NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA VIỆC
CƯỠNG BÁCH TU SĨ PHẢI SỐNG ĐỘC THÂN
Giáo Hội La Mã vừa khai thác những chuyện
hoang đường đã có sẵn trong Cựu Ước Kinh, vừa sửa lại những chuyện huyễn
hoặc trong Tân Uớc Kinh cho thích hợp với những thủ đọan mới nghĩ ra, vừa
bịa đặt thêm những tín lý bịp bợm khác nhằm khai thác lòng mê tín dị đoan
của tín đô để kinh tài. Tất cả các chuyện hoang đường, huyễn hoặc, tín lý
bịp bợm trên đây được gọi là tín điều trong hệ thống thần học của đạo Kitô
La Mã. Ngòai ra, Giáo Hội còn đặt ra không biết bao nhiêu là giáo luật nặng
tính cách chuyên chinh và áp chế với mục địch duy nhất là kìm kẹp và bóc lột
tín đồ. Tất cả các tín lý hoang đường và những giáo luật chuyên chính trên
đây được coi như là những "quy tắc đạo lý" trong đạo Kitô La Mã. Tất
cả mọi người trong xã hội Kitô La Mã bắt buộc phải sống theo và tin tưởng
tuyệt đối vào sự linh nghiệm của tín lý Gia-tô quái đản, triệt để tuân hành
những giáo luật này và lúc nào cũng phải tận lòng trung thành với Giáo Hội
La Mã.
Thấy rằng nếu không có quyền lực chuyên
chính, thì sẽ không có cách gì cưỡng bách người dân phải tin theo tín lý thần
học Kitô. Như vây, Giáo Hội sẽ không có tín đồ, (ngọai
trừ những người còn ở trong trạng thái vẫn còn tin tưởng vào chuyện tổ tiên
loài người là một cặp vợ chồng được nặn ra bằng đất sét và con tin vào
chuyện một người đàn bà đã có chồng và có cả bầy con mà vẫn còn gọi là
"đồng trinh"), Giáo Hội bèn đưa ra
chủ thuyết "thần quyền chỉ đạo thế quyền" để tiếm đọat quyền lực
chính trị. Khi đã có quyền lực chính tri ở trong tay rồi, Giáo Hội sẽ có cả
trăm phương ngàn kế để lùa người dân dưới quyền vào cái tròng
Ca-Tô
(Catholic loop) để siết cổ họ. Tùy theo hoàn cảnh của từng quốc gia, Giáo
Hội sẽ có thể:
1.- Dùng bạo lực của nhà nước để cưỡng
bách hay chèn ép nhân dân dưới quyền phải theo đạo,
2.- Dùng chức vụ và lợi lộc trong chính
quyền như những miếng mồi để câu nhử những phường tham quyền, háo danh và
háo lợi chạy theo, giống như đàn cá tra trong hồ nuôi cá bắt
mùi khi thấy những đồ
phế thải có mùi nồng nặc liệng xuống. Cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu,
cựu
Tướng Lâm Văn Phát, cựu Tướng Đặng Văn Quang, ông Hùynh Hữu Nghĩa và rất
nhiều người khác ở miền Nam theo đạo Ca-Tô để được hưởng những đặc quyền
đặc lợi của hai chế độ đạo phiệt Ca-Tô Ngô Đình Diêm và quân phiệt
Ca-Tô
Nguyễn Văn Thiệu ban phát cho đều ở trong trường hợp này[i].
.3.-.Đem giáo luật và tín lý nhập nhằng
trộn lộn làm thành luật pháp quốc gia rồi cho ban hành và cưỡng bách nhân
dân phải tuân hành giống như chính quyền Ngô Đình Diệm ban
hành luật 10/59 vào ngày ngày 6 tháng 5 năm 1959.
Chủ đích của thế lực ở hậu trường sân khấu chính quyền miền Nam Việt Nam của
việc ban hành Luật 10/59 là dùng nó làm bức bình phong
che đậy cho chính
sách bất khoan dung đối với các thành phần thuộc các tôn gíáo
khác (đang được tiến
hành bằng những chiến dịch "làm sáng danh Chúa" được ngụy trang bằng "những
chiến dịch Tố Cộng"), Luật Gia
Đình (ban hành ngày 2 tháng 1 năm 1959) cũng là một trong
những thủ đoạn của chính quyền miền Nam Việt Nam trong việc cưỡng bác nhân dân
miền Nam Việt Nam phảo sống theo giáo luật Ki-tô của Giáo Hội La Mã.
Chủ trương "thần quyền chỉ đạo thế
quyền", và việc ban hành các thánh chỉ như đã trình bày ở Chương 4
ở trên (và nơi Chương 3 trong sách Tâm Thư
Gửi Nhà Nước Việt Nam) chứng
tỏ rằng Giáo Hội có tham vọng muốn trở thành một đế quốc với dã tâm nắm độc
quyền tôn giáo, độc quyền bịa đặt ra những tín điều, độc quyền sản xuất
những nghi lễ cúng tế, độc quyền chính trị, và độc quyền kiểm sóat hết tất
cả mọi phạm vi sinh họat trong đời sống của người dân. Sự kiện này đã được
cựu giáo-sĩ Malachi Martin ghi nhận trong cuốn
Rich Church, Poor Church
với nguyên văn như sau:
“Trong các vấn đề tôn giáo, trước khi Kitô
giáo ra đời, các tôn giáo trên thế giới đều có đặc tính khoan dung. Một
trong những thông điệp của Delphic Oracle là “Mọi người đều đúng cả. Chẳng
có ai quấy.” Nguyên tắc của người La Mã thời bấy giờ là “Tôn giáo ở trong
vùng (nơi bạn cư ngụ) là tôn giáo của bạn.” Trong tâm trí và trong cách ứng
xử của người đời thời bấy giờ là không có sự liên hệ gì giữa tôn giáo và
chân lý. Tôn giáo không được coi như là một sự vật có thật. Vì thế cho nên,
trước khi có đạo Kitô, không có chiến tranh tôn giáo, không có chuyện bách
hại tôn giáo, và cũng không có người nào gọi là tử đạo cho niềm tin tôn giáo
của họ. Lúc bấy giờ, không có ai cố gắng áp đặt tôn giáo hay cưỡng bách
người khác phải theo tôn giáo của mình. Chỉ có những người Kitô giáo mới sản
xuất ra chiến tranh tôn giáo, gây nên những vụ bách hại tôn giáo và tạo nên
những người tử đạo.
Ngay từ lúc đầu, người Kitô giáo khăng
khăng cho rằng tôn giáo của họ là chân lý, rằng tôn giáo của họ nói về thực
tế. Họ đưa ra lập luận rằng tôn giáo của họ là một chân lý toàn cầu, rằng
chỉ có Kitô giáo mới là tôn giáo đích thực. Vì thế cho nên mọi hệ thống
triết lý khác và mọi hệ thống kiến thức khác - bất kỳ ngành họat động nào
của con người có liên hệ với chân lý – đều phải hài hòa với tôn giáo đích
thực là Kitô giáo. Trái lại, đó chỉ là một hệ thống triết lý giả, một kiến
thức giả. Tất nhiên là mọi tính cách đạo đức đều từ Kitô giáo mà ra. Kitô
giáo thấm nhập vào tất cả mọi lãnh vực trong đời sống thế tục từ kinh tế,
chính trị, tài chánh, nghệ thuật, giáo dục cho đến các cơ cấu khác trong xã
hội. Tôn giáo và chính trị, tôn giáo và tài sản, tôn giáo và chính quyền,
tôn giáo và nghệ thuật, tôn giáo và sự học hỏi – giữa những liên hệ với cơ
cấu này, không có sự chống đối nào mà không hòa giải được. Những cơ cấu này
không thể tách rời được và cũng không thể giữ nó ở trong tình trạng tách rời
nhau. Các vấn đề như quân sự, chính trị, tài sản, nghệ thuật và chính quyền,
tất cả đều phải bị tôn giáo thống trị tuốt luốt.”
[“In religious matters, the pre-Christian
world was ecumenical tolerant. “Everybody is right. Nobody is wrong,” was
one message of the Delphic Oracle, “Whatever be the region of the earth
where you find youself,” went the Roman principle, “that region’s religion
is your religion.” In men‘s minds and in the way they conducted their
affairs, there was no connection between religion and truth. Religion was
not considered a true thing. Hence, prior Christianity, there was no
religious wars and no religious persecutions. There was no religious martyrs
for their faith. No one tried to impose religion as such on anyone else.
Only Christians produced such wars, persecutions and martyrs.
From their beginnings, Christians insisted
that their religion was true, that it did speak about reality. They drew the
logical conclusion from that: that it was universally true. That there could
be only one true religion. Theirs. Hence all philosophy and all knowledge -
any branch of human activity that dealt with the truth – had to be, would be
reconcilable with the true religion, Christianity. Otherwise, it was a false
philosophy, a false knowledge. Automatically, an all embracing
morality from this Christianity. It permeated all aspects of temporal life:
economics, politics, finance, the arts, education, social structures.
Religion and politics, religion and wealth, religion and government,
religion and art, religion and learning – between these there was no
irreconcilable opposition. They were not separate or to be kept separate.
Military matters, matters of politics, wealth, art, government – all became
dominated by religion.”)
[ii]
Vì lòng tham lam ôm đồm muốn nắm quyền
kiểm sóat hết tất cả mọi họat động trong xã hội, cho nên,
trong các quốc gia dưới quyền thống trị của chính quyền tay sai của Giáo Hội, bàn tay thu vơ của
Giáo Hội có thể vươn tới bất kỳ nơi nào và trong bất kỳ phạm vi sinh họat
nào trong nhân dân để bóc hốt. Nhờ vậy mà Giáo Hội đã trở thành một thế lực
giầu có đệ nhất cổ kim. Khốn nỗi, vì bản chất ích kỷ, bần tiện và đa nghi,
Giáo Hội sợ rằng, nếu giới tăng lữ có vợ con thì họ sẽ chuyển những khối
tài sản khổng lồ của Giáo Hội (do
họ quản lý trong phạm vi quản nhiệm của họ)
cho vợ con của họ. Đây là nguyên nhân khiến cho Giáo Hội phải dùng thủ
đoạn cưỡng bách họ phải "sông đời độc thân". Bị cưỡng bách
phải "sống đời độc thân", gíới tăng lữ, từ ông giáo hòang và các vị
chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican cho đến các ông hồng y, giám mục
và linh mục tại các địa phương rơi vào tình trạng bị dồn ép về tâm lý và
sinh lý. Tình trạng này đã khiến cho họ mất hết lý trí, mất hết lương
tâm, để rồi hành xử theo dục vọng giống như lòai cầm thú, lao vào vực
thẳm của tội ác như loạn luân, dâm loàn, làm băng hoại nếp sống văn minh của
nhân loại. Phần trình bày dưới đây sẽ cho chúng ta thấy rõ sự kiện này.
ĐỜI SỐNG GIỚI TĂNG LỮ CỦA GIÁO HỘI KITÔ TRƯỚC KHI BIẾN THÀNH GIÁO HỘI LA MÃ
Trước năm 325, thời kỳ chưa lột xác thành
Giáo Hội La Mã, Giáo Hội Kitô Do Thái hoàn toàn nằm trong giai cấp bị trị,
và giới giáo sĩ tu sĩ vốn dĩ vẫn sống đời sống bình thường, có vợ, có con,
và nhiều giáo sĩ hay tu sĩ có cả một bầy con. Vì nằm trong giai cấp bị trị,
Giáo Hội Kitô (Do Thái) lúc đó không có quyền lực, cho nên không có một tu
sĩ hay tín đồ Ki-tô nào có một chức vụ gì trong chính quyền. Cũng vì thế mà
thời đó, Giáo Hội Ki-tô Do Thái cũng như giới tu sĩ và tín đồ Ki-tô đều
không có danh lợi gì để ban phát cho ai cả. Và cũng vì thế, lúc đó cũng
không có một ông tu sĩ Kitô nào lăng xăng ra vào cửa quyền để lo lót xin xỏ
công ăn việc cho tín đồ hoặc bao che cho tín đồ trốn lính hay chạy chọt cho
tội phạm được lọt lưới pháp luật. Trong hòan cảnh như vậy, tất nhiên là
Giáo Hội KHÔNG CÓ bổng lộc, và cũng KHÔNG CÓ những "khối tài sản của cải
kếch sù của tín đồ hiến dâng và không có nhiều bất động sản" (rich
endowments and plenty of real estate). Thuở đó, Giáo Hội nghèo xơ nghèo
xác. Các ngôi giáo đường chỉ là một ngôi nhà nguyện nhỏ bé và cũng là trụ sở
hội họp của một số tín đồ lèo tèo mấy người trong một khu vực địa phương.
Thuở đó, tất cả tu sĩ và tín đồ Kitô cùng
bị áp bức, cùng bị bóc lột như nhau, và cùng giống nhau ở một điểm là đều
có gia đình và đều sống với vợ con dưới cùng một mái nhà trong cảnh
nghèo nàn thiếu cơm, thiếu áo, nhưng hết lòng thương yêu và quấn quýt với
nhau trong tình thương yêu gia đình. Vì có vợ con và sống với vợ con như
người dân thế tục, cho nên thời đó không có nạn tu sĩ Kitô hủ hóa, sống đời
phóng đãng lọan luân, dâm lòan và cũng không có nạn các ông tu sĩ Gia-tô sờ
mó con nít, sờ mó nữ tín đồ, làm hại đời con gái và phá nát hạnh phục gia
đình của tin đồ như từ thời Trung Cô cho đến nay. Vì thời đó Giáo Hội ở
trong tình trạng nghèo nàn như vậy, cho nên không có vấn đề lo sợ các ông tu
sĩ tẩu tán hay chuyển nhượng tài sản cho vợ con của họ, dù rằng họ thực sự
có vợ con chính thức và sống công khai với vợ con. Nhờ vậy mà tu sĩ được
sống đời sống bình thường giống như những người bình thường khác với đầy đủ
nhân tính thất tình và lục dục. Vợ con của họ không phải sống trong lo sợ bị
ông chồng bỏ rơi vào những khi "được Chúa gọi mời" cho lên "mang
chức thánh" để lo việc Chúa hay phục vụ Chúa.
Thế nhưng, kể từ khi Giáo Hội Kitô (The
Jewish Christianity) lột xác thành Giáo Hội La Mã (The Roman Catholic Church), thì cái hạnh phúc lứa đôi và tình thương yêu gia đình của các ông tu sĩ
Ca-Tô bắt đầu bước vào tình trạng
nguy hiểm! Tất cả đã bị Giáo Hội thẳng tay hủy diệt một cách vô
cùng tàn bạo và hết sức man rợ. Việc làm dã man này của Giáo Hội đưa đếnmột chuỗi hậu quả giây chuyển trong xã hội Kitô giáo với những thảm trạng:
1.- Giới tu sĩ bị rơi vào tình trạng bất
bình thường về tâm lý và sinh lý (bị dồn ép) khiến cho họ sống đời sa đọa,
hoang đàng, phóng đãng, lọan luân, dâm loạn,
2.- Chị em phụ nữ bị khinh rẻ được coi như
là món đồ chơi cho giới tu sĩ và những người có quyền thế.
3.- Các dòng nữ tu trở thành những trung
tâm du hí và giải trí cho nam tu sĩ,
4.- Trẻ sơ sinh do các dì phước trong các
nữ tu viện sinh ra bị sát hại,
5.- Nạn con hoang hay con rơi của các ông
tu sĩ lan tràn khắp trong các giáo xứ của Giáo Hội.
Những sự kiện này đều được sách sử ghi lại đầy đủ. Phần trình bày dưới đây sẽ
giúp cho quý vị có cái nhìn rõ ràng hơn về.các vấn đề
này.
A.- NGUYÊN NHÂN ĐƯA ĐẾN CHÍNH SÁCH
CƯỠNG BÁCH TU SĨ PHẢI SỐNG ĐỘC THÂN
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng các thế
lực chính trị càng có nhiều quyền lực, thì càng có nhiều phương tiện để áp
bức nhân dân, mức độ áp bức càng lên cao, phương cách bóc lột nhân dân
càng tinh vi và càng siêu việt. Sự kiện này đã trở thành quy lụật của lịch
sử. Là một đế quốc thực dân xâm lược đội lốt tôn giáo, tất nhiên Giáo Hội La
Mã cũng không thoát khỏi quy luật này. Vì thế mà chúng ta không lấy gì làm
ngạc nhiên khi thấy Giáo Hội dùng cả trăm phương ngàn kế để vừa mê hoặc và
lừa bịp tín đồ, vừa củng cố và duy trì quyền lực, vừa dồn hết nỗ lực vào các
dịch vụ kinh tài, vơ vét tiền bạc, của cải của tín đồ và của các dân tộc bị
trị để gửi về làm giầu cho chính quốc Vatican,
đặc biệt nhất là Giáo Hội lại là
trung tâm ban phát quyền lực và ân huệ ở trong cõi đời này cũng như ở ở đời
sau. Vì vậy mới có rất nhiều người chạy đến cầu khẩn van xin được ban cho ân
huệ mong được Giáo Hội "NHẬM LỜI" chiều theo ý muốn của họ.
Có một quy luật độc đáo là Giáo
Hội chỉ chiều theo ý muốn của họ Nếu họ tỏ ra BIẾT ĐIỀU triệt để
tuân hành quy luật "Có đi có lại mới toại lòng nhau" hay "Provide
help, create hope" và "cao lễ dễ thưa". Độc đáo hơn nữa
là việc "nhậm
lời" cầu xin của tín đồ và việc "banphước lành"
cho họ còn
được tính theo tỉ lệ với lễ vật dâng lên cho nhà Chúa. Đây là sự thật và sự
thật này đã được đúc kết thành thành ngữ "High money, high Mass; low
money, low Mass; no money, no Mass" (Nhiều tiền lễ lớn, ít tiền lễ nhỏ,
không tiền không lễ) trong xã hội Ca-Tô giáo. (Xin
xem lại Chuyện Nơi Luyện Ngục trong Chương 4).
Ngòai ra, Giáo Hội lại còn có quyền lực cưỡng bách nhân dân trong vùng phải
đóng thuế thập phân (tithe) nữa. Tinh vi hơn nữa, Giáo Hội còn bịa đặt ra
hàng mấy chục ngàn lần "Đức Mẹ hiện ra" rồi thêm mắm thêm muối với
hàng ngàn chuyện "ban phép lành trị bệnh" cho những ai đem lễ vât đến
tận chỗ Đực Mẹ hiện ra để dâng cúng và cầu xin. Về phía tín đồ, một phần vì
bị mê hoặc bởi bộ máy tuyền truyền của Giáo Hội, một phần vì vốn đã có máu
tham quyền, háo danh, hám lợi, lòng tham nổi lên khiến cho họ đổ xô đến hành
hương ở chỗ "Đức Mẹ hiên ra", chen nhau đem tiền bạc đến dâng cúng để
cầu xin, để mua những "thánh tích" và" thánh vật". Thế là Giáo Hội cứ việc
thò bàn tay ra thu vơ tóm lấy những lễ vật dâng cúng này cho vào túi tham
của Giáo Hội. Tất cả những thủ đọan làm tiền trên đây đã được trình bày ở
các Chương 12, 13 và 14. Một trong những phương cách vơ vét của cải và tích
lũy tài sản của Giáo Hội La Mã là phát động những cuộc chiến thâp ác, đem
quân tiến vào các vùng đất của các dân thuộc tộn giáo khác để tàn sát đàn
ông, tiêu hủy các công trình xây cất và các di sản văn
hóa của họ, hãm hiếp phụ nữ, chiếm đọat tài ngưyên,
và cướp đoạt của cải đem vê
làm giằu cho Giáo Hội. Sách Việt Nam 1920-1945 viết:
"Đạo Thiên Chúa đã lăn lưng vào những
cuộc Thập Tự Chinh Chiến (croissades), một cuộc cướp bóc tập thể khủng
khiếp."
[iii]
Sách Living World History cho chúng ta
biết sơ qua giầu có của Giáo Hội và một vài phương cách mà Giáo Hội sử dụng
để bóc lột nhân dân như sau:
"Giáo Hội đã trở nên vô cùng giầu có.
Lợi tức hàng năm của Giáo Hội còn nhiều hơn cả lợi tức của tất cả các nhà
cầm quyền thế tục (Âu Châu) gom lại. Giáo Hội thường xuyên tiếp nhận những
khối tài sản lớn lao về đất đai (của các thế lực chính trị hay của các nhà
giầu có dâng cúng). Ngoài ra, Giáo Hội còn thu thuế 10 phần trăm lợi tức của
mỗi người dân bắt buộc phải đóng cho Giáo Hội." ("The Church had also
grown immensely wealthy, its income exceeding that of all the important lay
rulers put together. It was constant receipient of large gifts of land in
addition to the tithe, or tenth part of income, that each
member was required to pay to the Church.")
[iv].
Sách Cách Mạng và Hành Động viết:
"Còn như đối với quý tộc và tu sĩ, lẽ
dĩ nhiên là người nông dân phải chịu bao nhiêu thứ bóc lột. Muốn xay lúa mì
cũng phải thuế, muốn nướng bánh mì cũng phải thuế, muốn hái nho làm rượu
cũng phải thuế, muốn qua cầu qua đò cũng phải thuế, muốn cất một ngôi nhà
cũng phải thuế! Người nông dân đóng thuế cho vua rồi, không lẽ còn phải nai
lưng ra đóng thuế cho chúa nữa? Do đó, họ dần dần nhận thấy những quyền hành
của chúa là vô lý, và phôi thai những hoài vọng giải phóng."
[v]
Sử gia Helen Ellerbe viết về những thủ
đoạn làm tiền và chi tiền bất chính của Giáo Hội trong cuốn The Dark Side Of
Christian History với nguyên văn như sau:
“Tiền bạc và thế lực giữ một vai trò
quan trọng trong việc leo lên nấc thang quyền lực trong Giáo Hội La Mã và
tạo nên cái bản chất nhơ nhớp của Giáo Hội trong thời Trung Cổ. Ít nhất là
có tới 40 (bốn mươi) người đã dùng thế lực và tiền bạc lo lót để leo lên
chức vụ giáo hoàng. Khi mà ngôi vị giáo hoàng đồi chủ quá nhiều lần như vậy
thì tất nhiên có rất nhiều nguồn tin nói về tội ác và những cảnh tượng sát
hại lẫn nhau để tranh giành quyền lực trong những lần ngôi vị gíao hoàng đổi
chủ như vậy. Trong một thời gian khoảng một trăm năm, có tới hơn 40 người
lên nắm giữ chức vị giáo hoàng. Trong thời gian 12 năm từ 891 đến 903, có
không dưới mười người nhẩy lên ngôi giáo hoàng.
Trong thời Trung Cổ, Giáo Hội tích lũy tài
sản một cách quá đáng. Giáo Hội chiếm hữu những tài sản của những người chết
không có người thừa kế và được miễn thuế. Vì thế mà khối tài sản về ruộng
đất của Giáo Hội lên tới ¼ hay 1/3 của toàn thể ruộng đất ở Tây Âu. Thêm vào
những khoản tài sản này, các ông giám mục còn là những lãnh chúa ruộng đất
trong vùng quản nhiệm giống như các ông công tước hay nam tước và cũng thi
hành nghĩa vụi cung cấp binh lính vào khi bọn vua chúa địa phương cần đến.
Giáo Hội làm tiền bằng cách thu nhận những khoản tiền do các nhà cầm quyền
trong đế quốc đóng góp, bằng cách tịch thu tài sản theo những phán quyết của
tòa án, bằng cách bán giấy xá tội cho tín đồ, bằngcách bán những chức vụ trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội, và nhiều
khi Giáo Hội dùng cả bạo lực để chiếm đoạt ruộng đất của nhân dân dưới quyền.”
(Nguyên văn: “Money and power
played a critical role in man ’s ascent to through the Church hierachy and
contributed to the disreputable nature of the medieval Church. At least
forty different Popes are known to have bought their way into the papacy.
Allegations of murder and crime within the Church abounded as the papacy so
frequently changed hands. In a particular one hundred year period, more than
forty Popes came to office. In the twelve years period from from 891 to 903
alone no less than ten different Popes held power.
The Church amassed inordinate wealth
during the Dark Ages. Patrimonial properties, the church held lands that
there were free and clear of taxes or military obligation to the king, made
up between one-quarter and one third of western Europe. In addittion to the
patrimony, bishops often held territories in feudal tenure, obliging them
like any count or baron to provide the king with soldiers when called. The
Church made money by collecting revenues from imperial rulers, by
confiscating as a result of court judgement, by selling remission of sins
(called “indulgences”), by selling ecclesiastical offices (called “simony”),
and sometimes by simply taking land by forces.”)
[vi]
Bản Tuyên Cáo 6 của Học Hội Đức Giêsu Kitô
Phục Sinh được công bố ngày 15/6/1999, trong đó có một đoạn viết như sau:
"Vào thế kỷ 15 và 16, không kể đất đai
cát cứ, chỉ nguyên bất động sản thuộc loại kiến trúc của Giáo Hội trên khắp
cõi Âu Châu và Địa Trung Hải, nếu đặt gần nhau, chiều dài bằng (hay) dài
hơn "Vạn Lý Trường Thành" của nhà Tần bên Trung Quốc, nhưng bề dầy thì dầy
hơn kiến trúc của nhà Tần gấp nhiều lần. Nông nô hay tá điền, lao nô hay
công nhân phục vụ cho Giáo Hội có thời, có nơi lên đến 1/3 dân số đất nước
của các vua chúa thời phong kiến. Ngoài ra, Giáo Hội còn thiết lập một hệ
thống thuế vụ riêng, một hệ thống pháp đình riêng, cả hai độc lập, ngoài
quyền kiểm soát của các ông hoàng đế và các ông vua. Khối lượng "mammom"
(tài sản) của Giáo Hội là khối tài sản thủ đắc khổng lồ, vô địch thiên hạ cổ
kim. Một Giáo Hội "kinh bang tế thế" thành công vẻ vang huy hoàng như thế,
người ta không thể nói đến dân chủ."
[vii]
Trong bức tâm thư của Học Hội Đức Giêsu
Kitô Phục Sinh gửi các linh mục Việt Nam vào tháng 5/1999, trong đó có một
đoạn nói rõ những khối tài sản khổng lồ mà Giáo Hội đã cướp đoạt được tại
một số quốc gia Âu Châu. Nguyên văn đoạn này như sau:
“Giáo Hội tự định nghĩa mình là “Một Mầu
Nhiệm”, tự gọi mình là “Hiền Thê của Thiên Chúa Làm Người”...Nhưng tài sản
của Giáo Hội trước thời cải cách Luther – Erasmus, tại Đức là 1/5 cả nước,
tại Pháp là 1/7 cả nước, tại Tây Ban Nha là 1/6 cả nước, tại
Ý là 1/4 cả nước... Đó là quyền lực của mammon (mamona) mà Đức Giêsu
Kitô giảng dạy trong Tin Mừng: “Người là tôi tớ cho mamon (của cải) vào
nước Trời khó hơn lạc đà chui qua lỗ chôn kim”, thế mà “hiền thê của Đức
Kitô” liên tiếp trong mười mấy thế kỷ giầu nhất thiên hạ Đông Tây.”
[viii]
Giáo Hội quả thật là một thế lực giầu có
vào bậc số 1 trên thế giới trong lịch sử loài người!
Giáo Hội đã sử dụng những phương cách làm
tiền như thế nào mà trở thành giầu có như vây? Thêo các nhà sử học, đó là
những phương cách:
1.- Giáo Hội sử dụng quyền lực cưỡng bách
nhân dân dưới quyền phải đóng thuế thập phân (tithe) như nói ở trên.
2.- Giáo Hội bịa đặt ra hàng ngàn tín lý
và lễ vụ bịp bợm để móc túi tín đồ (Xem Chương 13)
3.- Giáo Hội dựa vào các chính quyền đạo
phiệt Ca-Tô tay sai để kinh tài bất chính (Xem các Chương 12, 13 và 15).
4.- Giáo Hội đem quân thập tự đi chinh
phục đất đai để giết người đọat của (đã được trình bày trong Vatican Thú Tội
và Xin Lỗi? (Garden Grove, California, 2000) và bày ở Chương 5 - Phần hủy
diệt nền văn minh nhân lọai.
5.- Hầu hết các ông giáo sĩ hay tu sĩ
Ca-Tô đều lao vào việc làm tiền, làm tiền bất chính và làm tiền một cách
trắng trợn khi họ có cơ hội. Sự kiện này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi lại
như sau:
"Tóm lại, lý do mà tất cả mọi người,
linh mục, giám mục, tu sĩ nam nữ nói đến nhiều hơn hết là tiền bạc. Chúng
tôi thiếu vốn, chúng tôi thiếu sự giúp đỡ, thiếu của viện trợ, v.v... Điều
còn tệ hại hơn nữa là những trường hợp lừa đảo.... Người ta có cảm giác
rằng, Giáo Hội mắc phải chứng "bệnh xây cất và kiếm tiền" và có thể quả
quyết rằng, trong cảnh nghèo đói chung và cơn khủng hoảng kinh tế hiện nay,
Giáo Hội là cơ quan duy nhất có tầm cỡ quốc gia, vẫn tiếp tục xây cất mở
mang, có những phương tiện lớn lao và những con người được chuân bị cho
việc đó.."
[ix]
Vì tham lam vừa ôm đồm qua nhiều quyền
lực, vừa chủ trương nắm độc quyền kiểm sóat tất cả mọi sinh họat trong đời
sống con người, Giáo Hội cần phải có một bộ máy cai trị với những cán bộ
(được gọi là tu sĩ) vừa trung
thành và tận tụy làm việc cho Giáo Hội, vừa có khả năng đảm nhiệm được nhiều
vai trò khác nhau, trong đó có vai trò kinh tài và quản thủ tài sản trong
địa hạt quản nhiệm của họ. Không những đã tham lam, Giáo Hội lại còn vừa keo
kiệt, vừa mang chứng bệnh đa nghi. Vì keo kiệt cho nên Giáo Hội mới đòi hỏi
một tu sĩ (cán bộ) phải nắm giữ nhiều vai trò cùng một lúc. (Xin xem lại
Chương 7). Vì mang chứng bệnh đa nghi, Giáo Hội mới lo sợ các ông cán bộ
của Giáo Hội rất có thể biển thủ của cải mà chính họ phụ trách công việc
thu vơ lợi nhuận và quản thủ. Do đó, Giáo Hội mới tìm cách đề phòng và
ngăn chặn, không để cho họ có thể biển thủ hay ăn cắp tài sản của Giáo Hội,
theo đúng triết lý "phòng bệnh hơn là chữa bệnh". Biện pháp đề
phòng này là nguyên nhân đưa đến việc cưỡng bách giới tu sĩ phải sống độc
thân. Sự kiện này được sách Vicars of Christ ghi lại như sau:
"Vào thế kỷ thứ 4, sự việc còn trở nên tồi
tệ hơn nữa. Lúc đó, Giáo Hội được nể trọng với những khối tài sản của cải
kếch sù và đầy dẫy những bất động sản do nhân dân dâng hiến. Giáo Hội không
muốn khối tài sản này sẽ bị các ông giáo sĩ hay tu sĩ có gia đình làm di
chúc chuyển nhượng cho vợ con của họ.. ."Khi trở thành giáo hoàng vào năm
366, Damasus I (366-384) nêu gương từ bỏ vợ con, tiêu biểu cho một loại lạm
dụng khác. Tình trạng này khiến cho các bà phải thận trọng tìm hiểu người
mà các bà trao thân gửi phận. Năm 867, khi được lên ngôi giáo hoàng, Adrian
II (867- 872) cũng chính thức từ bỏ người vợ tên là Stefania và người con
gái của ông ta”. Nguyên văn:
"Thíngs became still worse at the end of the fourth century. The
church was then respectable, with rich endowments and plenty of real
estate. She did not want a married priest bequeathing it to his wife and
children... Damasus, who became pontiff in the year 366, exemplified a
different sort of abuse. He renounced his wife and family. On those days,
women had to be careful whom they married. Adrian II (867-872) was another,
who in 867, gave up his wife Stefania and his daughter when he ascended
Peter's chair."
[x]
"Giáo Hội dễ dàng chấp nhận để cho các tu
sĩ sống với những người vợ không có hôn thú hơn là để cho họ chính thức
thành hôn vì một lý do thông thường và thực tế là: các bà vợ không có hôn
thú và con cái của họ không thể đòi chiếm hữu tài sản của Giáo Hội (do các
ông chồng không chính thức của họ quản lý - NMQ) khi người chồng không có
hôn thú của họ qua đời."
Nguyên văn: "The church more easily condoned concubinage than marriage
for the usual practical reason: concubines could not claim church property
as a right for themselves and their offspring when
their priest lovers died." [xi]
Vạn sự khởi đầu nan. Đòi hỏi giáo dân
trước khi dấn thân vào cuộc đời đi tu phải sống độc thân thì dễ dàng mặc dù
là chưa biết cái điều kiện sống độc thân này có gây
trở ngại cho vấn đề sinh lý và tâm lý trong đời sống hàng ngày của người đi
tu hay không. Chuyện này sẽ được trình bày ở Chương 17. Vấn đề khó khăn
là làm cách nào để cưỡng bách các ông tu sĩ vốn đã có vợ con và có nhiều
người đã có cả đàn con phải chính thức từ bỏ vợ con của họ để "sống độc
thân" đúng theo đòi hỏi của Giáo Hội vì rằng từ khi Giáo Hội Kitô Do
Thái ra đời (vào cuối thế kỷ 1) rồi lột xác biến thành Giáo Hội La Mã vào
giữa thập niên 310 cho đến năm 1123, giáo sĩ hay tu sĩ Gia-tô thường có vợ
con và sống với gia đình như những người dân bình thường (không phải là tu
sĩ). Mãi tới năm 1123, Giáo Hội mới quyết đình đòi hỏi tu sĩ phải sống độc
thân. Quyết định này được Giáo Hội tái xác định bằng một thánh lệnh được
ban hành vào năm 1215 (sẽ được trình bày rõ ràng ở dưới).
Theo sự hiểu biết của người viết, các nhà
lãnh đạo của Giáo Hội đã có ý nghĩ cưỡng bách giới tu sĩ (đã có vợ con)
phải chính thức từ bỏ vợ con của họ từ thế kỷ thứ 4, và chỉ nêu ra khẩu
lệnh hay đưa ra "lời kêu gọi" rồi trông cậy vào sự vâng lời và lòng tự
nguyện của giới tu sĩ. Nhưng vì cái lệnh này bất nhân quá, cho nên chẳng có
ai nghe theo, ngoại trừ những kẻ không còn nhân tính như trường hợp Giáo
Hoàng Damasus I (366-384) là người đầu tiên. Cho mãi tới 5 thế kỷ sau, mới
có Giáo Hoàng Adrian II (867-872)
theo gương Giáo Hoàng Damasus I làm cái chuyện dã man, bất nhân và bất
nghĩa này. Điều khôi hài là cả hai nhân vật làm cái chuyện "đại nghịch
bất đạo" "trời không dung, đất không tha" này lại là hai nhân vật
lãnh đạo số 1 của Giáo Hội. Ai cũng biết rằng, đối với xã hội
Ca-Tô giáo,
Giáo Hoàng là hoàng đế của các ông hoàng đế và uy quyền còn lớn hơn cả uy
quyền của Tần Thủy Hoàng trong đời nhà Tần ở nước Trung Hoa. Lịch sử cho
thấy rằng, bọn vua chúa ở bất cứ quốc gia nào (còn
theo chế độ quân chủ chuyên chính)
vẫn thường chính thức từ bỏ vợ con một cách rất hợp pháp và rất dã man,
nhưng không có gì bảo đảm được rằng sau khi chính thức từ bỏ vợ con rồi,
bọn người này sẽ không có quan hệ tình cảm với bất kỳ một người phụ nữ nào
cả. Người viết không biết hai ông Giáo Hoàng Damasus I và Giáo Hoàng Adrian
II có như vậy hay không.
Thấy rằng nếu cứ để cho các tu sĩ tự
nguyện tuân hành "lời kêu gọi" "chính thức từ bỏ vợ con" để làm tròn
nghĩa vụ của "người mang chức thánh" đối với Giáo Hội, thì chẳng có
ai tuân hành cả. Vì thế, vào năm 1123, Giáo Hội mới quyết định triệu tập Hội
Nghị Lateran để hội nghị này dùng biện pháp mạnh bằng một quyết định cưỡng
bách giới tu sĩ đã có gia đình phải dứt khóat từ bỏ vợ con để sống độc thân
một cách chính thức. Biện pháp này quả thật là một việc làm tội ác hết sức
bất nhân và vô cùng dã man. Sự kiện này được sách Vicars of Christ trình
bày rõ ràng như sau:
"Ngay cả những tín đồ Ca-Tô ngày nay đôi
khi cũng lầm tưởng rằng việc tu sĩ Ca-Tô phải sống độc thân là đã có từ thế
kỷ 12. Đây là sự lầm lẫn thông thường. Tuy nhiên, việc cưỡng bách các ông
tu sĩ phải sống độc thân đã xẩy ra từ nhiều thế kỷ trước đó. Nhưng một biến
cố lớn có liên hệ đến tình trạng này đã xẩy ra trong thời Giáo Hoàng
Callistus II (1119-1124). Ông giáo hoàng này cho triệu tập Đại Hội Đồng đầu
tiên ở Tây Phương vào năm 1123, thường được biết là Đệ Nhất Hội Đồng
Lateran. Tại hội đồng này, hàng ngàn giám mục ra lệnh rằng mọi tu sĩ có gia
đình phải chính thức bỏ rơi vợ con và những người vợ của họ phải ăn năn sám
hối, vì rằng hôn nhân của họ đã trở thành vô hiệu lực. Đây là lần đầu tiên
việc cưỡng bách các tu sĩ phải sống độc thân trở thành một thực tế tinh thần
mạnh nhất." Nguyên văn:
"Even Catholics are sometimes
under the illusion that clerical celibacy was introduced in the twelfth
century. This is a common mistake. Celibacy, however badly kept is several
hundred years older than that. But something momentous did occur under Pope
Callistus II. He summoned the first General Council of the West in the year
1123, known as the first Lateran. A thousand prelates decreed that clerical
marriages shoud be broken up and the spouses made to do penance because
these marriages were invalid. For the first time, celibacy was proclaimed to
be the strongest spiritual reality"
[xii]
.
"Không như Giáo Hoàng Gregory VIII
(1073-1085) trước kia, đối với Giáo Hoàng Innocent III (1198-1216) sự trinh
bạch trong trắng của tu sĩ không phải là mối quan tâm chính nữa. Ông (Giáo
Hoàng Innocent) muốn tu sĩ phải là những người độc thân điều hành hệ thống
quyền lực chuyên chính của Giáo Hội. Tuy các tu sĩ có gia đình (chính thức)
là những người thánh thiện, nhưng họ không trung thành với Giáo Hội như
các tu sĩ độc thân dù những người này là những hạng người lọan luân và dâm
loàn." Nguyên văn: "It has to be said that chastity of
priests was not Innocent's prime concern, any more than it had been Gregory
VIII's. He wanted an unmarried priesthood to operate Gregory's clerical and
absolutist system. Priests, however holy, who married were not so loyal to
the system as celibate priests who were forniacators and adulterers on a
grand scale."
[xiii]