những tài liệu này chứa những
căn bản giáo lý của Ngũ Kinh.
Sự hủy diệt văn hóa này vãn tiếp tục sau
khi những nhà lập giáo đã qua đời. Những tín đồ cuồng tín mà họ đào tạo ra
tiếp tục công việc này: Thập tự quân (trong các cuộc chiiến Thập Tự kéo dài
từ năm 1095 đên năm 1291 - NMQ) đốt tất cả các sách vở mà họ có thể kiếm ra
được, kể cả những cuốn nguyên bản thánh thư Do Thái. Năm 1233, những tác
phẩm của Mainmonides (một triết gia Do Thái xuất sắc, 1135-1204; TCN) bị đốt
cùng với 12 ngàn cuốn của Kinh Talmud (Thánh Kinh của Do Thái Giáo; TCN).
Năm 1244, 18 ngàn cuốn sách đủ loại bị hủy. Theo Draper, Hồng Y Ximenes đã
đốt 80 ngàn bản văn của Ả Rập ở Công Trường Granada. Ở Tân Thế Giới (Mỹ
Châu), toàn bộ kiến thức cổ xưa bị người Kitô Tây Ban Nha phá hủy cùng với
đền đài chứa đựng kiến thức này.
Sau khi phá hủy mọi chứng tích, các nhà
lập giáo Kitô đầu tiên đã có thể thay thế những kiến thức cổ xưa này bằng
những điều vô nghĩa của họ. Và để chứng minh những điều vô nghĩa này, họ đã
thay đổi lời lẽ và gài vào đó những câu không có trong những nguyên bản, ...
Về cùng một chủ đề này, Massey viết như sau:
"Trong bốn thế kỷ đầu, họ đã hủy bỏ những
tài liêu quan trọng nhất về mọi sự hiểu biết trung thực về nguồn gốc thực
của sự mê tín trong Kitô Giáo. Những huyền thoại được viết và in ra như là
lịch sử nhân loại, mọi tư tưởng khác đều bị dẹp bỏ hay cưỡng bách phải chấp nhận sự gian dối."
(Lloyd. M Graham, Deceptions And Myths of the Bible, trang 444-445)
"Theo giáo lý của họ thì "máu của Chúa
Kitô đã rửa sạch tội lỗi của thế giới," nhưng tội lỗi vãn còn với chúng ta
ngày nay. Cái mà thực sự bị rửa sạch chính là sự lành mạnh của thế giới. Với
thời gian, giáo lý của họ đã làm tâm thức Tây Phương đau đớn đến nỗi Agibard
ở Lyons phải viết như sau:"Cái thế giới bất hạnh này dưới sự chuyên chế điên
rồ, những điều mà người Kitô giáo tin, thực ra là những điều vô nghĩa đến độ
từ xưa tới nay không ai có thể làm cho người ngoại đạo tin được." Nếu độc
giả không tin và muốn có một thí dụ thì chúng tôi xin cống hiến một chuyện
trong Kitô giáo vè Thánh John trong Phúc Âm. Theo lịch sử các Thánh thì
John, khi đã rất già, làm cho Hoàng Đế Domitian nổi giận. Để trừng phạt
John, Domitian sai người ném John vào một cái vạc chứa dầu và nhựa thông. Và
khi người ta châm lửa ,dầu bắt đầu sôi thì đám đông ở ngoài nghe thấy một
tiếng hát trong ngọn lửa. Khi vạc dầu sôi cạn hết thì John vẫn còn sống và
không hề hấn gì. Jerome, Eusebius, Tertullan, tất cả đều kể lại cái phép lạ
này và những điều hoang tưởng trong đó. Và nay, nếu những tin đồ Kitô xuất
sắc có thể tin được sự vô lý này thì họ có thể tin bất cứ cái gì, ngay cả
Thánh Kinh."
(Lloyd. M Graham, 447-448. [3]
Sách lược lấn chiếm tiếm quyền và chủ
trương hủy diệt nền văn minh nhân loại của Vatican được thể hiện qua các
chính sách đối ngoại cũng như đối nội của Giáo Hội.
Về chính sách đối nội,
chúng ta thấy năm 1232, Giáo Hội cho thiết lập các Toà Án Dị Giáo để xét xử
và tiêu diệt những thành phần nằm dưới ách thống trị của Giáo Hội bị nghi
ngờ hay bị gán cho là không tin theo hệ thống lý thuyết thần học quái đản
của Giáo Hội. Các Toà Án ác ôn này hoành hành ở nước Pháp cho đến khi Cách
Mạng bùng nổ vào năm 1789 mới chấm dứt. Trong khi đó thì ở Tây Ban Nha và
các thuộc địa của đế quốc này, nó vẫn còn tác oai tác quái cho đến năm 1820.
Sau thời điểm này, các Tòa Án ác ôn này lột xác biến thành Thánh Bộ Truyền
Giáo và các chế độ đạo phiệt Gia-tô do Giáo Hội thiết lập tại các địa phương
như ở Tây Ban Nha và Croatia trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, ở Nam Việt Nam
trong những năm 1954-1975 và ở Rwanda (Phi Châu) vào năm 1994.
Về chính sách đối ngoại,
Giáo Hội thi hành sách lược
"cáo đội lốt hùm" theo đó thì Giáo Hội luôn o bế, liên minh hay
cấu kết chặt chẽ với các thế lực hùng mạnh đương thời để "dựa hơi"
với dã tâm "theo đóm ăn tàn" hay "theo voi ăn bã mía"
rồi "mượn gió bẻ măng" để hủy diệt các tôn giáo cùng các nền
văn hóa cổ truyền và nền văn minh của người dân bản địa. Phần trình bày dưới
đây sẽ cho chúng ta nhìn thấy rõ một số những thành tích của Giáo Hội về
những tội ác hủy diệt nền văn minh nhân lọai từ thời Trung Cổ cho đến ngày
nay.
Tiếp theo những thánh chỉ được ban hành
trong thế kỷ 15 như đã trình bày ở chương trước, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha
được Giáo Hội khích lệ đem quân đí chinh phục Tân Thế Giới cùng lục địa phi
Châu và nhiều nơi khác ở Á Châu. Trong những đòan quân thập tự viễn chinh
này đều có rất nhiều giáo-sĩ Gia-tô cùng đi để vừa làm nhiệm vụ đưa đường
dẫn lối, vừa giữ vai trò chỉ đạo thiết lập chế độ đạo phiệt Gia-tô tại các
vùng vừa mới chiếm được để thi hành kế họach Ki-tô hóa và với chủ trương "diệt
tận gốc, trốc tận rễ" tất cả các công trình văn hóa và văn minh của các
dân tộc bản địa. Hậu quả là ở đâu có gót giầy của các đoàn quân thập tự Tây
Ban Nha hay Bồ Đào Nha là ở đó hiện lên cảnh hoang tàn đổ nát, đền, đài,
miếu tự, dinh thự và tất cả những gì thuộc về văn minh và văn hóa cổ truyền
của các dân tộc bản địa đều bị tiêu hủy, nhà cửa bị thiêu rụi, đàn ông bị
sát hại, đàn bà con gái bị hãm hiếp. Ông Charlie Nguyễn ghi lại thảm trạng
này ở Châu Mỹ La Tinh như sau:
"Trong mục tiêu bành trướng lãnh thổ và
cướp đọat vàng bạc của cải làm giầu cho Tòa Thánh, Giáo Hoàng Alexander VI
(1492-1503) giao độc quyền khai thác vùng đất do Columbus khám phá (tức Châu
Mỹ) cho hoàng gia Tây Ban Nha vào năm 1503. (Ngày 4 tháng 5 năm 1503, Giáo
Hoàng Alexander ký sẵc lệnh Inter Catera, sắc chỉ này về sau được dùng làm
căn bản cho việc triển khai quyền sở hữu về Tân Thế Giới (New World).
Năm 1519, hoàng gia Tây Ban Nha sử dụng
một tên du thủ du thực 35 tuổi, chuyên tìm vàng là Herman Cortez làm tướng
chỉ huy một hạm đội gồm 11 chiến thuyền, 10 đại bác và 600 binh sĩ cùng với
một đoàn tu sĩ Phan-xi-cô do Giám-mục Diego de Landa lãnh đạo lên đường
chinh phục Châu Mỹ. Tháng 3 năm 1519, đoàn quân này đổ bộ vào Vịnh Tabasco.
Tháng 5 năm 1519, chúng chiếm thành phố Cholula và phá hủy 400 kim tự tháp
tại đây. Năm 1521, chúng chiếm Tenchitlan và hoàn tất cuộc xâm lăng Mexico
(mễ Tây Cơ).
Trước khi tiến chiếm thành phố lớn nhất
của Mexico thời đó là thành phố Montezanur, chúng đột nhập vào các nhà tù,
phóng thích tù nhân và dụ họ hợp tác dẫn đường trong thành phố, những sau
khi thành công, bọn chúng giết hết đám tù nhân đã giúp chúng. Giám-mục lãnh
đạo tinh thần của đoàn quân xâm lược này là Giám Mục Diego de Linda chủ
trương đốt sạch để xóa bỏ mọi vết tích của nền văn minh cổ đại của người Da
Đỏ.
Trong các đền thờ xây cất tương tự như Kim
Tự Tháp của các dân tộc Aztec, Toltecs và Maya, thường có nhiều tượng và đồ
vật trang sức bằng vàng. Bọn thực dân đem nấu chẩy thành vàng khối chở về
Tây Ban Nha. Các thứ còn lại chúng đều phá hủy hoặc đốt cháy thành than.
Trong số các Kim Tự Tháp có một cái gọi là đền thờ Tepanapa cao tới 60 mét,
mỗi cạnh rộng 300 mét, lớn gấp đôi Kim Tự Tháp Cheop của Ai Cập, hiện trên
đỉnh của nó là nhà thờ "Đúc Mẹ Đồng Trinh".
Năm 1843, nhà khảo cổ Mỹ John Lloyld Stephen
viết sách kể chuyện ông đã tìm được dấu vết của 44 thành phố thuộc văn minh
Maya bị thực dân Tây Ban Nha phá hủy. Ông đã tìm được một pho sách cổ của
dân tộc Maya gồm hàng ngàn bản gỗ có ghi chữ tượng hình (pictograph) nhưng
đều bị cháy thành than. Nhiều tấm bia đá có khắc hình và chữ bị đập vỡ vất
xuống đáy hồ. Hiện nay, các nhà khảo cổ chỉ tìm lại được rất ít tượng đồng
và tượng đá của văn minh Maya. Người Maya đã đạt được trình độ cao trong
việc sản xuất đồ gốm và nhiều loại nữ trang rất đẹp. Theo các nhà khảo cổ
ước tính thì nền văn minh Maya đã có từ thế kỷ 12 trước Tây Lịch.
Tội ác của đoàn quân xâm lược dưới sự lãnh
đạo của Giám Mục Diego và Herman Cortez còn được ghi lại trong những cuốn
sách thuộc loại hồi ký của các cha dòng đi theo đoàn quân xâm lược, trong đó
có một số hình ảnh về cảnh chặt tay chặt chân tù binh da đỏ rất dã man.
Nhiều thổ dân trên các đảo thuộc quần đảo Antilles đã bị bọn thực dân tiêu
diệt sạch, không còn một ai sống sót. Theo một số báo cáo của đoàn quân xâm
lược gửi về triều đình Tây Ban Nha vào giữa thế kỷ 16, dân số Mexico
khỏang 15 (mười lăm) triệu người. Nhưng đến đầu thế kỷ 17, chỉ còn 2
(hai) triệu mà thôi. Phần lớn thổ dân đã chết vì nhiễm các loại vi
trùng do thực dân Tây Ban Nha đem từ lực địa Âu Châu qua. Sau khi chiếm được
Mexico, thực dân Tây Ban Nha và tu sĩ nhà thờ lập nên các đồn điền và các
khu khai thác mỏ và biến thổ dân thành nô lệ. Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19,
thực dân đến Phi Châu bắt cóc người da đen đem đến Mỹ Châu khỏang 60 (sáu
mươi) triệu người để tăng cường nhân lực nô lệ cho các đồn điền và hầm mỏ.
Ngay từ những năm đầu của cuộc xâm lược vào Mexico, riêng một mình đã chiếm
250 hec ta đồn điền và làm chủ 200,000 (hai trăm ngàn) nô lệ da đỏ."
[4].
Thảm trạng của dân Da Đỏ ở Mỹ Châu cũng
được ông Phạm Quốc Sử ghi lại như sau:
"Bởi thế, việc Christopher Columbus rồi
Amerigo Vespucci đến Châu Mỹ cũng chính là sự khởi đầu của quá trình người
Châu Âu mang những tai họa thảm khốc đến cho châu lục này. Cụ thể chỉ sau
mấy năm đầu thống trị của thực dân Tây Ban Nha, hơn một triệu cư dân bản địa
trên quần đảo Antilles thuộc vùng biển Caribbean đã bị tiêu diệt gần hết.
Khi tiến đánh Mexico, thực dân Tây Ban Nha đã thẳng tay phá trụi tất cả
những công trình văn hóa cổ xưa và tiêu diệt gần hết số dân trong thành
Mexico [8, p 544]. Ở khu vực Nam Mỹ, Francisco Pizarro cùng với băng đảng
gồm 160 thợ săn kho báu người Tây Ban Nha của ông ta, bằng súng thần công và
ngựa, đã dìm toàn bộ nền văn minh huy hoàng của người Inca trong biển máu.
Không chỉ chiếm đất đai, giết người, cướp của và tàn phá nền văn minh Inca,
người Âu Châu còn reo rắc những căn bệnh lạ như bệnh sởi, khiến cho cộng
đồng người Inca bị hủy diệt với tốc độ nhanh chóng. Năm 1520, dân số Inca
có khoảng 32 triệu người, nhưng đến năm 1548 chỉ còn khoảng 5 triệu.
Ngày nay cái tên Inca có lẽ chỉ còn được nhắc đến như một minh chứng về sự
hủy diệt các nền văn minh mà thôi."[5].
Thảm cảnh của người dân Da Đỏ ở Châu Mỹ La
Tinh và người dân bản địa ở Phi Luật Tân sau khi bị Giáo Hội La Mã tàn phá
quê hương của họ được ông Phan Quốc Đông ghi nhận như sau:
"Tôi cũng đã đọc kỹ lịch sử của Giáo
Hội Vatican, tiểu sử của từng vị giáo hoàng, các phương pháp bành trướng tôn
giáo của họ tại các lục địa khác ngoài Âu Châu, phương pháp nào nhanh,
phương pháp nào chậm. Phương pháp nhanh nhất được thực hiện bởi thực dân Tây
Ban Nha tại các xứ thuộc Châu Mỹ La Tinh thật là vô cùng tàn ác. Họ dùng
gươm giết hết những người đàn ông bản xứ, chỉ còn lại toàn đàn bà con gái
thôi, để họ vừa bắt buộc theo đạo, vừa hãm hiếp đồng hóa. Số người bị giết
lên tới mấy chục triệu. Đây là phương pháp truyền đạo của phái bộ
truyền giáo Tây Ban Nha được Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503) hỗ trợ. Đi du lịch ở các xứ này ta chỉ thấy toàn những người lai mà thôi, hầu như
không còn một người bản xứ nào sống sót. Tại Phi Luật Tân, họ cũng
giết hàng triệu người, đập phá toàn bộ các đền thờ cổ, thủ tiêu hoàn toàn
mọi chứng tich của nền văn minh cổ của xứ này. Ngôn ngữ, văn tự, truyền
thống, văn hóa hoàn toàn mất hẳn…" Nhiều tác giả, Đối Thoại Với
Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 1995), tr
339-340.
Tác giả Huỳnh Thu ghi nhận:
“Penny Lernoux viết trong cuốn Tiếng Kêu Than
Của Người Dân (Cry of the People) như sau về sách lược truyền giáo ở Châu Mỹ
La Tinh:
"Từ lúc đầu, xã hội Mỹ - LaTinh được xây
dựng giống như một Kim Tự Tháp, với vài người Âu Châu đến định cư và hưởng
mọi quyền lợi của đế quốc, và quần chúng thổ dân, da đen, giai cấp thấp,
không có một quyền nào. Cái tháp tồn tại được là vì khối nhân dân ở dưới đáy
được nhắc nhở rằng họ ngu si, lười biếng, và thấp kém. Những nhà truyền giáo
ngoại quốc góp phần nhồi vào đầu óc dân bản xứ ý tưởng là họ nghèo và ngu
dốt là do ý muốn của Thiên Chúa. Như Tổng Giám Mục ở Lima dạy các thổ dân
rằng: "Nghèo khổ là con đường chắc chắn nhất đi đến hạnh phúc." (hạnh phúc
sau khi chết.). Người thổ dân hay dân Phi Châu nào mà liều lĩnh nghi ngờ
điều dạy khôn ngoan đó bằng cách chống lại hệ thống đều bị giết ngay.. Giáo
hội Ca-Tô phải gánh rất nhiều trách nhiệm về tình trạng này."
Trần Phong Vũ. “Giiáo Hoàng Gioan Phaolô II, Vĩ Nhân Thời Đại.”
Danchimvietonline. Ngày 9 tháng 12 năm 2005.
Tại Việt Nam, Tòa Thánh Vatican cũng chủ
trương cho thi hành chính sách hủy diệt nền văn hóa cổ truyền của dân tộc
Việt Nam ta, giống như Giáo Hội đã làm ở Âu Châu, ở Trung Đông, ở Châu Mỹ La
Tinh và ở Phi Luật Tân. Nhưng vì trong suốt chiều dài lịch sử từ năm 1862
cho đến ngày 30/4/1975, quyền lực của Gíao Hội La Ma tại đây bị hạn chế bới
chính quyền thực dân Pháp (1862-1954) và chính quyền Hoa Kỳ (1954-1975) cho
nên mức độ hủy diệt nền văn hóa và văn minh bản địa chưa đến độ khủng khiếp
như Giáo Hội đã làm ở Châu Mỹ La Tinh và Phi Luật Tân. Tuy nhiên, qua bọn
tín đồ cuồng tín tay sai người Việt, Giáo Hội cũng đã tiến hành được một số
những hành động man rợ này. Dưới đây là một vài bằng chứng:
1.- Đầu thập niên 1860,
Gíám-muc Puginier sọan thảo một kế hoạch được gọi là Kế Hoạch Puginier nhằm
tiêu diệt giới Nho sĩ Việt Nam và hủy diệt hết tất cả ảnh hưởng của các nền
văn hóa cổ truyền của dân tộc Việt Nam, chỉ dùng người Việt Da-tô vong bản
phản quốc làm tay sai để tiến hành kế họach phi nhân và dã man này
[6]
. Kế họach này bị người Pháp xếp xó và chỉ dùng có phần dùng người Việt đánh
người Việt và sử dụng tín đồ Da-tô trong bộ máy đàn áp nhân dân ta thôi.
2.- Trong những năm 1945-1954,
ngày sau khi được Tòa Thánh Vatican và chính quyền De Gaulle của nước Pháp
bổ nhậm giữ chức Cao Ủy Đông Dương vào ngày 17/8/1945 với nhiệm vụ tái lập
nền thống trị của Liên Minh Đến Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp - Thập Ác
Vatican tại phần đất này, trong thời gian tại chức cho đến ngày 15/3/1947,
Cựu Linh-mục Thierry d’ Argenlieu đã triệt để thi hành chính sách chia để
trị của Giáo Hội La Mã đã được họach địch sẵn trước đó. Ngay khi vừa
đến Sàigòn vào tháng 10/1945, dựa vào chức vụ Cao Ủy Đông Dương, cựu
Linh-mục d’ Argenlieu, cho xé Nam Bộ ra khỏi nước Việt Nam đểthành lập nước Nam Kỳ và đưa bọn Việt gian người miền Nam mang quốc tịch
Vatican và quốc tịch Pháp lên thành lập chình phủ vào mùa Xuân năm 1946. Rồi
cũng năm 1946, Giáo Hội lại ra lệnh cho tên cựu linh mục này xé miền
Cao Nguyên Nam Trung Kỳ để thành lập nước Tây Nguyên, và xé vùng Sơn
La - Lai Châu để thành lập nước Thái Tự Trị và đưa tên Thái gian là
Đèo Văn Long lên thành lập chính quyền. Tháng 1/1947, trước
khi hết nhiệm kỳ Cao Ủy Đông Dương vào ngày 15/3/1947, Giáo Hội lại ra lệnh
cho viên cựu linh mục này đưa ra “Giải Pháp Bảo Đại” (the Bảo
Đại Solution) với dã tâm dùng “người Việt đánh người Việt”,
dùng “tín đồ Da-tô bản địa cai trị đại khối nhân dân người Việt Nam
theo tam giáo cổ truyền”, rồi sử dụng mấy cụm từ “chính nghĩa
quốc gia”, “người Việt quốc gia” với “lá cờ vàng
ba sọc đỏ” làm bức bình phong che đậy cho bọn Việt gian đã và đang
cấu kết với liên minh giặc Pháp - Thập Ác Vatican trong bộ máy đàn áp nhân
dân và chống lại lực lượng nghĩa quân kháng chiến giải phóng dân tộc ta lúc
bấy giờ. Giải Pháp Bảo Đại mãi tới ngày 5/6/1948, trong thời Cao Ủy Emile
Bollart (15/3/1947- 10/1948), mới thực hiện được bằng cách biến chính quyền
Việt gian Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Phú Khai,
Trương Vĩnh Khanh, Nguyễn Tấn Cường, v.v.. của nước Nam Kỳ (do
chính d’ Argenlieu cho ra đời)
thành chính quyền quốc gia. Kể từ đó, "chính quyền quốc gia" này cuỗm (ăn cắp) bài hát Tiếng Gọi
Thanh Niên được nhạc sĩ Lưu Hữu Phước sáng tác vào mùa Xuân năm 1945
làm quốc ca. Cái “chính
quyền quốc gia” và “lá cờ vàng ba sọc đỏ” sau đó được Giáo Hội La Mã ủy cho hai tên Da-tô Việt gian Ngô Đình
Diệm và Nguyễn Văn Thiệu nhẩy lên bàn độc múa may cho đến ngày 30/4/1975 thì
rã ngũ khi quyền lực của Hoa Kỳ không còn tồn tại ở miền Nam
Việt Nam nữa.
3.- Trong những năm 1948-1954,
Giáo Hội lại ra lệnh cho bọn Giám-mục Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi tách rời hai
giáo khu Phát Diệm và Bùi Chu và biến hai giáo khu này hai giáo khu tự trị
để chuẩn bị biến hai giáo khu này thành hai vương quốc theo đạo Kitô trong
nước Việt Nam. Giáo Hội cũng đã thực hiện việc lãm dã man này ở Croatia
trong những năm 1941-1945 và sau này vào những năm 1999-2002, Giáo Hội cũng
làm như vậy ở East Tomor.
4.- Cuối năm 1954, toán lính
Gia-tô Phát Diệm dưới quyền chỉ huy của Giám-mục Lê Hữu Từ và Linh-mục
Hoàng Quỳnh phá hủy ngôi Chùa Một Cột tại Hà Nội vào đêm 10 tháng 9 năm 1954
trên đường chạy trốn từ Phát Diệm qua Hà Nội xuống Hải Phòng rồi vào Nam. Sự
kiện này được sách Lột Mặt Nạ Những Con Thò Lò Chính Trị ghi lại như sau:
“Ngôi chùa lịch sử này kể từ ngày dựng
chùa cho đến ngày 10/09/1954 mới bị phá hủy do toán lính công giáo của
Linh-mục Lê Hữu Từ và Hoàng Quỳnh đặt mìn giật sập. Toán lính công giáo này
từ Bùi Chu, Phát Diệm lên tạm trú tại trường Thiếu Sinh Quân Hà Nội để chờ
phương tiện vào Nam. Một nhóm lính công giáo trong đó có Cai Long đã tham dự
vào việc đặt mìn giật sập Chùa Một Cột vào đêm 10/09/1954. Cai Long sau là
Thượng Sĩ thuộc Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 46, Sư Đoàn 25 Bô Binh. Thượng Sĩ
Long là bạn thân từ hồi còn nhỏ với Trung Tá Nhẩy Dù Đào Văn Hùng cựu Tiểu
Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Dù và Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 46 Bộ Binh.
Thượng Sĩ Long đã vui miệng khoe thành tích giật sập Chùa Một Cột trong lúc
vui say cùng đồng đội.
Cho tới khoảng tháng 06 năm 1970, Thượng
Sĩ Long ngà ngà say rượu, lấy súng M. 16 tìm bắn Trung Úy Phương và một số
đồng ngũ nên ông bị lính của Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 46, bắn
chết. Những dữ kiện về Thượng Sĩ Long có nhiều người được biết hiện có mặt
tại Hoa Kỳ như cựu Chuẩn Tướng Lều Thọ Cường, cựu Đại Úy Lê Văn Thúy hiện
định cư tại California, cựu Đại Úy Trần Ngọc Nhân hiện ở Houston, Texas.
Ngôi Chùa Một Cội mà ta thấy hiện nay là
chùa mới xây lại vào tháng 4 năm 1955.”
[7]
5- Trong những năm 1954-1963,
vì triệt để tuân hành những lời dạy trong các sách Phục Luật, Xuất Hành và
Leviticus như đã nói ở trên, đặc biệt là những lời dạy “Phải phá sạch
những nơi thờ thần của họ trên núi cao, trên đồi, dưới bóng cây xanh. Phải
đập tan bàn thờ, đâp vụn cột đền, lấy lửa đốt rụi hết các tượng của họ. Đục
khoét cho mất hết mọi hình chạm trổ các tượng thần của họ, * và xóa tên
những thần ấy ở những nơi đó”, chính quyền đạo phiệt Gia-tô
Ngô Đình Diệm không cho tổ chức lễ giỗ tổ Hùng Vương. Sự kiện
này được cụ Đỗ Mậu ghi lại trong cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi với
nguyên văn như sau:
“Việc biến nhà thờ La Vang ở Quảng Trị
thành một đền thờ Quốc Tổ (phải gọi là Quốc Mẫu thì đúng hơn!) đã dám làm
thì ngay tại Sàigòn, việc biến Tòa Đô Sảnh của thủ đô thành một địa điểm tôn
giáo để mừng Chúa ra đời không phải là chuyện chế độ Diệm ngại ngùng nữa.
Tại Sàigòn đã có rất nhiều nhà thờ lớn trên các khu đất khang trang, có quá
nhiều nữa là khác. Ngay tại trung tâm thủ đô, ở Quận Nhất sang trọng của
giao điểm hai đường Tự Do và Thống Nhất đã có Vương Cung Thánh Đường đồ sộ,
thế mà hàng năm cứ vào lễ Giáng Sinh, cơ sở quốc gia là Tòa Đô Sảnh ở Đại Lộ
Nguyễn Huệ vẫn cứ bị trưng dụng để treo đèn kết hoa mừng Chúa xuống trần.
Tệ hơn nữa là biết lấy nhà thờ Đức Mẹ La
Vang làm “pháo đài tinh thần của quốc gia”, biết lấy Tòa Đô Sảnh để
vinh danh Thiên Chúa, nhưng anh em ông Diệm lại không chịu xây đền thờ Quốc
Tổ, lại càng không kỷ niệm giỗ tổ Hùng Vương để duy trì truyền thống dân tộc
và thỏa mãn nguyện vọng của nhân dân. Cái danh hiệu Hùng Vương chỉ được đặt
tên cho một con đường xa xôi trong vùng Chợ Lớn, trong khi đại lộ thênh
thang nối liền trung tâm thành phố với phi cảng quốc tế Tân Sơn Nhất thì lại
trang trọng đặt tên cho người anh là Ngô Đình Khôi. Thủ Đô Việt Nam Cộng Hòa
không có được một Văn Miếu, không có được một bức tượng Tổ, trong khi những
bức tượng đồng của các nhân vật Thiên Chúa Giáo thì vẫn được duy trì chăm
sóc như dưới thời Pháp thuộc!…
Tôi còn nhớ nhà văn Chu Tử có kể lại trong
tuần báo Đời ở Sàigòn câu chuyện của một giáo sư đại học nặng lòng với Tổ
Quốc Hùng Vương, đã đề nghị với ông Diệm xây đền thờ Quốc Tổ thì bị ông Diệm
trỏ mặt nạt lớn: “Tổ anh chứ tổ tôi à !” Còn nhà văn Võ Phiến trong
tác phẩm “Đất Nước Quê Hương” có cho biết mãi sau khi chế độ Diệm
không còn nữa, nhân dân các tỉnh đã hăng say xây đền thờ Quốc Tổ. Tại
Sàigòn, nhiều đoàn thể thanh niên, sinh viên phát động phong trào “về
nguồn”, thành lập Hội Việt Võ Đạo, sau khi chế độ Diệm bị lật đổ, đã
hàng năm tổ chức lễ kỷ niệm Tổ Hùng Vương để cùng với các thành phần khác
của dân chúng vận động xây đền thờ Quốc Tổ. Lòng dân hướng về Quốc Tổ như
thế mà anh em ông Diệm lại không coi Vua Hùng là giòng họ Việt tộc đã
khai mở đất nước mà chỉ lo tôn vinh các giáo đường.”
Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1993), tr
455-456
Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy
rõ chủ trương của Giáo Hội là "diệt tận gốc, trốc tận rễ" tất cả các
tôn giáo cùng các nền văn hóa và văn minh khác của nhân loại. Chủ trương
bắt nguồn từ mặc cảm tự ti sinh ra lòng ganh ghét, đố kị, tị hiềm, kèn cựa,
không muốn cái gì hơn mình hay không phải là minh thì không được tồn tại và
đã được viết ra thành văn bản ghi lại rõ ràng trong các sách ở trong Cựu
Ước. Tình trạng này y hệt như một nữ bạo chúa vừa xấu xí vừa ác độc vừa có
quyền lực. Vốn mang mặc cảm xấu xí, với bản chất ác độc sẵn có và lại có
quyền lực trong tay, nữ bạo chúa xấu xí ác độc này bèn ra lệnh giết hết
những cô gái đẹp, dù là chỉ đẹp hơn cô ta một chút. Giáo Hội La Mã quả thật
không khác gì nữ bạo chúa xâu xí và ác độc trên đây. Xin nhắc lại, chủ
trương ác độc và dã man này của Giáo Hội bắt nguồn từ trong Kinh Cựu Ước.
Chỉ có Giáo Hội La Mã mới có thể làm được như vậy! Thật là dã man! Thật là
độc ác! Thật là táng tận lương tâm!Thiết tưởng rằng những dữ kiện được nêu
ra trên đây cũng đủ nói lên cái dã tâm thâm độc cực kỳ man rợ của Giáo Hội
La Mã là quyết tâm hủy diệt tất cả các tôn giáo và di sản văn hóa của nhân
loại để thay thế vào đó cái tôn giáo quái đản mà văn hào Voltaire gọi là "cái
tôn giáo ác ôn".
III.- NHỮNG CON SỐ NẠN NHÂN BỊ GIÁO HỘI LA MÃ TÀN SÁT
Cho đến nay (thời điểm 2005), các nhà viết
sử đều đồng ý với nhau là con số nạn nhân bị tàn sát lên tới gần 300 triệu.
Trong cuốn Deceptions and Myths được phát hành vào năm đầu tiên vào năm
1975, sử gia Lloyd M. Graham nói rõ con số nạn nhân bị Giáo Hội La Mã sát
hại lên tới trên trên 250 triệu:
"Chúng
ta đã biết được những gì trong 7 trăm năm này? Ba triệu người thiệt
mạng trong vụ cố gắng chiếm lại một ngôi mồ nằm trong vùng kiểm soát của
người Hồi giáo. Mười triệu người bị giết hại do bàn tay của các Tòa
Án Dị Giáo Gia-tô Mười bốn triệu người chết trong các cuộc chiến
Gia-tô trong thế kỷ thứ 19. Ba mươi triệu người thiệt mạng trong các
cuộc chiến giữa các quốc gia theo đạo Kitô với nhau trong hai thập niên đầu
của thế kỷ thứ 20. Từ thời Constantine đến nay, chiến tranh và chính sách áp
bức của các chế độ đạo phiệt Gia-tô đã gây cho hơn 200 triệu nạn nhân bị
thiệt mạng. Và chúng ta phải kể thêm 23 triệu quân nhân của 53
quốc gia và các thuộc địa đã hy sinh trong các cuộc chiến (do Giáo Hội phát
động – NMQ ) và ít nhất 28 triệu nạn nhân chết vì bom, đạn, đói và
bệnh tật hay ở trong các trại tập trung.”
[Nguyên văn: What have we learned in those seven hundred years? “Three
million lost their lives in a futile attempt to rescue a tomb from
Mussulmans. Ten million were slain during the Inquisition. Fourteen million were slain in Christian wars of the Nineteenth Century.
Thirty million lost there lives in wars between Christian nations
during the first two decades of the Twentieth Century. Wars, tyranny and
oppression of Christian nations since the days of Constantine have caused
the death of more than 200,000,000 people” And now we must add to
this “Some 23,000,000 men in uniform from 53 nations, countries and
dominions were killed or died; at least 28,000,000 died from bombs or
guns, hunger or disease or in the concentration camps.)
[8]
Những con số nạn nhân này được chia ra
làm hai loại:
1.- Do Giáo Hội trực tiếp chủ trương.
2.- Do các chính quyền đạo phiệt tay sai
của Giáo Hội và tín đồ cuồng tín gây nên.
Trong thực tế, tất cả đều do Giáo Hội chủ
trương cả. Chủ trương này một phần bắt nguồn từ Cựu Ước Kinh như đã trình
bày ở trên, một phần vì bản chất hung hăng hiếu chiến, đa sát, khát máu
được Giao Hội cấy vào trong đầu óc tín đồ qua chính sách ngu dân và giáo
dục nhồi sọ khiến cho họ trở thành những thứ bạo chúa khát máu ưa thích tàn
sát những người thuộc các tôn giáo khác khi họ có quyền lực trong tay. Cũng
vì thế mà có nhiều tội ác có thể nhìn thấy dễ dàng là do Giáo Hội chủ trương
và trực tiếp hành động. Thí dụ như phát động các cuộc chiến thập tự, thiết
lập các tòa án dị giáo, việc ban hành các thánh lệnh trong thế kỷ 15, việc
trực tiếp ra lệnh cho Giám-mục Emmanuel Milingo phải dứt khóat từ bỏ người
vợ thân thương mới cuới của ông là bà Maria Sung vào tháng 8 năm 2101.
Cũng có nhiều tội ác do chính quyền đạo
phiệt tay sai của Giáo Hội hay tín đồ cuồng tín gây nên, nhưng nếu xét cho
cùng, thì cũng là do Giáo Hội hoặc là ra lệnh, hoặc là giáo dục cho họ phải
làm như vậy. Thí dụ như chính quyền đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm tổ chức
đại lễ long trọng dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ Vô Nhiễm vào tháng 2 năm
1959, việc không cho làm lễ giỗ tổ Hùng Vương, việc thủ tiêu các thành phần
đối lập chính trị ở miền Nam, việc tàn sát khoảng 300 ngàn người dân ở Liên
Khu V, việc tin đồ Gia-tô đặt điều kiện cho những người thuộc các tôn giáo
khác muốn thành hôn với con cái của họ thì phải từ bỏ tín ngưỡng cổ truyền
của gia đình để theo đạo Da-tô rồi mới chấp nhận cho đương sự thành hôn.
IV.- NHỮNG CON SỐ NẠN NHÂN BỊ SÁT HẠI
TRONG NHỮNG TRƯỜNG HỢP RIÊNG BIỆT
Con số trên 250 triệu nhân bị Giáo Hội
sát hai trên đây rải rác từ năm 325 cho đến một vài năm trước khi sử gia
Lloyd Graham biên soạn xong cuốn Deceptions and Myths of the Bible vào năm
1999. Dưới đây là một vài con số nạn nhân bị Giáo Hội sát hai theo từng biến
cố đã được các sử gia sử sưu tầm và công bố.
1.- Con số nạn nhân bị sát hại trong
thời kỳ mấy chục năm sau khi Hội Nghị Nicaea nhóm họp vào ngày 20/5/325.
Theo ông Chalrie Nguyễn con số nạn nhân trong thời kỳ này vào trên 3 ngàn
người. Xem lại Chương 3 ở trên:
2.- Con số giáo sĩ và tín đồ Ki-tô Do Thái
bị Giáo Hội La Mã sát hại sau vụ tàn sát những tín đồ Ki-tô theo phe
Giám-mục Arius. Không ai biết
rõ con số nạn nhân này là bao nhiêu. Trong cuốn The Decline And Fall of the
Roman Church, cựu giáo-sĩ Martin Malachi có nói về thảm cảnh của họ như sau:
“Họ cố gắng để tồn tại cho đến mấy chục
năm đầu của thế kỷ thứ 5. Rồi thì họ biến mất từng người một. Một số thì
nhập vào Giáo Hội La Mã – luôn luôn là tư cách cá nhân, không bao giờ có
trường hợp cả cộng đồng hay toàn thể các nhà thờ Kitô Do Thái. Một số khác
lẩn vào trong khối người theo nghi lễ mới của Giáo Hội Đông Phương - người
Syriac, người Assyrian, người Hy Lạp, người Armenian. Nhưng rất nhiều ngươi
đã chết, chết vì lưỡi gươm (của quân lính La Mã truy lùng họ như những hạng
người sống ngoài vòng pháp luật), chết đói (vì bị tước đoạt mất ruộng đất để
sinh nhai và không thích nghi được với cuộc sống ở các nơi đô thị). Một yếu
tố khác nữa là sinh suất của họ lại giảm xuống tới số không. Vào khi tiêu
sử của ông Jesus (khác hẳn với Phúc Âm) được viết bằng tiếng Trung Hoa và
lưu hành ở Trung Hoa vào đầu thế kỷ thứ 7 thì không còn tín đồ Kitô Do Thái
tồn tại nữa và “dòng dõi bà con của Chúa” cũng không còn nữa. Khắp mọi nơi,
Giáo Hoàng La Mã đều ra lệnh phải tôn trọng và hành sử quyền hành.”Nguyên văn: “They managed to survive until the first decades of the
fifth century. Then, one by one, they disappear. A few individuals reconcile
themselves with the Roman Church – always as individuals, never communities
or whole Jweish Christian churches. Another few pass into anonymity of the
new Eastern rites – Syriac, Assyrian, Greek, Armenian. But most of them die
– by the sword (Roman garrisons hunted them as outlaws), by starvation (they
were deprived of their small farms and could not or would not adapt
themselves to life in the big cities) by the attrition of zero birthrate. By
the time that the first biography of Jesus (apart from the Gospel) is
published in Chinese and in China at the beginning of the seventh century,
there are no more surviving Jewish Christians. The desposyni have ceased to
exist. Everywhere, the Roman pope command respect and exercises authority.”
[9]
3.- Con số nạn nhân bị sát hại vì những
cuộc chém giết thanh toán lẫn nhau để giành chiếm ưu thế và ngôi vị giáo chủ
trong suốt chiều dài lịch sử từ năm 325 cho đến ngày nay. Không ai biết chắc con số nạn nhân này lên
đến bao nhiêu triệu hay bao nhiêu ngàn. Xem danh sách giáo hòang trong cuốn
Vicars of Christ , chúng ta thấy có tới 37 ông ngụy giáo hoàng (anti-pope).
Như vậy là trong lịch sử Giáo Hội, ít nhất là có tới 37 lần các ngài mang
chức thánh trong hàng giáo sĩ cao cấp trong hệ thống quyền lực của Giáo
Hội chia phe lập đảng chém giết và thanh tóan lẫn nhau để tranh giành ngôi
vị Mấy bản văn lịch sử dưới đây trích ra từ sách Vicars of Christ cho
chúng ta thấy rõ sự kiện này:
"Khi có cuộc họp của một số đông các tu
sĩ của Giáo Hội La Mã thì địa điểm nhóm họp phải là nơi gần sông hay hồ lớn
để liệng xác người (bị thanh toán) xuống đó. Hồ Constance đã tiếp nhận tới
hơn năm trăm xác người (bị thanh toán); Con sông Rhine cũng là nơi tàng chứa
rất nhiều bí mật." Nguyên văn :“When the clergy met in
large number, it was always wise to choose a town near water – lake or river
– for disposing of the bodies. Lake Constance received over five hundred
while the Council was in ssession; the Rhine, too, hid many secrets."
[10].
Cũng trong sách Vicars of Christ, nơi
trang 11, có đọan văn sau đây:
"Họ băng qua con sông Tiber, con sông
mà trong nhiều thế kỷ đã được sử dụng vừa làm cống rãnh tiêu thụ rác rưởi
của Kinh Thành Rome vừa làm mồ chôn người không chính thức. Có lẽ, ngoài
Trung Hoa ra, Tiber là con sông có nhiều xác người nhất bị nhận chìm
trong một ngày. Sáng hôm nay, dòng sông này lờ đờ mang mầu xám giống như
màu áo của một giáo sĩ Franciscan." .["They cross the Tiber, which for
centuries served the city as both sewer and and unofficial cemetery.
Probably Tiber has claimed more lives than any river ouside China; thousands
have drowned their in a day. This morning, it is sluggish and brown as the
habit of a Franciscan."[11]
"Sự thù nghịch bộc phát thành những
cuộc chiến đấu đá nhau thường xẩy ra vào khi có giáo hoàng qua đời. Thi dụ,
khi (Giáo Hoàng) Liberius (352-366) chết vào năm 366, giáo triều chia làm
hai phe, mỗi phe chọn một người của phe mình lên kế vị. Ursinus là giáo
hoàng của một phe và Damasus là giáo hoàng của phe khác. Sau khi đánh nhau ở
ngoài đường phố, phe Ursinus yếu thế, chạy vào trong nhà thờ St Mary Major
(thường gọi là Thánh Đường Đức Bà Bạch Tuyết) rồi đóng cửa lại tử thủ. Phe
Damasus tiến tới, trèo lên nóc nhà thờ đục lỗ, rồi dùng ngói và đá liệng
xuống tấn công phe Ursinus. Đồng thời, một toán khác của phe Damasus tấn
công vào trong qua cửa chính. Khi lọt được vào trong, hai bên ra sức chém
giết lẫn nhau liên tiếp trong ba ngày. Cuối cùng, có tới 137 xác chết khiêng
ra ngoài. Tất cả xác chết này đều là người của phe Ursinus. Ursinus bị bắt
cho đi sống lưu vong, nhưng tội ác ở trong thánh đường Mary Major là vết
nhơ trong thời Giáo Hoàng Damasus mãi mãi vẫn còn ghi trong sách sử."
Nguyên văn: “Bitter rivalries often showed themselves on the death of a
pope. For example, when Liberius (352-366) died in 366, two factions elected
a successor. Ursinus was one pope. Damasus was the other. After a lot of
street fighting, Ursinus ‘ followers locked themselves in the recently
completed basilica of St Mary Major, known as “Our Lady of Snow”. Damasus’
supporters climed on the roof, made a hole in it and bombarded the occupants
with tiles and stones. Others meanwhile were attacking the main door. When
this caved in, a bloody fight ensued for three days. At the end of it, 137
bodies were carried out, all of them followers of Ursinus. Ursinus was sent
into exile by the emperor’s representative, but the crime in Mary Major was
a permanent blot on Damasus’ copybook.”]
[12]
4.- Con số nạn nhân bị tàn sát trong hai
trăm năm thập tự chiến. Cuộc
chiến tôn giáo này là do Giáo Hòang Urban II (1088-1099) phát động vào năm
1095 đem quân lính Gia-tô tiến vào vùng Cận Đông àn sát các dân tộc theo đạo
Hồi và Chính Thống Giáo, rồi tiến vào miền Nam nưóc Pháp tàn sát giáo phái
Cathari (cũng thờ ông Jesus nhưng không chịu khuất phục Giáo Hội La Mã).
Không ai biết rõ con số địch thực là bao nhiệu triệu nạn nhân. Theo sách
Công Giáo Chính Sử, con số nạn nhân bị Giáo Hội tàn sát trong các cuộc chiến
này lên tới 20 triệu:
"Tín điều về sự đầy đọa vĩnh viễn là
tín đồ của những kẻ ác ôn. Hãy nghĩ tới hàng ngàn trẻ con và những người vô
tư mà đời sống của họ chất đầy ảm đạm. Những giáo lý này phải trải phủ trái
đất với những đống xương vàng của những người dị giáo và học giả. Chúng ta
thấy sự đàn áp ngoại đạo của Constantine, Clovis, Justinian, Theodosius và
Charlemagne; chúng ta thấy những cuộc thánh chiến trong đó có tới 20
triệu người bị giết; chúng ta thấy sự tàn sát bừa bãi đàn ông, đàn bà,
trẻ con ở Jerusalem bởi Godfrey..."[13]
5.- Con số nạn nhân bị các tòa án dị giáo
sát hại.- Cho đến ngày nay,
chưa ai biết chắc con số nạn nhân bị các Tòa Án Di Giáo của Giáo Hội La Mã
tra tấn, gây thương tật và sát hại là bao nhiêu triệu người. Sách
Smokesecreens được biên soạn và phát hành vào năm 1983 (năm này Giáo Hoàng
John Paul II chưa mở kho mật hàm cho các nhà viết sử đến tham khảo) cho biết
là con số nạn nhân trong thời kỳ các Tòa Án Dị Giáo của Tây Ban Nha hoạt
động (1232-1820) là 68 triệu:
"Chỉ nội trong thời kỳ thi hành chương
trình Inquisition ở Tây Ban Nha, Giáo Hội La Mã đã tra tấn, gây thương tật
và sát hại là 68 triệu, và nhiều nạn nhân này cũng là những người
Thiên Chúa Giáo tin tưởng vào Thánh Kinh." Nguyên văn: “The Roman
Catholic Institution tortured, maimed and murdered 68 million people during
the Spanish Inquisition alone, and many these were Bible-believing
Christians"[14]
Ngoài con số 68 triệu nạn nhân trên đây,
còn bao nhiêu chục hay trăm triệu nạn nhân khác nữa ở ngoài tầm tay của
chính quyền Tây Ban Nha, nhưng vẫn nằm trong ách thống trị bạo tàn của Tòa
Thánh Vatican mà chúng ta chưa biết được. Nhờ việc kho mật hàm của Giáo Hội
(Vatican' secret Archives) mới được mở cho các nhà viết sử đến tham khảo,
trong tương lai rất gần, sẽ có những ấn phẩm mới nói về chuyện này. Khi đó
nhân dân thế giới sẽ được biết rõ hơn về con số nạn nhân bị Giáo Hội La Mã
sát hại và mức độ tàn ác của Tòa Thánh Vatican như thế nào.
6.- Con số nạn nhân bị chế độ đạo phiệt
Gia-tô Bloody Mary sát hại tại Anh quốc trong những năm 1553-1558.-
Chúng ta biết rằng ngày nay đại khối dân tộc Anh theo Anh giáo hoàn toàn
biệt lập với Giáo Hội La Mã. Đây là một sự thực của lịch sử. Tuy nhiên,
trước khi đi đến tình trạng như ngày nay, nhân dân Anh cũng phải trải qua
một thời kỳ khốn đốn với nhà cầm quyền cuồng tín muốn Gia Tô hóa toàn dân
Anh bằng bạo lực. Dưới đây là những bản văn lịch sử nói về nữ bạo chúa
Bloody Mary cùng với phe cánh tín đồ cuồng tín của Vatican sử dụng bạo lực
cưỡng bách nhân dân Anh phải theo đạo Gia Tô. Sử gia Thomas P. Neil viết:
"Mary đã được khuyến cáo là nên đối xử
tử tế với những người đã bỏ đạo Gia Tô, nhưng vây cánh bên cạnh bà vô cùng
quá khích, cương quyết chống lại những người tà giáo. Trong thời gian 5 năm
tại vì của bà, có tới khoảng ba trăm người bị hành hình vì tín
ngưỡng của họ khác với đạo Gia Tô…Thực ra, Nữ Hòang Mary không tệ hơn các
nhà cầm quyền đồng thời với bà, nhưng vì chính sách bách hại những người
khác tôn giáo của bà gây nên cuộc phản kháng chống lại bà và chống lại đạo
Ki-tô La Mã. Các nhà viết sử đặt cho bà biệt danh là "Bloody Mary" (Mụ Mary
khát máu)" Nguyên văn: "Mary was advised to be lenient with those
had left the faith. The queen was not personally inclined to be severe, but
many of her subordinates went to extrems against "heretics." About three
hundred were executed for their anti-Catholic beliefs during her
reign..... Mary was no worse than other rulers of the time, but the
persecution caused a reaction against the queen and Catholicism, and
historians soon dubbed her "Bloody Mary."
[15]
7.- Con số nạn nhân người Pháp bị sát hại
trong các cuộc quân thập tự Pháp tấn công những tín đồ Tin Lành trong các
thế kỷ 16 cho đến ngày 26 tháng 7 năm 1830 (ngày chế độ đạo phiệt Gia-tô
Charles X bị nhân dân Pháp vùng lên đap đổ). Không ai biết rõ con số nạn
nhân trong thời kỳ này là bao nhiêu triệu. Chỉ nội trong đêm 22/8/1572, đã
có hơn tám ngàn người bị sát hại. Chuyện dã man này được sách
Smokescreens này ghi lại như sau:
“Ngày 22-8-1572 ( Nhiều sách khác ghi
là ngày 24/8./1572 chứ không phải là ngày 22/8/1572.)
bắt đầu xẩy ra một cuộc tàn sát đẫm máu ở nhà thờ St. Bartholomew. Đây là
một trong những vụ tàn sát ghê gớm để tiêu diệt phong trào Tin Lành ở Pháp.
Pháp Hoàng đã khôn khéo sắp đặt cuộc hôn nhân giữa người em gái của nhà vua
với Đô Đốc Coligny, một nhân vật lãnh đạo của Tin Lành. Một bữa tiệc lớn
được tổ chức ăn mừng lễ cưới. Sau bốn ngày, quân lính của tân lang Coligny
được cho ăn uống no say, một hiệu lệnh được ban hành. 12 giờ đêm hôm đó,
tất cả nhà cửa của những người Tin Lành ở trong thành phố đều bị bắt buộc
phải mở cửa. Đô Đốc Coligny bị giết. Thi hài của ông bị liệng qua cửa sổ ra
ngoài đường. Thủ cấp của ông bị cắt đem gửi cho giáo hoàng. Hai cánh tay và
bộ phận sinh dục của ông cũng bị cắt. Rồi chúng lôi kéo phần còn lại của
xác chết đi khắp các đường phố cả ba ngày trời. Sau đó, chúng treo ngược cái
xác chết không đầu, không tay, không bộ phận sinh dục ở một nơi ngoại ô
thành phố. Đồng thời, chúng còn tàn sát nhiều người Tin Lành khác nữa. Trong
3 ngày, hơn mười ngàn dân Tin Lành (ở Paris) bị giết hại. Những xác chết
này bị liệng xuống sông và máu nạn nhân lênh láng chẩy thành dòng ra tới tận
cửa sông giống như một dòng máu. Trong cơn hung hãn này, chúng có thể giết
cả những người đồng đạo của chúng nếu nạn nhân bị nghi ngờ là không mạnh tin
vào Giáo Hoàng. Từ Paris, bịnh dịch tàn sát vì lòng cuồng tín như vậy lan
tràn ra khắp nơi trong nước Pháp. Tính ra có tới hơn tám ngàn nạn nhân bị
sát hại. Rất ít người Tin Lành thoát khỏi tai họa trong cơn hung hãn của
chúng." Nguyên văn:
"On August 22, 1572, the bloody St. Bartholomew massacre began. This was to
be one fatal blow to destroy the Prostestant movement in France. The King of
France had cleverly arranged a marriage between his sister and Admiral
Coligny, the chief Protestant leader. There was a great feast with much
celebrating. After four days of feasting the soldiers were given a signal.
At twelve o'clock midnight, all the houses of the Protestants in the city
were forced open at once. The admiral was killed, his body thrown out of a
window into the street where his head was cut off and sent to the pope. They
also cut off his arms and privates and dragged him through the streets for
three days until they finally hung his body by the heels outside the city.
They also slaughtered many other well kown Protestants. In the first three
days, over ten thousands were killed. The bodies were thrown into the river
and blood ran through the streets into the river until it appeared like a
stream of blood. So furious was their hellish rage that they even slew their
own followers if they suspected that they were not very strong in their
belief in the pope. From Paris, the destruction spread to all parts of the
country. Over eight thousand more people were killed. Very few Pretestants
escaped the fury of their persecutors.")[16]
8.- Con số người Phi Châu bị tàn sát và bị
bắt đem sang Mỹ Châu bán làm nô lê.-
Cho đến ngày nay, không ai biết rõ có bao nhiêu triệu dân Phi Châu bị tàn
sát và bị bắt cóc đem sang Mỹ Châu bán làm nô cho người Da Trắng ở Mỹ Châu.
Các học giả mới tìm ra con số nạn nhân bị bắt đem đi bán cho người ta làm
nô lệ ước chừng là 60 triệu. Sự kiện này được sách Công Giáo Trên Bờ
Vực Thẳm ghi lại như sau:
"Sau khi chiếm được Mexico, thực dân
Tây Ban Nha và tu sĩ nhà thờ lập nên các đồn điền và các khu khai thác mỏ và
biến thổ dân thành nô lệ. Từ thê kỷ 16 đến thế kỷ 19, thực dân đến Phi Châu
bắt cóc người da đen đem đến Mỹ Châu khỏang 60 triệu người để tăng
cường nhân lực nô lệ cho các đồn điền và hầm mỏỏ. Ngay từ những năm đầu của
cuộc xâm lược vào Mexico, riêng một mình Herman Cortez đã chiếm 250 héc ta
đồn điền và làm chủ 200.000 (200 ngàn) nô lệ da đỏ!"
[17]
9.- Con số người da đỏ bị tàn sát và bị
bắt làm nô lệ.- Thực ra, cho
đến nay, người viết chưa tìm thấy con số đích thực là có bao nhiêu triệu
người da đỏ bị sát hại và bị cưỡng bách làm nộ lệ, Trong bài viết Tản Mạn
Về Ngày Lễ Tạ Ơn đăng trên www.giaodiem.com tháng 11 năm 2001, Giáo-sư Trần
Chung Ngọc cho biết con số người Da Đỏ ở Bắc Mỹ trong vòng 270 năm tính từ
năm 1620, giảm từ 15 triệu xuống còn có 250 ngàn người (bị giảm đi
mất 14 triệu 750 ngàn người). Dưới đây là đọan văn trong bài viết trên đây
nói về thảm trạng này:
"Tại sao ở Mỹ lại có ngày lễ tạ ơn
Thiên Chúa? Đó là vì cách đây vài trăm năm, những người Anh đầu tiên đến
vùng Plymouth, tiểu bang Massachusetts, đã thoát được nạn đói mùa đông
1620-21, tin rằng Thiên Chúa đã giúp họ cho nên họ đã đọc kinh cầu nguyện để
tạ ơn Thiên Chúa. Thực ra thì chính dân da đỏ đã cung cấp thức ăn cho họ
trong mùa Đông đó. Và sau khi lấy lại sinh lực, dựa trên ưu thế của súng ống
trên cung tên, họ đã trả ơn người da đỏ bằng cách đi cướp hết đất đai của
người da đỏ và thi hành chính sách diệt chủng đối với người da đỏ và cưỡng
bách người da đỏ phải theo cái đạo cao quý cầm đầu bởi Chúa lòng lành vô
cùng của họ. Từ đó cho đến năm 1890, trong vòng 270 năm, những con
cái của Chúa đã giảm dân số dân da đỏ từ 15 triệu xuống còn dưới 250000,
và biến miền đất phì nhiêu của dân da đỏ thành "Tân Thế Giới" của người da
trắng, do người da trắng (Christophe Columbus) tìm ra. Nhiều người da đỏ
ngày nay nuốt nước mắt, không biết làm gì hơn là uống rượu để giải sầu."[18]
10. Con số nạn nhân bị chế độ đạo phiệt
Gia-tô Ante Pavelich sát hại.-
Trong những 1941- 1945, chế độ đạo phiệt Gia-tô này đã sát hại khỏang từ 700
ngàn đến 800 ngàn người trong những chiến dịch "làm sáng danh Chúa".
Hầu hết nạn nhân là tín đồ Do Thái Giáo và Chính Thống Giáo. Sự kiện này
được sử gia Avro Manhattan ghi lại trong cuốn The Vatican Holocaust như sau:
"Trong thời kỳ Croatia là quốc gia độc
lập và lấy đạo Gia Tô làm quốc giáo, có trên 700 ngàn đàn ông, đàn bà và
trẻ em bị giết hại. Nhiều người bị hành hình, bị tra tấn, bị bỏ cho chết
đói, bị thiêu sống cho đến chết. Hàng trăm người bị cưỡng bách phải theo đạo
Gia Tô (Thiên Chúa La Mã). Các ông linh-mục của Giáo Hội La Mã làm quản giáo
tại các trại tù tập trung; nhiều tu sĩ khác của Giáo Hội là sĩ quan trong
các đơn vị quân đội đã phạm tội ác tàn bạo. 700 ngàn trong tổng số dân có
mấy triệu người tức là khoảng 1/3 dân số bị các đoàn lính dân quân Gia Tô
giết hại" Nguyên văn: “During the existence of Croatia as an
independent Catholic State, over 700,000 men, women and children perished.
Many were executed, tortured, died of starvation, or burned to death.
Hundreds were forced to become Catholic. Catholic padres ran concentration
camps; Catholic priests were officers of the military corps which committed
such atrocities. 700,000 in a total population of a few million,
proportionally, would be as if one-third of the USA population had been
exterminated by a Catholic militia.” Avro Manhattan, The Vatican’s
Holocaust (Springfield, MO: Ozark Book, 1986) p. VII.
[19]
Trong tác phẩm Vietnam, Why Did We Go?,
tác giả viết:
"Ante Pavelich, người lãnh đạo mà cũng
là người chủ mưu và tạo nên quốc gia Croatia độc lập theo đạo Gia Tô. Ông ta
đã dùng chính sách khủng bố cũng như tinh thần cực đoan về chính trị và lòng
cuồng đạo với tất cả những tàn bạo hơn cả hai nhà độc tài bảo trợ cho ông ta
là Benito Mussolini và Adolf Hitler. Trước khi nước Nam Tư bị phân hóa, ông
ta là người chủ mưu trong vụ ám sát vua Alexander (của nước Nam Tư) và các
vụ giết hại các nhà chính trị khác. Nhờ vậy mà ông ta đã tạo nên được quốc
gia Ustashi Croatia độc lập siêu Gia Tô giáo và thiết lập một chế độ độc tài
siêu hơn cả chế độ độc tài Đức Quốc Xã. Ông ta được Giáo Hoàng Pius XII che
chở và giúp đỡ bằng các phương tiện ngoại giao và tài chánh nhằm để đạt được
cứu cánh của Giáo Hội La Mã. Khi quốc gia Ustashi Croatia sụp đổ (vào đầu
năm 1945), Pavelich chạy vào ẩn trốn ở trong Tòa Thánh Vatican, rồi giả dạng
như là một tu sĩ. Sau đó, ông ta trốn sang nước Á Căn Đình" Nguyên
văn “Ante Pavelich, the inspirer, creator and leader of the independent
Catholic state of Croatia. He employed terrorism, political extremism and
religious fanaticism with such ruthlessness as to outsmart even his two main
fascist protectors, Beneto Mussolini and Adolf Hitler. He was the brain
behind the assassination of King Alexander and other political murders which
preceded the disintegration of Yugoslavia and thus the erection of his
super-nazi, super-Catholic independent Ustashi Croatia. He enjoyed the
protection of Pope Pius XII, who helped him via diplomatic and monetary
means to achieve his ultimate objective. When Ustashi Croatia collapsed,
Pavelich hid in the Vatican, then, disguised as a monk, fled to Argentina.")
[20]
11.-
Con số nạn nhân bị chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm sát hại trong
những năm 1954-1963.- Cho tới nay, cũng chưa có sử gia nào công bố con
số nạn nhân đích thực bị cả chính quyền đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm sát
hại trong những năm 1954-1963 và con số những người dân lương bị các ông
lãnh chúa địa phương là tu sĩ và tín đồ Gia-tô cũng như những tín đồ Gia-tô
nắm giữ những chức vụ chỉ huy trong quân đội ở miền Nam trong những năm
1954-1975 khi đi hành quân đã "phóng tay" tàn sát dân lành chỉ
vì họ không phải là tín đồ Gia-tô. Người viết căn cứ vào ba nguồn tài liệu
khả tín khác nhau xin ghi lại nguyên văn dưới đây:
Trước khi nói đến con số nạn nhân bị bạo
quyền Ngô Đình Diệm giết hại và cầm tù, thiết tưởng chúng ta nên nhớ lại lời
ông Ngô Đình Nhu, em ruột của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cũng là người nắm
quyền chủ chốt thi hành kế hoạch Inquisition tại Việt Nam thời bấy giờ, đã
từng tuyên bố:
"Tôi có cả một chương
trình, đã bàn tính kỹ với Đức Tổng Giám Mục (Thục) là sẽ lần hồi tiến tới
chỗ mà Hội Truyền Giáo hoạt động một thế kỷ mới đạt tới. Còn chúng ta chỉ
cầm quyền mười năm thôi là cả Miền Nam này sẽ theo Công Giáo hết"[21] .
Lời tuyên bố trên đây cho chúng ta thấy rõ
cái mực độ tàn ác trong chính sách Gia Tô hóa của bạo quyền Ngô Đình Diệm.
Tàn ác như thế nào? Xin mời quý vị theo dõi mấy bản văn lịch sử dưới đây do
các nhà viết sử ghi lại thì sẽ rõ.
a.-
Trước hết, chúng ta hãy theo dõi bản văn do Linh-mục Trần Tam Tỉnh viết:
"Mùa hè 1955, Ngô Đình Diệm tung ra chiến
dịch Tố Cộng và qua luật 10-1959, ông đã lập các Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt như
một bộ máy đàn áp. Luật này, kết án tử hình và phải thi hành trong vòng ba
ngày, khỏi có quyền bào chữa, tất cả những người Cộng Sản, những người có
quan hệ với Cộng Sản (những chiến sĩ yêu nước chống Pháp, cả cha mẹ và bạn
bè của họ), tất cả những bị cáo được xem là phạm đến an ninh quốc gia. Các
cuộc càn quét đã dẫn về hàng ngàn "tên đỏ", từ nay gọi là Việt Cộng và nhiều
người trong đó đã bị giết...Trong lãnh vực này, tài liệu bí mật của Lầu Năm
Góc (Bộ Quốc Phòng Mỹ - NMQ) cũng giống như những gì do chính phủ Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa phổ biến hồi đó: "Suốt thời gian của cái gọi là Chiến Dịch
Tố Cộng được tung ra vào mùa hè năm 1955, từ 50 ngàn đến 100 ngàn người đã
bị nhốt vào ngục. Nhưng như bản báo cáo có nói, phần lớn những kẻ bắt giam
đây không phải là đảng viên Cộng Sản". Đó là lời của F. Butterfield viết
trong bản phân tích Tài Liệu Lầu Năm Góc. Tác giả còn thêm: "Chương Trình
Công Dân Vụ đã thất bại, bởi vì Tổng Thống Diệm hầu như chỉ phát toàn những
nguời di cư miên Bắc hay là Công Giáo đến các làng đó. Nông dân cho rằng
những thứ người ó không phải là người của họ (Pentagon Papers, tr 82)"
[22]
b- Nhà viết sử Avro Manhattan viết trong sách
"Vietnam why did we go?" như sau:
"Từ năm 1955 đến năm 1960 có ít nhất là
24 ngàn người bị thương, 80 ngàn người bị hành hình hay bị giết hại, 275
ngàn người bị bắt điều tra và giam giữ, và 500 ngàn người bị đưa đi các
trại giam giữ tập trung"[23]
.
c.-
Sách Đảng Cần Lao viết:
"Ngồi tại Dinh Độc Lập, Ngô Đình Diệm
có ngờ đâu em mình đã nhân danh Đảng Cần Lao Nhân Vị mà nhúng tay vào máu
một cách khủng khiếp đến thế. Số người mà tại Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Qui Nhơn và Khánh Hòa… đã bị cán bộ Cần Lao giết vì bị vu cho là Cộng
Sản, phá hoại chế độ… đã được kiểm kê vào các năm 1964 và 1965 là 300,000
(300 ngàn) người!"[24]
Căn cứ vào những tài liệu trên đây và căn
cứ vào những thành tích giết người của Giáo Hội, căn cứ vào thành tích tàn
sát những người thuộc các tôn giáo khác của tín đồ Gia-tô người Việt vào
thời trước năm 1954 và căn cứ và thành tích giết người của Giáo Hội La Mã ở
Rwanda (Phi Châu) vào năm 1994 gần đây (sẽ được trình bày đầy đủ ở mục kế
tiếp), chúng ta có thể kết luận rằng con số nạn nhân ở miền Nam Việt Nam bị
sát hại bởi chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa (và sau đó bởi những tín đồ Gia-tô
cuồng tín có quyền lực ở trong tay) chắc là lên đến hơn 300 ngàn người.
12.- Con số nạn nhân bi Giáo Hội La Mã
sát hại ở Rwanda (Phi Châu) vào năm 1994.-
Chỉ trong vòng 100 ngày trong năm 1994, chính quyền đạo phiệt Gia-tô của
Giám-mục Augustin Misago tại Rwanda đã sát hại tới hơn 800,000 (8000 ngàn)
những người thuộc các tôn giáo khác. Dưới đây là một số tài liệu nói về thảm
trạng này.Trước hết bản tin phổ biến vào ngày 5/ 11/ 2000 trên mạng
http:/www.vietnamdaily.com loan truyền như sau:
"Tin Quốc Tế.- Giám Mục Thiên Chúa Giáo Có Thể Bị Tử Hình Tại Rwanada: Kigali, Rwanda
(TH).- Một công tố viên nói hôm Thứ Tư là ông đã yêu cầu lên án tử hình một
giám mục Thiên Chúa Giáo La Mã về tội diệt chủng trong năm 1994 liên hệ tới
các vụ tàn sát ít nhất nửa triệu người, gồm cả nhiều người bị chém tại
các nhà thờ nơi họ chạy vào lánh nạn.
Giám Mục Augustin Misago, 56 tuổi, là chức
sắc đầu tiên của Giáo Hội bị truy tố về tội diệt chủng liên hệ tới các cuộc
tàn sát sắc dân thiểu số Tutsis trong 90 ngày. Giám Mục kêu vô tội về tội
cáo buộc diệt chủng và các tội chống nhân loại.
Trong vụ xử gây căng thẳng quan hệ giữa
Rwanda và Tòa Thánh Vatican, Giám-mục Misago bị cáo buộc đã đẩy ba linh mục
và trên 10 học sinh tới chỗ chết vì không cho họ tá túc trong giáo xứ của
giám mục.
Kết từ phần buộc tội hôm Thứ Ba, công tố
viên Edward Kayihura cũng yêu cầu Giám-mục Misago và chính phủ bồi thường
93,750 Mỹ kim cho các gia đình nạn nhân.
Các cuộc tàn sát bắt đầu hồi tháng 4/1994,
khi ấy Giám-mục Misago là chức sắc cao cấp nhất của Giáo Hội ở giáo xứ
Gikongoro nơi hàng chục ngàn người bị giết. Giám mục Misago là chức sắc cao
cấp nhất của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo trong số trên 20 linh mục và nữ tu bị
truy tố về tội diệt chủng. Hai linh mục đã bị kết án tử hình.
Các cuộc tàn sát chấm dứt với chiến thắng
của Mặt Trận Ái Quốc Rwanda do sắc dân Tutsi lãnh đạo lật đổ chính phủ của
sắc dân Hutu.
Trên 125,000 can phạm diệt chủng bị tù tại
Rwanda. Trên 1500 người đã được đưa ra tòa xét xử và 300 người bị án tử
hình." [25]
Rwanda là một quốc gia tí hon. Diện tích
vỏn vẹn chỉ có 26,338 cây số vuông, và dân số là 8,196,000 (vào năm 1995) trong đó
65% theo đạo Kitô La Mã. Vốn là hai
vùng đất Rwanda và Burundi cùng bị Đức chiếm làm thuộc địa từ thập niên
1890. Đức là quốc gia bại trận trong trận Đệ Nhất Thế Chiến. Năm 1919, Hội
Quốc Liên cho hợp nhất hai vùng đất này thành xứ Rwanda và giao cho nước Bỉ
(theo đạo Kitô La Mã) quản trị. Vì thế mà tín đồ Kitô La Mã lên tới 65%.
Về con số nạn nhân Tutsis bị chính quyền
đạo phiệt Da-tô tàn sát trên đây, ký giả Joe Lauria của tờ The Boston
Globe ghi nhận là 800 ngàn người. Bài báo của ký giả này với
tựa đề là "U.N.'s inaction blamed for Rwanda killings"
U.S.
Belgium also criticized in report on 1994 genocide in African country"
được tờ The News Tribune (Tacoma) số ra ngày Thứ Sáu 17/12/1999 đăng lại như sau::
"New York: Vì Liên Hiệp Quốc đã không
quan tâm đến những lời cảnh cáo nhắc đi nhắc lại về nạn tàn sát người tập
thể diến ra ở Rwanda vào năm 1994, khiến cho 800 ngàn người Tutsisi và
Hutus ôn hòa bi sát hại trong vòng chưa đầy 100 ngày. Đây là bản báo cáo
của một ủy ban độc lập vào ngày Thứ Năm (vừa qua).
Bản báo cáo nói rằng, cộng đồng thế giới
đã không ngăn chặn thảm trạng diệt chủng này và cũng không ngăn chặn cái nạn
này ngay từ khi nó bắt đầu xẩy ra. Sự việc này bắt nguồn từ "sự thiếu tài
nguyên và thiếu ý chí chính trị" cả trước và sau khi thiểu số người Hutus
tiến hành việc tàn sát người Tutsus khởi đầu từ ngày 6 tháng 4 năm 1994.
Các chuyên viên điều tra nói rằng, ông
Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan, người cầm đầu lực lượng duy trì hòa
bình, Hoa Kỳ và Bỉ, tất cả đều phải chịu trách nhiệm về việc không chặn đứng
thảm trạng giết người diệt chủng này. Bản báo cáo cho rằng Hoa Kỳ đã đặt
vấn để tốn phí cho lực lượng duy trì hòa binh lên trên việc cứu sồng sinh
mạng con người và tố cáo Bỉ đã triệt thoái quân đội quá mau, bỏ rơi hai ngàn
người ở trường kỹ thuật và để mặc cho nhiều người bị sát hại.
Bản báo cáo ghi nhận lần thứ hai trong
vòng hai tháng rằng Liên Hiệp Quốc nhìn nhận đã thất bại, không thể chặn
đứng được thảm trạng tàn sát tập thể này mà đáng lý ra có thể ngăn chặn
được. Trong một bản báo cáo nội bộ vào tháng 10, Liên Hiệp Quốc đã nhận
trách nhiệm về thảm trạng tàn sát hầng ngàn tín đồ Hồi giáo người Bosnia
trong năm 1995 ở Srebrebia, thuộc xứ Bosnia.
Trong lời tuyên bố hôm Thứ Năm (vừa qua),
ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Annan nói rằng, "cả hai bản báo cáo - một của
riêng tôi và một của ủy ban độc lập điều tra ở Rwanda - phản ảnh sâu xa sự
quyết tâm trình bầy sự thật về những thảm trạng này." Ông đã yêu cầu cho
điều tra vụ thảm sát ở Rwanda vào tháng 3. Ban điều tra bắt đầu làm việc vào
tháng 6. Ủy ban này do Thủ Tướng Ingvar Carlson của nước Thụy Điển làm
trưởng ban. Bản báo cáo dày 58 trang nói rằng lệnh của Hội Đồng An Ninh Liên
Hiệp Quốc ban hành cho lực lượng duy trì hòa bình ở Rwanda không đầy đủ và
những điều ghi trong đó không được rõ ràng. Bản báo cáo cũng nói rằng các
viên chức Liên Hiệp Quốc kể cả ông Tổng Thư Ký Annan đã không hành động gì
sau khi nhận được bằng chứng rõ ràng về vụ diệt chủng có kế họach rất là
chu đáo, và ông cựu trưởng đòan Liên Hiệp Quốc Boutros Boutros -Ghahi đã
không thông báo cho Hội Đồng An Ninh biết về tín tức này.
Trong lời tuyên bố vào hôm Thứ Năm, ông
Tổng Thư Ký Annan thú nhận rằng Liên Hiệp Quốc đã khoanh tay đứng nhìn trong
khi thảm trạng diệt chủng dưới một hình thức thuần túy là tội ác ghê gớm
nhất xẩy ra." Tất cả chúng tôi đềi cảm thấy hối hận sâu xa vì rằng chúng tôi
đã không làm gì hơn để ngăn chặn tội ác này. Khi xẩy ra tội ác này có Quân
Đội Liên Hiệp Quốc ở đó. Nhưng đạo quân này lại không nhận được lệnh và cũng
không được trang bị những thứ cần thiết để thì hành nhiệm vụ ngăn chặn những
hành động tội ác diệt chủng này. Nhân danh Liên Hiệp Quốc, tôi nhìn nhận sự
thất bại này và xin bày tổ lòng hối tiếc và ân hận sâu xa của tôi về thảm
trạng này."
(Đây là nguyên văn bản tin bằng
Anh ngữ: "New York.- The United Nations ignored repeated warnings of
an impending massacre in Rwanda in 1994, paving the way for an orgy of
ethnic killing that left 8000,000 Tutsis and moderate Hutus dead
in less than 100 days, in an independent panel reported Thursday.
"The international community did not
prevent the genocide, nor did it stop the killing once the genocide had
begun," the report said. This stemmed from a "lack of resources and
political will" before and after the massacre of Tutsis by the minority
Hutus began Aptil 6, 1994.
U.N. Secretary Geneal Kofi Annan, then
head of U.N. peacekeeping forces, the United States and Belgium all bear
some responsibility for failing to stop the genocide, the investigators
said. The report suggested the United States put controlling the cost of
peacekeeping operations above saving lives and accused Belgium of pulling
its peacekeeping troops out too quickly - at one point abandoning 2,000
people in a technical school and leaving many of them to be murdered.
The findings marked the second time in two
months the U.N. has acknowledged failing to stop mass killings that could
have been prevented. In an internal report in October, the U.N. accepted
blame for the massacre of thousands of Bosnian Moslem men in 1995 in
Srebrenia, Bosnia.
"Both reports - my own on Srebrenica and
that of the independent inquiry on Rwanda - reflect a profound determination
to present the truth about these calamities," Annan said Thursday in a
statement. Annan requested the inquiry into the Rwanda massacre in March.
The panel, which began work in June, was headed by former Swedish Prime
Minister Ingvar Carlson. The 58 page report said the mandate the Security
Council gave the U.N. peackeeping force in Rwanda was inadequate and its
rules of engagement unclear. It said U.N. officials, including Annan,
failed to act after receiving direct evidence of a carefully planned
genocide, and former U.N. chief Boutros Boutros-Ghahi did not inform the
Security Coincil of the information.
In a statement Thursday, Annan admitted
the U.N. stood by during a genocide of the "purest and most evil form."
"All of us must bitterly regret that we
did not do more to prevent it. There was a United Nations force in the
country at the time, but it was neither mandated nor equipped for the kind
of forceful action which would have been needed to prevent or halt
the genocide. On behalf of the "U.N.', I acknowledge this failure and
express my deep remorse."
[26]
Nhìn vào kỹ thuật lừa bịp và mê hoặc tín
đồ và người đời, nhìn vào kỹ thuật bóc lột tín đồ và nhân dân dưới quyền,
nhìn vào khối tài sản khổng lồ của Giáo Hội La Mã (sẽ được trình bầy đầy đủ
ở phần dưới), nhìn vào con số nạn nhân bị Giáo Hội sát hại trên đây trải
dài từ năm 235 cho đến 1994 ở khắp mọi nơi có bàn tay Giáo Hội vươn tới,
chúng ta có thể khẳng định rằng Giáo Hội La Mã quả thật là một tổ chức
chiếm kỷ lục trong lịch sử nhân lọai về thành tích lừa bịp, ăn cướp và giết
người, vượt cả không gian và thời gian: