Khi được đưa sang Hoa Kỳ, tất cả mọi việc từ chỗ ở, miếng
ăn cho đến việc di chuyển và thu xếp những buổi nói chuyện tại các đại học hay
gặp gỡ với các nhân vật cao cấp trong chính quyền Hoa Kỳ đều do bàn tay của Hồng
Y Francis Joseph Spellman xếp đặt cả. Cũng nên biết là vị hồng y này vừa là bạn
thân của Giáo Hoàng Pius XII (1939-1958) và cũng là bạn của Giám-mục Ngô Đình
Thục. Đây là một lợi thế của ông Giám-mục Ngô Đình Thục và ông Ngô Đình Diệm
đối với những tín đồ Ca-tô (Thiên Chúa La Mã) trong chính giới Hoa Kỳ lúc bấy
giờ, đăc biệt là trong thời chính quyền Eisenhower (20/1/1953-20/1/1961) trong
các ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp, có nhiều nhận vật có thế giá là tín đồ
Thiên Chúa La Mã. Những nhân vật như John Foster Dulles (Ngoại trưởng), Allan
W.. Dulles (Giám Đốc CIA), Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy, Thượng Nghị Sĩ Mike
Mansfield, Dân Biểu Walter Judd và Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện William Douglas
đều là tín đồ Ca-tô (Thiên Chúa La Mã) cả. Thêm nữa, ở ngoài chính quyền, lại
còn có những cơ quan truyền thông báo chí do các tín đồ Thiên Chúa quản lý như
Christian Century, Christian Science Monitor, the Catholic World và nhiều tờ báo
địa phương khác hướng dẫn dư luận để hỗ trợ cho kế hoạch của Hồng Y Spellman
vận động giải pháp Ngô Đìinh Diệm.
Một điều nữa cũng cần nên biết là Giáo Hội có chủ trương
rèn luyện hay nhồi sọ tín đồ để biến họ thành những người thiên vị, mất hẳn đi
tính cách vô tư, nhất là phải cân nhắc hay nhận định một vấn đề gì giống như một
việc phân xử giữa một bên là người đồng đạo và một bên là người thuộc một tôn
giáo khác thì họ nghiêng hẳn về phía người đồng đạo với họ. Đặc tính này càng
rõ rệt hơn trong phạm vi chính trị.vì rằng Giáo Hội đã dạy dỗ giáo dân rằng "Đức
Giáo Hoàng ở La Mã (Rome) mới là vị vua tối cao duy nhất của họ, họ chỉ phải
tuân phục quyền lực của Tòa Thánh Vatican."[1]
Vì quyền lợi chính trị, vì muốn chiếm được nhiều phiếu của
những người đồng đạo, tín đồ Thiên Chúa La Mã hăm hở nhào ra làm chính trị lại
càng tỏ ra nghe theo lời dạy dỗ trên đây thì càng có lợi cho họ (kiếm phiếu của
những người đồng đạo). Đặc biệt là tại các nước chậm tiến như Phi Luật Tân và
Việt Nam, vì bị ảnh hưởng nặng nề bởi của chính sách giáo dục ngu dân và nhồi sọ
của Giao Hội, những đặc tính xấu xa như tham lam, ích kỷ, tự cao, tự đại, huênh
hoang, khoác lác, háo thắng, háo sát, khát máu, lố bịch, trịch thượng, v.v...đã
được Giáo Hội khơi động và nuôi dưỡng trong lòng tín đồ để chờ cơ hộ thuận tiện
sẽ khai thác và lợi dụng. Chính những lúc có bầu cử là những lúc Giáo Hội khai
thác những tính xấu xa này ở trong lòng tín đồ mà Giáo Hội đã có công cấy vào
đầu óc họ. Vì thói quen "tuyệt đối vâng lời các đấng bề trên" và “quên
mình trong vâng phục”, vì bản chất thiên vị, tham lam và ích kỷ muốn vơ vào cho
chính minh và cho những người đồng đạo, cho nên tín đồ Ca-tô lại càng tỏ ra hăng
say triệt để tuân hành lời dạy trên đây, không bỏ xót một dấu phẩy. Sự kiện này
cũng được ông Vũ Ngọc Nhạ khẳng định bằng câu nói ghi trong bộ sách Ông Cố Vấn
Tập Hai (Phủ Đầu Rồng) với nguyên văn như sau:
"Người Công Giao thì phải vận động cho ứng cử viên người
Công Giáo, chứ đâu lại đi vận động cho người ngoại đạo."[2]
Tóm lại, ở Hoa Kỳ lúc bấy giờ, tất cả các chính
khách là tín đồ Ca-tô đều triệt để ủng hộ ông Ngô Đình Diệm vì ông Diệm vừa là
người đồng đạo của họ, vừa là con bài được Giáo Hoàng Pius XII. Như vậy, ông
Diệm được Hoa Kỳ đưa về Việt Nam cầm quyền là do Hồng Y Spellman tích cực chạy
chọt mà được với chính quyền Hoa kỳ ủng hộ, chứ không phải do tài năng, uy tín,
thành tích chính trị gì của ông. Thực ra, lúc bấy giờ, trong thâm tâm các
chính khách Hoa Kỳ (bất kể là tín đồ Ca-tô hay không), và các bậc thức giả đều
tỏ ra khinh bỉ ông anh em ông Ngô Dình Diệm hơn cả người Pháp trước đó khinh bỉ
bọn tín đồ Ca-tô Việt Nam làm tay sai cho họ trong thời gian 1858-1954. Đay là
những quy luật về tâm lý trong xã hội người loài người:
Thứ nhất, Chúng ta biết rằng, những kẻ phải đi xin
xỏ, nhờ vả hay chạy chọt với những người có thế lực để xin một việc làm tại một
xí nghiệp thì những kẻ đó dù cho có được thâu nhận vào làm thì cũng luôn luôn
bị ông chủ hay giám đốc của xí nghiệp và những người làm trong đó khinh rẻ như
là một hạng người vừa bất tài, không đủ khả năng, vừa hèn hạ, cho nên mới phải
luồn lọt đi cửa sau (hậu môn) thì mới kiếm được việc làm. Hành động như vậy tức
là không có "tinh thần tự túc, tự tồn, tự cường", và cũng không có "khả
năng tự lực cánh sinh", đi ngược với truyền thống của dân tộc là "Nên ra
tay kiếm tay cờ, chảng nên thì chớ, chẳng nhờ cậy ai.”
Ngô Đình Diệm phải cậy cục, nhờ vả Giáo Hội La Mã và Hồng
Y Spellman chạy chọt, năn nỉ với các chính khách Hoa Kỳ làm áp lực với Pháp và
Quốc Truờng Bảo Đại để được đưa về Việt Nam cầm quyền. Tình trạng này của ông
Diệm không khác gì tình trạng của những người đi xin việc nói trên. Sự kiện này
cho thấy rằng ông Diệm vừa bị coi là một hạng người bất tài, hèn hạ, hền hạ đến
nõi phải luồn lọt chui qua "hậu môn" của người Hoa Kỳ để len lỏi vào cửa quyền
và leo lên bước thang danh vọng, vừa bi xem như là hạng người "rước voi về
giầy mả tổ.". Hành động này của ông Diệm còn đê tiên và hèn hạ hơn hành động
của Lê Chiêu Thống vào cuối năm 1788 chạy sang Trung Hoa lạy lục Tuần Phủ Tôn
Vĩnh Thanh để nhờ tên quan này năn nỉ với triều đình nhà Thanh đem quân sang
Việt Nam hầu khôi phục vương quyền cho chính bản thân. (Lê Chiêu Thống chỉ lạy
lục của một triều đình nhà Thanh, còn Ngô Đình Diệm phải năn nỉ tới bốn thế lực
Vatican, Hoa Kỳ, Pháp và ông Bảo Đại). Đê tiện và hèn hạ như vậy, thì làm sao
ông Diệm thoát khỏi cái nhìn khinh bỉ của các chính khách Hoa Kỳ?
Thứ hai, ông Ngô Đinh Diệm không những bất
tài và hèn hạ, mà còn là một người mang căn bệnh cuồng tín về tôn giáo. Vì
mang căn bệnh cuồng tín về tôn giáo, cho nên ông ta trở thành hạng người vừa
ngu vùa dốt. Vì vừa ngu vùa dốt cho nên ông ta không có khả năng thông minh
trong việc ứng xử và đối đáp với các chính khách Hoa Kỳ khi bị dọ hỏi về một
giải pháp chính trị cho Việt Nam. Sự kiện ngu dốt này đã biểu lộ ra qua lời
tuyên bố rằng "chỉ cần chấm dứt chính sách thực dân Pháp và chỉ cần Việt Nam
có một chính phủ do người quốc gia lãnh đạo là có thể đánh bại được Cộng Sản".,
rằng ông ta "tin tưởng vào quyền lực của Vatican." và tin rằng ông ta "đã
được an bài để cai trị đất nước". Thử hỏi rằng, nếu có một em học sinh lớp 9
cấp trung học có mặt ở đó chứng kiến cái cảnh này thì liệu em đó có phải bịt
mũi để khỏi phải ngửi thấy cái mùi thum thủm của mấy "lời tuyên bố quai đản
cực kỳ ngu xuẩn" này không?
Thứ ba,. các chính khách Hoa Kỳ đều biết
rằng Vatican là một đế quốc thực dân xâm lược và chuyên nghề sử dụng bọn tín đồ
cuồng tín mất gốc, vong bản, phản dân tộc làm tay sai để đánh chiếm đất đai để
thiết lập chế độ đạo phiệt Ca-tô, rồi dùng bạo lực của nhà nước tiến hành kế
họach Ki-tô hóa nhân đân bằng bạo lực, và sau đó sẽ phóng tay cướp đọat tài
nguyền, bóc lột nhân dân, vơi vét của cải, tích lũy tài sản cho đầy túi tham
bằng cách khống chế và kiểm soát tất cả mọi phạm vi sinh họat trong nhân dân.
Martin Malachi
“Ngay từ lúc đầu, người Kitô giáo khăng khăng cho rằng
tôn giáo của họ là chân lý, rằng tôn giáo của họ nói về thực tế. Họ đưa ra lập
luận rằng tôn giáo của họ là một chân lý toàn cầu, rằng chỉ có Kitô giáo mới là
tôn giáo đích thực. Vì thế cho nên mọi hệ thống triết lý khác và mọi hệ thống
kiến thức khác - bất kỳ ngành họat động nào của con người có liên hệ với chân lý
– đều phải hài hòa với tôn giáo đích thực là Kitô giáo. Trái lại, đó chỉ là một
hệ thống triết lý giả, một kiến thức giả. Tất nhiên là mọi tính cách đạo đức
đều từ Kitô giáo mà ra.. Kitô giáo thấm nhập vào tất cả mọi lãnh vực trong
đời sống thế tục từ kinh tế, chính trị, tài chánh, nghệ thuật, giáo dục cho đến
các cơ cấu khác trong xã hội. Tôn giáo và chính trị, tôn giáo và tài sản, tôn
giáo và chính quyền, tôn giáo và nghệ thuật, tôn giáo và sự học hỏi – giữa những
liên hệ cơ cấu này, không có sự chống đối nào mà không hòa giải được. Những cơ
cấu này không thể tách rời được và cũng không thể giữ nó ở trong tình trạng tách
rời nhau.. Các vấn đề như quân sự chính trị, tài sản, nghệ thuật và chính quyền,
tất cả đều phải bị tôn giáo thống trị tuốt luốt.” Nguyên văn: “From
their beginnings, Christians insisted that their religion was true, that it did
speak about reality. They drew the logical conclusion from that: that it was
universally true. That there could be only one true religion. Theirs. Hence all
philosophy and all knowledge - any branch of human activity that dealt with the
truth – had to be, would be reconcilable with the true religion, Christianity.
Otherwise, it was a false philosophy, a false knowledge. Automatically, an all
embracing morality from this Christianity. It permeated al aspects of temporal
life: economics, politics, finance, the arts, education, social structures.
Religion and politics, religion and wealth, religion and government, religion
and art, religion and learning – between these there was no irrececoncilable
opposition. They were not separate or to be kept separate. Military matters,
matters of politics, wealth, art, government – all became dominated by religion.”[3]
Tất cả bọn tín đồ Ca-tô vong bản phản dân tộc đều
bị dân bản địa khinh bỉ, ghê tởm, thù ghét đến cùng độ của thù ghét và gọi là
những quân "phản quốc". Ông Diệm ở vào tình trạng này, tất nhiên là không thể
thoát khỏi cái nhìn khinh bỉ và ghê tởm của các chính khách Hoa Kỳ. Tâm lý của
các nhà chính khác và các bậc thức giả trên thế giới đều kính trọng các nhà lãnh
đạo quốc gia được nhân dân dưới quyền kính thương và khinh rẻ những người cầm
quyền bị nhân dân khinh rẻ và thù ghét. Đây là quy luật về tâm lý cvà xa hội.
Quy luật nàu không chừa một ai cả. Cũng vì thế mà ông Diệm không thể nào thóat
khỏi cái nhìn khinh bỉ của nhân dân thế giới, ngọai trừ những tín đồ Ca-tô cuồng
tín và những người siêu ngu dốt.
Thư tư, từ ngàn xưa, những người trong các
chính quyền đế quốc xâm lược bao giờ cũng khinh rẻ những người dân bản địa làm
tay sai cho họ. Người Mãn Châu khinh rẻ tên Hán gian Ngô Tam Quế, người Nhật
khinh rẻ tên Hán gian Uông Tinh Vệ, người Đức khinh rẻ tên Pháp gian Pétain,
người Pháp khinh rẻ bọn Việt gian Ngô Đình Khả, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục,
Ngô Đình Diệm, Nguyễn Bá Tòng, Lê Hoan, Trần Bá Lộc, Trần Lục, Phạm Ngọc Chi,
Lê Hữu Từ, Hoàng Quỳnh, khinh rẻ bọn tín đồ Ca-tô bản địa và tất cả những
người Việt khác bán nước làm tay sai cho họ. thì tất nhiên là người Hoa Kỳ cũng
khinh rẻ bọn tín đồ Ca-tô Việt Nam đã từng bán nước cho Vatican, cho Pháp, rồi
lại làm tay sai và Hoa Kỳ. Là một trong bọn người Việt gian này, dĩ nhiên là
ông Diệm làm sao thoát khỏi được cái nhìn khình bỉ của người Hoa Kỳ?
Những quy luật trên đây đều có thể kiểm nghiệm được. Dưới
đây là những bằng chứng đã được kiểm nghiệm qua những nhận xét hay lời tuyên bố
của các chính khách người ngoại quốc hay các sử gia với những trường hợp như
sau:
Trường hợp 1 là những lời tuyên bố của các chính
khách người Hoa Kỳ và những lời nhận xét của các nhà viết sử về con người và
cung cách hành xử của ông Ngô Đình Diệm. Lời nhận xét ngắn và gọn về ông Diệm
của Tổng Thống Eisenhower bằng cách dùng một thành ngữ "Trong đám thằng mù,
thằng chột làm vua " cho ta thấy ông ta bị nhà lãnh đạo này của Hoa Kỳ khinh
bỉ đến mức nào rồi.
Trường hợp thứ 2 là chính Đại Tá Edward
Lansdale, vị cố vấn đặc biệt bên cạnh ông Diệm, người đã coi ông Diệm như một
đứa con mới tập tễnh bước vào đời và phải dạy dỗ từng lời ăn tiếng nói cùng cách
cư xử với mọi người chung quanh, y hệt như Lữ Bát Vi lo cho Tần Hoàng Chánh khi
vừa lên nối ngôi An Quốc Quân làm vua nước Tần, và đôi khi cũng phải bực mình
không chịu nổi với cái mức độ ngu xuẩn của đứa con nuôi mà chính quyền Hoa Kỳ đã
giao phó cho ông dạy dỗ. Chương 62 sẽ nói rõ vấn đề này.
Trường hợp 3 là trong công điện ngày 5-9-1963 gửi
về thủ đô Hoa Thịnh Đốn, ông Đại Sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge cũng đưa ra lời nhận xét
đầy khinh bỉ về con người Ngô Đình Diệm. Lời nhận xét này cho chúng ta thấy rõ
cái đặc tính học đòi làm sang, sặc mùi phong kiến với bản chất cuồng tín, ngu
dốt và tàn ác của bọn người này:
"Chủ yếu chúng nó là chế độ chuyên chính Á Châu thời
Trung Cổ của loại gia đình cổ điển, không hiểu gì cả hay hiểu rất ít về các
ngành nghề của chính quyền vì dân. Chúng không thể ăn nói với dân chúng, không
thể gây cảm tình với báo chí, chúng không thể ủy thác quyền hành hay tạo ra niềm
tin, chúng không thể hiểu được tư tưởng chính phủ là công bộc của dân. Chúng nó
chỉ quan tâm đến an ninh vật chất và sự sống còn của chúng, chống lại bất cứ mối
đe dọa nào cộng sản hay không cộng sản."[4]
Trường hợp thứ 4 là trong chuyến viếng thăm Sàigòn
vào năm 1961, Phó Tổng Thống Lyndon Johnson đã cường điệu so sánh ông Ngô Đình
Diệm với ông Churchill của nước Anh. Sau đó lên trên phi cơ trở về Hoa Kỳ, ký
giả Stanley Karnow hỏi ông rằng,
Stanley Karnow
“Phải chăng ông thực sự so sánh Diệm với ông Churchill
như vậy sao?” Phó Tổng Thống Lyndon Johnson đã trả lời liền rằng “Cái
cục cứt! Diệm là thằng bé duy nhất chúng ta có ở đây!” Nguyên văn:
“Carried away by oratorical hyperbole during a visit to Saigon in 1961, Lyndon
Johnson, then vice-president, had compared Diem to Churchill. “Did you really
mean it?” I asked him aboard his airplane later. “Shit,” he drwaled, “Diem’s the
only boy we got there.”[5]
Trường hợp thứ 5 được ông Bùi Văn Hồng Sơn ghi lại
với nguyên văn như sau:
“Khi phong trào đấu tranh của Phật Giáo đòi tự do tín
ngưởng và bình đẳng như Công Giáo mới bùng nổ, linh mục Jean Renou trên 37 năm
kinh nghiệm truyền giáo ở Viễn Đông đã phải lo ngại thốt lên: “Thằng cha
nầy (Diệm) điên rồi! Hắn đang hủy họai tất cả những gì chúng ta hòan thành được
suốt một trăm năm mươi năm qua."[6]
Nói tóm lại, tất cả mọi việc vận động, chạy chọt, chuẩn bị
và xếp đặt cho ông Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền là đều do bàn tay của Giáo
Hội La Mã cả. Giáo Hội La Mã đã mất bao nhiêu công lao và tiền bạc trong việc lo
lót cho ông Ngô Đình Diệm để đưa ông ta về nắm quyền cai trị ở Việt Nam. Mục
đích duy nhất của Giáo Hội là biến Ngô Đình Diệm thành một thứ bạo chúa
Constantine tại Việt Nam với chủ trương dùng bạo lực cưỡng bách nhân dân Việt
Nam phải chấp nhận đạo Ki Tô La Mã là quốc giáo.
Như vậy là ông Ngô Đình Diệm hoàn toàn nhờ vào thế lực của
ngoại bang mà chủ chốt là Giáo Hội La Mã đưa lên cầm quyền. Ông chẳng phải là
một Hoàng Thái tử hưởng quyền thừa kế vua cha mà nghiễm nhiên được đưa lên ngai
vàng trị vì để lo phúc lợi cho dân cho nước. Ông cũng chẳng phải là người từ
trong nhân dân dấy lên đem quân khử bạo, trừ gian, diệt trừ quốc tặc để đem lại
công bằng và no ấm cho muôn dân. Ông cũng chẳng phải là người anh hùng từ chốn
bưng biền kéo quân về đánh đuổi quân cướp ngoại thù để đòi lại núi sông cho dân
tộc. Ông cũng chẳng phải là người ra tranh cử trong một cuộc bầu cử dân chủ tự
do để được nhân dân tuyển chọn đưa lên làm nhà lãnh đạo quốc dân trong một thời
gian hiến định. Ông chẳng có một thứ chính nghĩa nào theo bất kỳ một hoàn cảnh
nào của đất nước hay thể chế chính trị nào trên đây cả. Ông chẳng là cái gì hết.
Thực sự, ông chỉ là người được Giáo Hoàng Pius XII (1939-1958) của Giáo Hội La
Mã đỡ đầu và được Tổng Thống Hoa Kỳ Dwight Davis Eisenhower cùng Ngoại Trưởng
Foster Dulles bảo trợ, và được hai người đàn bà sắc nước hương là Nam Phương
Hoàng Hậu và Trần Lệ Xuân (bà Ngô Đình Nhu) trời tiếp tay bằng những lời ỏn thót
nỉ non với Quốc Trưởng Bảo Đại để cho ông về Việt Nam cầm quyền.
KẾT LUẬN
Phần trìn bày trên đây cho chúng ta thấy rõ toàn thể nhân
dân Việt Nam cũng như nhân dân thế giới đều nhận thấy rằng ông Ngô Đình Diệm là
một tín đồ Da-tô cuồng tín được Đế Quốc Vatican và Hoa Kỳ đưa về Việt Nam làm
việc cho họ. Nhân dân Việt Nam, ai cũng đều biết rõ gia đình ông có công lao
với Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp-Vatican ngay từ giữa thế kỷ 19
trong việc đàn áp và tiêu diệt các phong trào tranh đấu đòi lại quyền tự do cho
quê hương và dân tộc. Bản thân ông Ngô Đình Diệm chỉ là một tên Việt gian làm
tay sai nòng cốt cho Đế Quốc Vatican, cho Pháp, chạy theo Nhật, rồi đến Hoa Kỳ.
Ông được người của Đế Quốc Vatican dẫn sang Hoa Kỳ để lo lót chạy chọt với chính
quyền Hoa Kỳ cùng với Giáo Hội La Mã làm áp lực với chính quyền Pháp và Quốc
Trưởng Bảo Đại cho ông về Việt Nam làm thủ tướng chính phủ. Khi ông về Việt Nam
cầm quyền, người Việt Nam đang cầm súng chiến đấu dù là ở trong hàng ngũ Việt
Minh Kháng Chiến hay ở trong hàng ngũ Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược
Pháp-Vatican (có chính quyền tay sai do ông Bảo Đại làm quốc trưởng) hầu như
không ai biết đến tên ông. Tại sao lại như vậy? Nhân dân Việt Nam ở thế hệ đang
chiến đấu lúc bấy giờ không biết đến ông bởi vì suốt thời gian từ khi toàn dân
vùng lên đi đòi lại núi sông cho dân tộc thì ông lại lẩn trốn ẩn náu trong các
nhà thờ của Giáo Hội La Mã, những trung tâm thâu thập tin tức tình báo chiến
lược chống lại của tổ quốc. Đối với nhân dân miền Nam, khi ông về tới Saigon,
hầu như toàn dân nếu không thù ghét và coi ông như một kẻ tử thù thì cũng lạnh
lùng, thờ ơ lãnh đạm đối với ông. Điển hình là các nhân sĩ miền Nam như các ông
Hồ Hữu Tường, Trần Văn Ân, Trần Văn Văn, Trần Văn Hữu, Nguyễn Phan Long, v.v...
đều khinh rẻ và không ủng hộ ông.
CHÚ THÍCH
[1] Nguyễn Xuân
Thọ, Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam –1858-1897
(Saint Raphael, Pháp, TXN, 1995), tr. 17.
[2] Hữu Mai,
Ông Cố Vấn - Hồ Sơ Điệp Viên - Tập 2 [Phủ Đầu Rồng] (Hà Nội: Quân Đội Nhân
Dân, 1989), tr. 171.
[3] Malachi
Martin, Rich Church Poor Church (New York: G. P. Putnam’s Sons, 1984) p.
90.
[4] Hoàng Ngọc
Thành & Thân Thị Nhân Đức, Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng Thồng Ngô Đình Diệm
(San Jose, California: Quang Vinh & Kim Loan & Quang Hiếu, 1996), tr.280.
[5] Stanley
Karnow, Vietnam A History (New York The Viking. 1983), P. 210.
[6] Bùi Văn Hồng
Sơn, “Ý kiến về bài viết Nói chuyện ngàn năm...” (Kết) danchimviet.com Ngày
26/7/2006.