"Chúng con nguyện danh Cha cả sáng,
Nước Cha trị đến"
Hoàng Thục An
https://sachhiem.net/TONGIAO/tgH/HgThucAn1.php
08 tháng 3, 2009
Trong kinh nhật tụng "Lạy Cha" của đạo Công Giáo có một câu đặc biệt rất khích động "Chúng con nguyện danh Cha
cả sáng, Nước Cha trị đến" Mà muốn "nước Cha Trị Đến..." thì phải đi
chinh phục. Đi chinh phục (tức đi truyền giáo) thì phải có Đạo binh,
có Chiến sĩ.
Và đây là những bằng chứng lịch sử (trích trong các thư khố của
Pháp) cho thấy rõ những Đạo binh, Chiến sĩ trong KINH LẠY CHA vào
thời ấy ở Việt Nam như thế nào. (Đây là một phần trong Luận án Tiến
sĩ của Giáo sư Cao Huy Thuần trình tại Paris. Tài liệu này cho thấy
các Giám mục Thừa sai ngoại quốc cũng như Cha, Cố và Đàn Chiên bản
địa tàn ác với quốc dân đồng bào gấp bội Chính quyền Thực dân cướp
nước vào thời đó:
… Các tín đồ Thiên Chúa giáo cảm thấy mình mạnh bèn tấn công vào
những làng phi Thiên Chúa. Sự trả đũa của họ thật quá sức dã man,
như các báo cáo của các sĩ quan Pháp đã cho thấy. Sau đây là một vài
vụ theo lời thuật của Harmand:
“…Trong chuyến công tác, người ta cho họ đi đầu toàn thể dân Công
giáo rồi chiếm và đốt một số làng của các kẻ ăn cướp hay của các nho
sĩ võ trang (các sĩ quan gọi bất cứ ai chống họ là “kẻ cướp”). Họ
giết 10 người, trong đó có một viên chỉ huy; các người bị thương đều
bị tra tấn, bị trấn nước hay bị thiêu sống, chùa chiền bị phá hủy.
Những người đó tỏ ra rất can đảm, nhưng tôi tự hứa không để bắn một
phát nào nữa nếu không có tôi (bất kể những lời người ta khuyên) mục
đích là để tôi đích thân chống lại các cảnh dã man đó, mà chỉ tấn
công các làng chắc chắn có tội và để tránh cho các con chiên cuồng
tín đó khỏi bị trả đũa khủng khiếp trong trường hợp Pháp thua trận
hay thay đổi chính sách” (Harmand gửi Testard, 16-1-1874, Thư khố Bộ
Pháp quốc Hải ngoại A00 (10) hộp 1).
“… Chúng tôi lần lượt chiếm 4 làng, bắt 5 người chỉ huy, nhưng
không phải là những người nổi tiếng, họ sẽ bị xử tử hôm nay, và giết
ít nhất 50 người trang bị bằng dáo hay bằng gậy… Viên hạ sĩ và hai
người mà tôi phái đến Giám mục Cézon đã trở về ngày hôm kia. Phái bộ
truyền giáo đã phái họ đến một ngôi làng người lương ít nhiều theo
trộm cướp, họ giết 10 người, họ kể với tôi rằng, người An Nam (tín
đồ Công Giáo) tra tấn rất tàn nhẫn các người bị thương (Kháng chiến
quân), phá sập ngôi chùa trong làng, tất cả việc này, Giám mục Tây
Ban Nha hết sức hài lòng…” (Harmand gửi Ganier ngày 22-12-1873, do
J.Marquet và J.Norel dẫn, “L’occupation francaise au Tonkin”,
tr.112)
Các sĩ quan Pháp đều công nhận trách nhiệm nặng nề của các Giám
mục và các kẻ truyền đạo trong các vụ trả thù man rợ này:
“Không chối cãi được, một số Giám mục Pháp đã hùa với các nỗi
ghen ghét, hận thù sục sôi ở nơi họ sống; họ làm hại các con chiên
một cách nghiêm trọng khi đẩy những người này vào một cuộc nổi dậy
chống lại chính phủ An Nam.
Việc chinh phạt của Pháp chỉ là cái cớ bề ngoài, còn lý do căn
bản là sự tranh chấp phe phái. Nên để ý là một số vụ nổi loạn do
những kẻ tự xưng là con cháu nhà Lê đều có các viên chỉ huy là Thiên
Chúa giáo… Cầm đầu các đám tín đồ Thiên Chúa đi cướp bóc, đốt phá
các làng phi Thiên Chúa và triệt hạ chùa chiền thường là các linh
mục hay các kẻ truyền đạo: họ bổ nhiệm các viên đội, tụ tập binh
lính mà đa số, theo lời thú nhận đều là đầu trộm đuôi cướp”
(Philastre gửi Dupré, 15-1-1874, Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô
đốc 13506 số 4).
“Hình như đôi khi, tôi dám nói như thế này, lòng nhiệt thành tôn
giáo đã hủy hoại các tư tưởng công bình, chân lý, nhân đạo, bác ái ở
các nhà truyền đạo, và họ dễ dàng để mình bị lôi cuốn vào chính các
lỗi lầm mà họ đã thấy rõ ở các đối phương của mình." (Rheinart gửi
Garnier, 14-14-1874, Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc 13506 số
4).
“… Chúng tôi thấy một số lớn làng bị thiêu rụi. Khổ thay, cứ mỗi
lúc, các tín đồ Thiên Chúa giáo thấy kẻ thù của họ biến mất, hoặc họ
tự thấy mình mạnh hơn thì họ lại đi hành quân, trả thù không gớm
tay, rồi đến phiên họ lại đốt và giết. Hầu hết họ đều có võ trang,
và tôi tin rằng, chính các nhà truyền giáo cũng không ngăn cản nổi.
Đó là điều đáng tiếc, vì các quan mới từ Huế ra đều nhân cớ đó mà
xác nhận rằng, chính các tín đồ Thiên Chúa gây sự, chính những người
này là nguyên nhân đầu tiên của mọi đau khổ. Hơn nữa, vì những con
chiên có nhiều khí giới, nên họ sẵn sàng xem những con chiên là
những kẻ làm loạn” (Báo cáo của Harmand ngày 24-1-1874, Thư khố
Trung ương Đông Dương, Đô đốc 11689/54).
“Ngay khi thấy mình được ủng hộ, các tín đồ Thiên Chúa giáo (An
nam) đã không ngần ngại đốt nhà, giết người, và cũng như những người
này, nếu cần, họ vu cáo để biện minh cho việc tàn bạo của mình. Đó
là điều họ đã làm năm vừa rồi, và chính điều này đã gây ra những vụ
trả đũa mà người ta gọi một cách sai lầm là các vụ đàn áp. Nếu khi
che chở họ, chúng ta nhắm mắt để họ lôi kéo, chúng ta sẽ gây ra một
phản ứng dữ dội chống lại những nhà nho một cách không kém dã man,
không kém tàn bạo như những vụ đàn áp bây giờ” (Rheinart gửi Dupré,
Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc 13506 số 4).
Sự bảo hộ của chính quyền thực dân với tín đồ Công giáo có nguy
cơ bị lung lay trước chính sách của Philastre. Nên Giám mục Pugnier
đã phản đối mạnh mẽ chính sách này bằng một bức thư gửi Dupré:
“…Nếu Pháp rút lui hay không hành động theo tình thế đòi hỏi thì
điều đó sẽ đưa đến tai họa cho tất cả con chiên và tạo nên hỗn loạn
to lớn cho xứ này. Tất cả những ai hân hoan khi sứ giả Ngài đến sẽ
mất lòng kính trọng nước Pháp, cảm tình của họ sẽ dễ dàng biến thành
hận thù, nếu lòng tin cậy của họ đối với Pháp kết thúc đau đớn bằng
nỗi thất vọng ê chề… Trong tình cảnh xáo trộn và đầy đe dọa hiện nay
của xứ này, muốn bảo vệ hữu hiệu cần phải có một đạo quân khá hơn độ
8,000 binh sĩ và hai tàu chiến mới. Mục đích của đạo quân đó không
phải là gây chiến mà là trừng trị những kẻ phá hoại hòa bình”.
Giám mục Pugnier đã uổng công khi đích thân vào Sài Gòn để bàn
trực tiếp với Dpuré:
“Những lần nói chuyện của tôi với Giám mục đó trước khi ông rời
Sài Gòn không thay đổi lòng tin của tôi, vì thế tôi vẫn giữ nguyên
các nhận xét mà tôi đã trình bày với ngài, dù vị Giám mục này đã khổ
công khuyến cáo hãy bỏ đi chính nghĩa đã tạo được nước Pháp nhiều
tình cảm dân chúng khi theo đuổi một đường lối mà những người khen
Garnier là anh hùng phải bị kết án, những người này không biết được
những khó khăn của tình thế mà viên sĩ quan khốn nạn đó đã để lại
cho chúng ta” (Dupré gửi Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa,
30-12-1874, Thư khố Pháp quốc Hải ngoại A30 (25) hộp 13).
Có hai thuyết chống đối nhau về vấn đề này: Một mặt Philastre
không bao giờ nghi ngờ thiện chí của triều đình Huế và thuộc hạ của
họ; mặt khác các kẻ truyền đạo và một vài người Pháp nhiễm đầy ý
kiến của Giám mục Pugnier đã không ngừng tố cái vai trò nước đôi
khéo léo của các quan, những người đồng lõa với nhà nho. Pugnier
từng phản ứng:
“Chỉ cần bắt hai tên đó cùng 3, 4 tên khác xử tử vì các vụ mưu
sát năm 1868 là đủ để lập lại thanh bình, nhưng các quan không chịu
làm, sự đồng lõa của họ thật rõ rệt. Còn các lời đãi bôi, các tuyên
cáo v.v… của họ chỉ là một trò hề”.
Giám mục Pugnier là người có thế lực nhất và hiếu chiến nhất tại
Bắc Kỳ, là cố vấn có quyền uy nhiều nhất trong chiến dịch Garnier và
nhất là sau khi tên này qua đời. Các linh mục Pháp hưởng ứng sự mong
ước của Dupré đã tự nguyện giúp đỡ cho đồng bào họ. Hàng ngàn tín đồ
Thiên Chúa Việt Nam có các linh mục dẫn đầu, cắm cờ tam tài, gia
nhập vào đoàn quân bé nhỏ của Garnier để chiến đấu bên cạnh người
Pháp, cùng để cướp bóc, đốt nhà, giết người và trả thù:
“Từ ngày thành lập các lũ người vẫn tin theo lời Giám mục Pugnier
gieo rắc sự khủng bố, cướp bóc và chết chóc trong các làng đạo, các
tổng đốc các tỉnh không làm hay gần như không làm gì cả để ngăn chặn
hữu hiệu những sự lộn xộn, nhất là trong tỉnh Nam Định… Giám mục
Pugnier biết rõ là không phải và ông cũng biết rõ ai là người mà
những lời khuyên bảo tai hại của họ đã một phần gây ra các đau khổ
này, ông cũng biết vai trò thiếu thận trọng và có lúc dã man của các
con chiên… Cảnh rối loạn này, chính chúng ta và nhất là chính những
kẻ hiện phải gánh chịu cảnh đó đã gây tạo ra” (Thư Philastre gửi
Dupré, 15-1-1874, Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc 11689, số
30)
“Tôi cho rằng các nỗi lo sợ của Giám mục Pugnier đã được phóng
đại… Tôi cho rằng chỉ còn phải sợ các xáo trộn trong dân chúng tôi.
Giám mục Pugnier tin là sẽ nổ ra một cuộc cách mạng. Nên biết rằng
vị Giám mục này đã can dự nhiều trong các việc làm của ông Ganier,
ông đã có những ý tưởng dứt khoát và muốn lật triều Nguyễn để lập
lại họ Lê” (Thư Philastre gửi Dupré, 6-1-1874, Thư khố Trung ương
Đông Dương, Đô đốc 11689, số 69 và 76)
“Tôi tin rằng Giám mục Gauthier và Giám mục Pugnier nhất là ông
sau này không chịu nổi ý kiến một giải pháp hòa bình cho vấn đề:
giải pháp này sẽ phá tan hy vọng của họ mong muốn thấy một chính phủ
riêng biệt, chính phủ này có lẽ sẽ là một chính phủ Công giáo. Các
tín đồ Công giáo lại càng phóng đại hơn nữa các ý tưởng đó và xúi
giục các linh mục, các người chăn dẫn họ để đưa đến một sự đổ vỡ mới
giữa hai chính phủ… Suốt ngày chúng tôi nhận tới tấp các báo cáo và
các lời yêu cầu đem quân chinh phạt các tỉnh đó” (Thư Philastre gửi
Dupré, 15-1-1874)
“Suốt ngày tôi tiếp những người tự xin điều khiển các binh lính
mà họ tụ tập thành từng toán 100, 150 người, tất cả đều được các cha
xứ gửi gắm, nhưng tôi cố phản ứng không mích lòng một ai để chống
lại những khuynh hướng tràn ngập của các tín đồ Thiên Chúa” (Thư
Harmand gửi Garnier 16-12-1873).
“Tôi vẫn cứ tiếp khách mãi: Họ nối đuôi nhau trước túp lều tôi từ
7 giờ sáng cho đến tối, tôi phải tiếp mãi những người đến khiếu nại
hay xin xỏ: kẻ thì xin được giúp đỡ che chở, kẻ thì tụ tập được một
số người rồi đến xin khí giới để trang bị và cấp bằng chỉ huy, sau
rốt có kẻ, và đây là số đông đến xin giúp việc thư ký, công chức đủ
hạng, và còn xin được bổ làm tri phủ, tri huyện. Tất cả hình như hầu
hết là tín đồ Thiên Chúa và một phần ở tỉnh Ninh Bình kế cận, do các
linh mục cử sang. Trong những trường hợp gay cấn này, tín đồ Thiên
Chúa đã biểu lộ một sự tham lam trơ trẽn, vừa thiếu dè dặt vừa đầy
ích kỷ… Họ tỏ ra rất thô thiển. Họ xem việc chúng ta đến đây như là
đánh dấu cho giờ phục thù và trả đũa; về phần những nhà truyền giáo,
ngay từ đầu có lẽ họ đã đưa ra những lệnh nghiêm ngặt; nhưng chắc
chắn sau đó họ bị tràn ngập. Mỗi ngày tôi nhắc đến chục lần: “Thế ra
các ông cho rằng chúng tôi đến đây để gây một cuộc chiến tranh tôn
giáo hay sao? Chúng tôi đến đây với mục đích thuần túy thương mại.
Dù các ông có là giáo là lương, là Trung Quốc cũng không phải là
điều quan trọng… Tôi nói thêm, không phải mọi người Pháp đều theo
đạo Thiên Chúa đâu, điều này khiến họ hết sức ngạc nhiên” (Thư
Harmand gửi Testard du Cosquer, 16-1-1874).
Khi triều đình Huế bị các khiếu nại của các Giám mục đè ép, muốn
bắt các “làng không đạo phạm tội” bồi thường, đòi quyền hưởng thụ và
sở hữu các đất đai vắng chủ, gây nên sự thù ghét của những người phi
Công giáo, Rheinart viết:
“Điều 9 luôn luôn đem lại cho chúng ta các khó khăn, vì rằng các
con chiên đã làm bậy khi lập nên một chính đảng chính trị muốn ở
ngoài pháp luật của xứ này và tự cho là độc lập. Không có nước nào
vô tư cho bằng nước An Nam về vấn đề tôn giáo, và nếu các phái bộ
chỉ lo giảng đạo, họ không có gì phải lo cả” (Rheinart gửi thống sứ
Le Myro de Vilers, 19-8-1879, Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc
10443/8).
“Giới tăng lữ Thiên Chúa An Nam thích thú ỷ dựa vào việc chúng ta
ủng hộ để gây sức ép lên dân lương. Họ đã bám vào sự che chở của
chúng ta bằng cách đổi đạo, dù thành thật hay không; sự kiêu hãnh
công thêm vào lòng hăng hái tôn giáo thúc đẩy họ đi cù rũ người theo
đạo khắp nơi… chúng ta bảo đảm tự do tôn giáo, nhưng tuyệt đối chúng
ta không ham mê gì các vụ đổi đạo mau lẹ và đông đảo cả” (Thư
Rheinart gửi Dupré, 28-10-1876, số 248).
Suy nghĩ về việc Pháp có thể bất ngờ bị thất bại ở Bắc Kỳ, Le
Myre de Vilers đã tự phê bình:
“Đáng lẽ phải là những đồng minh tự nhiên của Thiên quốc, khốn
thay, chúng ta lại tự xưng là những tay quán quân của đạo Thiên Chúa
cùng việc tuyên truyền tôn giáo, là việc mà trong nước này, chỉ là
tuyên truyền làm loạn, và đã xảy ra điều bất thường là, dù dưới hình
thức chính phủ nào, nước Pháp dân chủ lại đi dạy các thuyết duy thần
cho một dân tộc đã đưa nền dân chủ đến chỗ xã thôn tự trị… Vì thế
chúng ta trở thành kẻ thù không những của Thiên quốc mà còn của một
dân tộc chân thật vốn chỉ xem chúng ta là những bạn đồng minh…” (Thư
Le Myre de Vilers gửi Bộ trưởng Hải quân, 19-1-1882, Thư khố Bộ Pháp
quốc Hải ngoại, A30 (54) hộp 16).
Mọi cố gắng của Giám mục Pugnier đều ngăn chặn không cho chính
sách Pháp bước vào con đường cai trị là tôn trọng các định chế của
xứ bị trị, tôn trọng luật pháp, phong tục và nhất là tìm cách liên
minh với các tôn giáo bản xứ, khuyến khích sự phát triển và dùng nó
làm trung gian giữa dân bản xứ và giới chức thuộc địa. Xâm lược,
thống trị, đồng hóa là 3 ý tưởng chủ chốt toát lên từ nhiều văn thư,
điều trần của Giám mục Pugnier. Và các văn thư này đều nhằm mục đích
chứng minh cho giới chức Pháp thấy rằng, ngoài tín đồ Thiên Chúa
giáo ra, tất cả đều là kẻ thù.
“Trước khi nghĩ đến việc giảm quân, cần phải tiêu diệt tối đa mầm
mống nổi loạn. Chinh phạt là con đường rất đúng, sẽ còn phải chi
tiêu nhiều hơn nữa, nhưng phải có những hy sinh đó…” (Văn thư về vấn
đề Bắc Kỳ, 3-1884, thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại, A00 (30) hay
N.F.541).
Giám mục Pugnier chủ trương rằng cuộc xâm lăng phải được tiến
hành mạnh mẽ và mau lẹ. Phải đuổi theo kẻ thù và tiêu diệt trước khi
nó hồi phục:
“Tôi thấy đồng thời bình định Bắc Kỳ và Trung Kỳ còn dễ hơn chỉ
là bình định Bắc Kỳ. Kẻ thù không có sẵn lực lượng và phương tiện to
lớn lắm, sẽ bị đồng thời tấn công khắp nơi và sẽ không thể kịp tiếp
viện cũng như chỉnh đốn lại, sẽ phải kiệt lực…” (Văn thư dùng để
nghiên cứu một trong các giai đoạn của vấn đề Bắc Kỳ: Cuộc khởi
nghĩa 13-9-1886, Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc 1178)
“Theo tôi, trước hết cần có một hoạt động toàn diện, một cuộc săn
đuổi thực sự. Một cuộc hành quân phối hợp gồm các toán quân nho nhỏ
hỗ trợ cho nhau đồng thời tiến vào nhiều làng trong một vùng sẽ làm
cho bọn cướp rối loạn… Làng nào đồng lòng với quân phiến loạn và kẻ
nào thực sự bước theo phe kháng chiến, khi đã biết được chúng nhờ
vào các tin tức chắc chắn, nhất định phải nghiêm trị và các tâm
gương này sẽ gây nên một tác dụng tốt trong dân chúng” (Tình hình
Bắc Kỳ ngày 25-1-1891, văn thư gửi Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa
ngày 5-2-1891, thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại, A00 (30) hộp 2).
Theo Giám mục Pugnier, kẻ thù ở khắp nơi còn bạn bè thì không có
ở đâu cả ngoài những người theo Thiên Chúa giáo, y đã lập nên danh
sách các “thủ phạm” gồm:
1. Đầu tiên chính là triều đình Huế. Năm 1884, hai quan Nhiếp
chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết là tác giả chính của cuộc
“phiến loạn”.
2. Những quan lớn ở các tỉnh (như: Tổng đốc, Bố chánh, Án sát,
Lãnh binh).
3. Phần đông quan lại dù là tại chức.
4. Tất cả các Nho sĩ.
5. Chánh tổng, Lý trưởng.
6. Các làng không Thiên Chúa giáo, bên cạnh các khu giáo dân.
(Báo cáo 27-3-1884, Thư khố Trung ương Đông dương, đô đốc 11624
và bản nghiên cứu về tình hình Bắc Kỳ, 10-6-1890, thư khố Bộ Pháp
quốc Hải ngoại, A00 (30) hộp 2).
“Tôi xin xác định rằng, khi nào Bắc Kỳ thành Thiên Chúa giáo thì
nó cũng sẽ thành một nước Pháp nhỏ, hoàn toàn giống như các đảo của
Philippines đã trở thành một nước Tây Ban Nha nhỏ… Chắc chắn các nhà
truyền đạo là một sức mạnh tinh thần to lớn nhất trong một thuộc
dịa. Chính họ đã làm cho thuộc địa biết chân tướng nước mẹ để mến
yêu… Tôi xin cả quyết rằng: Nước pháp không có bạn bè nào tốt hơn là
các nhà truyền giáo và con chiên, cũng không có kẻ phụng sự nào
trung thành hơn và vô vị lợi hơn. Vừa hoạt động để tôn vinh Chúa
trời cứu rỗi linh hồn, tôi vẫn từng nói các nhà truyền giáo tự thấy
có bổn phận làm cho tổ quốc mình được hiểu biết và mến yêu, vừa dạy
con chiên kính trọng và trung thành với mẫu quốc…
Sau khi đạo Thiên
Chúa được thiết lập, tôi xem việc tiêu diệt chữ Nho và thay thế dần
dần, ban đầu bằng tiếng An Nam, rồi bằng tiếng Pháp, như là phương
tiện rất chính trị, rất tiện lợi và rất hiệu nghiệm để lập nên tại
Bắc Kỳ một nước Pháp nhỏ ở Viễn Đông” (Thư giám mục Pugnier gửi Bộ
trưởng Hải quân và Thuộc địa, 6-5-1887, thư khố Pháp quốc Hải ngoại
A00 (30) hay N.F 541).
Trang Tôn Giáo