Ông Lê Xuân Khoa đã cố tình lờ đi
(1) không nói đến khu rừng tội ác của ông Diệm trong thời
gian ông ta làm quan cho chính quyền Bảo Hộ Pháp – Vatican từ năm
1922 cho đến giữa năm 1933, (2) không nói đến gia đình ông Diệm đã
cấu kết với đế quốc xâm lăng Nhật trong những năm đầu thập niên
1940, (3) không nói đến những rặng núi tội ác sau khi được Liên Minh
xâm lược Mỹ - Vatican đưa lên cầm quyền ở miền Nam Việt Nam từ
ngày 7/7/1954 cho đến xế trưa ngày 1/11/1963, và (4) cũng không hề
nói đến vấn đề ông Diệm đã làm gì để có khối tài sản khổng lồ như
các sách sử đã công bố. Không những thế, ông Khoa còn gộp chung ông
Diệm vào một nhóm với hai ông Nguyễn Tường Tam và Nguyễn Hải Thần để
khen tụng. Dưới đây là nguyên văn lời ông Lê Xuân Khoa viết:
“Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam và Ngô
Đình Diệm đại diện cho nhóm yêu nước quá khích…” (trang 419).
Phản biện: Thú thực,
người viết không hiểu TẠI SAO ông Lê Xuân Khoa lại có thể viết một
đoạn văn theo cái kiểu nhập nhằng đánh lận con đen như trên? Ai cũng
biết rằng từ năm 1858 cho đến ngày 30/4/1975, Việt Nam trở thành
đấu trường giữa một bên là Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm
Lược Pháp – Vatican cấu kết với thế lực phong kiến phản động bản địa
đang thống trị Việt Nam, sau đó lại được Hoa Kỳ nhẩy vào tiếp tay và
một bên là đại khối dân tộc dân tộc Việt Nam cùng các tổ chức
ái quốc và cách mạng có chủ trương đánh đuổi liên minh giặc này ra
khỏi đất nước và tiệu diệt mọi thế lực phong kiến bản địa. Ông Lê
Xuân Khoa há chẳng biết rằng, (1) những kẻ đứng vào hàng ngũ Liên
Minh Pháp – Vatican (tức “quân xâm lăng”) và thế lực phong kiến
phản động bản địa là “những quân phản quốc” mà ta thường gọi là
“Việt gian”, và (2) những người đứng về phía đại khối dân tộc đối
đầu với thế lực ngoại xâm và bọn phong kiến phản động bản địa trên
đây được gọi là “những người yêu nước” hoặc “các nhà ái quốc”, hay
sao?
Ông Lê Xuân Khoa viết: “Ngô Đình
Diệm ủng hộ giải pháp Bảo Đại và đã thuyết phục được nhiều nhóm công
giáo kháng chiến rời bỏ Việt Minh, rốt cuộc đã từ chối lời yêu cầu
của Bảo Đại thành lập chính phủ hồi tháng Năm 1949.” (trang
419).
Câu trên đây của ông Lê Xuân Khoa có hai
phần:
a.- Ông Lê Xuân Khoa khẳng định ông “Ngô
Đình Diệm ủng hộ giải pháp Bảo Đại và đã thuyết phục được nhiều nhóm
công giáo kháng chiến rời bỏ Việt Minh.”
b.- Ông Lê Xuân Khoa khẳng định ông Ngô Đình
Diệm “đã từ chối lời yêu cầu của Bảo Đại thành lập chính phủ hồi
tháng Năm 1949, cũng chỉ vì không thỏa mãn với bản Hiệp Ước Élysée
1949.”
Phản biện: Về phần a,
chúng ta thấy đây chỉ là lời ông Lê Xuân Khoa khẳng định “ông Ngô
Đình Diệm ủng hộ giải pháp Bảo Đại và đã thuyết phục được nhiều nhóm
công giáo kháng chiến rời bỏ Việt Minh”, chứ không thấy ông Lê
Xuân Khoa nói rõ động lực nào đã khiến cho ông Ngô Đình Diệm
“ủng hộ Giải Pháp Bảo Đại và đã thuyết phục được nhiều nhóm công
giáo khác chiến rời bỏ Việt Minh.” Có thể là ông Lê Xuân Khoa
chỉ được biết tin này qua những người khác nói lại để rồi viết lại
nguyên văn như vậy. Cũng có thể là ông Lê Xuân Khoa biết rõ cái động
lực đã khiến cho ông Ngô Đình Diệm phải làm như vậy, nhưng vì lý do
nào đó không tiện nói ra, cho nên ông chỉ viết lời khẳng định như
vậy, rồi để mặc cho độc giả muốn hiểu thế nào cũng được, ông không
cần biết tới.
Vì ông Lê Xuân Khoa không nói, người viết xin
nói rõ để độc giả hiểu rõ vấn đề này. Như đã trình bày nơi Chương 2
ở trên, Giải Pháp Bảo Đại là do Vatican đưa ra với dã tâm dùng
người Việt đánh người Việt” và “dùng tín đồ Da-tô để cai trị
đại khối dân tộc thuộc các tốn giáo cổ truyền”. Ông Diệm là một
tín đồ Ca-tô thuộc loại siêu cuồng tín với lòng tuyêt đối trung
thành với Vatican, tất nhiên, ông Diệm phải “ủng hộ Giải Pháp Bảo
Đại và phải thuyết phục nhiều nhóm công giáo khác chiến rời bỏ Việt
Minh.” Bản chất của tất cả tín đồ Ca-tô cuồng tín là như vậy.
Hơn nữa, ông Diệm còn mang nặng căn bệnh cực kỳ thèm khát quyền lực.
Cũng vì thế mà từ cuối tháng 12/1947 cho đến giữa tháng 3/1949, ông
ta mới băng xăng đi đi về về giữa Sàigòn và Hong Kong rất nhiều lần
như con thoi với hy vọng sẽ có thể được ông Bảo Đại chiếu cố cho
làm thủ tướng. Sự kiện này được sách Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí
viết:
“Ngày 21/12/1947: (Diệm) qua Hong
Kong gặp Bảo Đại cùng Nguyễn Văn Xuân và Trần Văn Lý..
24/12/1947: Diệm gặp Tổng Lãnh Sự
Mỹ tại Hong Kong là George D. Hopper, trình bày về nội tình VN và
Giải Pháp Bảo Đại. Mục đích chính của Diệm, theo Hopper, là xin viện
trợ Mỹ. Tuy nhiên, Hopper chỉ ghi nhân mà không có ý kiến gì. (Ngày
18/12/1947, Tổng Lãnh Sự Charles Reed đã từ Sàigòn điện trước cho
Hopper rằng có thể Diệm sẽ ghé thăm. [FRUS, 1947, VI:152-5]).
26/12/1947: (Diệm) từ Hong Kong trở
lại Sàigòn.
2/1948: (Diệm) qua Hong Kong lần
thứ ba.
14/3/1948: Bảo Đại về tới Hong
Kong. Gặp Chủ Tịch các Hội Đồng An Dân Hà Nội và Hội Đồng Chấp Chánh
Huế. Có Tướng Xuân và Lê Văn Hoạch. Mọi người yêu cầu Bảo Đại xúc
tiến nhanh hơn việc thương thảo. Xuân đồng ý thống nhất ba miền. Rồi
Bảo Đại sai Diệm về Sàigòn báo cho (Cao Ủy) Bollaert là “Nguyện vọng
của dân Việt vượt quá những điều ký kết ở Hạ Long (Les aspirationsdu peuple Vietnamien depassaient les termes de l’accord d’ Halong
[12/1947]).” [28]
Về phần b, Lê Xuân Khoa khẳng
định ông Ngô Đình Diệm “đã từ chối lời yêu cầu của Bảo Đại thành
lập chính phủ hồi tháng Năm 1949, cũng chỉ vì không thỏa mãn với bản
Hiệp Ước Élysée 1949.”
Chúng ta thấy sách Việt Nam Niên Biểu
Nhân Vật Chí cũng ghi lời khẳng định này với nguyên văn như sau:
“5/1949: Diệm từ chối lập chính
phủ; nêu lý do giáo dân Ki-tô bị VM thảm sát. Thực ra, Diệm không
thỏa mãn với Hiệp Ước 8/3/1949.” [29]
Nhận xét của người viết về
chuyện ông Diệm từ chối lập chính phủ vào tháng 5/1949 như sau:
Trước hết, xin đặt ra một nghi vấn:
Ông Ngô Đình Diệm vốn dĩ là người cực kỳ cuồng tín và vô cùng thèm
khát quyền lực. Vì cái đặc tính cuồng tín và thèm khát quyền lực này
mà ông ta đã đi đi về về giữa Sàigòn và Hong Kong tới ba lần như đã
nói ở trên. Cũng vì cái đặc tính cuồng tín và thèm khát quyền lực
này mà cả đời ông lao vào làm những việc cực kỳ tàn ác để tâng công
Vatican cùng các quan thày Pháp và Mỹ với hy vọng được thăng quan
tiến chức và leo lên đến tột đỉnh của quyền lực do giặc ban cho.
Khi còn làm tri huyện ở Hòa Đa (Phan
Thiết), ông Diệm đã từng tra khảo nhà ái quốc chẳng may bị bắt một
cách hết sức dã man như đã nói ở trên.
Khi được Vatican dẫn sang Mỹ, vào mùa
thu năm 1950, khi các chính khách Hoa Kỳ đưa ra những câu hỏi để tìm
hiểu khả năng chính trị của ông, thì ông trả lời họ bằng một câu
nói để đời rằng ông “tin tưởng vào quyền lực Vatican và chống
Cộng một cách cực lực.”[30]
Câu nói này của ông Diêm cho chúng ta thấy rằng nếu được được
Vatican và Mỹ đưa lên cầm quyền ở Việt Nam, thì ông Diệm sẽ tuân
hành triệt để tất cả lệnh truyền của Vatican và của Hoa Kỳ.
Khi đã được đưa lên cầm quyền ở miền
Nam, ông Diệm đã làm tất cả những gì Vatican muốn và những gì Hoa Kỳ
muốn, miễn là ông được giữ lại ngôi vị tổng thống. Vì thế, chúng ta
thấy:
Đối với Vatican, ông Diệm đã có
những hành động:
1.- Tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa bằng
bạo lực với hy vọng “sẽ biến miền Nam theo công giáo hết trong vòng
mười năm”.[31]
2.- Chính thức cưỡng bách các cơ quan
hành chánh, giáo dục, văn hóa, thông tin, báo chí, v.v.. sử dụng từ
kép công giáo để thay thế cho các từ kép đạo Cơ Đốc, Đạo Da-tô, đạo
Thiên Chúa.[32]
3.- Công khai vinh danh một cách trắng
trợn những tu sĩ và tín đồ Ca-tô đã có công trong các việc làm do
thám và các hoạt động khác trong suốt chiều dài lịch sử từ giữa thế
kỷ 16 cho đến năm 1954 để giúp Vatican và Liên Minh Xâm Lược Pháp
hoàn thành việc tấn chiếm, đặt ách thống trị tại Việt Nam cho đến
năm 1945 và mưu đồ tái chiếm Đông Dương trong những năm 1945-1954.
Vì vậy, ở Sàigòn và các thành phố lớn ở miền Nam Việt Nam mới có
những con đường và trường học mang danh những tên Ca-tô làm Việt
gian bán nước cho Vatican và Pháp như Trường Trung Học Trần Lục,
Trường Trung Học Hồ Ngộc Cẩn, Trường Trung Học Pétrus Trương Vĩnh
Ký, Trường Nguyễn Duy Khang, Trường Lê Bảo Tịnh, Trường Nguyễn Bá
Tòng, Trường Thánh Thomas, v.v…, mới có những con đường như Tổng Đốc
Lộc (Việt gian Ca-tô Trần Bá Lộc), Tổng Đốc Phương (Việt gian Ca-tô
Đỗ Hữu Phương) đường Pétrus Ký (Việt gian- Ca-tô Pétrus Trương Vĩnh
Ký) đường Ngô Đình Khôi (Việt gian Ca-tô Ngô Đình Khôi), đường
Nguyễn Bá Tòng (Việt gian Ca-tô Nguyễn Bá Tòng), đường Phát Diệm
(sào huyệt Việt gian Phát Diệm), đường Bùi Chu (sào huyệt Việt gian
Bùi Chu), v.v..
4.- Công khai để cho tu sĩ và tín đồ
Ca-tô thao túng chính quyền, cướp đoạt tài nguyên, lũng đoạn kính
tế, thao túng ngành giáo dục, bốc hốt, vơ vét cho đầy túi tham, v.v…
[33]
5.- Bảo vệ khối bất động kếch sù ruộng
đất của Giáo Hội La Mã dù rằng Hoa Kỳ đã soạn thảo chương trình cải
cách điền địa và thôi thúc chính quyền Ngô Đình Diệm ban hành Dụ 57
tiến hành chương trình này để tranh thủ lòng dân, nhưng ông Diệm lại
dùng những thủ đoạn lươn lẹo để tránh né không rớ tới 370 ngàn mẫu
Anh (370, 000 acres) của Giáo Hội La Mã “Land held by the Roman
Catholic Church, estimated at about 370,000 acres was not subject to
transfer.”[34]
Đối với Hoa Kỳ: Ngày 30/11/1961, ông
Diệm đã hí hửng và hồ hởi đồng loã với quân đội Mỹ trong việc sử
dụng chất độc da cam rải xuống đồng ruộng và rừng cây trong lãnh thổ
miền Nam Việt Nam. Sự kiện này được sách sử ghi lại như sau:
“Ngày 30/11/1961, Tông Thống John F. Kennedy
phê chuẩn cho quân đội Mỹ tiến hành chiến dịch khai quang đồng cỏ
Việt Nam. Quyết định này được Ngô Đình Diệm, lúc đó là Tổng Thống
Nam Việt Nam ủng hộ nhiệt liệt. Diệm cho rằng ông ta “biết cộng sản
ở đâu” và tin rằng chiến dịch này sẽ thành công mĩ mãn.”[35]
Vì thế mà chiến dịch khai quang này được quân
đội Mỹ cho tiến hành trên đất nước Việt Nam và hậu qủa ghê gớm của
chiến dịch này được sách sử ghi nhận như sau:
“Quân đội Mỷ rải 77 triệu lít chất độc da
cam xuống miền Nam và Trung Việt Nam, gây ảnh hưởng và tác hại đến
môi truờng của 2,630,000 mẫu Tây và gần 5 triệu người sống trong
35,585 thôn ấp.” [36]
Việc làm dã man này đã sát hại không
biết bao nhiêu trăm ngàn hay bao nhiêu triệu nạn nhân, và hậu quả
của việc làm này cho đến ngày nay vẫn còn gây hại cho đất đai, cây
cối, mùa màng, sinh vật và nhân dân ta trong vùng bị ảnh hưởng.
Vì quá cuồng tín, anh em ông Diệm đã hăm
hở đi quá trớn trong việc muốn Ki-tô hóa toàn thể miền Nam trong
vòng mười năm, khiến cho hơn 300 ngàn nạn nhân bị sát hại, và bách
hại Phật giáo một cách cực kỳ thô bạo và hết sức dã man, đặc biệt là
kể từ đầu tháng 5/1963. Hành động tàn ngược này đã khiến cho nhân
dân thế giới và nhân dân Hoa Kỳ vô cùng ghê tởm và đòi hỏi chính
quyền Hoa Kỳ phải có biện pháp trừng trị cái chính quyền khốn nạn
này do chính Hoa Kỳ đã sinh đẻ, nuôi dưỡng và cưu mang từ ngày
7/7/1954 cho đến lúc bấy giờ. Hai nhà viết sử người Mỹ là Bradley S.
O’ Leary và Edward Lee viết trong sáchVụ Ám Sát Ngô Đình
Diệm & J.F Kennedy như sau:
“Với những thông tin bộc lộ toàn bộ sự
tàn bạo của Diệm đối với tín đồ Phật giáo, Mỹ lập tức tự đặt ra
những câu hỏi và suy đoán logic nhất: Tại sao lại ủng hộ một chính
phủ nước ngoài có chủ trương bách hại tôn giáo? Tín đồ Phật giáo là
những người ôn hòa, họ không phải là cộng sản; tôi tưởng những đồng
đô la đóng thuế của chúng ta đổ vào Nam Việt Nam là để góp sức chiến
đấu chống chủ nghĩa cộng sản. Tại sao Tổng Thống Kennedy gửi chuyên
viên quân sự Mỹ sang giúp đỡ chính phủ của một người luôn luôn tìm
cách đẩy dân chúng của mình vào trại tập trung?
Cho tới lúc đó, nước Mỹ vẫn nghĩ rằng
số lượng người Mỹ, nam và nữ, không ngừng tăng lên được đưa tới Nam
Việt Nam (xấp xỉ 15.000 người vào tháng 6/1963) cùng với khoản viện
trợ 1.2 triệu đô la mỗi ngày là để giúp Nam Việt Nam chống lại kẻ
thù Việt Cộng không đội trời chung. Nhưng giờ đây, dường như Diệm
quan tâm nhiều hơn đến việc chống lại các vị sư sãi mặc áo choàng
vàng không có vũ khí.
Quả thật chỉ qua một đêm thế giới nhận ra Mỹ chỉ là kẻ vô tích sự, đã chọn đúng một bạo chúa để hà
hơi tiếp sức.Kennedy tức điên; hơn thế nữa, ông và các cố
vấn chính trị đang rất hoang mang. Chỉ còn hơn một năm nữa, mùa
bầu cử tổng thống lại đến; Kennedy đắc cử nhiệm kỳ thứ nhất năm 1960
với cách biệt rất nhỏ so với đối thủ Richard Nixon – 118.000 phiếu
trong tổng số 68.3 triệu phiếu bầu. Giờ đây, đối với cử tri Mỹ, làm
sao ông có thể vô lý nhiều hơn nữa khi đã cam kết viện trợ tiền của
và xương máu của người Mỹ cho Diệm, một kẻ không khác gì Hitler?...
Đương nhiên, Kennedy lập tức chỉ thị
cho Bộ Ngoại Giao khiển trách Diệm, và yêu cầu ngưng tay lại. Chỉ
riêng vụ 11/6 (Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu) này thôi cũng
đã gây cho JFK nhiều rắc rối nhất kể từ vụ khủng hoảng tên lửa ở
Cuba, vi vậy ông cương quyết sửa chữa.
Tuân theo chỉ thị, các viên chức Mỹ đã
phê phán Diệm thậm tệ. Mọi chuyện mau chóng được hiểu rằng nếu tình
trạng ngược đãi tín đồ Phật giáo còn tiếp diễn. Diệm sẽ mất nguồn
viện trợ ưu ái của Mỹ. Chấm hết.”[37]
Hoa Kỳ đã làm hết cách để khuyên can và
răn đe, nhưng tất cả đều vô ích.
“Và cách hồi đáp của Diệm chỉ cho thấy
ông ta là hiện thân của ngạo mạn. Thay vì bắt tay làm việc với cường
quốc ủng hộ duy nhất, ông và ẹm trai ông xuyên tạc biến cố này bằng
một chiến dịch bôi nhọ, ngang nhiên gọi những tín đồ Phật giáo là
cộng sản hoặc là tay trong cho Việt Cộng.
“Diệm, Nhu và Bà Nhu giờ đây đang tự lộ
mình như một chế độ quả đầu hay tam đầu chế, chứ không phải như
những nhà lãnh đạo của một chính quyền tự cho là dân chủ. Khi Diệm
phớt lờ những yêu sách kiên quyết sau đó của Mỹ là ông phải ngưng áp
bức Phật giáo, JFK rút đại sứ Mỹ đương nhiệm (Frederick Nolting) về
nước và bổ nhiệm Henry Cabot Lodge thay thế. Đây là một người có
gốc gác chống Công Giáo kịch liệt, và đặc biệt ông là một đảng
viên Cộng Hòa cứng rắn…”
“Kết quả? Vẫn lại có thêm các sư sãi tự
thiêu để phản đối, bắn giết và ném thêm hàng ngàn tín đồ Phật giáo
vào các trại tập trung? Và chính phủ Kennedy lại tiếp tục bị phê
phán kịch liệt….
Diệm, Nhu. Bà Nhu. Cả ba người – cái
bộ ba bạo chúa đầy hận thù này đang cùng lừa gạt cả nước Mỹ.”[38]
Vô kế khả thi, chính quyền Hoa Kỳ mới
ngoảnh mặt làm ngơ để cho quân dân miền Nam vùng lên làm lịch sử,
lôi cổ anh em tên bạo chúa phản thần tam đại Việt gian này ra đập
chết ở ngay trong thành phố Sàigòn vào khoảng hơn 7 giờ sáng ngày
2/11/1963. Xin xem Chương 20 (tr. 433-447) trong sách Việt Nam Đệ
Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000) của
tác giả Nguyễn Mạnh Quang.
Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy
rằng, trong suốt cuộc đời hoạn lộ, ông Ca-tô Ngô Đình Diệm đã không
từ nan bất cứ một việc làm tàn ngược độc ác nào để thỏa mãn ý muốn
của các quan thày Vatican, Pháp và Mỹ với mục đích duy nhất là hy
vọng được quan thày cho nhẩy lên bàn độc hầu thỏa mãn lòng thèm khát
quyền lực. Ấy thế mà vào năm 1949, khi được Quốc Trưởng Bảo Đại
yêu cầu ra nắm giữ chức thủ tướng chính phủ, TẠI SAO ông Diệm lại từ
chối? Tất nhiên là phải có vấn đề.
Vấn đề là:
Chính phủ Quốc Gia của ông Bảo Đại vào
thời điểm này nguyên là chính phủ của nước Cộng Hòa Nam Kỳ do cựu
Linh-mục Thierry d’ Argenlieu cũng là Cao Ủy Đông Dương (17/8/1945 –
15/3/1947) dựng nên theo chính sách chia để trị của Liên Minh Pháp
- Vatican. Giải Pháp Bảo Đại cũng do tên cựu linh mục này đề nghị
vào tháng 1 năm 1947 trước khi chuẩn bị hồi hương. Sử gia Marvin E.
Gettlemen viết trong cuốn Viet Nam: History, Documents and Opinions
on a Major World Crisis như sau:
“Ngay sau khi chiến tranh bùng nổ trên
toàn lãnh thổ Việt Nam vào ngày 19/12 (1946), trong một giác thư gửi
về chính phủ Paris, d’ Argenlieu đề nghị đưa Bảo Đại trở lại ngai
vàng.” Nguyên văn: “In a memorandum to the Paris
government soon after full-scale fighting broke out on December 19,
d’ Argenlieu proposed returning Bao Dai to the throne.”[39]
Sử gia Joseph Buttinger viết trong cuốn
Vietnam: A political History như sau:
“Từ khi tách rời khỏi Việt Minh vào
tháng 3 năm 1946, Bảo Đại trú ngụ ở Hồng Kông. Vào tháng 1/1947,
viên đặc sứ của d’ Argenlieu cho ông ta hay là người Pháp có một kế
hoạch dùng ông để chống lại Việt Minh. Rồi từ đó, đặc biệt là từ khi
Bollaert đến Saigòn nhận chức Cao Ủy Đông Dương (vào ngày 15/3/1947
– NMQ), sứ giả của Cao Ủy Bollaert và bọn Việt gian cũ (bọn cựu quan
lại làm tay sai cho Liên Minh Pháp - Vatican trong thời 1884-1945 -
NMQ) tới tấp đến Hồng Kông để đưa tin và tiếp xúc với Bảo Đại.”
Nguyên văn: Bao Dai had been residing in Hong Kong since
disengaging himself from the Vietminh in March, 1946. He had learned
of the French plan of using him against the Vietminh back in
January, 1947, from an emissary of d’ Argenlieu. Ever since then,
and particular after Bollaert’s arrival in Saigon, messengers and
old collaborators of the French had been going to Hong Kong…”[40]
Ai cũng biết rằng khi còn ngụ ở Hong
Kong, ông Bảo Đại được sứ giả của Toàn Quyền Đông Dương Thierry d’
Argenlieu và Émile Bollaert là Cousseau móc nối đưa về lập chính phủ
bù nhìn làm tay sai cho Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican trong
chính sách dùng người Việt đánh người Việt để làm bia đỡ đạn cho
thanh niên Pháp từ chình quốc sang Đông Dương chiến đấu cho cuộc
chiến mà nhân dân Pháp gọi là “Chiến Tranh Bẩn Thỉu” (La Sale
Guerre).
Đối với Giáo Hội La Mã, ngoài việc thi
hành chính sách chia để trị và dùng người Việt đánh người Việt, Giáo
Hội còn có chủ trương dùng người Ki-tô giáo bản địa để cai trị đại
khối nhân dân thuộc các tôn giáo khác với mục đích sẽ dùng quyền lực
nhà nước để tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa nhân dân trong toàn quốc từ
trên xuống dưới bằng bạo lực. Do đó, Toà Thánh Vatican xúi giục Bảo
Đại đưa Ngô Đình Diệm lên giữ chức vụ thủ tướng và dành nhiều quyền
hành cho cái chính phủ bù nhìn này, nhưng Pháp không đồng ý.
Đối với chính quyền Pháp, ngoài việc
thi hành chính sách chia để trị, họ còn có chủ trương tiến hành
chánh sách lấy chiến tranh nuôi chiến tranh. Muốn tiến hành chính
sách này, họ phải trực tiếp chỉ huy cuộc chiến và trực tiếp chỉ huy
hay điều khiển bộ máy quản lý nhân dân, nghĩa là chỉ để cho Bảo Đại
ngồi làm vì ở ngôi vị quốc trưởng, còn cái nội các chinh phủ dưới
quyền một ông thủ tướng phải là người được họ tuyển chọn. Cái nội
các này phải tuyệt tôi tuân hành những chỉ thị của họ mà không bị
một thế lực nào chi phối. Vì có quá nhiều kinh nghiêm lịch sử với
Giáo Hội, cho nên chính quyền Pháp không muốn Giáo Hội La Mã xía vào
việc quản lý nhân dân và cũng không muốn sử dụng tín đồ Ca-tô thuộc
loại siêu cuồng tín làm thủ tướng. Nếu dùng những tín đồ Da-tô thuộc
loại cuồng tín như ông Ngô Đình Diệm, thì chẳng hóa ra người Pháp bỏ
tiền của và xương máu để chiến đấu cho Vatican ngồi không hưởng thụ
công lao của họ hay sao? Đặc biệt hơn nữa, đối với ông Ngô Đình
Diệm, họ đã mang sẵn cái ấn tượng về con người phản trắc này từ hồi
đầu thập niên 1940, đồng thời, họ cũng quá nhiều kinh nghiệm về cái
bản chất tráo trở, lá mặt lá trái của Vatican. (Xin xem lại chương 5
ở trên, phần nói về Việt Nam Quang Phục, mục Pháp và Vatican là hai
kẻ đồng sàng nhưng dị mộng). Cho nên họ rất khinh bỉ ông Diệm và
không chấp nhận để cho ông Ngô Đình Diệm nhẩy vào nắm giữ chực vụ
thủ tướng, dù là thủ tướng bù nhìn của cái chính phủ bù nhìn này.
Nói cho rõ hơn, việc chọn ai làm thủ
tướng trong chính quyền bù nhìn Bảo Đại trong thời gian
6/1948-6/1954 là hoàn toàn nằm trong tay người Pháp. Ông Bảo Đại và
Tòa Thánh Vatican chẳng có một chút quyền hành nào cả.
Do đó, ta có thể nói, khi viết rằng
ông Ngô Đình Diệm “từ chối lời yêu cầu của Bảo Đại thành lập
chính phủ hồi tháng Năm 1949”, là ông Lê Xuân Khoa đã không đào
sâu vấn đề, chỉ ghi lại một sự kiện bề ngoai mà thôi. Phải chăng ông
Khoa không hiểu rõ tình trạng đồng sàng nhưng dị mộng giữa Vatican
và chính quyền Pháp ở chính quốc. Dù rằng trong những năm 1945-1954,
đảng MRP (thân Vatican) do ông Ca-tô Georges Bidault làm đảng trưởng
và có ảnh hưởng lớn trong chính quyền Pháp, nhưng vẫn phải e dè
đảng Cộng Sản Pháp và Đảng Xã Hội Pháp. Hai đảng này đang được đại
đa số nhân dân Pháp hăng say ủng hộ, nhất là vào những năm này người
Pháp đang ghê tởm cuộc chiến Đông Dương. Họ gọi cuộc chiến tái chiếm
Đông Dương là “Cuộc Chiến Tranh Bẩn Thỉu” (La Sale Guerre).
Trong suốt chiều dài lịch sử, từ khi
xuất quân đánh chiếm Đông Dương vào năm 1858 cho đến ngày 20/7/1954,
người Pháp đều cầm trịch và nắm quyền quyết định tối hậu trong việc
làm chính sách và sử dụng nhân sự trong bộ máy cai trị Đông Dương,
chứ không phải là Vatican. Đưa ra Giải Pháp Bảo Đại là sáng kiến
của Vatican và được người Pháp chấp thuận trên nguyên tắc. Nhưng khi
Vatican mong muốn người Pháp sử dụng ông Ngô Đình Diệm làm thủ
tướng trong cái chính phủ bù nhìn này, thì người Pháp không chấp
thuận. Việc người Pháp không chấp thuận dùng ông Ngô Đình Diệm làm
thủ tướng có thể vì hai lý do:
Lý do 1, nếu dùng ông Ngô Đình Diệm
làm thủ tướng, thì Giáo Hội sẽ có thể sử dụng ông Ngô Đình Diệm để
thi hành chính sách lấn chiếm tiếm quyền như thời Vua Louis XIII
(1610-1643) và Louis XIV (1643-1715) Xin xem lại Chương 6, Mục III
(Phần I) của bộ sách Lịch Sử Và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã.
Chương sách này đã được đưa lên sachhiem.net và giaodiemonline.com
từ tháng 9/2007.
Lý do 2, người Pháp rất khinh bỉ và
ghê tởm Ngô Đình Diệm vì cái thành tích phản trắc của ông ta mà
người Pháp đã có kinh nghiệm này với ông ta vào những năm đầu thập
niên 1940. Nguyên do là vì khi tranh dành quyền hành (chức Lại Bộ
Thượng Thư) trong triều đình Huế với ông Phạm Quỳnh vào giữa năm
1933, ông Ngô Đình Diệm thất thế vì vừa kém tài so với ông Phạm
Quỳnh, vừa có quan thày kém thế đối với quan thày của ông Phạm
Quỳnh. Quan thày của ông Diệm là Léon Thibeaudeau đang giữ chức vụ
Khâm-sứ tại Huế lúc bấy giờ, trong khi đó, quan thày của ông Phạm
Quỳnh là Toàn Quyền Pierre Pasquier đang nắm quyền thống trị toàn
thể lãnh thổ Đông Dương. Cụ Phan Bá Kỳ viết về vấn đề này với nguyên
văn như sau:
“Ai biết chút ít về lịch sử cũng
phải hiểu rằng, nhân sự ở Đông Dương hồi Pháp thuộc là do nơi ba thế
lực chính: Thực dân, Giáo Hội, Tam Điểm (Free Mason), tùy theo tình
hình chính quốc. Khi ở Pháp phe Tam Điểm thắng thế thì thực dân ở
Đông Dương về phe với Tam Điểm. Khi phe Công Giáo lên chân thì thực
dân về phe với Giáo Hội. Việc ông Diệm bị cách tuột hết mọi thứ có
thể là đang có một sự tranh chấp giữa Tam Điểm và Giáo Hội, mà ông
ta ngu ngơ, dại dột đi vâng phục quá đáng cái thế lực thất thế vào
thời điểm đó. Cứ tìm xem Khâm-sứ Léon Thibaudeau và Toàn Quyền
Pierre Pasquier thuộc nhóm nào là hay. Chứ Bảo Đại, Phạm Quỳnh,
ngoài chuyện thừa hành, làm gì có quyền để trừng phạt oan ức một
người… đáng quí như ông Diệm. Hơn nữa, nếu ông Diệm từ chức và thanh
liêm, thì còn ham chi cái chức thượng thư. Sao trong nhà ngoài ngõ
cứ một điều “anh Thượng”, hai điều “chú Thương”, mà ông ta không
chịu cấm đoán?…”[41]
Thất bại trong việc tranh quyền với
ông Phạm Quỳnh, cả gia đình ông Diệm sinh ra bất mãn với người Pháp,
rồi đi theo ông Da-tô Cường Để, mưu đồ làm tay sai cho Nhật trong âm
mưu chống lại người Pháp ở Đông Dương. Thấy thế, người Pháp ra lệnh
cho Bảo Đại bãi chức Ngô Đình Khôi, trục xuất Ngô Đình Diệm ra
khỏi Huế. Ngay cả Ngô Đình Nhu cũng bị Sở Mật Thám Pháp điều tra.
Sự kiện này được sách Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí ghi lại với
nguyên văn như sau:
“Theo một mật báo viên (Luật-sư Lê
Văn Kim), tháng 12/1933, Diệm vào Sàigòn gặp Nguyễn Phan Long, Lê
Văn Kim, Jacques Lê Văn Đức v.v… Tiếp đó, báo chí Sàigòn và cả tờ
La Lanterne ở Paris mở chiến dịch đòi thay Pasquier bằng cựu Toàn
Quyền Alexandre Varenne (7/1925-11/1927) và đưa cựu Khâm-sứ Yves
Châtel (6/1931-2/1933) trở lại Huế (INF, c.366/d.2905).
Biết được tin này qua Lụat-sư Kim,
Pasquier nổi giận, truất hết chức tước của Bài, Diệm và Đệ. Diệm còn
bị trục xuất khỏi Huế, chỉ định cư trú tại Quảng Bình. May mắn, ngày
15/1/1934, Pasquier chết vì tai nạn máy bay trên không phận Paris.
Năm sau, Bài cũng chết. Tân Toàn Quyền René Robin (7/1934-1/1937) và
Khâm-sứ Maurice Graffeuil (7/1934-5/1936), (4/1937-8/1941) đồng ý
phục hồi tước vị cho Bài và Diệm. Diệm được trở về Huế dạy ở trường
Providence của Thục, Linh-mục, anh trai của Diệm.
Giai đoạn Nhật chiếm đóng Đông
Dương 1940-1945, Diệm bắt đầu tìm cách liên lạc với Cường Để. Đầu
năm 1943, Trương Kế An, thủ lãnh Liên Đoàn Ái Quốc Việt Nam, gặp
Diệm ở Hà Nội. Pierre Nguyễn Đệ, cựu tổng lý văn phòng của Bảo Đại,
thuộc một gia đình hợp tác trung thành với Pháp ở miền Bắc, cũng có
mặt. (Note số 2995-SP/C, Huế, 4/4/43; 14 PA, c.1).
“Trong khi đó, Khôi lại cố ý che
chở cho tín đồ Cao Đài trong vùng cai trị của mình. Mật thám Pháp
còn tìm thấy trong nhà một người cháu của Khôi những tài liệu Việt
Nam Phục Quốc Hội của Cường Để. Vì việc này, trong một buổi gặp mặt
trên đèo Hải Vân Khâm-sứ ÉmileGrandjean (6/1941-8/1944) ép
Khôi phải từ chức không được hàm Thượng Thư. Tháng 1/1944, Grandjeam
còn cho lệnh Bảo Đại ký sắc lệnh trục xuất Diệm ra khỏi Huế, chỉ
định cư trú ở Quảng Bình.
Khoảng nửa năm sau, Mật Thám Pháp
khám phá ra tổ chức Đại Việt Phục Hưng của Diệm, gồm khoảng 50 đảng
viên tích cực; kể cả một số giáo sĩ, nằm ngay trong đội lính khố
xanh (Garde Indochinoise), cảnh sát v.v… Một trong những lãnh tụ là
Trần Văn Lý, Tuần Vũ Hà Tĩnh (7F 29, tr. 56). Diệm được Trung Úy
Kuga của Nhật đưa vào Đà Nẵng, rồi đáp phi cơ vào Sàigòn vào ngày
12/7/1944. Trong thời gian ở miền Nam, Diệm lui tới với Matsushita
Mitsuhiro, chủ công ty Đại Nam [Dainan Koosi hay Dainam Konsi],
trùm tình báo dân sự của Nhật, cũng người tự nhận là bạn thân của
Cường Để.
12/8/1944: Nguyễn Huy Tân, Cán Sự
Công Chánh ở Quảng Ngãi, cán bộ của Diệm, khai rằng tổ chức của Diệm
có nhiều công chức người Việt, kể cả sĩ quan Khố Xanh (Xem Đỗ Mậu).
14/8/1944: Paul Arnoux, Giám Đốc
Cảnh Sát, được lệnh bí mật khai thác Ngô Đình Nhu ngay tại Huế (14
PA, c.2,d.19).
18/8/1944: Arnoux báo cáo rằng Nhu
nhìn nhận việc làm tội lỗi của Diệm nhưng Khôi không dính líu, chỉ
muốn duy trì “bát cơm” Pháp cho. Arnoux cũng báo cáo rằng theo lời
khai của Nguyễn Huy Tân Nhật đã chọn Diệm làm thủ tướng, trong một
chế độ quân chủ lập hiến mà người làm vua không nhất thiết phải là
Cường Để.
20/8/1944: Vì tình hình Âu Châu
đang rối loạn, phe de Gaulle đang tiến vào Paris. Decoux đồng ý với
đề nghị của Arnoux: chỉ trừng trị những cán bộ hạng trung, tránh
khiêu khích Nhật.
21/8/1944: Thục, Giám Mục Vĩnh
Long, viết thư xin Decoux nghĩ đến công lao của cha mình với chính
phủ Pháp trong việc “đánh dẹp phản loạn” (tức những phong trào Văn
Thân và Cần Vương yêu nước, kháng Pháp) khi xét xử việc làm của Khôi
và Diệm. [Xem phụ bản].”[42]
Cũng nên biết Cường Để thuộc dòng dõi Hoàng
Tử Cảnh và là một tín đồ Ca-tô được các nhà tuyền giáo Ca-tô ủng hộ
trong việc muốn tranh giành ngai vàng vời dòng con cháu vua Minh
Mạng. Sau khi Nhật đại thắng quân Nga ở eo Biển Đối Mã vào năm 1905,
một số các nhà ái quốc Việt Nam trong đó có cụ Phan Bội Châu, lục
tục đến nước Nhật tìm cách cầu thân và thỉnh cầu Nhật giúp đỡ dân ta
đánh đuổi người Pháp ra khỏi Việt Nam. Một số chính khách Nhật
khuyên các cụ phải tìm một vị minh chủ đưa sang thì họ mới giúp đỡ.
Thế là cụ Phan Bội Chậu lại lặn lội đi kiếm ông Ca-tô Cường Để đem
sang Nhật, thành lập tổ chức Việt Nam Phục Quốc Hội và tôn Cường Để
lên làm minh chủ. Thế nhưng, giữa các nhà ái quốc này và ông Cường
Để lại là những người đồng sàng nhưng dị mộng. Cụ Phan Bội Châu và
các đồng chí của ông muốn được Nhật giúp đỡ đánh đuổi người Pháp để
giành lại độc lập cho Việt Nam và thiết lập một chế đô quân chủ lập
hiến, sau đó, cụ lại chủ trương thành lập chế độ cộng hòa. Trong khi
đó, ông Ca-tô Cường Để lại chủ trương tái lập chế độ quân chủ chuyên
chế trung ương tập quyền. Cũng vì thế mà vào khoảng năm 1912, cụ
Phan Bội Châu và các nhà ái quốc Việt Nam từ giã tổ chức Việt Nam
Phục Quốc Hội (sau này tổ chức này đổi tên là Đại Việt Phục Hưng) và
không còn liên hệ với ông Ca-tô Cường Để nữa. Cường Để tiếp tục giữ
cái ngôi minh chủ của tổ chức này và trông nhờ vào sự giúp đỡ của
nhà truyền giáo Ca-tô.
Vì hành động phản trắc này, kể từ đó,
người Pháp rất khinh bỉ và thù ghét anh em nhà Ngô. Cho nên, vào năm
1948, dù cho Diệm đã băng xăng năng nỏ đi đi về về Hong Kong và
Sàigòn để xin xỏ Bảo Đại cho làm thủ tướng và dù cho Bảo Đại có chấp
thuận cho Diệm làm thủ tướng, thì người Pháp cũng vẫn không chấp
thuận cái thứ người phản trắc như Diệm. Vì thế mà Diệm đành phải
ngậm đắng nuốt cay mà nhìn mộng công hầu tan ra như mây khói.
Ngoài vấn đề người Pháp khinh bỉ và
ghê tởm ông Ngô Đình Diệm vì ông ta là con người phản trắc, còn một
vấn đề quan trọng khác nữa là bề ngoài, Pháp và Vatican liên kết
với nhau thành một Liên Minh Xâm Lược cùng đánh chiếm và thống trị
Đông Dương để cùng thủ lợi. Nhưng cũng vì cùng thủ lợi mà cả Pháp và
Vatican đều muốn nắm thế thượng phong trong việc làm chính sách
quản lý Đông Dương. Đây là nguyên nhân đưa đến tình trạng Pháp và
Vatican hục hặc với nhau.
Nhìn theo con mắt của một nhà kinh tế
học, Liên Minh Thánh Pháp - Vatican giống như một công ty kinh
doanh, hùn hạp với nhau để cùng đánh chiếm Việt Nam rồi cùng thống
trị, cùng cướp đoạt tài nguyên, cùng bóc lột dân ta và cũng cưỡng
bách dân ta làm nô lệ phục vụ tại các công trường khai thác quặng
mỏ, hầu hạ chúng tại các tư gia cũng như tại tòa khâm sứ và các tòa
giám mục.
Phần hùn của Đế Quốc Vatican
là công lao thu thập các tin tức tình báo chiến lược, móc nối với
những người Việt Nam mang quốc tịch Vatican để:
1.- Thành lập đạo quân thứ 5 nằm sẵn
chờ giờ hành động khi có lệnh truyền của các đáng bề trên của họ
như nổi lên tiếp ứng cho đoàn quân viễn chinh từ ngoài khơi tiến
vào.
2.- Nổi loạn chống chính quyền bản địa
để tạo nên tình trạng bất an theo sách lược “quậy cho nước đục để
thả câu” như vụ Lê Văn Khôi nổi loạn chống triều đình Huế (hời Vua
Minh Mạng) vào mấy năm 1833-1835, như vụ Tạ Văn Phụng nối lên đánh
phá chống triều đình Huế (thời vua Tự Đức) trong những năm
1861-1865, vụ Hồng Bảo nổi loạn mưu đồ thoán đoạt ngôi vua của vua
Tự Đức vào năm 1869. Cho đến ngày nay, sách lược này vãn còn được
Vatican sử dụng để đánh phá chính quyền Việt Nam ta. Bằng cớ là mới
đây, Giám Mục Ngô Quang Kiệt ra lệnh cho đám giáo dân Ca-tô nổi loạn
chống phá chính quyền ta tại tòa nhà công sở số 42 Phố Nhà Chung, Hà
Nội trong những ngày từ 18/12/2007 cho đến ngày 30/1/2008,
3.- Cung ứng cho nhu cầu làm tay sai
tai mắt đưa đường dẫn lối trong các chiến dịch tấn chiếm nước ta
cũng như trong các chiến dịch truy lùng và tiêu diệt các lực lượng
nghĩa quân kháng chiến của nhân dân ta, và
4.- Cung ứng cho bộ máy đàn áp và cai
trị nhân dân.
Phần hùn của Đế Quốc Pháp là bỏ
tiền ra bao giàn cuộc chiến, cung ứng quân đội và hoạch định kế
hoạch hành quân tấn chiếm Việt Nam. Cũng vì thế mà Đế Quốc Pháp nắm
quyền chỉ đạo và làm chính sách thống trị tại Việt Nam đúng theo quy
luật “Ai chi tiền và xuất quân thì người đó nắm quyền chỉ đạo”.
Chủ trương của Pháp là muốn chiếm Việt
Nam để vừa làm thuộc địa khai thác tài nguyên, lấy nguyên liệu đem
về cung ứng cho nhu cầu nhà máy kỹ nghệ tại chính quốc, vừa bắt dân
ta làm nô lệ phục vụ tại các công trường khai thác các tài nguyên
trên đây, vừa biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của
riêng nước Pháp.
Chủ trương của Vatican là muốn chiếm
Việt Nam để thiết lập một chính quyền theo chế độ cha cố (đạo phiệt
Da-tô) bằng cách duy trì ngai vàng nhà Nguyễn ở triều đình Huế để
làm tay sai, giao công việc quản lý nhân dân cho triều đình này đảm
nhiệm (giống như sau này người Mỹ giao cho chính quyền Sàigòn quản
lý nhân dân miền Nam trong những năm 1954-1975), rồi ngồi ở hậu
trường điều khiển. Dần dần tên vua bù nhìn này sẽ được thay thế bằng
một tín đồ Da-tô trong hoàng tộc và sẽ biến thành một bạo chúa ban
hành quyết định (sắc chỉ) cho toàn dân phải theo đạo Ki-tô giống như
các bạo chúa Âu Châu đã làm: Constantine (280-335) của Đế Quốc La
Mã, Ferdinand V (1452-1516) và (Isabella I (1451-1504 của Tây Ban
Nha, Mary I hay Bloody Mary (1516-1588 ) của nước Anh, Louis XIV
(1638-1715) của nước Pháp.
Chủ trương khác nhau trên đây giữa Pháp và
Vatican đã khiến cho hai thế lực này có những mâu thuẫn với nhau,
không ưa nhau, thậm chí đến thù ghét nhau, và chờ cơ hội thuận tiện
là tìm cách hất cẳng nhau không một chút xót thương.
Thực ra, vì nằm dưới ách thống trị của Giáo Hội
qua nhiều thế kỷ, phần lớn những người Pháp, nhất là những thành
phần tiến bộ đều thù ghét Giáo Hội La Mã và khinh bỉ giới tu sĩ
Da-tô. Tình trạng này nhen nhúm từ lâu và bắt đầu bùng lên như hỏa
diệm sơn từ trước thời Lý Trí (1500-1789) và biến thành những cuộc
chém giết tàn sát lẫn nhau vào đầu thế kỷ 17 giữa những người Ca-tô
cuồng tín thuần phục Vatican và những người chống lại Vatican
trong đó có những người Tin Lành, rồi đến thời Cách Mạng Pháp 1789
thì chế độ giáo hoàng (papacy) hoàn toàn được coi như là bị đào sâu
chôn chặt và bọn tu sĩ Ca-tô bị công khai coi như là “bọn lưu
manh buôn thần bán thánh đội lốt thày tu”. Do đó, chúng ta mới
không ngạc nhiên khi thấy văn hào Voltaire (1694-1778) gọi Đạo Ki-tô
là “cái tôn giáo ác ôn”[43] và người dân Pháp gọi giới tu sĩ Da-tô là “lũ quạ
đen” (Les corbeau noirs). Lòng thù hận của người dân Pháp đối
với Giáo Hội La Mã quả thật là đã lên đến tận trời xanh. Lời tuyên
bố giận dữ của nhà báo Jacques René Hebert (Nov. 15, 1757- March 24,
1794) vào ngày 28/11/1790 cho chúng ta thấy rõ sự kiện này:
"Tôi đang sôi máu.Các bạn người
Pháp, các bạn hãy nói cho tôi nghe xem có được không. Nếu cái người
mà các bạn gọi là Đức Thánh Cha cướng quyết chống lại luật pháp của
các bạn, các bạn có ngu xuẩn và hèn hạ đến độ phải từ bỏ luật pháp
của các bạn. Các bạn hy vọng gì ở một ông Giáo Hoàng. Đ.M Giáo
Hoàng, hãy tin ở tôi đi, bây giờ là đến lượt các bạn; cả trong mười
thế kỷ qua, Giáo Hoàng đã áp bức các bạn quá nhiều rồi.".
Nguyên văn: “My blood boils, he wrote on 28 November 1790, for
instance. “Tell me, Frenchmen, is it possible? if that man you call
the Holly Father takes it into his head to oppose your laws, do you
dare, are you stupid and base enough, to give them up? What do you
expect from a Pope? Screw the Pope, believe me; it is your turn at
last; for ten centuries the Pope has screwed you."[44]
Cũng vì thế mà ngay từ hồi Cách Mạng 1789
vừa mới bùng nổ được mấy ngày, “tại Quốc Hội Pháp đã có nhiều
người chịu ảnh hưởng các tư tưởng của các triết gia có khuynh hướng
chỉ trích và lên án Giáo Hội La Mã.” Nguyên văn: “The
Assembly, many of whose members were influenced by the philosophes,
tended to be highly critical of the church.”[45]
Do thực trạng này mà các nhân vật chính trị
thắng thế trên sân khấu chính trị tại Pháp quốc cũng như các vị
tướng lãnh chỉ huy đoàn quân viễn chinh tiến chiếm Việt Nam và các
nhân vật được chính quyền Pháp gửi sang Đông Dương nắm giữ các chức
vụ Toàn Quyền Đông Dương, Khâm Sứ Trung Kỳ, Thống Sứ Bắc Kỳ và
Thống Đốc Nam Kỳ hầu hết đều là những người có tinh thần chống Giáo
Hội La Mã. Chúng ta thấy tại chính quốc Pháp thì có những nhân vật
như Jules Ferry, Léon Gambetta, Léon Blum, các nhân vật quân sự như
Đô Đốc Page, Đô Đốc Bonard, Đô Đốc Rieunier, Đại Tá Bernard cho đến
các chính trị gia nắm quyền chủ chốt trong bộ máy cai trị Đông Dương
như Paul Beau, Paul Bert, Pierre Pasquier, v.v… cũng đều là những
người hăng say chống Giáo Hội La Mã và thường tỏ ra khinh rẻ các ông
tu sĩ hoạt động cho Giáo Hội tại Đông Dương vào thời bấy giờ.
Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết. Tình trạng
hai phe Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Vatican và Pháp hục hặc và gầm gừ
với nhau làm cho những tên Việt gian mang quốc tịch Vatican bán
nước cho Vatican hay mang quốc tịch Pháp bán nước cho Pháp cũng đều
mất ăn mất ngủ, lao đao và chìm nổi với quan thày và bọn Việt gian
khác (không mang quốc tịch Vatican và cũng không mang quốc tịch
Pháp) cũng hồi hộp phập phồng lo sợ. Như trên đã nói, phe Đế Quốc
Thực Dân Xâm Lược Pháp luôn luôn thắng thế, cầm trịch trên sân khấu
chính trị tại chính quốc Pháp và trong bộ máy cai trị tại Đông
Dương. Sự kiện này khiến cho bọn Việt gian làm tay sai tai mắt đắc
lực cho Đế Quốc Vatican cũng phải bị lép vế. Bọn Việt gian này, vì
cuồng tín quá hóa thành ngu xuẩn, lúc nào cũng tỏ ra La Mã hơn cả La
Mã, không nhận thức được cái thân phận làm đầy tớ cho hai ông chủ,
cho nên mới bị quan thày Pháp vốn đã khinh bỉ lại càng trở nên khinh
bỉ hơn. Cũng vì lẽ này, khi có đủ bằng chứng trong tay, bọn Pháp
thực dân không những đuổi cổ bọn Việt gian Ca-tô Nguyễn Hữu Bài và
anh em Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm về vườn, mà còn trừng phạt gắt
gao, không một chút tiếc thương. Xin coi lại Chương 5 ở trên, mục
nói về Việt Nam Quang Phục Hội ở trên.
Ông Lê Xuân Khoa viết: “Nguyễn
Hải Thần, Nguyễn
Tường Tam và Ngô Đình Diệm đại diện cho nhóm yêu nước quá khích…”
Câu văn trên đây cho chúng ta thấy ông Lê Xuân
Khoa không những khẳng định rằng ông Diệm là một người yêu nước mà
lại còn là một người yêu nước quá khích (chauvin, chauvinist) nữa
cơ! Rõ ràng là ông Lê Xuân Khoa tâng bốc tên bạo chúa phản thần
tam đại Việt gian họ Ngô này lên đến chín tầng mây!
Phản biện: Đối với những
người thấu hiểu lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, câu văn
này nghe ra không ổn một chút nào! Ai cũng biết rằng từ năm 1858 cho
đến năm 1945 và nhiều năm sau đó, tại Việt Nam (đúng ra là tại Đông
Dương), có hai thế lực thù địch bất cộng đái thiên giữa một bên
là Liên Minh Pháp – Vatican cấu kết với tập đoàn phong kiến phản
động Việt Nam và nhóm tín đồ Ca-tô bản địa với chủ trương duy trì
bạo quyền thống trị và cưỡng bách dân ta làm nô lệ cho chúng, và
một bên là toàn thể đại khối dân tộc quyết tâm liều chết chiến
đấu đánh đuổi liên quân xâm lược trên đây để giành lại chủ quyền độc
lập cho dân tộc.
Các ông Nguyễn Tường Tam và ông Nguyễn Hải Thần
là những người đứng vào hàng ngũ dân tộc chiến đấu cho quyền lợi tối
thượng của tổ quốc, ta gọi họ là những họ là những người yêu nước dù
cho họ bất đồng chính kiến với Mặt Trận Việt Minh. Nhược điểm của
hai ông này là:
1.- Không thấu hiểu lịch sử thế giới cho nên
mới không biết gì về trào lưu tiến hóa nhân loại và cũng không biết
rằng Vatican là kẻ thù nguy hiểm số 1 của dân tộc, cho mới lầm lẫn
ủng hộ Giải Pháp Bảo Đại do Vatican chủ tâm đưa ra.
2.- Thuộc thành phần tiểu tư sản với tất cả đặc
tính của người tiểu tứ sản, cho nên họ không có khả năng chịu đựng
gian khổ để vượt qua những khó khăn và nguy hiểm của cuộc đời nghĩa
quân kháng chiến hay một chiến sĩ cách mạng. Cũng vì vậy mà họ không
có đủ can đảm dân thân lăn lộn vào đại khối nông dân và công nhân
lao động để giác ngộ và lôi cuốn cái đại khối quần chúng này vào tổ
chức của họ để cùng chung lo việc nước.
3.- Không hiểu biết gì về lý tưởng cách mạng và
cũng không biết gì về kỹ thuật tổ chức một đảng cách mạng có đội ngũ
với một hệ thống tổ chức hạ tầng cơ sở làm lực lượng xung kích để
chờ thời cơ thuận tiện thì vùng lên chớp lấy chính quyền.
4.- Không có khả năng về chính trị, cho nên mới
rơi và tình trạng “đuổi cọp cửa trước, rước beo vào cửa sau”
do việc hoàn toàn trông cậy vào mấy đạo quân thổ phỉ Quốc Quân Trung
Hoa để cướp chính quyền từ trong tay chính quyền Việt Nam do Việt
Minh lãnh đạo.
Còn ông Ngô Đình Diệm vốn là thành phần trong
nhóm tín đồ Ca-tô bản địa, đã có mấy đời đứng vào hàng ngũ Liên Minh
Pháp – Vatican đánh phá và chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam.
Mãi tới giữa năm 1933 trở đi ông mới trở thành bất mãn với người
Pháp, nhưng vẫn tuyệt đối vâng lời và triệt để tuân hành lệnh truyền
của Vatican. Do đó người Việt Nam ta mới gọi ông ta là thằng tam đại
Việt gian. Suốt trong chiều dài lịch sử của đất nước, các nhà ái
quốc không bao giờ có thể đội trời chung với những tên Việt gian
bán nước cho Liên Minh Xâm Lăng Pháp - Vatican hay Liên Minh Mỹ -
Vatican. Cũng vì thế mà cả hai ông Nguyễn Tường Tam và Nguyễn Hải
Thần không bao giờ đội trời chung với chính quyền Liên Minh Pháp -
Vatican trong những năm 1948-1954, và từ năm 1954 trở về sau, họ
cũng nhất định không cộng tác với chính quyền Liên Minh Mỹ -
Vatican. Cho đến lúc chết, ông Nguyễn Hải Thần vẫn một niềm thủy
chúng với đất nước và không bao giờ băng xăng năng nỏ làm việc chung
các thế lực thù địch trên đây. Còn ông Nguyền Tường Tam, trong những
năm chót của cuộc đời, ông đã cực lực chống lại những việc làm phản
quốc, bán nước hại dân của anh em ông Ngô Đình Diệm. Vì vậy mà ông
đã bị anh em ông Ngô Đình Diệm chèn ép, dồn vào thế cùng để rồi phải
quyên sinh hầu gióng lên tiếng chuông báo động cho dân ta biết rõ
thảm trạng nhân dân miền Nam đang bị lâm vào đại họa Ki-tô hóa bằng
bạo lực.
Đem gom ông Ngô Đình Diệm với hai ông Nguyễn
Hải Thần và Nguyễn Tường Tam vào chung một nhóm như vậy vừa là hành
động hỗn xược, ngược ngạo, vừa phơi bày cho độc giả thấy rõ trình độ
quá thấp kém về lịch sử và kiến thức tổng quát của tác giả.
Việc gom hai ông Nguyễn Tường Tam và Nguyễn
Hải Thần vào chung một nhóm với ông Ngô Đình Diệm rồi khẳng định
rằng cả ba người này là “đại diện cho nhóm người yêu nước quá
khích…” là ông Lê Xuân Khoa đã có chủ tâm đánh đồng tên bạo
chúa phản thần tam đại Việt gian họ Ngô này với hai nhà ái quốc
Nguyễn Hải thần và Nguyễn Tường Tam. Viết câu văn nịnh bợ rẻ tiền
như trên, ông Lê Xuân Khoa đã làm một việc chẳng khác nào đem hai
nhà ái quốc Đinh Công Tráng và Phan Đình Phùng gom chung vào một
nhóm với mấy tên Việt gian Ca-tô Trần Bá Lộc, Trần Lục, Lê Hoan,
Ngô Đình Khả, Nguyễn Thân, Nguyễn Hữu Bài, v.v… rồi khen tụng cả
nhóm những người này là các nhà ái quốc. Rõ ràng đây là một hành
động lộn sòng hay lập lờ đánh lận con đen! Có phải không ông Lê
Xuân Khoa? Người viết cũng đã thấy vào năm 1986, Cơ Sở Đông Tiến
của cái gọi là “Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam” mà
tục danh là “Mặt Trận Phở Bò” và “Kháng Chiến Bịp” cũng đã làm cái
trò lộn sòng bỉ ổi này khi cho xuất bản cuốn Anh Hùng Nước Tôi (San
Jose, CA: Đông Tiến), 1986. Trong cuốn ngụy thư này, các tác giả cho
tóm lược tất cả các tiểu sử của mấy chục anh hùng thật sự của đất
nước, rồi ở đằng sau cho in ké cái tiểu sử đã được đánh bóng của
tên bạo chúa phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm.
Cái lối viết sử với những mánh mung gian lận và
thủ đoạn lộn sòng để bóp méo lịch sử mà ông Lê Xuân Khoa đã sử dụng
như trên cho chúng ta thấy cái di lụy của chính sách ngu dân và giáo
dục nhồi sọ của Vatican quả thật là ghê gớm, đồng thời, nó cũng cho
chúng ta thấy bộ máy tuyên truyền của Giáo Hội La Mã quả thật là
siêu việt!
Ông Lê Xuân Khoa có chủ tâm
giảm bớt con số nạn nhân bị sát hại ở Rwanda và không nêu đích danh
Giám-mục Augustin Misago chịu trách nhiệm trong vụ tàn sát người tập
thể này. Ông Lê Xuân Khoa viết như sau:
“Mặc dầu đã có từ lâu, dân di tản nội địa
(IDPs) được nói đến nhiều nhất từ sau Chiến Tranh Lạnh, thường do
những cuộc tranh chấp về tôn giáo, chủng tộc và vi phạm nhân quyền
một cách có hệ thống, mạnh mẽ nhất vào đầu thập kỷ 1990. Chẳng hạn
như vụ dân Hutu tàn sát người Tutsis ở Rwanda (500,000 người bị giết
trong vòng vài tháng) hay những vụ thanh tẩy “chủng tộc” (ethnic
cleansing) ở Bosnia-Hercegovia với tổng số trên 200,000 người thiệt
mạng. Riêng hai cuộc chiến này vào những lúc cao điểm gây ra trên 4
triệu dân di tản.”(trang 240).
Phản biện: Người viết xin
khẳng định chính quyền đạo phiệt Ca-tô của Giám-mục Augustin Misago
ở Rwanda đã tàn sát hơn 800 ngàn (chứ không phải 500 ngàn người như
ông Lê Xuân Khoa đã ghi nhận) vào mấy tháng giữa năm 1994. Đây là
cuộc tàn sát người vì tôn giáo, vì rằng vai trò quan trọng của ông
Giám Mục Augustin Misago của Giáo Hội La Mã ở trong đó. Cuộc tàn sát
này không khác gì cuộc tàn sát gần 800 ngàn người ở Croatia trong
những năm 1941-1945, hơn 100 ngàn người ở Nam Hàn vào cuối tháng 6
và đầu tháng 7 năm 1950 dưới ách thống trị của tên bạo chúa Ca-tô Lý
Thừa Vãn.[47] và hơn
300 ngàn người ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1963. Dưới
đây là nguyên văn bản tin nói về tàn sát người tập thể do hai ký
giả Tom Masland và Lara Santoro của Newsweek International viết
vào tháng 9 năm 1999 và do Find Articles cung cấp với nguyên văn
như sau:
“Sự đối chất rõ ràng và quả quyết. Tháng
Tư (1999) vừa rồi, trước nhà thờ của họ đạo Ca-tô ở miền nam Rwanda,
các viên chức cao cấp tụ tập để tưởng nhớ ngày 800 ngàn người
Tutsis và Hutu ôn hòa bị thảm sát bởi những người Hutu quá khích.
Tại đây, những người sống sót sau vụ diệt chủng này phàn nàn rằng
một số những quân sát nhân vẫn còn sống nhởn nhơ tự do, không bị kết
án. Một vị mục sư Tin Lành xin lỗi vì giáo hội của ông đã thất bại,
không ngăn chặn được cuộc thảm sát này. Kế đó, Tổng Thống Rwanda
Pasteur Bizimungu đứng lên làm cho đám đông dân tụ tập ở đó rùng
minh căm phẫn. Ông nói rằng một viên chức cao cấp nhất trong hàng
giáo phẩm của Giáo Hội La Mã ở Rwanda là Giám-mục Augustin Msago đã
bị tố cáo.” Nguyên văn: “The confrontation was stark. In
front of a Roman Catholic parish church in southern Rwanda last
April, top officials had gathered to commemorate the fifth
anniversary of the slaughter of some 800,000 Tutsis and moderate
Hutus by Hutu extremists. On the stage, genocide survivors
complained that some of the murderers still walked free. A
Protestant minister apologized for his church's failure to stop the
slaughter. Then Rwandan President Pasteur Bizimungu stood and
shocked the gathering. He noted that one of Rwanda's top Roman
Catholic clerics, Bishop Augustin Msago, had been accused.”[48]
Vụ tàn sát này cũng được tờ The News Tribune
(Tacoma, Washington) phát hành ngày Thứ Sáu 15/7/2005 ghi lại nơi
trang A4 ở dưới tấm hình Bà Đệ Nhất Phu Nhân Laura Bush và ái nữ
Jenna Bush của bà ôm hai em bé Rwanda với đọan văn dưới đây:
“Bà Laura Bush và ái nữ Jenna ẵm hai em bé
Rwanda trong giờ lễ trong nhà thờ ở Kigali, Rwanda vào ngày Thứ Năm
(14/7). Trong chuyến tham quan này, Bà Bush thuyết phục người
Rwanda đừng thất vọng và cố gắng hàn gắn vết thương về nạn diệt
chủng ở đất nước họ. Trong năm 1994, dân quân Hutu đã sát hại tới
800 ngàn người thuộc nhóm thiểu số Tutsis và những người Hutu ôn
hòa. Bà Laura Bush đã dùng thì giờ đẩy mạnh phương cách để Hoa Kỳ
giúp Rwanda trong vấn đề chữa trị những bệnh nhân mắc bệnh sida
(AIDS) và vấn đề giáo dục các trẻ em con gái.” Nguyên văn:
“Laura Bush and her daughter Jenna hold HIV-positive Rwanda children
at a church service in Kigali, Rwanda, on Thurday. During her visit,
the first lady urged Rwandans not to lose hope as they try to heal
the pain of their country’s genecide. In 1994, Hutu militias shot
and hacked to death 800.000 minority Tutsis and moderate Hutus.
Laura Bush also spent time promoting ways the U.S. is helping
Rwanda, such as assisting with the treatment of AIDS patients and
helping girls an education.” [49]
Những sự kiện tàn sát người tập thể của các tên
bạo chúa Ca-tô trên đây giúp cho chúng ta một bài học về kinh nghiệm
lịch sử. Bài học này là:
1.- Bất cứ một tín đồ Ca-tô nào cũng có thể trở
thành một tên sát nhân điên cuồng khi hoàn cảnh cho phép hay khi
được các ngài mang chức thánh chỉ đạo. Chúng ta hãy nhớ lại người
trong chăn là Linh-mục Trần Tam Tỉnh viết:
“… những năm 1953-1954, các linh mục đã có
thể biến giáo dân hiền lành thành những tên sát nhân cuồng nhiệt.”
[50]
2.- Bất cứ vào thời điểm nào, ở đâu có tín đồ
Ca-tô được đưa lên lãnh đao chính quyền, thì người đó sẽ thành một
tên bạo chúa Ca-tô và nhân dân không phải là tín đồ Ca-tô ở đó sẽ bị
tàn sát một cách rất dã man. Điều này đã trở thành quy luật. Có lẽ
dân tộc Anh đã có kinh nghiệm máu với Giáo Hội La Mã từ cả gần một
ngàn năm về trước và đã hiểu được quy luật này sớm nhất nếu so với
các dân tộc khác ở Âu Châu và các nơi khác trên thế giới. Vì thế mà
ngay từ năm 1691, họ đã ban hành Đạo Luật Ổn Định vào năm 1691
cấm, không cho người Anh là tín đồ Da-tô của Giáo Hội La Mã lên cầm
quyền (the Act of Settlement of 1691). Đạo luật này quy định rằng:
“Không có một tín đồ Ki-tô La Mã nào có thể
trở thành nhà lãnh đạo nước Anh. Như vậy là luật này loại hẳn tất cả
những người con và cháu của vua James Đệ Nhị với người vợ thứ hai
của nhà vua, không cho họ lên cầm quyền.” Nguyên văn: “A
third measure, the Act of Settlement of 1691, provided that
no Roman Catholic could be ruler of England, automatically excluding
the descendants of James II by his second wife.”[51]
Cũng nên biết là các ông Tổng Thống Ca-tô Lý
Thừa Vãn của Nam Hàn, Tổng Thống Ca-tô Ngô Đình Diệm của miền Nam
Việt Nam, Tổng Thống Ca-tô Ferdinand Marcos của nước Phi Luật Tân và
rất nhiều nhà cầm quyền Ca-tô khác ở Mỹ Châu La-tinh và ở Phi Châu
đều được sử gia Nigel Cawthorne ghi tên họ rõ ràng trong số 100 tên
bạo chúa ác độc nhất trong lịch sử nhân loại và đã ghi vào trong
sách Tyrants History’s 100 Most Evil Despots & Dictators (London:
Arcturus, 2004). Con số những tên bạo chúa Ca-tô độc ác nhất trong
lịch sử nhân loại chiếm tới trên 50% ở trong cuốn sách này. Còn ông
Tổng Thống Ca-tô Ante Pavelich của nước Croatia chịu trách nhiệm về
vụ tàn sát gần 800 ngàn người Do Thái giáo, Chính Thống giáo và Hồi
giáo trong những năm 1941-1945 và ông Giám-mục Augustin Misago của
nước Rwanda chịu trách nhiệm về vụ tàn sát 800 người Tutsis và người
Hutu ôn hòa trong khoảng 100 ngày vào giữa năm 1994 có nên được ghi
nhận là vào danh sách của 100 tên bạo chúa ác độc nhất trong lịch
sử nhân loại hay không, người viết xin nhường lời cho các nhà viết
sử.
Tác giả Lê Xuân Khoa có nói
tới vụ Phật giáo (tr 449-450 và 451), nhưng lại cho rằng ông
Diệm không có trách nhiệm.
Điều này chứng tỏ ông Khoa cố tình bao
che tội ác bách hại Phật Giáo của ông Ngô Đình Diệm. Trong khi đó
thì tất cả các sách sử đều khẳng định trách nhiệm tội ác này của ông
Ngô Đình Diệm. Chỉ cần nêu môt cuốn The Assassinations of Diem &
J.F. Kennedy (Baltimore: Cemetery Dance Publications, 2000) của hai
tác giả Bradley S. O’ Leary & Edward (Part I). Độc giả có thể đọc
bản tiếng Việt do Phạm Viêm Phương & Mai Sơn dịch (Phần I) cũng cho
thấy rõ sự thật này. Một đoạn ngắn dưới đây cho thấy rõ trách nhiệm
của ông Ngô Đình Diệm trong vụ bách hại Phật giáo ở miền Nam Việt
Nam:
“Quan điểm của Diệm và sự ngạo mạn
của ông ta thật dễ hiểu. Ông ta không thể phản bội em Nhu của ông,
ông sẽ không đuổi Nhu đi, không thay đổi lập trường chống Phật giáo,
không rời ngôi tổng thống. Ông ta thậm chí từ chối không bàn luận về
những chuyện này. Kennedy hiểu hành động xấc láo của Diệm như một cú
đá vào bụng dưới của người Mỹ; Diệm là kẻ ăn cháo đái bát. Nhưng
Kennedy cũng không vừa.”[52]
Viết câu văn trên đây, ông Lê Xuân
Khoa không những thiếu căn bản về sử học mà còn tỏ cho mọi người
thấy trình độ về kiến thức tổng quát của ông thật là quá kém. Ở Hóa
Kỳ vấn đề này được dạy rất kỹ ở bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp (Middle
Schools).
Tác giả Lê Xuân Khoa tránh né
không nói đến vai trò Hoa Kỳ trong việc thúc giục chính quyền Ngô
Đình Diệm thi hành chương trình cải cách ruộng đất, và tránh né
không nói đến việc chính quyền Diệm không rớ tới khối ruộng đất
không lồ của Giáo Hội La Mã đã ăn cướp của dân ta từ năm 1862 cho
đến lúc bấy giờ.
Những sự kiện đều được cách sử ghi lại đầy đủ.[53] Điều này chứng tỏ tác giả Lê
Xuân Khoa hoặc là không chịu tham khảo đầy đủ tài liệu trước và
trong khi biên soan cuốn sách này, hoặc là cố tình lờ đi, không nói
đến tội ác của chính quyền Ngô Đình Diệm có chủ tâm bảo vệ khối bất
động sản khổng lồ về ruộng đất mà Giáo Hội La Mã đã ăn cướp của dân
ta từ năm 1862 cho đến cuối thập niên 1950.
Tác giả Lê Xuân Khoa không hề đả
động đến vai trò của Giám-mục Ngô Đình Thục ở hậu trương chính quyền
Ngô Đình Diệm vỡi những hành động thao túng chính quyền, tổ chức
các lớp học nhân vị ở Vĩnh Long, cưỡng bách công chức phải theo học
các khóa học này, cướp đoạt tài nguyên, sử dụng nhân viên chính
quyền, quân nhân và quân xa vào (1) việc khai thác gỗ rừng nằm trong
Chiến khu D thuộc các tình Biên Hòa, Bình Dương và Long Khánh, (2) xây
các khu nhà thương mại và cư trú ở Vĩnh Long rồi đem bán lấy tiền
bỏ túi, (3) xây trường Đại Học Đà Lạt cho riêng Giáo Hội Công Giáo,
(4) xây cất nhà thờ Thiên Chúa Giáo. Riêng về chuyện xây cất nhà thờ
Thiên Chúa Giáo, Giám-mục Ngô Đình Thục dùng những thủ đoạn bóc lột
các thương gia Chợ lớn và công chức một cách hết sức tinh vi và hết
sức dã man. Sách Nhật Ký Đỗ Thọ viết:
“Việc xây cất nhà thờ Thiên Chúa Giáo cũng
lắm người bàn ra tán vào về Đức Cha nhiều lắm. Trước khi xây nhà
thờ, Đức Cha tổ chức hai bữa tiệc lớn. Nói bữa tiệc lớn, nhưng thức
ăn chẳng có là bao. Buổi tiệc đầu tiên mời các đại thương gia ở Chợ
Lớn. Mỗi thực khách đóng 5 ngàn đồng. Buổi tiệc thứ hai là mời các
công chức. Những người được mời, “được lệnh mời” chuyển qua các
người khác, càng đông càng tốt, càng đình đám. Vào thời vàng son của
chế độ Ngô Đình Diệm, Đức Cha mời, ai dám cưỡng. Nhất là đám thương
gia Chợ Lớn và các công chức cao cấp nuôi mộng cao cấp hơn.”[54]
Tất cả những chuyện tham nhũng và làm ăn bất
chính của Giám-mục Ngô Đình Thục, Ngô Đình Cẩn, vợ chồng Ngô Đình
Nhu và bọn Cần Lao đều được nói rõ ràng trong các sách sử của các
tác giả Trần Tam Tỉnh, Nguyễn Chánh Thi, Đỗ Mậu, Đỗ Thọ, Nguyễn
Trân, Trần Văn Đôn, Hoàng Cơ Thụy, Nguyễn Mạnh Quang, Joseph
Buttinger, Bernard B. Fall, Frances FitzGerald, Alfred W. McCoy,
v.v..
Tác giả Lê Xuân Khoa xác nhận
tội ác của Ngô Đình Cẩn (trang 454), nhưng không nêu rõ những
tội ác tầy đình của Ngô Đình Cẩn (như các tội giết người đoạt
của, bắt giam và tra tấn người trái phép, thủ tiêu nhiều người vô
tội) và cũng không nói đến tội ác của chính quyền Ngô Đình
Diệm đã bao che,
không đưa Ngô Đình Cẩn ra trước công lý.
Phải chăng “hành động cố
tình tảng lờ” này của tác giả Lê Xuân Khoa là nhằm để chứng minh
rằng ông Ngô Đình Diệm là người liêm khiết như ông Khoa đã viết nơi
trang 432 rằng “Mặc dầu là người có lý tưởng, liêm
khiết và can đảm.” mà người viết đã trình bày ở
tiểu mục số 5 ở trên?
Tác giả Lê Xuân Khoa không đả động
gì đến vụ chính quyền Ngô Đình Diệm hồ hởi tuân lệnh của chính quyền
Hoa Kỳ để cho quân đội Mỹ sử dụng chất da cam rải trên ruộng đất
canh tác và đất rừng ở miền Nam Việt Nam từ cuối năm 1961.
Vụ
rải chất độ da cam này như đã nói ở trên cho chúng ta thấy rõ cái
bản chất dã man, vong bản, phản dân tộc, phản đất nước của ông Ngô
Đình Diệm khi ông ta muốn tỏ ra rất đắc lực để tâng công với quan
thày Hoa Kỳ và Vatican.
Hậu quả của việc tiến hành chiến dịch khai
quang này thật là vô cùng ghê gớm và hết sức kinh khủng! Cho đến
ngày nay, chiến tranh đã kết thúc hơn 30 (ba mươi) năm rồi, mà trong
những vùng bị ảnh hưởng, rừng cây vẫn còn trụi lá, ruộng cày và đất
trồng còn nhiễm độc, con số trẻ em sinh ra đã mang tật nguyền ngay
từ khi mới chào đời không biết là bao nhiêu ngàn. Chưa kể
tội ác làm Việt gian bán nước cho Vatican và Pháp trong thời “Trăm
năm nô lệ giặc Tây”, trong đó, lúc làm tri phủ ở Hoa Đa, ông ta
hăng hái truy lùng tìm bắt các nhà ái quốc, trói cột nạn nhân ngồi
vào một cái ghế có khoét lỗ ở ngay chỗ hậu môn rồi đốt đèn cầy (nến)
ở dưới, tra khảo nạn nhân phải cung khai để tâng công với quan
thày, chưa kể việc tổ chức đại lễ vào tháng 2 năm 1959 để
dâng nước Việt Nam cho Vatican với danh xưng là “Đức Mẹ Vô Nhiễm”,
chưa kể việc phát động những chiến dịch “làm sáng danh
Chúa” với danh xưng là “những chiến dịch Tố Cộng” với
tội ác đã thủ tiêu và tàn sát tới hơn ba trăm ngàn người, chưa
kể việc phóng tay phát động những chiến dịch bách hại Phật giáo
từ năm 1955 và bắt đầu mãnh liệt nhất kể từ ngày 8/5/1963, và
chưa kể hàng rừng những tội ác khác, chỉ riêng cái tội
hăng say tán thành quân đội Mỷ “rải 77 triệu lít chất độc da cam
xuống miền Nam và Trung Việt Nam, gây ảnh hưởng và tác hại đến môi
truờng của 2,630,000 mẫu Tây và gần 5 triệu người sống trong 35,585
thôn ấp cũng đủ cho lịch sử lên án tên “tam tứ đại Việt gian”
họ Ngô này là “thiên cổ tội nhân” đối với dân tộc Việt Nam và
là một trong số 100 tên bạo chúa ác độc nhất trong lịch sử nhân
loại.
Tác giả Lê Xuân Khoa chuyển dịch sai
lệch và cố tình giấu nhẹm nguồn gốc bản tài liệu nói về nội dung 14
điểm đại cương về lập trường của Hoa Kỳ muốn thương thuyết với
chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Tài liệu này được tờ New
York Time công bố trong ấn bản ngày 2 tháng 1 năm 1966 và tờ Viet
Report công bố trong ấn bản tháng 2/1966. Dưới đây là nguyên văn
bằng tiếng Anh của tài liệu này:
“THE FOURTEEN POINTS (USA). The following
are the 14 points of the United States negotiating position on South
Vietnam, as outlined in press breifings:
1.- The United States accepts the 1954 and
1962 Geneva accords as a good basis for negotiation.
2.- It would welcome a conference on
Southeast Asia or any part of Asia.
3.- It is ready for unconditiional
negotiations.
4.- It is also ready, if Hanoi so prefers,
for informal uncondititional dicussions.
5.- A cease-fire could be the first order of
business at a peace conference, or be preliminary to such a
conference.
6.- It is willing to discuss the North
Vietnam four-point program.
7.- It wants no military bases in Southeast
Asia.
8.- It does not want a continuing American
military presence in South Vietbam.
9.- Free elections will be supported.
10.- The reunification of two Vietnams can
be decided by the free decision of their peoples.
11.- Southeast Asian countries can be
non-aligned or neutral; the United States wants no new allies.
12.- It is prepared contributed $1 billion
to a regional development program in which North Vietnam could take
part.
13.- The Vietcong would have no difficulty
in having their views represented at a conference after hostilities
have ceased.
14.- The bombing will be stopped if it is
started what would happen next.[55]
Người viết tạm dịch là:
Mười bốn điểm của Hoa Kỳ: Dưới đây là 14 điểm
về lập trường thương thuyết của Hoa Kỳ về Nam Việt Nam:
1.- Hoa Kỳ công nhận các Hiệp Định Genève
1954 và 1962 làm cơ bản tốt để thương thuyết.
2.- Hoa Kỳ hoan nghênh một hội nghị bàn về
Đông Nám Á hay bất cứ nơi nào ở Á Châu.
3.- Hoa Kỳ sẵn sàng thương thuyết vô điều
kiện.
4.- Hoa Kỳ cũng sẵn sàng, nếu Hà Nội cũng
sẵn sàng bằng lòng có những cuộc thương thuyết không chính thức
(mật) vô điều kiện.
5.- Ngưng bắn có thể là việc làm (mục tiêu)
đầu tiên tại hội nghị hòa bình hay hội nghị sơ bộ.
6.- Hoa Kỳ sẵn sàng thảo luận về chương
trình 4 điểm của miền Bắc Việt Nam.
7.- Hoa Kỳ không muốn có các căn cứ quân
sự ở Đông Nam Á Châu.
8.- Hoa Kỳ không muốn tiếp tục duy trì
quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
9.- Hoa Kỳ sẽ ủng hộ các cuộc bầu cử tự
do.
10.- Việc thống nhất hai miền Bắc và Nam
Việt Nam có thể do nhân dân hai miền quyết định.
11.- Các quốc gia Đông Nam Á có thể không liên
kết hay đứng trung lập; Hoa kỳ không muốn có đồng minh mới ở vùng
này.
12.- Hoa Kỳ đã chuẩn bị môt tỉ Mỹ kim cho
chương trình phát triển trong vùng mà miền Bắc Việt Nam có thể tham
dự.
13.- Sau khi chấm dứt mọi thù nghich,, Việt
Cộng sẽ không gặp khó khăn nào trong việc cử đại diện vào tham dự
hội nghị và trình bày quan điểm của họ.
14.- Việc ném bom sẽ được chấm dứt nếu việc làm
này đưa đến những việc làm kế tiếp.
Dưới đây là bản tiếng Việt dịchdo
tác giả Lê Xuân Khoa ghi nơi trang 351-352 trong cuốn Việt Nam
1945-1995 - Tập I với nguyên văn như sau:
Muời bốn điểm của Mỹ là:
1.- Hiệp sịnh Genève năm 1954 và 1962 là những
cơ sở đầy đủ cho hòa bình;
2.- Chúng tôi hoan nghênh một hội nghị về Đông
Nam Á hay một phần của vùng này;
3.- Chúng tôi hoan nghênh “điều đình không điều
kiện tiên quyết”;
4.- Chúng tôi chấp nhận những cuộc thảo luận vô
điều kiện;
5.- Việc chấm dứt các hành động chiến tranh có
thể là vấn đề thảo luận đầu tiên tại một hội nghị như vậy;
6.- Bốn điểm của Hà Nội có thể được thảo luận
cùng với bất cứ điểm nào khác có thể do người khác đề nghị;
7.- Chúng tôi không muốn căn cứ Hoa Kỳ ở Đông
Nam Á;
8.- Chúng tôi không muốn duy trì quân đội Mỹ ở
miền Nam Việt Nam sau khi hoà bình đã được đảm bảo;
9.- Chúng tôi ủng hộ bầu cử tự do ở Nam Việt
Nam để cho dân chúng Nam Việt Nam có một chính phủ do họ lựa chọn;
10.- Vấn đề thống nhất Việt Nam phải do chính
người Việt Nam quyết định;
11.- Các quốc gia Đông Nam Á có thể không liên
kết hay trung lập nếu họ muốn;
12.- Chúng tôi muốn sử dụng tài nguyên của
chúng tôi vào việc tái thiết kinh tế ở Đông Nam Á hơn là vào chiến
tranh;
13.- Việt Cộng sẽ không bị khó khăn cử đại diện
dự hội nghị và phát biểu quan điểm của họ nếu Hà Nội quyết định muốn
chấm dứt xâm lược;
14.- Chúng tôi đã tuyên bố công khai và riêng
tư rằng chúng tôi có thể ngưng ném bom Bắc Việt Nam như một bước
tiến đế hoà bình, mặc dù phía bên kia chưa hề thấy một gợi ý nào về
điều họ sẽ làm nếu cuộc oanh tạc chấm dứt.
Đem bản tiếng Anh đối chiếu với bản dịch của
tác giả Lê Xuân Khoa, độc giả sẽ thấy bản dịch của ông Lê Xuân Khoa
có một vài điểm sai lạc ý nghĩa của nguyên bản tiếng Anh như người
Viết đã nêu lên ở trên. Rõ ràng nhất là:
Điểm 1: Bản tiếng Anh không có chữ đầy đủ, ông
Khoa đa thêm vào chữ đầy đủ.
Điểm 12: Bản tiếng Anh nói đến 1 tỉ đô la, ông
Khoa không nói tới 1 tỉ đô là này.
Điểm 14: Bản tiếng Anh không dài dòng hay nói
nhiều như ông Khoa viết.
Trên đây là những sai lầm có chủ ý của tác giả
Lê Xuân Khoa. Người viết không biết có phải vì tác giả không có khả
năng chuyên môn về môn sử học nhưng lại lanh chanh ham hố muốn nhẩy
rào vào lãnh vực viết sử mà vi phạm nhứng sai lầm trên đây, hay là
chủ tâm của tác giả muốn xuyên tạc sự thật lịch sử để chạy tội cho
Giáo Hội La Mã và chạy tội cho các chính quyền đạo phiệt Da-tô ở
miền Nam trong những năm 1954-1975. Điều này chỉ có ông Lê Xuân Khoa
biết và yêu cầu ông lên tiềng về vấn đề này.
Ngoài mấy trường hợp đã nêu lên trên đây, nhiều cuốn sử khác của
những tác giả khác “có những cái không biết” như đã nêu lên trong 4
kế sách trong chính sách ngu dân và giáo dục của Giáo Hội La Mã và
cũng rơi vào tình trạng này như trường hợp Linh Mục Trần Quý Thiệu
viết báo ca tụng ông linh mục Việt gian Trần Lục, Tổng Giám Mục
Nguyễn Văn Thuận viết cuốn Chứng Nhân Hy Vọng và khá nhiều cuốn
sách khác mà chúng tôi đã nêu lên ở phần đầu của chương sách này.
CHÚ THÍCH
[28] Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí
(Houston, TX: Văn Hóa, 1997), tr. 267.
[32] Vũ Đình Hoạt, Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị
Quan, Tập II (Fall Church, VA: Alpha, 1991), tr.
1013-1015.
[33] Trần Tam Tỉnh, Thập Giá và Lưỡi Gươm
(Paris: Sudestasie, 1978), tr. 118-180, Nguyễn Chánh Thi,
Việt Nam Một Trời Tâm Sự (Los Alamitos, CA: Xuân Thu,
1987), tr. 33-102, Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi
(Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1993), tr. tr. 403-446, Alfred W.
McCoy, The Politics of Heroin in Southeast Asia (New
York: Harper & Row, Pubilhers, 1972), tr.159-165, Frances
FitzGerald, Fire In The Lake (New York: Vintage
Books, 1972), tr. 130-134, Nguyễn Mạnh Quang, Việt Nam Đệ
Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 (Houston, TX: Văn Hóa,
2000), tr. 399-342.
[34] Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled
Vol. II (New York: Frederick A. Praeger, 1967), p.
932-933.
[35] Nguyễn Văn Tuấn, Chất Độc Màu Da Cam và Cuộc
Chiến Việt Nam (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2005), tr.
35.
[43] Bùi Đức Sinh, Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo - Phần
Nhì (Sàigòn: Chân Lý, 1972), tr. 165.
[44] J. E. Bosher, The French Revolution (New
York, W.W. Norton Company, 1988), p. 155.
[45] Carlton J. H. Hayes, Modern Times – The
French Revolution to the Present (New York: Macmillan
Publishing Co., Inc. 1983), p. 35.
[46] Xin đọc các sách Thập Giá Và Lưỡi Guơm (Paris:
Sudestasie, 1974, tr. 130-131) của LM Trần Tam Tình,
Vietnam: Why Did We Go? (New York: Chick Publications,1984,
tr. 88-89) của tác giả Avo Manhattan, Đảng Cần Lao (San
Diego, CA: Mẹ Việt Nam, 1993, tr. 133) của ông Chu Bằng
Lĩnh và Nói, Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation
(Houston, TX: Đa nguyên, 2004, tr. 127-131) của tác giả
Nguyễn Mạnh Quang đều nói rõ về những con số nạn nhân bị sát
hại ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1963.
[47] Charles J. Hanley and Jae soon Chang. “Thousands
of leftists, innocent peasants slain – Korea uncovers bloody
legacy of 1950.” The News Tribune [Tacoma,
Washington] 19 May 2008: A7.
[53] Xin đọc nơi trang 98-99 trong sách Việt Nam
Niên Biểu 1939-1975 Tập I-C: 1955-1963 (Houston, TX: Văn
Hóa, 2000) của nhà viết sử Chính Đạo và nơi các trang
932-933 trong sách Việt Nam: A Dragon Embattled (New
York: Frederick A. Praeger, 1967) của sử gia Joseph
Buttinger.
[54]Đỗ Thọ, Nhật Ký Đỗ Thọ (Saìgòn: Nhật Báo
Hòa Bình, 1970), tr. 57-58.