SƠN LA KÝ SỰ - Kỳ 4

(Ghi chép về Bản cũ, Mường xưa)

Nguyễn Khôi

http://sachhiem.net/VANHOC/NGKHOI/NguyenKhoi01c.php

22-Apr-2012

 

Bài 40:

QUAN CHỨC VÀ TRÍ THỨC

Người Thái ở Sơn La, trước 1962 (tái lập tỉnh) coi như chiếm số đông nhất. Thời phong kiến tầng lớp quý tộc, thầy mo đều được học hành, có chữ nghĩa…nên Phìa Tạo và con em họ thường vừa là chức sắc (hay sẽ làm chức sắc) vừa là trí thức ở địa phương.

Thời Lê Trịnh, triều đình đặt chức “phụ đạo” để cái quản các Châu Mường.

- Châu Phù Hoa (Phù Yên): Phụ đạo là Cầm Nhân Đôi, sau con là Cầm Nhân Cai kế tập.

- Châu Mộc; phụ đạo là Xa Văn Phấn (tổ tiên là Xa Khả Tham, làm quan Đại tư mã hồi đầu nhà Lê).

- Châu Mai: Phụ đạo là Hà Công Ứng, sau con là Hà Công Bình kế tập.

- Châu Mai Sơn: Phụ đạo Cầm Nhâm Tuần

- Châu Sơn La: Phụ đạo Cầm Nhân Mang.

- Châu Thuân: Phụ đạo là Bạc Cầm Chính.

- Châu Quỳnh Mai: Phụ đạo là Điêu Chính Thiêm.

- Thời xã hội chủ nghĩa (sau 1955…) về tri thức ở Sơn La nổi bật có

1/ - Gia đình nhà thơ Cầm Biêu vốn là thầy giáo, sau làm trưởng ty văn hóa, em trai là Phó giáo sư - Tiến sỹ Cầm Cường, giảng viên Đại học tổng hợp Hà Nội, ông có nhiều công trình giá trị về Dân tộc học. Em trai là: Đạo diễn nổi tiếng Cầm Kỷ với các film “Chom và Sa”, “Trở về Xam Sao”.

Con trai là Tiến sĩ ngành ngân hàng Cầm Kiên, phó giám đốc Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam.

2/ - Nhà dân tộc học Cầm Trọng: với tác phẩm nổi tiếng “Người Thái ở Tây bắc Việt Nam” và nhiều tác phẩm khác.

3/ - Hoàng Nó (Cầm Văn Lượng) - nhà giáo nhà thơ - làm tới chức Bí thư tỉnh ủy Sơn La, ủy viên trung ương Đảng CSVN.

4/ -  Cầm Ngoan: Phó chủ tịch khu, chủ tịch UBHC Nghĩa Lộ, Sơn La, phó chủ tịch Quốc Hội.

5/ - Cầm Liên (Cầm Văn Yêu) - Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La

6/ - Nhà văn Sa Phong Ba (Sa Viết Sọi) sinh 1948, Thái ở Cao Đa (Bắc Yên) Hội Viên Hội nhà văn Việt Nam, có nhiều truyện ngắn đặc sắc.

7/ - Điêu Chính Ngâu, Thái trắng Quỳnh Nhai, dịch đầu tiên ra tiếng phổ thông “Sống chụ son sao” (Tiễn dặn người yêu).

8/ - Nhà thơ Cầm Hùng (1945) quê Chiềng Xôm (Thị xã Sơn La) thượng tá, chủ tịch Hội văn học nghệ thuật tỉnh Sơn La.

9/ - Nhà nghiên cứu văn nghệ dân gian Hoàng Trần Nghịch (1934) quê Sông Mã, đại học, có nhiều tác phẩm sưu tầm, nghiên cứu dịch thuật.

10/ - Nhà thơ Lò Vũ Vân (1943) Thái, Noong Đa (Bắc Yên).

11/ - Họa sĩ Lò An Quang (Bản Cọ, TX)

12/ - Nhạc sĩ Cầm Bích

13/ - Nhạc sĩ Cầm Minh Thuận (1944) Phù Yên, có “giao hưởng bài ca Tây Bắc” “Liên khúc tiễn dặn người yêu”.

14/ - Nhà thơ Vương Trung (Lường Vương Trung) Mường É, Thuận Châu -  1938 - Hội viên hội nhà văn VN.

Tác phẩm: Ing Éng (thơ), Mối tình Mường Sinh (tiểu thuyết), dịch Táy Pú Xấc, Chương Han.

15/ - Nhà thơ Lò Văn Cậy (1928-1994) quê Sốp Cộp (Sông Mã) Hội viên hội nhà văn Việt Nam. Có tuyển tập thơ Lò Văn Cậy.

16/ - Nhà thơ Lò Văn E (1933-1995) quê Sốp Cộp.

17/ - Phó giáo sư - Tiến sĩ Hoàng Lương (1944) Thái Phù Yên, chủ nhiệm bộ môn Dân tộc học, khoa sử Đại học Quốc gia có nhiều công trình về dân tộc học.

18/ - Nghệ sĩ ưu tú Vi Hoa (nữ, hát)

19/ - Phát thanh viên VTV1 Cà Kỳ Vọng (Người bản Phiêng Ngùa).

Đặc điểm: Các quan chức ở Sơn La xưa và nay đứng đầu bản Mường, xã, huyện, tỉnh thường là trí thức người bản địa (Thái, Mèo), có uy tín với nhân dân, có năng lực quản lý (cai trị) có tín nhiệm với trung ương.

Từ sau khi tái lập tỉnh các vị như Hoàng Nó (Bí thư tỉnh ủy), Cầm Liên (chủ tịch UBND tỉnh), Cần Ngoan (Chủ tịch UBND tỉnh Kiêm phó chủ tịch Quốc hội), Thào Xuân Sùng (HMông, Bí thư tỉnh ủy), Tòng Thị Phóng (Bí thư tỉnh ủy rồi là ủy viên Bộ chính trị, phó chủ tịch Quốc hội), Lù Văn Que (phó chủ tịch UBND tỉnh, thứ trưởng UB dân tộc của chính phủ); các tướng như Lò Văn Nhài, Cầm Xuân Ế…, các anh hùng liệt sỹ như Lò Văn Giá, Chu Văn Thịnh là những tấm gương tiêu biểu, niềm tự hào của nhân dân các dân tộc Sơn La qua 2 cuộc kháng chiến và xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp.

 

Bài 41:

TANG LỄ THÁI

tang lễ thái

Nghi thức chung: nhà nào có người mất, báo Trưởng tộc đến chủ trì, chọn 1 nhóm dâu rể đến túc trực - rồi phát tang.

Chết, rất kiêng kỹ ngày “mão” đó là ngày con Ong, ngày vất vả - nếu chết vào ngày này là phải đắp chiếu coi như còn sống (Kiểu ở xuôi để cưới chạy tang) chờ hôm sau mới coi là “chết”. Ngoài ra còn kỵ ngày Hợi, phải đợi giờ Dần làm giờ chết để trị các loại ma (phí).

Sau khi tắt thở: con cháu vuốt mắt, tắm nước lá thơm, thay quần áo mới nhất rồi khâu vài đồng bạc trắng vào cổ áo (khót ngân khót có sửa) và vào 2 mông quần, khâu phía đầu mảnh vải căng trên cây nêu (co cao) ngoài mộ.

Cây nêu làm bằng cây tre cao 5-7 mét dựng hướng về Nậm toóc tát (thác đầu nguồn) có cành ngang để treo áo người quá cố (đàn ông áo đỏ, đàn bà áo dài) trên dọc cây nêu có dải vải màu trắng và đen ở giữa có mảng thổ cẩm, đối với người già, dải vải dài 7 xải, tuổi trung niên 3 sải rộng 1 gang tay, đó là cờ ma (mạng lỉu heo). Trên cây cao buộc con ngựa gỗ “ngày về trời theo cánh ngựa bay”, hướng về đầu thác nước để hồn có ngựa cưỡi bay về trời. Bên cạnh cây nêu buộc 1 máng nứa có thóc có cỏ cho ngựa (gỗ) ăn. Riêng hồn người thì không phải đem theo thức ăn vì đã có ông thầy Mo cúng bái “làm tang” (dẫn nhập hồn vào Mường ma) “Pết cáy  Xam háp bung, Xam háp khẩu  nặm pay toi” (gà vịt 3 gánh, cơm nước 3 gánh đem theo nồi).

Cây nêu bên mộ sau 1 tháng tự đổ là điềm tốt nghĩa là hồn đã về trời (người kinh là sau 49 ngày cúng cơm) chưa đổ là gở với gia chủ, nên do đó khi chon cây nêu phải chọn người biết làm, gần gũi với tang chủ.

Khi khâm niệm (cộn pang) phải có 2 mảnh thổ cẩm lót dọc 2 sườn xác - quần áo buộc dọc xác và có dây buộc hộ tro hỏa táng (sai chaư). Mỗi con đẻ có 1 bộ quần áo để vào cái “sa” đặt bên quan tài, con dâu thì mỗi người 1 dải vải trắng vắt buông phía trên quan tài, con trai được đứng trước ngực người quá cố, con gái ngồi ngang thân quan tài, con dâu đội khăn chóp trắng, áo đen dài, khẩu vải thổ cẩm đỏ vào tà áo ngồi phục bên cửa vào của nhà sàn.

Không được đến gần nơi quan thi hài. Khách viếng, con dâu ngồi phục cảm ơn tiễn khách, cơm trưa và chiều cúng thủ lợn, 4 chân, tim gan, rể phải đưa cỗ vào cúng bố mẹ vợ, không có thì cháu rể thay, cỗ có 3 mâm, mâm gạo và hoa quả, mâm vịt luộc, mâm lợn luộc: mỗi mâm có 4 chén nước, 6 chén rượu và 50 xải vải trắng gấp gọn đặt trên 1 thang tre, con rể cả khấn “ông, bà đi, chúng tôi con cháu đã lo được mâm cỗ, xin nhà ngoại nhận cho”.

Sau đó trải tấm vải trắng lên quan tài, trên đó có những miếng vải nhỏ như đuôi cá viết chữ Thái kể công đức người quá cố, cầu mong ông (bà) phù hộ. Xong xuôi bên rể nâng vải lên đầu làm cẩu cho hồn đi qua tới khi ông mo đọc hết bài cúng.

Sau khi viếng, cúng…đem thi hài đi hỏa tang. Xác được bó vải đặt trên 1 cái kiệu tre khiêng ra gò đất cao cạnh Paheo (nghĩa địa - rừng ma) chất củi xung quanh đổ thêm dầu hỏa rồi châm lửa đốt, tro xương cho vào 1 chum nhỏ đem chon vào huyệt mộ…

Tục ngữ có câu “cốc cồ lộn báư bên/ vên tai báư hụ” (không tự nhìn thấy gáy mình/ ngày chết không ai biết trước), sinh có hẹn, tử bất kỳ là vậy!

 

 

Bài 42:

CỔ TÍCH

1, Tháp Mường Và: ở Sốp Cộp (huyện mới tách từ huyện Sông Mã, là Tháp của dân tộc Lào).

2, Đền thờ vua Lê Thái Tông (1423-1442) và văn bia Quế lâm ngự chế.

Là vua trẻ anh minh, vua đã 2 lần thân chinh lên Sơn La dẹp loạn phản nghịch. Vào tháng 3 năm canh thân 1440 và 1441 trên vách đá (núi) nhìn xuống cánh đồng Chiềng An có khắc 1 bài thơ chữ Hán “Quế Lâm Ngự Chế” nhằm khẳng định sự toàn vẹn lãnh thổ và mong thiên hạ thái bình. Trải qua 500 năm chữ khắc vào đá còn rõ nét ở cửa Động La.

Đền thơ vua Lê Thái Tông mang dáng dấp đền cổ Việt Nam (khởi công 9/2001, khánh thành 22/1/2003) để ghi công đức vua và là nguyện vọng chính đáng của nhân dân Thành phố Sơn La hôm nay ở tổ 2, phường Chiềng Lề.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì 2 năm 1440 và 1441 vua Lê Thái Tông đi đánh tên phản nghịch Nghiễm ở Châu Thuận Ma, đem quân theo người Ai Lao (Lào) làm phản.

Vua thân chinh điều khiển 6 quân tới trị nó. Thượng Nghiễm kế cùng lực tận, dâng voi xin hàng. Ta thương nó quỳ bò không mang vũ khí, không nỡ chém, bàn tha tội cho nó, rồi đem quân trở về, để lại bài thơ khắc trên vách hang Thẳm báo kế:

Nghĩ đến người xa đêm khổ tâm,

Thổ tù sao lại dám quên thân

Thế gian đã có anh hùng chúa,

Thiên hạ ai tha kẻ nghịch thần…

Đường xá khó khăn đừng cậy hiểm,

Hang cùng đá ấm áp hơi xuân

Yên được dân lành nhơ nhớp hết,

Dân xa được hưởng tấm lòng nhân.

(Năm đầu niên hiệu Đại Bảo)

Canh thân 1440.

Nguyên văn chữ Hán là:

Bộ chẩm lưu tâm niệm viễn chân,

Man tù hà sự tốc vong thân.

Thế gian nhược hữu anh hùng chủ,

Thiên hạ thùy dung phản nghịch thần.

Ồ đạo duyên vân không thị hiềm,

Âm nhai rương noãn kỷ diên xuân.

Cách trừ ô nhiễm an dân thiện

Nhẫn sử hà mạnh ngoại chí nhân.

3, Di tích nhà tù Sơn La trên đồi Khau Cả (Thành phố Sơn La): Pháp xây dựng năm 1908, giai đoạn 1930 - 1945 chúng giam cầm đày ải 1007 lượt chiến sĩ cách mạng Việt Nam với các tên tuổi lớn như các ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Trần Huy Liệu, Lê Thanh Nghị, Song Hào, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Cơ Thạch, Mai Chí Thọ, Trần Quốc Hoàn, Hoàng Tùng, Tô Hiệu.

4, Nghĩa trang liệt sỹ Tô Hiệu và các liệt sỹ hi sinh ở nhà tù Sơn La, ở thân đèo Khau Cả phía quốc lộ 6 lên Thuận Châu (Xem thơ “Qua thăm gốc ổi” của Trần Huy Liêu).

5, Sân bay Nà Sản: Tháng 10/1952 quân đội ta bao vây tấn công đợt 3 vào Nà sản…đã làm quân Pháp mở ra bài học để Đại tướng Henrie Navare hi vọng sử dụng căn cứ mạnh, có yểm hộ của máy bay và lấy mẫu từ 1 căn cứ ở Miến Điện của quân Anh để xây dựng cứ điểm Điện Biên Phủ “dụ” tướng Giáp lên quyết chiến…(căn cứ Nà Sản là để ngăn quân ta tiến công quân Pháp ở Lào). Ngày 9 - 8 - 1953 quân Pháp rút khỏi Nà sản bằng không vận sau 1 thời gian cầm cự.

6, Ngã ba Cò Nòi: 1 địa danh đã đi vào trang sử vàng chói lọi của TNXPVN, nơi có đài tưởng niệm 100 chiến sĩ TNXP hi sinh, tại đây để phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.

7, Di tích cách mạng Lào ở bản Lao Khô, Xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu.

 

 

 

 

Bài 43:

ĐÈO PHA ĐIN

đèo pha đin

Nơi trời ghé xuống hôn mặt đất

Núi vồng lên ôm ấp mây trời

Cứ như thể ta bay vào bát ngát

Giữa đất trời hạnh phúc sóng đôi

(NK)-

Tên đèo Phạ là trời, Địa là đất, hàm nghĩa đây là nơi tiếp giáp giữa đất và trời trên QL 6 từ Thuận Châu Sơn La đi Tuần Giáo (Lai Châu) ở cây số 360 - 392, đèo dài 32 km, điểm cao nhất 1648 mét, nơi có cột truyền hình nặng 70 tấn, chịu sức gió 200km/h; dốc đèo 10% - 19%.

Ở chiến dịch Điện Biên Phủ đoạn đường trên đèo Pha Đin phía ta có 8000 thanh niên xung phong “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, suốt 48 ngày đêm máy bay Pháp dội bom chặn đường lên của quân ta.

Từ năm 2006 - 2009 sửa Quốc lộ 6, đèo cũ được bỏ (tránh), làm đường mới ở độ cao thấp hơn phía trái Quốc lộ 6 cũ, cao khoảng 1000m (thấp hơn cũ 200 - 400m) xe cộ đi lại dẽ dàng.

Đèo Pha Đin có thể coi là thắng cảnh “đệ nhất hùng quan” của Sơn La - Tây Bắc nắng gió, sương mù, mây ngợp luôn, mát lạnh, thanh sạch như 1 cõi thần tiên khi ta lên tới đỉch.

10/3/2012.

 

 

Bài 44:

SUỐI, MÓ NƯỚC NÓNG

suối nước nóng

1, Suối nước nóng Bản Mòng (Thành phố Sơn La) cách trung tâm thành phố 6 km về phía Tây Nam có suối nước nóng bản Mòng, nhiệt độ là 38oc nhiều chất khoáng tốt cho điều trị khớp, thần kinh…

2, Suối nước nóng Ngọc Chiến ở độ cao 1800m/s mặt biển, nơi cư trú 3 dân tộc: Thái trắng, Hmông, LaHa nơi nhiều Táo mèo (Sơn tra). Có mỏ nước nóng chảy qua bản Lướt, tắm gội đẹp da.

3, Mỏ nước thần ở bản Miềng, xã Mường Lèo, rất ấm từ núi chảy ra, tắm chữa bệnh.

4, Chỗ bản Ít tong (huyện lỵ Mường La) cũng có 1 khúc suối nước nóng, mùa đông bốc hơi nghi ngút, nóng gần 50o đượm mùi khoáng: tắm, uống đều thấy khỏe hẳn ra.

 

 

Bài 45:

LỄ HỘI LUNG TA

lễ hội lung ta

Người Thái trắng (Quỳnh Nhài và các noi) thường thì vào chiều 30 tết âm lịch…coi như thời điểm chuyển giao từ năm cũ sang năm mới. Mọi nhà chuẩn bị tết, còn cá nhân thì tắm gội mặc quần áo mới, tiếng chiêng trống vang lên đón tết…mọi người trong bản ra suối, sông thăm gia “lễ gội đầu”, coi đây là lễ hội mở đầu cho 1 năm mới, đó là để rửa trôi đi những cái vất vả, bệnh tật, những điều không may mắn của năm cũ, tống tiễn tai ương theo dòng nước đi mãi không lặp lại…đồng thời cho con người sức khỏe, năm mới tốt lành, gặp điều hay, làm ăn phát đạt. Để chuẩn bị cho lễ hội gội đầu trước đó cả tuần chị em đã vo gạo nếp lấy nước, đổ vào cái nồi cất giữ để cho càng lên mùi chua càng tốt. Đó là nước gội cho phụ nữ. Nồi nước tắm là nồi nước thơm của cây mùi già. Còn cánh đàn ông gội nước bồ kết nướng ai nấy áo cóm, váy đẹp cùng chiêng trống kéo ra bờ suối, bờ sông.

Chị em cởi trần, kéo cạp váy lên phía trên ngực che vú, cúi đầu buông tóc tiến hành gội từ nước gạo nếp chua, nước lá thơm, nồi xõa theo dòng nước…

Đàn ông thì quần cộc, cởi trần gội,…Ngoài ra cánh đàn ông còn mang súng kíp ra bờ sông bắn nổ to vài phát tiễn năm cũ đón năm mới hòa trong tiếng chiêng trống ấm vui của cả bản.

Gốc gác sự tích của “lễ hội Lung ta” (lễ hội gội đầu) là trong buổi lễ: Ông Mo còn hát kể về công lao của nữ tướng Nàng Han xưa (con gái 1 Tạo Mường) cầm quân đánh tan giặc ngoại xâm, đuổi chúng tới tận cõi Mường Xo (Phong Thổ - Lai Châu)…Dẹp xong giặc; cho quân sỹ nghỉ ngơi, tắm gội trên dòng Nậm Te (Sông Đà) để ăn mừng chiến thắng…vì thế người Thái Trắng vùng Sông Đà đến nay vẫn còn lưu lại phong tục này - đó là lễ hội lung ta (xuống bến nước làm lễ gội đầu) vừa là tẩy trần sạch sẽ vừa là để tưởng nhớ vị anh hùng dân tộc…

 

 

 

 

Bài 46:

DU LỊCH MỘC CHÂU

du lịch mộc châu

Cao nguyên Mộc Châu ở độ cao 1050m so với mặt biển, cách Hà Nội gần 194 km (quốc lộ 6), rộng khoảng 25 km, dài 80 km với 16000 ha đồng cỏ, mùa hè mát mẻ (20oc) mùa đông rét đậm, khô ráo, mù sương…

Đây là vùng lý tưởng để nuôi bò sữa (toàn vùng đã nuôi 7200 con, công ty hò sữa Mộc Châu có 3514 con, đạt sản lượng 3200 tấn sữa tươi/năm, toàn vùng trên 7000 con đạt trên 28.000 tấn/năm, năng suất 20,5kg/con/ngày).

Đây là những đồi chè nối tiếp nhau bát ngát, ta cứ ngỡ tới vùng chè Cameron Highland ở Malaysia? Từ thị trấn nông trường, tới Tân Lập, Cờ đỏ đi vào Ngũ động bản Ôn là những sóng đồi chè xanh tươi…toàn vùng có tới 3200 ha chè (toàn Sơn La khoảng trên 4000ha) đó là chè Phiêng Khoài (Yên Châu), chè Nà Sản, Phiêng Cầm (Mai Sơn), chè Phòng Lái, chiềng pha (Thuận Châu), chè Tà Xùa (Bắc Yên); ở Mộc Châu có 6 công ty - nhà máy chè…trồng và chế biến các loại chè San Tuyết, trà Ô Long, trà Kim Tuyên…tổng số trên 3000 ha các loại, trong đó hơn 2700 ha đạt năng suất cao 74,1 tạ/ha.

Mộc Châu đang là nơi du lịch lý tưởng của người Hà Nội đến với vùng khí hậu ôn đới gần nhất: 194 km, đi ô tô mất 3 giờ đồng hồ. Đó là các điểm:

- Đông Sơn Mộc Hương, nằm ngay trung tâm thị trấn nông trường với diện tích 6915 mét vuông, từ quốc lộ 6 đi vào có 150 mét, qua 240 bậc tới cửa hang, di tích người xưa 3000 - 3500 năm.

- Thác Dải Yếm (thác Nàng) thuộc bản Vắt, khởi nguồn từ 2 khe nước Bó co lắm và Bó tá cháu chảy ra thành suối Vắt, qua 5 km hòa vào suối Bó Sập giáp biên giới Việt Lào chảy về phía Yên Châu tạo ra thác dải yếm mùa mưa, thác rộng 70m.

- Rừng thác sải yếm đi ngược quốc lộ 43, khoảng 600 m rẽ sang 1 hẻm đi 300m là vào bản Vặt (Thái) khá phát triển nghề dệt Thổ Cẩm - ở đây có lễ hội xe chá, ẩm thực trên hồ Noong Buông.

- Thắng cảnh đỉnh núi Phiêng Luông cao 1500m (ngang Tam Đảo) trên đỉnh là 1 bãi bằng sông cỡ 10 ha tha hồ hóng gió trông mây vùng biên giới Việt Lào.

- Ngoài ra còn tham quan rừng thông Mộc Châu, thác Thái Hưng, chùa Chiền Viên.

Mùa xuân đẹp nào hơn vườn đào Lõng luông, hoa mơ hoa mận ở vùng Mèo Vân Hồ?

- Ẩm thực: Các cửa hàng ở thị trấn có các món “lợn cắp nách” “đặc sản gà dai” lẩu dê nấu ngải cứu - các món nướng Thái, Lẩu xá, cơm lam, xôi thơm….

Có thể nói Mộc Châu - miền xanh thẳm cao vời vợi lưng trời, 1 viên ngọc bích ở địa đầu miền Tây Bắc của Tổ Quốc đó là vùng nông thôn miền núi ngàn đời hoang sơ dân dã đang công nghiệp hiện đại hóa ở 1 trình độ cao…đến đây để ta vừa hoài niệm bâng khuâng, vừa hứng khởi trông về tương lai tươi sáng và tràn trề hi vọng….

 

Bài 47:

NGƯỜI BẮN HỔ

lễ hội lung ta

Tháng 6/1963, vào huyện Sông Mã (vùng biên giới Việt Lào) và tôi được các anh ở đây kể câu chuyện “anh Sáng bắn Hổ”.

Số là hồi 1952 - 1953, vùng này là hậu địch, Việt Minh ta mới xây dựng được khu căn cứ nhỏ với 1 đội du kích tuyên truyền vũ trang…anh em phải ở lán trong rừng, luôn di chuyển để tránh địch, ăn thì nhờ lấy trộm gạo ở mả mấy người mới chết ngoài Paheo (rừng ma), đào củ mài, hái rau rừng đợ bữa qua ngày. Trong đội có anh Lò Văn Sáng vác súng kíp vào rừng tìm con don, con dím, con lợn rừng…Thế là vào 1 đêm anh đến phục sau gốc cây bên bờ hồ, chờ lũ lợn về uống nước, khoảng 10 - 11 giờ khuya, đám lợn vài con ủn ỉn đổ về ao (hồ), 1 ông ba mươi (hổ) to đùng, cỡ con bò tháu cũng khẽ khàng bước ra “rình” vồ chú lợn choai (chắc mẩn, 1 bữa ngon), gốc cây anh Sáng nằm phục cách hổ độ 7 mét… Đúng lúc Hổ vồ lợn thì anh Sáng cũng bất thần nổ súng…một phát xuyên táo chết tươi 2 chú Hổ và lợn. Thật là hi hữu “trời cho” may và tài, bình tĩnh chớp thời cơ…

Thế là 1 tiếng “hú” đồng đội anh chay ra: người vác lợn, người khiêng hổ về căn cứ được 1 phen liên hoan xả láng…

Tiếng lành đồn xa “anh Lò Văn Sáng người bắn hổ” làm vang danh tiếng tăm đội du kích, làm bọn Pháp và tay sai hết hồn mỗi khi quân ta tập kích đánh giặc trừ gian…cho đến ngày giải phóng.

Sau này, anh Sáng tham gia công tác thoát ly, hồi 1962 - 1963…anh Sáng đã trở thành Bác Lò Văn Sáng, chủ tịch ủy ban hành chính huyện Sông Mã: 1 vị chủ tịch râu tóc bạc phơ, cao ráo, cường tráng (đẹp lão) thông minh tháo vát, ung dung thư thái dẫn dắt (lãnh đạo) nông dân huyện sông Mã cùng cả nước tiến lên xã hội chủ nghĩa.

 

Bài 48:

CÂU CHUYỆN SĂN VOI

du lịch mộc châu

Tháng 8/1983, sau khi đi họp Quốc hội kỳ giữa năm (tháng 6, về…bác Cầm Ngoan, chủ tịch UBND tỉnh Sơn La, phó chủ tịch Quốc hội) goi tôi (NK) ra thì thầm: anh sang bảo anh Thường (trưởng ty lâm nghiệp) 2 anh em vào sông Mã chỉ huy trạm kiểm lâm cùng đồn biên phòng đi săn lấy 1 con voi rừng để đón chủ tịch Trường Chinh sắp tới (vào dịp 2/9 lên thăm tỉnh). (1)

Thế là NK tôi cùng anh Nguyễn Xuân Thường (khoảng 52 tuổi hơn NK 7 tuổi, người Mường ở Yên Lập - Phú Thọ sang công tác hậu địch xa nhà từ hồi 1950, hồi 1963 làm bí thư kiêm phó chủ tịch huyện Sông Mã, Bác Lò Văn Sáng làm chủ tịch) lên 1 xe u oát, cùng khoảng 5 kg Keo Mậu dịch quốc doanh đem theo để làm quà cho bọn trẻ các nhà thân quen (chẳng biết có đứa nào là “con gửi” của bí thư huyện ủy cũ hay không, có trời mới biết?).

Đường dài 120km, qua 7 khúc suối (1 xe đi trên lòng suối), mất trên 10 tiếng đồng hồ thì tới Bản Địa bên này bờ sông Mã, vào ở nhà chủ tịch xã Nà Nghịu, cũng là trung tâm thị trấn huyện Ly. Điện thoại réo Hạt trưởng kiểm lâm (quân của trưởng ty lâm nghiệp) và thượng úy đồn trưởng biên phòng về nhận lệnh…

Xong, cả tối 2 anh em cùng chủ tịch xã, mới thêm cả phó chủ tịch huyện phụ trách nông nghiệp: 4 anh em, 2 con vịt, ít cá sông, 1 hũ rượu cần, 1 chai lẩu xiêu “hảo hán nớ” - au hảnh nớ…cạn chén bõ bao ngày xa cách (hồi tháng 6/1963, NK Tôi cách đấy 20 năm, hồi mới ra trường, xung phong vào Sông Mã làm quân anh Thường xuống chỉ đạo sản xuất ở xã Nà Nghịu…nên cả 2 anh em đều là người cũ, bạn cũ xa lâu mới về… cuộc Kin lẩu (cuộc rượu) tới khoảng 11giờ đêm thì có tiếng vó ngựa lộc cộc của hạt trưởng kiểm lâm chạy về: Báo cáo 2 anh đã trông thấy voi.

- Ừ thế thì tốt, ngồi xuống, ta au hảnh (cạn chén) vài choác để lấy khí thế…

Chiều tối hôm sau, mấy anh em đang ngồi hàn huyên trao đổi xây dựng vùng cánh kiến Sông Mã, xử lý vấn đề sấy Long Nhãn của bà con khai hoang Hưng Yên nên như thế nào?... thì có tiếng xe đạp (hồi này chưa có xe máy) của thượng úy trưởng đồn biên phòng chạy về báo cáo:

- Thưa 2 anh, bọn chúng em phối hợp với kiểm lâm đã tiếp cận voi, con này voi đực, ngà còn nhỏ, cỡ 7 - 8 tạ…

- Được, cứ thế mà triển khai…

Sáng hôm sau: Hạt trưởng kiểm lâm cùng phó chủ tịch huyện đến:

- Báo cáo 2 anh em, nếu bắn được voi bọn em dự kiến ăn chia như sau:

2 đùi sau, lá gan, vòi và ngà xin gửi 2 anh về biếu tỉnh - còn lại: một ít huyện ủy, 1 ít ủy ban, còn lại chia đều đầu người ở hạt kiểm lâm và đồn biên phòng.

- Thế cũng được; các cậu xuống tận nơi xem anh em chúng nó “săn” thế nào, phải chắc ăn đấy…

Chờ 2 ngày, bặt tin

Đến ngày chờ thứ 3 thì cả 2 hạt trưởng và trưởng đồn hớt hải chạy về:

- Báo cáo 2 anh, voi nó đánh hơi thấy không lành, nó sợ, chạy về Lào (bên kia biên giới) mất rồi…

Ôi, thế là cụt vòi, thế là hết chiều ni voi đi mãi…

Thật là vô vọng - 2 anh em (NK tôi và anh Nguyễn Xuân Thường) không ai nói với ai câu gì, chia tay huyện còn dặn với 2 chú em:

- Các cậu cứ tiếp tục theo dõi bám sát trận địa, phát hiện thấy voi thì “điện” ngay ra tỉnh…

Bữa tiệc chiêu đãi chủ tịch Trường chinh lên thăm cán bộ, nhân dân tỉnh Sơn La năm ấy diễn ra bình thường, Chủ tịch tuổi đã cao, ăn kiêng, không uống rượu, tính cụ vốn là tiết kiệm (ăn uống đơn giản như Bác Hồ) nên các vị quan chức đầu tỉnh bữa ấy cũng không dám “hảo hán nớ” - “au hảnh nớ”…

Và chú voi (săn hụt) chắc là đang quay vòi vung vít như nhắn sang bên của biên giới:

- Vua chúa bây giờ có ý thức bảo vê động vật hiếm quý, không ai được ăn thịt voi đâu nhé.

Chuyện thật như đùa vậy!

Hà Nội, 11 - 3 - 2012

NK

(1)Lúc này NK đang làm

Thư ký Đ/c chủ tịch tỉnh

 

 

 

Bài 49:

XÒE THÁI

săn voi

Múa xòe, còn có tên “xòe khăm khen” (múa cầm tay), có từ xưa có 32 điệu, nổi tiếng nhất là xòe phong Thổ, xòe Mường Lò.

Phổ cập là điệu “khắm khen” mọi người nắm tay nhau quay vòng tròn, biểu hiện cho tình đoàn kết; điệu “khắm khăm mới lẩu” tức là nâng khăm mời rượu tỏ lòng yêu quý và mến khách; điệu “đổn hôn” tức tiến, lùi nhào về phía trước ý nói trời đất dù có bão giông, sống gió nhưng tình cảm con người với nhau thì luôn gắn chặt; Điệu “phá xí” tức bỏ bốn, tượng trưng cho 4 phương trời đoàn kết giao lưu; điệu “nhôm khăn” tức tung khăn thể hiện niềm vui mừng mùa màng thắng lợi, xây nhà mới, sinh thêm con cháu, cưới xin…

Ở vùng Mộc Châu - Mai Châu (Tày Đeng) có các điệu xòe chá, xòe ồng bổng, xòe kiếm, xòe đánh máng…

Xòe ông Bổng là 1 điệu múa xưa, động tác đơn giản, mọi người cầm tay nhau nhảy nhót xung quanh đống lửa theo nhịp “hò huậy, hò huây” mừng thắng lợi giòn giã sau cuộc đi săn về hoặc xung quanh vò rượu cần mừng nhà mới.

Đặc điểm xòe này: trang phục bình thường chỉ có đàn ông xòe, “nhạc” miệng là tự hô, cổ vũ người xem, vui nhộn phóng khoáng. Điệu xòe “đánh máng” dành cho nữ giới, cứ 3 cặp mỗi cặp dùng 2 chày gỗ gõ vào máng dùng để giã gạo, tạo ra tiếng chày giòn chắc, nhịp điệu mỗi lúc 1 mạnh…cùng trống chiêng rộn rã.

Các điệu xòe (xe) được các nghệ nhân dân gian xây dựng (32 điệu) luôn mang bóng dáng gần gũi với dân bản như “xe cúp” (múa nón), xe tẳng chai (múa chai), xe kếp phắc (hái rau), xe cáp (múa sạp)…

Các điệu xòe vòng sôi nổi bao nhiêu thì các điệu xòe đơn, xòe tốp lại tinh tế duyên dáng bấy nhiêu - với triết lý âm dương: trời đất, nước - lửa và ý nghĩa nhân sinh cao cả ẩn chứa kỳ ảo trong các điệu xòe Thái từ xưa tới nay trong các cuộc vui liên hoan, lễ hội.

 

Bài 50:

NHẠC KHÍ THÁI

nhạc cụ thái

Từ xưa người Thái đã làm “Pí” (sáo) để thổi chơi, gửi gắm nỗi niềm qua nốt nhạc tiếng sáo giữa núi rừng mênh mông đèo heo hút, là công cụ để “pay ỉn sao” nói tiếng lòng vào con tim người mà mình theo đuổi…

1, Pí tam lay (pí nốc ống) cấu trúc gồm 2 phần: phần 1 là ống phát âm nối với ống 2 làn phần khuếch thanh, ống 2 đôi khi được lắp thêm 1 gáo tre (to) để tăng độ vang của âm thanh.

2, Pí lào nọi (sáo lào nhỏ): y hệt phần 1 của pí tam lay, bằng cây nứa tép, tuy khác là 1 hàng âm 6 lỗ.

Xuất xứ: từ “pí” (sáo) có lẽ từ “pép” hoặc pép phan (pép hoẵng) do tục đi săn hoẵng (từ pép đẻ ra pí cùng đồng âm). Trong đêm khuya ở rừng vẳng lên tiếng Hoẵng kêu (Hoẵng giác) đó là lúc con đực đi tìm con cái để bắt chước tiếng Hoẵng gọi bạn tình phải chăng vậy “pí” chỉ là 1 ống nứa tép mà véo von mà “bếp nhà sàn, tiếng pí thổi say mê” là thế?

Ngoài sáo còn có KHÈN…

 

 

Bài 51:

THƠ CA THÁI

thi ca thái

Xứ Thái, có thể nói là xứ sở của hát thơ (khắp xư).

Vốn thơ ca cổ truyền từ các tập biên niên sử “Quắm tố mướng” hoặc sử thi  “Tày pú xấc” cho đến các truyện thơ tình như Sống chụ son sao, Khun lú, Náng Ủa, Tản chụ xiết xương, sử thi chương Han….với các bài thơ, ca dao đều được dùng để “khắp” (hát)….

Bước đầu đã có làn điệu “lòng bản” và cách hát riêng cho mỗi loại bài thơ, xét theo hình thái sinh hoạt âm nhạc phân ra làm 2 hệ - theo Dương Đình Minh Sơn thì:

- Hệ tín ngưỡng “hát thơ mo” do giới mo then hát khi cúng tế lễ.

- Hệ dân gian: hát kể chuyện tự sự, hát thơ tình, hát ví, hát hò trên sông, hát ru, hát đồng dao……vv….

Ở người Thái 2 chữ “thơ ca” quả là đầy đủ và ý nghĩa “Thơ để giải bầy nỗi lòng, ca (hát) để ngâm vài lời thơ gửi đến những cõi lòng ai đó”.

Thơ Thái là 1 thứ “kinh thi” bản địa, hồn quê hòa đồng với thiên nhiên trời đất. Thơ dân gian Thái có 1 khối lượng đồ sộ với các truyện thơ, sử thi như đã nói ở trên đã trở thành các tác phẩm thơ cổ điển nổi tiếng.

Thơ đương đại của các tác giả Thái Sơn La (thời cách mạng xã hội chủ nghĩa) thường dùng lời thơ để hát (khắp xư) nói lên chí khí vươn lên của dân tộc mình, làm chủ bản Mường, cùng nhau đoàn kết các dân tộc anh em dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đất nước ngày 1 giàu mạnh - xin dẫn 1 số bài mới:

 

HÀO QUANG KHẨU CẢ

(tác giả tự dịch)

Từ xa xưa ông cha đặt tên Khau cả (1)

Là nói lên:

- Rắn hơn sắt thép, cứng quá kim cương giống gieo trồng mọi đất xanh tươi cho lúa chín hạt, quả ngọt nuôi người. Giặc Pháp muốn mượn oai hùng của núi, đặt trung tâm thống trị tỉnh ta và thành nơi diệt nguồn anh hùng đất nước.

Nhưng:

Khâu Cả là lò luyện con người gang thép chặt tan xiềng xích của thực dân, góp hun đúc những Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Lương Bằng, Tô Hiệu và bao chiến sĩ/ những trái tim của cách mạng tỏa khắp non sông: chặt tan xiềng xích của thực dân Pháp, phong kiến/ góp phần đánh thắng hai đế quốc to. Đồi Khâu Cả cùng sóng cao cả nước giải phóng mình, xóa phu, thuế, nguột cuông. Dựng chính quyền cùng cả nước Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc/ hào quang khâu cả vượt chín tầng/ mây như ánh sáng soi đường cho ta bay bổng.

Sơn La, 9/7/1998

Hoàng Nó

(Cầm Văn Lường - 1925 đã mất)- quê Chiềng Ban, Mai Sơn.

thi ca thái 


(1) đồi Khâu Cả: ngọn núi (đồi) ở giữa thị xã Sơn La, nơi trước 1945 Pháp xây dinh công xứ (tỉnh trưởng) và nhà tù liền kề.

Sau là trụ sở UBHC khu tự trị Tây Bắc, nay là trụ sở UBND tỉnh Sơn La.

 

ĐÔI BỜ THƯƠNG NHỚ

Mặt trời đi qua sàn nhà người thương

Hạt nắng còn vương bên thềm cửa sổ

Hoàng hôn đi mặt trời không rủ

Để anh buồn trong nỗi nhớ hoàng hôn.

Anh mượn gió gửi lời câu thương nhớ

Mộc mạc thôi, tiếng hát tự bao giờ

Mười sẽ quên và chín sẽ quên

“Sông Mã cạn bằng đĩa mới quên”

Chín lần quên để ngàn lần thương nhớ!

Anh là con thuyền trôi trong dòng sông đôi mắt

Để đôi bờ bên nhớ bên thương

6/1997

Hà Trường Giang (1950)

Quê huyện sông Mã - Sơn La

VÀNG VÀ THƠ

Một câu thơ, một hàng vàng

Cân coi thử, ai nặng hơn ai?

Nem công, chả quế ăn vội

Không hóc cũng cay!

Cà dưa, tương ớt nhai lâu hóa ngọt

Anh kiếm vàng chỉ bằng nước bọt

Tôi làm thơ mệt óc, mỏi tim

Cái gì giữ mãi hương thơm

Vàng bằng bọt dễ tan theo bọt

Thơ bằng tim, đậm mãi trong tim

Cầm Biêu (1920-1997)

Quê Mường Chanh - Mai Sơn

 

LỜI MẸ

Yêu nhau bằng lời nói

Mẹ bảo chưa đủ

Bằng mân khiêng cỗ nặng

Mẹ bảo cũng chưa no

Vội đón sau đón trước

Cành vướng sợi tơ lòng

Mẹ bảo!

Hãy lấy ngày làm gang để đếm

Lấy tháng làm sải để đo tấc lòng

Mưa to có cùng nhau hứng?

Mặt trời làm tấm gương soi

Soi vào khuôn mặt

Soi vào lòng dạ tim gan

Ốm đau, ai tránh khỏi đôi lần

Giầu nghèo có lúc cánh cửa kẹp ngón tay

Đắng, ngọt, chua, cay, nhạt…

Đầu lưỡi nếm cho rành

Tự đáy lòng mình “cân đong”

Xử sự công bằng

1983

Lò Văn Cậy (1928 - 1994)

Quê Sốp Cộp - Sông Mã

 

HOA RỪNG

Thấy em lượm bông vạt nương chân núi

Như đứng giữa dải ngân hà

Anh vứt bó cây, chạy ngay tới

Chẳng đợi em ưng ý

Anh cứ mà lượm theo.

Mới đầu anh lượm cây này, em lượm cây kia

Rồi lượm chung cây

Lượm chung cành

Lượm cả tay nhau.

Mặt trời bảo về, ta chưa muốn

Ta trốn mặt trời dưới rặng vừng bên nương

Tắm trong hương hoa vừng thơm ngát

Gió ngàn ru nghiêng ngả vừng xanh

Tia trời chiều vuốt ve áo hoa em lay động

Hàng cúc bạc long lanh

Ngực em mười đôi cúc bướm

Có mười đôi bóng anh lẫn mười đôi bóng hoa vừng

Ngực rực hồng tia nắng

Ngực ngấn đầy hương hoa.

Vương Trung (1938)

ÁNH CHỚP TRỜI XA

Mưa rơi trên núi Giảng?

Chớp lóe sáng chân mây!

Ai phơi gì sàn ngoài quên dọn. Mau dọn!

Cụ bà vừa nhắc cháu vừa than:

- Tháng 5, tháng trời buồn, không buồn

Tháng 6, lặng mưa dông - Sao dông (1)

“Rồng chọi rồng” ngày đêm không ngớt.

Cất tiếng cười hai cháu cầm tay

- Ánh lửa hàn nhà máy, Bà ơi!

(1) Tục ngữ: Tháng 5: trời buồn

Tháng 6: trời kiêng mưa

Sơn La 19 - 5 - 1979

Lò Văn E (1933 - 1995)

Quê Sốp Cộp - Sông Mã

NHỚ CON

Có điều gì sánh được

Mẹ nhớ con

Thương từ những lỗi lầm

Mưa lâm thâm mà lòng mẹ thành bão

Nắng lên rồi nỗi nhớ hóa là mây

Tình yêu của mẹ là trái chín trên cây

Để cho con bốn mùa hương vị ngọt thật đắm say

11 - 1992

Cầm Thị Phụi

(Phó chủ tịch HĐND tỉnh)

ĐÊM HỘI MÚA XÒE

Tiếng trống, tiếng cồng vang giục giã

Như chắp cánh niềm vui bay cao

Cả “Khuống” mường bỗng dưng nghiêng ngả

Với vòng xòe nhún nhẩy say sưa

Đôi chân thon thon quen theo lối nương.

Đôi chân bè đạp mòn lối ruộng

Quyện bên nhau rập rình

“Khắm xéo” quàng trên áo cóm

Tất cả rung lên, cả rừng hoa chao đảo

Cái dùi gỗ băm trên mặt trống

Rền như giông, như sấm

“Họa…họa…Huệ…Huệ…”

Cả vòng xòe cuồng lên

Theo nhịp trống, nhịp tim

Tung chân nhảy hết mình, hết sức

“Đàn bướm” cúc muốn bay khỏi ngực

Chiếc mũ nồi, cũng chực bay theo

Vòng xòe quay, quay mãi không ngừng

Lương Văn Tộ (1946)

Quê Sông Mã - Sơn La

CÂY BAN TRÊN RỪNG

(Tác giả tự dịch)

Ào ào bãi xoáy

Đá lăn, cây đổ

Thân sâng, gốc sở ngổn ngang

Một cây Ban đứng điềm nhiên

Cạnh lối lên nương làm cỏ

Hỏi giông, hỏi gió

Sao Ban kia vẫn bình yên phận thường?

Cây ban rằng: “hòa tình yêu”

Trắng trong tuổi trẻ

Chung thủy tận già

Lửa mường đất gốc, chưa thành than

(thì không thể chết

Gió dập thân, cành, chưa tan tành em vẫn tươi xanh)

Một cây Ban

Đứng trên nương

Lò Xuân Thương (1936)

Quê Púng Tra - Thuận Châu

CHIỀU BẾN VẠN                  (1)

Bến cũ đâu hỡi sông?

Bến ở trong lòng nước

Miệt mài ngày đêm chảy

Về Hòa Bình khơi xa.

Bản tình ca bất tận

Gập ghềnh đá nơi đâu?

Ở trong lòng nước ấy

Với biển hồ phẳng lặng

Xóa những dòng vách ngăn.

Và mai lên

Ngược xuôi

Thuyền đánh cá

Và chiều buông

Sương giăng tròn

Trăng xóa

Còi tàu vang xa, vang xa

Bến Vạn Yên 1995

Hoàng Bạch Long 1949

Quê Huy Thượng - Phù  Yên

(1) Bến Vạn Yên: Phố nhỏ Vạn Yên, bên bến Sông Đà, xã Tân Phong, Phù Yên ….xưa là Sông Đà ghềnh thác, nay là Hồ Thủy điện mênh mông.

KHOẢNG XANH

Gió Lào mang hơi lửa

Hun sém cả trưa hè

Cháy khét tiếng ve

Rừng tre trơ trụi lá

Con chim vội vã sà xuống khe trốn

Sợi nắng muốn chăng đan mặt cỏ

Nhưng chẳng sao, chẳng sao cả

Trái đất đã quen mùi khắc nghiệt!

Đến con kiến cũng còn phải ung dung thư thái

Miệt mài tha mồi về tổ

Ai như quả bứa chín vàng mơ

Trong trẻo giữa trưa hè

Thời gian nhòa vào im lắng

Một khoảng không trống vắng

Vỗ ào vào cánh xanh

Lò Vũ Vân 1943

Quê Bắc Yên - Sơn La

XUÂN BẢN THÀN

Tết

Ở bản Thàn

Cái vui

Sôi lên từ hũ rượu cần

Bụng trống

Vú chiêng

Rung lên

Cả mái sàn chao đảo

Đỉnh núi cao lúc lắc cái đầu

Măng vầu

Măng sặt

Dỏng tai đón mưa rơi

Xuân 1996

Lò Vũ Vân

BIỂN Ở THẢO NGUYÊN

Ở độ cao một nghìn năm mươi mét

Rất xa biển nên thèm nghe sóng biển

Mượn gió ngàn làm sóng vỗ lao xao

Ước có biển nên gom mây về làm biển

Biển Thảo Nguyên biển trắng vỗ mênh mông

Đảo là những ngọn thông, chóp núi

Cho thuyền chim đi về neo đậu

Thảo nguyên xanh đắm mình trong màn huyền ảo

Đưa ta về thời xưa cổ tích

Dưới đại dương lộng lẫy thủy cung?

Biển Thảo Nguyên chỉ trong trưa khoảnh khắc

Bỗng chốc tan - biển biến về đâu?

Ánh nắng vàng chuốt ngọc lên lá

Lại trong veo, ngời sắc Thảo Nguyên.

Thảo Nguyên Mộc Châu hè 1997

Lò Vũ Vân

NHỚ VỀ PHỐ VẠN

Chúng tôi dân tứ xứ

Gặp nhau ở nơi đây

Dựng nên một Phố nhỏ

Phố Vạn Yên, Vạn Yên (1)

Anh Phúc Kiến, Quảng Đông (2)

Tôi Mường Bi, Mường Động (3)

Còn chị hay mơ mộng

Theo chồng lên nơi đây

Là dân Nam Định đó (4)

Một dãy phố nhỏ thôi

Bao dòng đời đã chảy

Tụ về Phố nhỏ này

Nhớ bến Vạn thuở ấy

Thuyền đuôi én ngược xuôi

Ai đi xuống chợ Bờ

Ai ngược dòng Đà Giang

Lên Mường Chiên, Mường Ét

Dòng sông vẫn êm trôi

Nối phố nhỏ của tôi

Với bao bờ thương nhớ

Ơi bến Vạn, phố Vạn

Phố của chúng tôi đó

Mùa đông heo hút gió

Tết về câu đối đỏ

Tiếng pháo lại rộ vang

Tiếng chuông điểm đình Ang (7)

Tiếng trống vang đình Hán

Hồn thiên cổ bay về

Bản làng trong khói hương

Mùa hè nóng rát bỏng

Những cây phượng trước ngõ

Lại cháy đỏ màu hoa…

Nay phố đã đi xa

Chìm đáy nước sông Đà

Ôi phố núi nho nhỏ

Phố của chúng tôi đó

Vẫn cháy màu phượng đỏ

Trong lòng mỗi chúng tôi

Rồi một ngày không xa

Hoa phượng lại rực đỏ

Trên phố mới nguy nga

Tôi lại viết bài ca

Về bến Vạn, phố Vạn

Phố của hoa phượng đỏ

Thắm mãi bên sông Đà

6/1996

(1) Bến phố Vạn Yên (Tân Phong, Phù Yên)

(2) 2 tỉnh của quê gốc người Hoa

(3) Thuộc Hòa Bình quê người Mường

(4) Chợ Bờ (Hòa Bình), nay chìm dưới hồ

(5) Thuộc Quỳnh Nhai

(6) Đình Ang, Đình Hán là 2 ngôi đình thuộc xã Tâm Phong

Nhà thơ Đinh Tân (1942)

Dân tộc Mường

Quê Tân Phong, Phù Yên, Sơn La

 

 

CÁC DÂN TỘC Ở SƠN LA

Điều tra dân số 1/4/1999: Toàn tỉnh có 882.077 người (đến 1/4/2009 có 1.080.641 người). Có 12 dân tộc anh em.

Thái

482.985 Người

chiếm 54,7 %

Kinh

153.646 Người

chiếm 17,42%

Hmông

114.578 Người

chiếm 13,00%

Mường

71.906 Người

chiếm 8,15%

Các dân tộc khác

 

chiếm 6,73%

Trình độ dân trí tính đến 2002:

Tỉ lệ biết chữ 70,8%

Học sinh phổ thông 220.430 em

Giáo viên 10.209 người

Thầy thuốc (y, bác sỹ) 26 người/1 bệnh viện

 

LỜI CUỐI SÁCH

“Sơn La ký sự” gồm 51 bài tùy bút, hồi ức, thơ, sưu tầm, ghi chép về xứ Thái một thời NK đã sống, nhằm để con cháu, bạn bè, ai đó đọc xong “ờ Sơn La, người Thái nó là như thế…” để thêm yêu cái xứ sở “Sơn La âm u núi khuất trong sương mù” rồi “nước Sơn La, ma Hòa Bình” ngày xưa nó bí ẩn, lạ lẫm, đáng sợ làm sao?

Năm 1962 (vừa tái lập tỉnh) Sơn La mới có 18 vạn dân, chủ yếu là người Thái, sau 1975, nhất là sau 1986 người xuôi (Thái Bình, Hưng Yên…) lên ồ ạt, đến nay 2009 dân số toàn tỉnh 10.080.641 trong đó dân tộc Thái trên 48 vạn người.

Mọi phong tục tập quán kể cả tiếng nói chữ viết Thái đang bị “hòa nhập” hòa tan, bị lai ghép đã dần mai một. SOS là thế…

Để kết cuốn sách này, có lẽ hay hơn là nhờ Chế Lan Viên nói hộ:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!”

Góc thành nam Hà Nội 11.3.2012

NGUYỄN KHÔI

 

1 2 3 4

 

-- oo HẾT oo --

 

Sơn La Ký Sự

MỤC LỤC

1. Lời thưa

2. Bản quê yêu dấu

3. Cơm Bản (Văn)

4. Cơm Bản (thơ)

5. Canh Bon (thơ)

6. Ngủ Bản

7. Sơn La xưa

8. Sông Chó

9. Đám cưới Thái

10. Cầu vào Bản

11. Tiếng mõ trâu (thơ)

12. Núi Mường Hung - Dòng sông Mã

13. Bóng núi (thơ)

14. Nhớ Mường Hung (thơ)

15. Xuân biên cương

16. Chiều bản nhỏ (thơ)

17. Tắm ở bản

18. Lễ Tằng Cẩu

19. Tục đẻ ngồi

20. Nhà sàn bếp lửa (thơ)

21. Sông Đà hùng vĩ

22. Bến Tạ Bú (thơ)

23. Cây đào Tô Hiệu - Ai trồng?

24. Nhà sàn Thái

25. Gái Thái

26. Pí pặp (thơ)

27. Tên một số món ăn

28. Lẩu xá

29. Đường lên Tây Bắc

30. Cây Mắc Chai

31. Hoa Ban

32. Lịch sử nguồn gốc Thái

33. Mường trời, Mường người

34. Xửa cỏm, Váy Thái khăn Piêu

35. Quắm tố Mướng

36. Lời ăn tiếng nói

37. Táy Pú xấc

38. Thiết chế xã hội Thái

39. Khu tự trị Thái Mèo

40. Luật tục Thái

41. Quan chức và trí thức

42. Tang lễ Thái

43. Cổ tích

44. Đèo Pha Đin

45. Suối mó nước nóng

46. Lễ hội Lung ta

47. Du lịch Mộc Châu

48. Người bắn Hổ

49. Câu chuyện săn Voi

50. Xòe Thái

51. Nhạc Khí Thái

52. Thơ Ca Thái

 

Nguyễn Khôi (tên khai sinh : Nguyễn Kim Khôi)

sinh 1938, quê phố Đình, phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh..

NR; 259/39 phố Vọng – Hà Nội.

- Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội

- UV BCH Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội

- UV BCH Hội VHNT các Dân tộc Thiểu số VN (Khóa 2)

Chuyên viên Cao cấp, nguyên Phó Vụ trưởng Văn phòng Quốc hội Việt Nam

Các tác phẩm đã xuất bản:

- Trai Đình Bảng (thơ) nxb Văn Học 1995,vhtt 2000

- Gửi Mường bản xa xăm (thơ) nxb vhdt 1998 – Giải thưởng Hội VHTH các DTTS VN 1998.

- Trưa rừng ấy (thơ tứ tuyệt 100 bài) nxb vhdt 2005

- Bắc Ninh thi thoại (biên khảo) đã tái bản lần thư 3.

- Các dân tộc ở Việt Nam-cách dùng họ và đặt tên (biên khảo nxb Vhdt 2006.

- Cổ Pháp cố sự- 4 tập, 920 trang nxb vhdt, viết về cội nguồn nhà Lý.

- Có thơ in ở: tuyển tập thơ Việt Nam 1945-2000 (nxb lao động); tuyển tập thơ

Việt Nam 1975-2000, nxb Hội Nhà Văn; tuyển tập Văn học Miền Núi-nxb giáo dục1998; tuyển tập thơ Việt Nam thế kỷ 20 (nxb giáo dục-2005) , tuyển tập thơ Việt Nam 10 năm đầu thế kỷ 21(nxb Hội Nhà Văn 2010)vv…

Dịch thuật:

- Sống Chu Son Sao (Tiễn Dặn Người Yêu) – truyện thơ dân tộc Thái

- Tiếng hát làm Dâu (dân ca H’mông) vv…

Giải thưởng :

- Giải thưởng viết về 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, bài thơ ” Về Hà Nội”.

- Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Thủ đô 2008 cho Bộ sử Làng Cổ Pháp cố sự.