LTS: Sự thực là chính tình miền Nam Việt Nam trong cả hai thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa đã nằm trong bàn tay quyết định của Hoa Kỳ - Vatican. Đương nhiên khi họ chọn một lãnh đạo để làm việc cho họ thì việc đầu tiên là người đó phải là người dưới trướng của họ. Đã có quyền lựa chọn một tay sai, thì người chủ muốn nựng cũng được, và muốn mắng lúc nào cũng được tùy hứng. Người lãnh đạo miền Nam đã ở trong điều kiện như thế thì tất cả nhân vật cấp dưới, từ quan quyền cho đến tướng tá, đều ở cùng số phận. Cho nên, chủ Johnson gọi Diệm là thằng "boy", và các tướng bị gọi là "thugs", cũng chẳng có một ai, hay báo chí nào ở miền Nam lên tiếng phàn nàn gì với ai cả. Huống chi, những tiếng chửi thề của một tổng thống Mỹ, dù có thể bị phê phán một cách không "ăn thua", lại không nằm trong những điều cấm kỵ nào khi dân chúng chọn lựa một người lãnh đạo tốt cho đất Mỹ. Dựa vào những tiếng tùy hứng của người chủ Hoa Kỳ - Vatican để khen hay chê về những nhân vật lịch sử ở miền Nam là việc không thích đáng. (SH)
Trong bài viết“Lại
Chuyện Tản Mạn!” phổ-biến ngày Thursday, August 21, 2008 6:03 PM (phê-bình
bài viết nhan đề “Tản mạn lịch sử” của Ông Lê Mạnh Hùng đăng trên báo
Viet Tide), Ông Lữ Giang đã viết như sau:
“Trong công
điện gởi cho Bộ Ngoại Giao lúc 2 giờ chiều ngày 7.9.1963, Đại Sứ Cabot
Lodge có kể lại lời ông Ngô Đình Nhu đã nói với ông như sau:
“Tôi
báo động về những gì sẽ xẩy ra trong Quân Lực. Nếu tôi ra đi, Quân Lực
sẽ nắm chính quyền. Bọn cóc nhái của CIA và USIS này sẽ phá hoại nỗ lực chiến tranh.”
(I am
alarmed by what's going on in the Armed Forces. If I leave, the Armed
Forces will take over the government. 'Ces
grenouillards' (which I translate as
"these schemers"
or 'these contrivers')
of the CIA and USIS will sabotage the war effort.)”
1) Nghĩa
của tiếng Pháp “Grenouillard(s)”
mà Ông Ngô Đình Nhu dùng:
1a-
theo nghĩa đen thì là loài chim, các giống: đại bàng; diều hâu; diều mướp;
kên-kên; ó; ưng;
1b-
theo nghĩa bóng, thì là loại người có tính đặc-biệt: hiếu chiến; quấy rầy;
tham lam; trục lợi;
2)
Nhưng trong câu nói bằng tiếng Pháp của Ông Ngô Đình Nhu mà cựu Đại-Sứ Hoa-Kỳ
Cabot Lodge đã hiểu đúng ý và kể lại bằng tiếng Anh thì Ông Cabot Lodge đã dịch
ngay chữ “Grenouillards” ra tiếng Anh là “schemers"
hoặc “contrivers”
rồi.
2a/
chữ“schemer(s)”
có nghĩa là: “người chủ mưu; người vạch kế hoạch; kẻ âm mưu; kẻ hay dùng mưu
gian”;
2b/
chữ “contriver(s)”
có nghĩa là: “người nghĩ ra; người sáng chế ra; người có tài xoay sở; người
khéo lo liệu; (a good contriver: người xoay sở giỏi; người tháo vát; người
nội trợ đảm đang); người bày mưu tính kế”;
3)
Do đó, mấy chữ “ces
grenouillards” chắc-chắn không có cái nghĩa
khinh-thường là “bọn cóc
nhái” (loài vật thấp hèn) như Ông Lữ Giang
đã dịch ‒ một
phần vì đã lầm tưởng là nó xuất-phát từ chữ “grenouille(s)”
(là con ếch, con nhái, con ngoé) - và không biết rằng con cóc là một loại khác,
tiếng Pháp gọi là “crapaud(s)”
chứ không phải là “grenouille(s)”.
Hơn nữa, chính Ông Cabot Lodge đã cẩn-thận dịch ra tiếng Anh rồi cơ mà! ‒ nhưng phần khác là
Ông Lữ Giang đã cố ý dịch ra như thế, để lợi-dụng cơ-hội mà nhập-nhằng
đánh lừa người kém ngoại-ngữ hầu bôi bẩn các tướng đảo-chánh, chứ không phải
dịch đúng-đắn và đứng-đắn.
Vậy
thì mấy chữ “ces
grenouillards” nói trên có thể được hiểu là
“nhóm người đầy tham-vọng
ấy, nhóm người đa-mưu lắm kế ấy, v.v...” (vì
dù ngụ ý chê họ, chống họ, nhưng vẫn không thể phủ-nhận tài-năng/mánh-khóe [con
người] của họ; nếu không thì các cơ-quan CIA và USIS đâu cần nhờ đến, và mình
đâu phải quan-ngại gì nhiều về các đương-nhân)!
Tôi cho rằng Ông
Lữ Giang đã cố ý dịch sai các chữ Pháp “ces
grenouilles” ra là “bọn
cóc nhái (ấy)” là vì việc dịch như thế xảy
ra sau 2 sự-kiện liên-hệ xảy ra trước rồi:
Cựu
Đại-Tướng Dương Văn Minh đã bị Luật-Sư
Nguyễn Văn Chức
(và Tiến-Sĩ
Lâm Lễ Trinh)
vu-khống là “trong thời kỳ dẹp loạn Bình Xuyên, ĐT Minh đã tịch thu được rất
nhiều vàng bạc và tiền mặt của Bình Xuyên, nhưng ĐT đã không giao số chiến lợi
phẩm này cho chính phủ Ngô Đình Diệm, mà lại tẩu tán làm của riêng”.
1)
Trong năm 1971, khi Đại-Tướng Dương Văn Minh vừa mới thu-thập đủ chữ ký
giới-thiệu của số lượng Dân-Biểu và Thượng-Nghị-Sĩ theo luật định, để ra
tranh-cử Tổng-Thống, thì báo “Hoà Bình” của Linh-Mục Trần Du loan tin
như trên. Ông Trịnh Bá Lộc, nguyên Sĩ-Quan Tuỳ-Viên của Đại-Tướng Dương Văn
Minh, đã tìm ra được xấp cùi mà trong một cùi có ghi trị giá của nó, và bên cạnh
có ghi rõ-ràng như sau: “số
tiền bán vàng tịch thu của Bình Xuyên, Tổng Thống (Ngô Đình Diệm)
cho Cô Nhi Viện Quốc Gia Thủ Đức”. Luật-Sư
Võ Văn Quan, đại-diện ĐT Minh, liền can-thiệp, và báo “Hoà Bình” đã đăng ngay
bài đính-chánh, kèm theo phóng-ảnh cùi chi-phiếu nói trên. Báo “Công Luận”
của Thượng-Nghị-Sĩ Tôn Thất Đính cũng có phổ-biến việc này.
Thế mà vừa rồi, sau
khi Đại-Tướng Dương Văn Minh qua đời, báo “Con Ong” ở Houston, Texas, là nơi
cư-ngụ của Ông Nguyễn Văn Chức, lại đăng lại bài vu-khống của VIP KK tức
Luật-Sư Nguyễn Văn Chức với nội-dung như đã từng đăng trên báo “Hoà Bình” trước
khi bị buộc phải đính-chính Sự Thật vào năm 1971 (37 năm trước đó). Cùng lúc,
tiến-sĩ
Lâm Lễ Trinh
cũng viết tương-tự trong cuốn “Về Nguồn”. Thật là hết nước nói.
Trong tháng 7
năm 2008, Ông Trịnh Bá Lộc đã làm sáng-tỏ lại vụ này, đồng-thời nhắc-nhở các kẻ
vu-khống, nhất là tín-đồ
Ky-Tô-Giáo, rằng việc nguỵ-tạo sử-sách tức
cũng là “làm chứng dối”,
vi-phạm điều răn của Đức
Chúa Trời (Exodus 20:16 và Deuteronomy
5:20).
2) Ông
Đoàn Thêm, cựu viên-chức cao-cấp tại Phủ Thủ-Tướng và Phủ Tổng-Thống thời
Đệ-Nhất Cộng-Hoà, trong cuốn “Hai Mươi Năm Qua – Việc Từng Ngày – 1945-1954”,
xuất-bản tại Sài-Gòn vào năm 1965 (là một tài-liệu lịch-sử khách-quan) ở các
trang 191-192 đã viết:
“3.3.1956 –
Thiếu-Tướng Duơng-văn-Minh họp báo nói về các chiến-dịch miền Tây và sự hợp
tác của Tướng Trần Văn Soái. Tướng Minh cho biết trong chiến-dịch
Hoàng-Diệu, đã tịch thâu 20 kí vàng và 16 triệu ½ bạc, số tiền này sẽ dùng để xây cất một Cô-Nhi-Viện
Quốc-Gia.”
3)
Rốt cuộc là vì không còn có thể tiếp-tục vu-khống Đại-Tướng Dương Văn Minh về vụ
tài-sản Bình-Xuyên để bôi nhọ vị tướng cầm đầu cuộc chính-biến 1-11-1963, nên
các phần-tử hoài-Ngô phải kiếm thêm những chuyện khác.
Theo một cuốn
băng dài 30 tiếng đồng-hồ do (thư-viện) Johnson Library ở Austin, Texas, công-bố
ngày 28-2-2003,
thì Tổng-Thống Johnson đã gọi các Tướng miền Nam Việt-Nam thực-hiện cuộc
chính-biến lật đổ và giết chết Tổng-Thống Ngô Đình Diệm là “a
goddam bunch of thugs” mà Ông Lữ Giang dịch
ra là “một bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa”.
1)Nhưng ông Lữ Giang đã dịch sai:
“A
bunch of thugs” là “một
bọn côn đồ”, không có chữ nào bên phía tiếng
Anh có nghĩa là “ác ôn”
cả.
“Goddamn”
(cũng như “Goddamned”) là “đã bị nguyền rủa (rồi)” chứ không phải
là chỉ “đáng nguyền rủa”
mà thôi. Ông Lữ Giang “đáng khen” nhưng chưa nhận được lời (bằng) khen thì cũng
là chưa được khen (tỷ như “bọn côn đồ đáng nguyền rủa” tức là chưa bị nguyền
rủa).
Tóm lại, câu đó (A
goddamn bunch of thugs) có nghĩa là “một
lũ côn đồ (bị Chúa trừng trị) chết tiệt!”
2)
Tổng-Thống Lyndon B. Johnson lên thay cố TT John F. Kennedy từ ngày 22-11-1963.
Johnson thay-đổi chính-sách đối với Việt-Nam: thay vì 16,000 cố-vấn quân-sự
trước biến-cố 1-11-1963 dưới thời Kennedy và Ngô Đình Diệm, mà Kennedy đã có
quyết-định rút về (rút đợt đầu 1,000 người), thì Johnson (cùng Đảng Dân Chủ) vào
năm 1965 đã đưa thêm quân tác-chiến qua Việt-Nam mà tổng-số cứ tăng dần lên đến
550,000 người vào đầu năm 1968. Tức là Johnson “diều-hâu”, mà thấy bên phia
Việt-Nam chưa có tiến-bộ như ý Mỹ muốn nên đã tỏ ý bất-bình các Tướng (là Tướng
mới lên cầm quyền)
3)
Tuy nhiên, dùng những thậm-từ, chửi thề, chỉ là thói quen cá-nhân của
một sốTổng-Thống Hoa-Kỳ; thí-dụ: khi nghe tin cựu Tổng-Thống Gerald Ford
từ-trần, Tổng-Thống George W. Bush đã ngỏ lời chia buồn và ca-tụng rằng “Jerry
was warm gentle, friendly, pleasant courteous individual. He never used bad language,
he loved his family, his kids and above all else he loved Betty.” (Jerry
[tên gọi thân-mật của Gerald] là một con người nồng-hậu, hoà-nhã, thân-thiện,
khả-ái, lịch-sự. Ông ấy
không bao giờ dùng lời-lẽ thô-tục, ông ấy
yêu-thương gia-đình, các con, và trên tất cả mọi thứ khác là yêu-thương Betty
[vợ, là bà Betty Ford]). Đề-cao các ưu-điểm của một tổng-thống mà nhấn
mạnh đến ưu-điểm không dùng lời-lẽ thô-tục đủ thấy có những tổng-thống Mỹ khác, thường
dùng lời-lẽ thô-tục.
4) Riêng
về TT Johnson thì ông “là một vị tổng thống cộc cằn,
thô lỗ,
kém học thức nhất,
so với những vị tổng thống khác trong lịch sử cận đại Hoa Kỳ. Đa số sử gia đồng
ý Johnson không phải
là vị tổng thống lịch sự về cung cách ngoại
giao...” (theo nhà biên khảo Nguyễn Kỳ Phong, trong cuốn “Người Mỹ và Chiến
Tranh Việt Nam - Liên Hệ Quân Sự Chính Trị 1945-1975”, do Vietnam
Bibliography ở Virginia, USA, xuất-bản năm 2001, trang 253).
(Xem thêm về
TTJohnsonở Mục V, nhất là
ở Mục VI phía cuối bài này).
Trước
khi tiếp-tục kể hầu quý vị một số trường-hợp người Mỹ chửi thề các nhân-vật
quan-trọng (VIP), xin nhắc sơ qua
về một số trích dẫn tiếng Anh & tiếng Pháp của Ông Lữ Giang:
1) Trong bài “Tapes mới của Kennedy”, ông Lữ
Giang đã trích dẫn cuốn sách hồi-ký của cựu Bộ-Trưởng Quốc-Phòng Mỹ đến 2 lần,
đều giống nhau:
(Robert S. McNamara, “In
Retrospect, Tragedy and Lesson of Vietnam”, Vintage Books, New York, 1995,
tr. 81 – 82).... và: “... Trong cuốn hồi ký “In Retrospect, Tragedy and
Lesson of Vietnam”
Nhưng ông Lữ
Giang đã viết sai, vì nhan đề của cuốn sách ấy thật ra là “In
Retrospect:The Tragedy and Lessonsof Vietnam” (hai dấu chấm, thay vì
dấu phết; có chữ “The”; và chữ “Lessons” thì có phụ-âm “s” vì là số nhiều).
2)
Trong bài “Bãi Chiến Trường”, Ông Lữ Giang (bút danh Tú Gàn) đã viết:
“...Thị Trưởng Frank
Fry liền nổi giận và nói: "Các người hành động như cộng sản ở Việt Nam... Đó là
điều mà cộng sản đã làm. (You are acting like communist
do over in Vietnam... That's what the communist
do).
Lần đầu tiên đại diện Việt Cộng đến tại Orange County, nơi có thủ đô Little
Saigon, để nói chuyện là tại một cuộc hội thảo do World Affaires
Council tổ chức ở khách sạn Radison Plaza thuộc thành phố Irvine, California vào
ngày 12.9.1995.
Lần thứ hai, tổ chức World
Affaires Council tổ chức hội
thảo tại San Francisco vào ngày 19.9.1995...”
2.1.
Ông Lữ Giang đã không thấy rõ là động-từ “do”
ở đây được chia cho ngôi thứ 3 của số nhiều, nên chữ “communists”
phải có phụ-âm “s”
vì là số nhiều.
2.2 Ông Lữ Giang không nhớ là mình
đang viết tiếng Anh, “affair(s)” không có phụ-âm “e"
như bên tiếng Pháp.
3) Ông Lữ Giang trích lời của cựu Đại-Sứ Cabot
Lodge nói rằng Ông Trần Trung Dung “coi đa số các Tướng Lãnh không gì khác lơn
là các trung sĩ được Pháp huấn luyện trong quân phục Tướng Lãnh”và
trích dẫn câu nói tiếng Anh: “(He consider majority of Generals no more than French trained
sergeants in Generals’ uniforms)”.
Ông Lữ Giang lại
không để ý rằng động-tự “consider”
(có chủ-từ “He”
đứng trước) được chia trong thì quá-khứ, thì chữ đó phải là “considered”.
4) Trong bài “Mặt thật hàng tướng Big Minh”,
Ông Tú Gàn viết:
“Năm 1945, khi
Nhật đảo chánh Pháp, Dương Văn Minh đang phục vụ tại Cap's Jacques
(Vũng Tàu) và bị Nhật cầm tù.”
Người ở Sài-Gòn
mà không viết đúng chữ “Cap
St. Jacques” tức “Cap
Saint Jacques” hay sao?
5) Ông Lữ Giang nhắc đến thời-kỳ Pháp đô-hộ Việt-Nam mà kể đến “Bộ Thuộc
Địa (Minstère
des Colonies)” và “lính Khố Đỏ (Tiraillrers)”
và “Service de Sûreté Généralle
de l’Indochine” mà viết sai các chữ ghi trên (tiếng Pháp), đáng lẽ phải là “Ministère”
và “Tirailleurs”
và “Générale”.
6) Ngay chính cuốn băng về TT Johnson
nói trên, Ông Lữ Giang cũng ghi: “Một cuốn băng được công bố ngày 28.3.2003
cho biết ngày 1.2.1966, Tổng Thống Johnson đã gọi điện thoại cho Thượng Nghị Sĩ
Eugene McCarthay than phiền về việc chính quyền Kennedy...” trong lúc cuốn băng
ấy thật sự được công bố vào ngày 28.2.2003.
Bài thi mà sai
chính-tả, văn-phạm (ngữ-pháp), liệu các giám-khảo có cho điểm cao hay không?
Tài-liệu nạp Tòa mà không y như nguyên-văn, liệu các công-tố-viên và
biện-hộ-viên có bỏ qua hay không? Và bài phổ-biến công-cộng mà không được viết
cẩn-trọng thì có phải là tự-trọng và trọng người đọc hay không?
Tôi
xin kể thêm vài vụ chửi thề của Mỹ để quý độc-giả đánh giá các thậm-từ ấy:
1)Trong Đệ-Nhị Thế-Chiến (1939-45),
nói về liên-hệ Mỹ-Pháp: người Mỹ có nhiều xung-đột với De Gaulle, lãnh-tụ Pháp.
Tổng-Thống Roosevelt không có cảm-tình với De Gaulle; Tổng-Thống Truman thì cho
De Gaulle là cứng đầu, không chịu hòa-giải. Một đôi khi Truman
dùng chữ “thằng chó đẻ” để chỉ De Gaulle.
(Tham-chiếu sách
của Nguyễn Kỳ Phong đã dẫn trên, các trang 22-23).
Ý-Kiến: các
tổng-thống Mỹ mà dùng thậm-từ thì chỉ là do thói quen cá-nhân. Ngay chính De
Gaulle, lãnh-đạo Ủy-Ban Giải-Phóng Quốc-Gia của Pháp, đồng-minh thiết-cốt với Mỹ
và Anh trong Thế-Chiến II, mà còn bị chửi là
“thằng chó đẻ”.
Tuy nhiên, De Gaulle vẫn là một
tổng-thống vĩ-đại của Pháp và được dân Pháp yêu kính mãi hoài,
không vì tiếng rủa
của một tổng-thống Mỹ tục-tằn mà mất thanh-danh.
2) Ngày
29-3-2009, sau khi Bà Clinton cho biết sẽ không ra ứng-cử tổng-thống, ký-giả Pat
Racimora đã viết:
“And when it was
clear that Hillary Clinton would not be our next President, some relief
was forthcoming in assuming that the tyranny perpetrated by Obama-supporting
thugs
would now unravel like a cheap sweater.”
Tạm dịch:
“Khi đã rõ-ràng rằng Bà Hillary Clinton sẽ không là vị tổng-thống kế-tiếp
của chúng ta, người ta thấy nhẹ hẳn người phần nào vì nghĩ rằng ách
bạo-ngược mà bọn côn-đồ ủng-hộ Obama
đã gây ra nay sẽ được tháo gỡ như vứt bỏ một chiếc áo rẻ tiền.”
3)
Ngày 31-3-2009, ký-giả Francesca tường-thuật việc một hồng-y và nhiều giám-mục
phản-đối Viện Đại-Học Notre Dame vì mời Tổng-Thống Obama đến đọc diễn-văn, đã
viết: “They are also pissed off about the Honorary Law Degree to be given to
Barack ‘God Damn
AmeriKKKa’ Obama.”
Tạm dịch:
“Họ cũng bực mình về việc trao bằng Tiến Sĩ Luật Khoa Danh Dự cho Barack ‘Hoa Kỳ quỷ tha ma
bắt’ Obama”.
Nói
nặng về tổng-thống Hoa-Kỳ
xong, họ còn nói nặng
về nhà thờ Chúa
nữa:
“If they
don't say anything about Obama and Pfleger, we'll just assume the Cardinals
and Bishops and the whole Catholic Church agrees with Pfleger and Obama and
the God Damn
AmeriKKKa Church both of them
went to.”
Tạm dịch:
“Nếu các Hồng Y và Giám Mục không nói (nặng) gì về Obama
và Pfleger
(linh-mục, bênh-vực Mục-Sư Jeremial Wright của TT Obama), chúng ta sẽ xem
như họ và toàn-thể Giáo-Hội Ky-Tô-Giáo đều đồng lòng với Pfleger và Obama
cùng với Thánh-Đường Hoa Kỳ Địa Ngục nơi
hai người này đã đến.”
4)
Ngay trong cuốn băng về TT Johnson mà Ông Lữ Giang nêu ra, đã có một đoạn như
sau:
“But
literally overnight, the U.S. was internationally perceived as a bunch of
buffoons
who were propping up a
tyrant.” People “already believed that
Kennedy... a Catholic
U.S. president supporting a Catholic fanatic
who was intent on persecuting another religious group...”
Tạm dịch:
“Nhưng thật-sự là đột-nhiên thế-giới nhận ra rằng (chính-phủ) Hoa Kỳ là một bọn hề diễu
đang nâng-đỡ một tên
bạo-chúa.” Người ta đã
“tin rằng Kennedy... một
tổng-thống Mỹ tín-đồ Ky-Tô-Giáo
hậu-thuẫn cho một tín-đồ Ky-Tô-Giáo cuồng-tín
đang muốn truy hại một
tập thể tôn-giáo khác...”
5)
Đây là lời lẽ của chính ông TT Johnson tác-giả mấy chữ “damn”,
“thugs”,
và cả “bitch”,
ngay trong cuốn băng nói trên, trước cả đoạn chê các Tướng Việt-Nam:
“... through
Johnson's presidency -- a time when... what LBJ called “that
bitch of a war” was
exporting the American nightmare to Southeast Asia”, “All the wide brush
strokes of U.S. history made from September 1964 through August 1965 are
here -- the Johnson vs. Goldwater election (“We've got
a bunch of goddamned thugs here taking us on”)”...
Tạm dịch:
“... qua thời-kỳ Ông Johnson làm tổng-thống – lúc ấy... cái mà TT Johnson
gọi là “cuộc chiến
chó đẻ” đang xuất-cảng
cơn ác-mộng Hoa Kỳ qua Đông Nam Á Châu”, “Đây là tất cả những nét vẽ
tổng-quát về lịch sử Hoa Kỳ từ 9-1964 đến 8-1965: cuộc tranh-cử tổng-thống
giữa Johnson và Goldwater (“Chúng ta đang đối đầu với một lũ côn đồ trời đánh
thánh vật”)...
Ông Barry Morris
Goldwater là một cựu tướng-lãnh Không-Quân tham-gia Đệ-Nhị Thế-Chiến, làm
Thượng-Nghị-Sĩ 5 nhiệm-kỳ (mỗi nhiệm-kỳ 6 năm), được Đảng đại-kỳ-cựu Cộng-Hòa
(GOP= Grand Old Party) chọn làm ứng-cử-viên Tổng-Thống siêu-cường-quốc lâu đời
Hiệp-Chủng-Quốc Hoa-Kỳ, mà còn bị Ông Johnson chửi thề là "côn
đồ trời đánh thánh vật", thì sá gì
một tướng-lãnh hay một tổng-thống mới ra đời của tiểu-nhược-quốc Miền Nam
Việt-Nam!
Nói
ai làm gì, ngay chính cốTổng-Thống Ngô Đình Diệm của Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa,
cũng bị chính ông Tổng-Thống Hoa-Kỳ thô-lỗ Lyndon B. Johnson ấy gọi là “thằng
nhãi” trong trường-hợp sau:
Karnow (Stanley
Karnow, sử-gia chuyên về Chiến Tranh Việt Nam), hỏi Johnson là ông có tin rằng
Diệm là “Churchill (Winston Churchill, Thủ Tướng Anh, anh-hùng thắng Đức
Quốc-Xã tại Châu Âu) của Đông Nam Á” hay không; thì Johnson liền trả lời: “Cục
cứt họ, Diệm là thằng nhãi duy nhất
mà chúng ta có ở đó.” (Shit
! Diem is the only boy we’ve got out there – Stanley Karnow, Vietnam a History,
Edition King Press 1983, trang 214)
Ngay trong bài
viết“Những Bí Mật Được Tiết Lộ Sau 40 Năm” của Ông Tú Gàn (đăng trên Saigon
Nhỏ) cũng đã có câu: “Tổng Thống Johnson lại nhắc lại điều đó. Ông nói với Tướng
Taylor: “They started out and said, ‘We got to kill Diem, because he’s no
damn good.’ Let’s...” (“Họ khởi đầu và nói: ‘Chúng ta phải giết Diệm, bởi vì hắn ta cũng chả tốt lành quỷ quái gì. Chúng ta hãy...”