|
21 tháng 5, 2009
|
Công
cuộc đổi mới đất nước được tính từ mốc năm 1986, năm tiến hành Đại hội VI
của Đảng Cộng sản Việt Nam, tính đến nay tròn 20 năm đã đạt được “những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử” như Đại hội X của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đánh giá. Nhưng tư duy đổi mới kinh tế, đổi mới đất nước của
Đảng Cộng sản Việt Nam và của Tổng Bí thư Lê Duẩn, trong đó, đặc biệt có
những bước đột phá quan trọng đã xuất hiện rất sớm từ trước năm 1986. Phải
nói rằng, nhờ có những bước tìm tòi, thử nghiệm, đột phá về đổi mới từ trước
đó mà giai đoạn từ năm 1986 trở về sau mới có sự tích luỹ để “lượng biến
thành chất”.
*Nắm bắt và tôn trọng quy luật khách quan: Câu chuyện NEP của Lênin
Ngay giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ còn gay go, ác liệt, đồng chí Lê
Duẩn đã sớm nhận rõ một sự thật cốt lõi là Đảng nắm quy luật trong đánh giặc
ngoại xâm “trưởng thành hơn”, già dặn hơn so với trong xây dựng đất nước.
Trong tác phẩm “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ
nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới” viết năm 1970 nhân kỷ
niệm 40 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Lê Duẩn đánh giá:
“Đảng ta đã trưởng thành trong việc nắm quy luật của cách mạng dân tộc dân
chủ, quy luật của chiến tranh nhân dân; song chỉ mới bước đầu đi vào nắm
những quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cần phải có một sự cố gắng vượt bậc, một sự trưởng thành vượt bậc về mặt này
thì Đảng ta mới đủ sức làm tròn nhiệm vụ là người lãnh đạo xã hội” (1).
Đồng chí chỉ rõ nếu cho rằng đã có chuyên chính vô sản và lòng hăng hái là
đủ để xây dựng chủ nghĩa xã hội mà “không cần tính đến các quy luật khách
quan, không cần tính đến những sự kiện kinh tế đôi khi rất “ngoan cố và
bướng bỉnh” thì tức là phạm một sai lầm hết sức nghiêm trọng” (2).
Đồng
chí nêu kinh nghiệm của Lênin khi chuyển từ chính sách cộng sản thời chiến
sang chính sách kinh tế mới (NEP) cho thấy, để đảm bảo tôn trọng đầy đủ quy
luật khách quan, tuyệt đối không được lấy ý chí chủ quan, không được lấy
tình cảm làm điểm xuất phát của chiến lược, sách lược cách mạng, đặc biệt,
điều quan trọng là phải có khả năng nắm bắt và hiểu đúng quy luật khách
quan: “Vạch ra chính sách kinh tế mới và để thực hiện chính sách ấy,
Lênin đã phải tốn không biết bao nhiêu công sức để thuyết phục cho những
người cộng sản đầy nhiệt tình cách mạng nhưng không hiểu quy luật kinh tế
thấy rằng chính sách kinh tế mới tuyệt nhiên không phải là chính sách phục
hồi chủ nghĩa tư bản, trái lại, đó là chính sách duy nhất có thể có đối với
nước Nga lúc bấy giờ nhằm chiến thắng chủ nghĩa tư bản và quá độ lên chủ
nghĩa xã hội” (3).
*Từ năm 1970, đồng chí Lê Duẩn đă yêu cầu “cải tiến chế
độ quản lý kinh tế”
Cố TBT Lê Duẩn thăm NM Dệt 8/3, HN, 7/1971. (Ảnh tư liệu) Vietbao.vn
Từ kinh nghiệm thực hiện NEP của Lênin và từ yêu cầu của thực tiễn, đồng
chí Lê Duẩn cho rằng Đảng còn phải dày công suy nghĩ nhiều hơn nữa,
nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc hơn nữa quy luật của cách mạng xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong tác phẩm “Dưới lá
cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên
giành những thắng lợi mới”, ở chương “Về cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc”, đồng chí Lê Duẩn đã viết hẳn một mục về “Cải
tiến chế độ quản lý kinh tế”. Luận điểm xương sống mà đồng chí nêu
ra ở đây là: “Quản lý kinh tế là quản lý một cơ thể sống phát triển
theo những quy luật khách quan” (4). Luận điểm về “cơ thể sống”
này giúp chúng ta vừa tránh sa vào chủ nghĩa giáo điều, rập khuôn máy
móc cách làm của nước ngoài, vừa biết lắng nghe sự “mách bảo” từ thực
tiễn để đúc kết thành lý luận đổi mới.
Trong xây dựng kinh tế, các nước
xã hội chủ nghĩa thường nặng về cơ chế kế hoạch hoá tập trung và nước ta
cũng không phải là ngoại lệ. Nhưng với quan điểm tôn trọng khách quan,
“nhạy cảm với những nhân tố mới phát sinh ra trong thực tiễn”,
đồng chí Lê Duẩn đã sớm nhấn mạnh đến vai trò của thị trường đối với
công tác kế hoạch nói riêng và xây dựng kinh tế nói chung: “Trong khi
lãnh đạo kinh tế, phải khéo kết hợp kế hoạch với thị trường, lấy
cái sau bổ sung cho cái trước. Chúng ta không những có thể và cần phải
thông qua kế hoạch hoá-xây dựng cương lĩnh thứ hai của Đảng và pháp lệnh
thống nhất của Nhà nước chuyên chính vô sản-để điều tiết những quan hệ
kinh tế cơ bản, những tỷ lệ cân đối chủ yếu, mà còn phải chủ động lợi
dụng những quan hệ thị trường để kiểm tra các chỉ tiêu kinh tế, để điều
tiết một số hoạt động kinh tế thứ yếu mà kế hoạch không thể tính trước
được hết; không những phải nắm vững công tác kế hoạch hoá và các chỉ
tiêu kế hoạch, mà còn phải quản lý đúng đắn các hoạt động của thị trường
nhằm phát huy tác dụng tích cực của nó, đồng thời ngăn chặn những ảnh
hưởng tiêu cực của nó đối với việc quản lý kinh tế theo kế hoạch”
(5).
Ở đây, đồng chí Lê Duẩn đã vừa sớm dự báo việc xây dựng Cương lĩnh
thứ hai của Đảng mà thực tế sau này, Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đã
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, vừa nói đến cơ chế sử dụng thị trường có sự quản lý
của Nhà nước để tạo ra “phép thử thực tiễn” đối với các chỉ tiêu kế
hoạch.
Đồng chí còn nói đến “những vấn đề kinh tế cực kỳ quan trọng”,
đó là vận dụng quy luật giá trị, thực hiện hạch toán kinh tế, sử dụng
đúng đắn các đòn bẩy giá cả, tiền lương, lợi nhuận, tín dụng nhằm khai
thác mọi khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, khuyến khích mọi người
phát huy sáng kiến và hăng hái lao động ích nước, lợi nhà.
Trong bối
cảnh những năm chiến tranh, khi mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta còn theo lối cũ, tư tưởng “cải tiến chế độ quản lý kinh tế”
của đồng chí Lê Duẩn đã thể hiện hướng đi mới muốn cải tiến mô hình cũ.
Cùng với tư tưởng đó của đồng chí Lê Duẩn, đáng chú ý, Hội nghị Trung
ương lần thứ 20, tháng 4-1972 bàn về quản lý kinh tế đã chỉ ra sức cản
của cơ chế quản lý hành chính cung cấp và chủ trương xoá bỏ nó để thực
hiện phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
*Từ việc chia sẻ với đồng chí Kim Ngọc, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú về
chuyện “khoán chui” đến Chỉ thị “khoán 100”
Chuyện đồng chí Kim Ngọc, Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phú cho nông dân sớm làm
“khoán chui”, đã phải nhận kỷ luật oan và sau đó được Nhà nước sửa sai, tặng
Huân chương thì nhiều người biết. Một chuyện thú vị và cảm động ở đây là,
sau khi “vụ Kim Ngọc” xảy ra và bị kết luận oan, đồng chí Lê Duẩn đã đến
Vĩnh Phú để thăm và chia sẻ với đồng chí Kim Ngọc. Trò chuyện với đồng chí
Kim Ngọc về kinh tế hợp tác xã nông nghiệp, đồng chí Lê Duẩn nói: “Về
hoạt động kinh tế của hợp tác xã tôi có điều rất phân vân. Bởi vì, 5% ruộng
đất giao cho gia đình thì người ta làm ra 45% thu nhập, còn 95% ruộng đất
giao cho hợp tác xã thì chỉ làm ra khoảng 50% thu nhập, dù 50% này là lương
thực rất cần cho xã hội. Tôi phân vân đã lâu, nhưng thật sự chưa nghĩ ra
được cách gì giải quyết. Nay anh đề ra “khoán hộ” thì có lẽ đó cũng là một
cách. Nhưng vì quá mới, ngược với suy nghĩ và cách làm lâu nay, cho nên đa
số anh em không đồng tình với anh. Anh yên tâm, một sáng kiến làm ăn mới
chưa được mọi người chấp nhận ngay thì cũng là chuyện bình thường” (6).
Là người thuộc trong số ít sớm chia sẻ với đồng chí Kim Ngọc, đồng chí Lê
Duẩn về sau đã ủng hộ mạnh mẽ việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông
nghiệp, đặc biệt là tạo ra cơ chế khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động
trong các hợp tác xã nông nghiệp để kích thích sản xuất, nâng cao năng suất
lao động. Đồng chí Võ Chí Công, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Thủ
tướng Chính phủ phụ trách nông nghiệp, nguyên Chủ tịch Hội đồng Nhà nước,
người được đồng chí Lê Duẩn giao dự thảo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư về khoán
sản phẩm trong nông nghiệp năm 1981 đánh giá cơ chế khoán đổi mới này đã
“đóng góp vào việc xây dựng đường lối đổi mới toàn diện của Đảng tại Đại hội
lần thứ VI của Đảng ta”. Chỉ thị 100 đã tạo tiền đề cho Nghị quyết
“khoán 10” năm 1988 của Bộ Chính trị ra đời, thúc đẩy sức sản xuất trong
nông nghiệp phát triển mạnh mẽ.
*Các bước đột phá về đổi mới tư duy kinh tế từ năm 1979 đến 1985
Sau 4 năm hoà bình,
thống nhất đất nước (1975-1979), chúng ta vừa phải từng bước khắc phục
hậu quả chiến tranh rất nặng nề, vừa đứng trước những khó khăn mới trong
kinh tế do cơ chế quan liêu, bao cấp gây ra. Trước tình hình đó, Hội
nghị Trung ương 6, khoá IV họp vào tháng 8-1979 đã bàn về phát triển sản
xuất hàng tiêu dùng và sửa đổi chính sách kinh tế. Đáng chú ý, tại hội
nghị, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trình bày báo cáo về “Cần xem xét
sửa đổi chính sách kinh tế” thu hút sự tập trung thảo luận, với
nhiều ý kiến khác nhau.
Đồng chí Lê Duẩn cùng Bộ Chính trị đã tán thành
việc cần phải sửa đổi chính sách kinh tế. Kết quả, hội nghị đã thông qua
hai Nghị quyết: Nghị quyết về sản xuất hàng tiêu dùng và Nghị quyết về
sửa đổi chính sách kinh tế. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 đã “đánh
dấu bước đột phá đầu tiên về đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta”
(7), thể hiện ở những nội dung quan trọng như: sử dụng nhiều thành phần
kinh tế, trong đó có cả kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân ở miền
Nam, coi trọng và vận dụng quy luật giá trị, chấp nhận thị trường tự do
về lương thực.
Lúc này, đồng chí Lê Duẩn đã đề cập việc chống cơ chế tập
trung quan liêu, sử dụng sự tự điều chỉnh thông qua thị trường, thừa
nhận sự tồn tại của thị trường ngoài kế hoạch. Sau hội nghị này, Đảng và
Chính phủ đã ban hành những văn bản quan trọng, thể hiện rõ nét tư duy
đổi mới trong kinh tế nên đã “vào” cuộc sống rất nhanh, thực sự làm cho
sản xuất bung ra. Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị 100 CT/TƯ ngày
13-1-1981 về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã.
Chỉ thị này đã phá vỡ cơ chế tập trung quan liêu trong sản xuất nông
nghiệp, thực sự tạo ra cơ chế mới gắn lao động với đất đai, khiến cho
nông dân phấn khởi, nỗ lực đầu tư vào ruộng đồng, tăng năng suất mùa
màng.
Chính phủ ban hành Quyết định số 25 CP ngày 21-1-1981 về một số
chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh
và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh.
Theo Quyết
định này, công tác kế hoạch của các xí nghiệp được cải tiến, ngoài phần
chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao cho xí nghiệp có vật tư bảo đảm, đáng
chú ý còn có phần xí nghiệp tự làm (do xí nghiệp tự lo phần vật tư,
nguyên liệu còn thiếu mà Nhà nước không bảo đảm cung ứng đủ được) và sản
xuất phụ (do xí nghiệp tự tổ chức thêm, không nằm trong nhiệm vụ sản
xuất của xí nghiệp).
Đối với sản phẩm thuộc phần xí nghiệp tự làm, giá
bán buôn xí nghiệp dựa trên cơ sở giá thành tính theo giá mua nguyên vật
liệu thoả thuận, đặc biệt, lợi nhuận định mức được tính gấp từ hai đến
bốn lần lợi nhuận định mức đối với sản phẩm sản xuất theo kế hoạch Nhà
nước giao. Đối với sản phẩm thuộc phần sản xuất phụ, ngoài việc ưu tiên
bán cho thương nghiệp quốc doanh ra, xí nghiệp được tự tiêu thụ và được
giữ lại không quá 10% để thưởng cho công nhân, viên chức trong xí
nghiệp.
Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 26 CP ngày 21-1-1981 về
mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức
tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước. Như vậy,
Quyết định số 25 CP và 26 CP đã thể hiện tư duy mới trong xử lý các khâu
giá cả, lợi nhuận, tiền thưởng nhằm kích thích tăng năng suất lao động.
Đến Đại hội V của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 3-1982), tư
duy đổi mới, đặc biệt là điều chỉnh cơ cấu kinh tế, xác định bước đi
công nghiệp hoá trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội của đồng chí Lê Duẩn và của Đảng đã có bước phát triển mới.
Đại hội đã thẳng thắn chỉ ra để loại bỏ hai loại tư duy cũ hoặc không
phù hợp, đó là duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính quan liêu, bao
cấp, kìm hãm sản xuất, đó là chủ quan, nóng vội đề ra một số chỉ tiêu
quá lớn về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, đưa quy mô hợp tác xã
nông nghiệp lên quá lớn ở một số địa phương.
Từ việc quyết tâm loại bỏ
tư duy cũ hoặc không phù hợp, Đại hội đã tiến đến tư duy mới, đó là đổi
mới chế độ quản lý và kế hoạch hoá hiện hành, xoá bỏ cơ chế quản lý hành
chính quan liêu, bao cấp, coi trọng quy luật giá trị và thừa nhận kinh
tế nhiều thành phần. Về cơ cấu kinh tế và bước đi trong công nghiệp hoá,
Đại hội đã có sự điều chỉnh sát hợp theo hướng: coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng một
số ngành công nghiệp nặng quan trọng, lấy nông nghiệp và công nghiệp nhẹ
là cơ sở để phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.
Trong
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, bên cạnh việc đổi mới trên các lĩnh vực
nông-công nghiệp, đồng chí Lê Duẩn và Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều
lần dốc sức tấn công vào “thành trì” quan liêu, bao cấp “ngoan cố và
bướng bỉnh” nhất, đó là lưu thông phân phối. Đợt cải cách giá và
lương lần thứ nhất năm 1981-1982 đã điều chỉnh tăng giá, tăng lương,
giảm mặt hàng cung cấp theo tem phiếu, chuyển phần lớn giá cung cấp sang
giá kinh doanh thương nghiệp. Sâu sát nắm bắt, nghiên cứu thực tiễn, khi
ở tỉnh Long An xuất hiện cách làm mạnh dạn bỏ tem phiếu, thương
nghiệp tỉnh được tự do bán lương thực, thực phẩm theo giá thoả thuận,
đồng chí Lê Duẩn đã trực tiếp nghe lãnh đạo tỉnh Long An báo cáo kinh
nghiệm và đánh giá đó là một sáng tạo, cần phổ biến, thực hiện trong
toàn quốc.
Tiến lên một bước mới, Hội nghị Trung ương lần thứ 8, tháng
6-1985 đã quyết định dứt khoát xoá bỏ tập trung quan liêu, bao cấp,
chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, với
khâu đột phá là xoá bỏ quan liêu, bao cấp trong giá-lương-tiền.
Chủ
trương như vậy là hoàn toàn đúng đắn nhưng rất tiếc, quá trình tổ chức
thực hiện đã gặp khó khăn và mắc sai lầm: tiến hành nóng vội cả ba việc
đổi tiền, tổng điều chỉnh giá và lương với mức độ lớn (10 lần) trong một
thời gian ngắn khi chưa chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt (hàng hoá, nguyên
liệu, tài chính), kế hoạch đổi tiền lại bị lộ sớm, hệ quả là gây sốc cho
nền kinh tế. Từ tình hình như vậy đã nảy sinh một số ý kiến hoài nghi
chiều hướng đổi mới kinh tế đã mở ra và cho rằng, cần xem xét lại một
cách cơ bản Nghị quyết Trung ương lần thứ 8.
Nhưng Hội nghị Trung ương
lần thứ 10, tháng 5-1986 đã khẳng định Nghị quyết Trung ương 8 là đúng
đắn và Đảng Cộng sản Việt Nam về sau vẫn kiên trì đẩy mạnh đổi mới trong
lĩnh vực tài chính, tiền tệ theo định hướng Nghị quyết Trung ương 8 vạch
ra và đã thành công. Điều đó cho thấy, Nghị quyết Trung ương 8 đã đánh
dấu bước đột phá quan trọng trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng. Đáng
chú ý, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 10 diễn ra trước hai tháng khi
đồng chí Lê Duẩn mất, đồng chí Lê Duẩn đã tiếp tục nêu bật các ý tưởng
đổi mới mạnh mẽ về cơ chế quản lý kinh tế và công tác Đảng: “Phải
thấy đầy đủ những nhân tố mới, những khả năng khắc phục khó khăn để tiến
lên”, “Cuộc sống đòi hỏi chúng ta phải đổi mới trong ý nghĩ và
việc làm”, “Phải đổi mới cơ chế quản lý. Cơ chế quản lý đó lấy kế
hoạch làm trung tâm. Nhưng không làm kế hoạch theo lối quan liêu, bao
cấp”, “Phải thực hiện một sự đổi mới căn bản trong công tác Đảng,
trước hết là đổi mới phong cách lãnh đạo” (8).
*Tính chuyện hợp tác kinh tế với Mỹ sau khi hai nước bình thường hoá quan hệ
Sau thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, do những di chứng
hậu chiến “sau Việt Nam” trong lòng nước Mỹ khá nặng nề nên phía Mỹ chậm
bình thường hoá quan hệ với nước ta. Nhưng như Mc Namara, nguyên Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng Mỹ đã rút ra bài học “sau Việt Nam” cho nước Mỹ rằng:
“Chúng ta không có quyền tối cao để định hình mọi dân tộc theo hình ảnh của
chính chúng ta, hoặc theo hình ảnh mà chúng ta chọn” (9), rút cuộc, Mỹ
đã thiết lập quan hệ bình thường với Việt Nam.
Sinh thời, Tổng Bí thư Lê
Duẩn đã nghĩ đến điều tất yếu này và muốn nó đến càng sớm càng tốt. Có lần,
một cán bộ Bộ Ngoại giao đi Mỹ về báo cáo với đồng chí Lê Duẩn rằng, cái gì
ở Mỹ cũng xấu, đồng chí Lê Duẩn đã hỏi lại rằng: “Mỹ xấu thế mà tại sao
Liên Xô, Trung Quốc...đều nể Mỹ? Đồng chí báo cáo thế thì làm sao hợp tác
được với Mỹ?”. Người cán bộ ngoại giao này đã phải báo cáo lại đúng sự
thật và đúng như đánh giá của đồng chí Lê Duẩn về nước Mỹ. Ở đây, người cán
bộ ngoại giao vì sợ “mất quan điểm, lập trường” mà đã báo cáo sai sự thật
này đã không hiểu rằng, đồng chí Lê Duẩn cần biết sự thật về nước Mỹ để
chuẩn bị làm ăn với Mỹ. Trên lĩnh vực quan trọng tạo nguồn tích luỹ cho đất
nước là phát triển dầu khí, đồng chí Lê Duẩn cũng đã tính chuyện hợp tác với
các nước tư bản, trong đó có Mỹ.
Khi nghe trình bày dự thảo điều lệ Xí
nghiệp liên doanh dầu khí Việt-Xô, đồng chí Lê Duẩn đã yêu cầu Chính phủ chỉ
dành cho Liên Xô khai thác một số lô thôi, còn các lô khác dành để hợp tác
với các nước tư bản, với Mỹ vì theo đồng chí “cách làm kinh tế của Mỹ có
hiệu quả cao, không tìm cách làm ăn hợp tác kinh tế với Mỹ để phát triển là
không khôn ngoan” (10). Thể hiện tinh thần sẵn sàng chủ động hợp tác với
Mỹ, trong bài diễn văn đọc tại lễ kỷ niệm 10 năm giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước, đồng chí Lê Duẩn nêu rõ: “Nước ta sẵn sàng bình thường hoá
quan hệ với nước Mỹ vì lợi ích của hai nước, vì lợi ích của hoà bình, ổn
định ở Đông Nam Á” (11).
*Về một chữ “nếu”...hay là: Cần có một cái nhìn khách quan về tư duy
đổi mới thời kỳ 1976-1985
Tư tưởng đổi mới của đồng chí Lê Duẩn và của Đảng xuất hiện khá sớm và
phát triển chín muồi theo thời gian. Đó là tư tưởng đổi mới độc lập, tự chủ,
sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, từng bước thoát ra và
tiến tới xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá kiểu cũ vốn bao trùm cả phe xã hội chủ
nghĩa. Đó là tư tưởng dám đổi mới, thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm, sai
lầm để tìm cách vượt lên chính mình, nhạy bén điều chỉnh cách làm và bước đi
cho phù hợp thực tiễn, phát hiện cái mới do thực tiễn “mách bảo” để đề ra
các chủ trương, chính sách đổi mới.
Điều mà nhiều người mong muốn, trở trăn
là giá mà tư tưởng đó có tác động mạnh mẽ hơn nữa để thúc đẩy kinh tế đất
nước thời kỳ 1976-1985 phát triển nhanh hơn. Dĩ nhiên, thời kỳ này sẽ tiến
nhanh hơn nếu chúng ta không gặp nhiều khó khăn khách quan (tình trạng bao
vây cấm vận, chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc), không phạm sai lầm
chủ quan, nóng vội, nhưng những thành tựu quan trọng mà đất nước đạt được
trong thời kỳ này là không thể phủ nhận.
Để đánh giá một cách khách quan về vai trò của tư tưởng đổi mới đối với
sự phát triển kinh tế thời kỳ 1976-1985, cần có một cái nhìn phân kỳ hai
giai đoạn 1976-1980 và 1981-1985 để thấy rõ những chuyển biến kinh tế qua so
sánh hai giai đoạn này. Giai đoạn 1976-1980, bình quân sản lượng lương thực
là 13,4 triệu tấn/năm, sản xuất công nghiệp chỉ tăng 0,6%/năm, thu nhập quốc
dân tăng bình quân 0,4%/năm, đến giai đoạn 1981-1985, bình quân sản lượng
lương thực đã đạt 17 triệu tấn/năm, sản xuất công nghiệp tăng 9,5%/năm, thu
nhập quốc dân tăng bình quân 6,4%/năm. Giai đoạn sau có bước phát triển khá
so với giai đoạn trước chứng tỏ những tư tưởng đổi mới của đồng chí Lê Duẩn
và của Đảng, nhất là của Đại hội V đã đi vào cuộc sống, mang lại hiệu quả rõ
nét.
Tuy nhiên, việc tìm tòi, nghĩ ra tư duy mới đã khó, việc đưa tư duy mới
vào cuộc sống có lúc còn khó hơn, thậm chí phải “trả giá” như chuyện “khoán
chui” của đồng chí Kim Ngọc. Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt có lần báo cáo
đồng chí Lê Duẩn xin Trung ương cho thực hiện khoán về lương thực và làm “kế
hoạch 2, 3” trong công nghiệp để tháo gỡ khó khăn. Đồng chí Lê Duẩn đồng
tình cho thí điểm nhưng một số đồng chí lãnh đạo khác lại không đồng ý.
Một
tình trạng nữa, đó là có những tư duy mới được hình thành nhưng không được
thực hiện triệt để, xuyên suốt, hoặc không được tiếp tục nghiên cứu, phát
triển. Luận điểm của đồng chí Lê Duẩn về “bước đi ban đầu” trong công
nghiệp hoá xuất hiện sớm từ năm 1962 và sau đó là năm 1970 trong tác phẩm
“Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến
lên giành những thắng lợi mới” đã không được đề cập trong Đại hội IV của
Đảng, đến Đại hội V của Đảng mới xuất hiện trở lại dưới thuật ngữ “chặng
đường đầu tiên”.
Tư tưởng về duy trì kinh tế nhiều thành phần ở miền Nam
đã xuất hiện rất sớm ở Hội nghị Trung ương lần thứ 24, tháng 9-1975 nhưng đã
không được thực hiện đầy đủ và phát triển hoàn chỉnh (trước Đại hội VI của
Đảng, kinh tế nhiều thành phần chỉ được xác định duy trì trong một thời gian
nhất định, chứ chưa phải là trong một thời gian dài).
Việc không kịp thời
nghiên cứu, đào sâu các ý tưởng mới của đồng chí Lê Duẩn lúc đó, trách nhiệm
có phần thuộc về các cơ quan tham mưu, các nhà khoa học, nhà kinh tế. Đồng
chí Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ tướng Chính phủ viết: “Phải chăng, điều đáng
tiếc là khi đó đã không có cơ quan hay nhà khoa học, chuyên gia kinh tế nào
tổ chức nghiên cứu đào sâu những ý kiến của Anh Ba” (12). Còn theo đồng
chí Nguyễn Đức Bình, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Trung ương
Đảng, những tư duy mới của đồng chí Lê Duẩn “nếu có bộ máy giúp việc tốt
để tiếp tục nghiên cứu, đào sâu và khai triển hợp lý, đúng đắn đến tận cùng
lô gíc thì có thể mở ra cả một chân trời rộng lớn cho nhận thức, khám phá,
sáng tạo” (13).
Giờ đây, “chân trời” mong đợi ấy đã mở ra với vận nước
đang lên, đã đến lúc chúng ta có đủ “độ lùi thời gian” để sòng phẳng với
lịch sử, để đánh giá đúng mức, đầy đủ những bước tiến, bước đột phá về đổi
mới tư duy dưới thời Tổng Bí thư Lê Duẩn đã tạo tiền đề, tạo cơ sở quan
trọng cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước sau này, đúng như đồng chí
Đào Duy Tùng, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Thường trực Bộ Chính
trị-Ban Bí thư đã khẳng định: “Đại hội Đảng lần thứ VI là bước ngoặt
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội quyết định đường lối đổi
mới và đường lối đó đi vào cuộc sống nhanh, không những vì nó đúng mà nó còn
được chuẩn bị trước đó không chỉ về mặt tư duy mà cả về mặt điều kiện vật
chất” (14), “Không có những việc thử nghiệm từ năm 1979 đến năm 1985,
không có nhu cầu từ cuộc sống đầy khó khăn thì không thể có đổi mới”
(15).
Tầm vóc của một vĩ nhân, một nhà lãnh đạo kiệt xuất không chỉ thể
hiện ở những cống hiến lớn lao lúc còn sống mà cả ở những di sản để lại cho
đời sau khi mất. Mai kia, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, nền công nghiệp đó vẫn đi lên theo quy luật công nghiệp hoá
mà đồng chí Lê Duẩn đã chỉ ra, nền công nghiệp đó vẫn được thừa hưởng trữ
năng dồi dào của thuỷ điện sông Đà và dầu khí Vũng Tàu, những công trình thể
hiện tầm nhìn chiến lược công nghiệp hoá của đồng chí Lê Duẩn. Đó chính là
chân lý vượt thời gian của Tổng Bí thư Lê Duẩn.
Những bài báo về nhân vật Lê Duẩn:
-
Nhìn lại vai trò của ông Lê Duẩn
- Cố Tổng bí thư Lê Duẩn và "Làm chủ tập thể"...
- Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn: Hiểu người và trọng người
-
Bộ phim tài liệu "Tổng Bí thư Lê Duẩn"
-
Cố TBT Lê Duẩn và “Đêm trước đổi mới”
(1) Lê Duẩn, Dưới lá
cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập, tự do vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành
những thắng lợi mới, NXB Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 148, 149.
(2), (3) Lê Duẩn, Sđd,
tr. 148.
(4) Lê Duẩn, Sđd, tr.
122.
(5) Lê Duẩn, Sđd, tr.
126, 127.
(6) Lê Duẩn-Một nhà
lãnh đạo lỗi lạc, một tư duy sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 477.
(7) Phan Diễn, Đồng
chí Trường Chinh với công cuộc đổi mới đất nước, Tạp chí Cộng sản số
123, năm 2007.
(8) Ban Tư tưởng-Văn
hoá Trung ương, Tài liệu tuyên truyền kỷ niệm 100 năm ngày sinh Tổng
Bí thư Lê Duẩn, Hà Nội, 2007, tr. 268, 269, 270, 271.
(9) Mc Namara, Nhìn
lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, trang 317.
(10) Lê Duẩn-một nhà
lãnh đạo lỗi lạc, một tư duy sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, trang 343.
(11) Lê Duẩn, Nội
dung cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, NXB Sự thật,
Hà Nội, 1986, tr. 598.
(12) Lê Duẩn, Nội
dung cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Sđd, tr. 67.
(13) Lê Duẩn, Nội
dung cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Sđd, tr. 173.
(14) Tuyển tập Đào
Duy Tùng, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000, trang 207.
(15)
Tuyển tập Đào Duy Tùng, Sđd, trang 247.