Người Của Một Thời

- tiểu thuyết -

Nguyễn Văn Thịnh

 

CHỊ TÔI

 

Quê tôi ở một làng ngay đầu Ô Đống Mác. Ông bà nội tôi sinh năm người con, nếp tẻ đủ cả, bố tôi là út. Người ta nói: Giàu con út, khó con út, hoặc: Giàu út ăn, khó út chịu, chẳng sai. Tuy ruộng vườn, nhà cửa, ông bà tôi chỉ thua có ông Chánh tổng trong làng, nên mới kết được thông gia với họ – ấy là ông bác cả tôi được làm rể nhà ông Chánh. Nhưng cả đời bố tôi sống trong thời tao loạn, nhà cửa, ruộng vườn, của nả có khi mang vạ vào thân! Cái cảnh bỏ của chạy lấy ngườichẳng phải riêng mình bố tôi từng chịu! Người dân lương thiện, hiền lành cứ như cây lau, cây sậy trước trận bão tố cuồng phong gió giật bốn bề...

Vậy mà bố tôi cũng vượt được  cơn sóng gió can qua. Người vẫn ví thân phận mình như mây trôi, bèo dạt. Người hài lòng với số phận, vì so với các cô, các bác tôi chỉ sống được tới quanh tuổi tứ tuần, thì sự được tồn tại tới tuổi cổ lai hy đã là thứ lộc trời mà người được thừa hưởng bở sự tu nhân, tích đức của ông bà, cha mẹ. Vì thế bố tôi chỉ là cha đẻ của hai anh em tôi, mà cả chục anh chị họ tôi cũng quây quần, hội tụ quanh bố tôi như một người cha thật sự. Cũng bởi bố tôi luôn lấy câu nhất con, nhì cháu chi phối mọi tình cảm và hành động của người...

Cho nên khi bố tôi qua đời, đứng bên chiếc quan tài với khói hương nghi ngút đầy nhà, buồn thương và ảm đạm, tôi chỉ biết khóc rống lên từng chặp và gọi: Bố ơi! Nhưng gần như suốt hai ngày bố tôi nằm đấy, lúc nào cũng vang lên tiếng khóc nỉ non, thảm thiết của các chị tôi. Bằng giọng khản đặc, các chị gào lên những tiếng gọi thân thương nhất với một con người: Cậu ơi! Chú ơi! Cha ơi! Mẹ ơi!... Tất cả chỉ là một người nằm đấy: Cha tôi!

Một bà chị cứ ti tỉ kể lể suốt ngày làm tôi càng thêm nẫu ruột:

- Ối cậu ơi! Mẹ con mất lúc con còn đỏ hỏn! Cậu nuôi con thay mẹ sớm chiều! Cậu ơi! Lúc nhỏ cho uống nước cơm, lúc lớn bát cháo cậu nhường cho con! Ới mẹ ơi! Mẹ cha con chẳng được nhờ, cậu thay cha mẹ lo cho con suốt đời! Ơi cha ơi! Chồng con chẳng được như người, bây giờ vắng cậu, ai người thương con! Ới mẹ ơi là mẹ ơi! Con chưa trả nghĩa một ngày, nằm sương, gối đất từ nay một mình... Ối cha ơi! Ối mẹ ơi!...

 

Bao nhiêu năm rồi, bây giờ nhớ lại một dĩ vãng xa xôi, những niềm vui và nỗi buồn xen quyện: những ngày bé thơ, anh chị em ríu rít, túm tụm với nhau dưới một mái nhà mà sợi dây ràng kết những đứa trẻ hồn nhiên ngây thơ ấy là một người cha mà cả đám trẻ vừa thương vừa sợ! Đám tang cha tôi đi trong cơn mưa tháng tám tầm tã và những lời khóc thảm thương của chị... tự dưng nước mắt tôi trào ra… Tôi thấy thương cha, nhớ chị...

Tôi biết rằng đằng đẵng cả chục năm trời, chị không giáp mặt với cha tôi bởi lỗi lầm của chị. Mỗi khi giỗ tết, chị từ quê lễ mễ mang ra thành phố con gà, thúng gạo... thì cũng chỉ nhỏ to trò chuyện với mẹ tôi ở dưới nhà. Bố tôi ngồi nhà trên hút thuốc, thỉnh thoảng đằng hắng lên một tiếng như báo hiệu sự hiện diện của người. Tiếng đằng hắng với âm thanh trầm lơ lửng trong không khí gia đình yên tĩnh và êm ấm nghe trang nghiêm và thương mến làm sao! Đến lúc cha tôi bệnh trọng, người nằm gần như bất động trên giường, chỉ còn đôi mắt long lanh, đưa đẩy nhìn những người thân thương lần cuối, chị tôi mới dám len lét tới bên giường nắm tay người. Người nắm tay chị trìu mến, mắt người chớp chớp, một dòng nước mắt lăn trên gò má, thấm thành một vết loang trên tấm gối trắng nhờ nhờ, người nói trong nghẹn ngào như thành tiếng nấc:

- Sao đời con khổ thế?!...

Tôi thường tự hỏi: Đời chị khổ vậy mà vẫn còn nước mắt để khóc sao?! Chị khóc cha tôi hay chị khóc cho chính cuộc đời của chị?! Ôi, thân phận người đàn bà mười hai bến nước... Chị tôi giữa cơn bão táp, mưa sa...

 

Chị là con cô lớn của tôi. Là chị nhưng lại thua em mấy tuổi. Chị sinh năm 1945 –  Cái năm Ất Dậu khủng khiếp ấy, mấy thế hệ đi qua, nghĩ lại vẫn kinh hoàng! Cha chị thất nghiệp, trốn phu, trốn thuế, bỏ nhà chạy tuốt vô Nam, bặt vô âm tín.

Ngày ông ra đi, mẹ chị lấy làm ngày giỗ hàng năm. Một thân góa bụa nuôi con, mẹ chị nhọc nhằn, thiếu đói, người cứ phù thũng lên như bịch nước. Cho đến một ngày anh con trai lớn mười ba tuổi chạy qua nhà tôi mếu máo:   

- Cậu ơi, mẹ cháu làm sao ấy!

Cha tôi vội vã chạy qua: Cô tôi nằm co quắp một góc giường, người lạnh tanh, bất động; đứa con gái miệng mút tùn tụt vào cái vú nhẽo nhèo, rồi lại èo ẹo bò quanh!

Đồng lương viên chức vào thời loạn ly mất giá, một gia đình hụt hẫng, một đàn cháu nheo nhóc, bố tôi chẳng thể cưu mang! Một bà quả phụ ở bên Chợ Đường Cái, mới sanh con không đậu, vừa tiếc con, vừa tiếc bầu sữa luôn căng tức cứ chảy ròng ròng, xin chị làm con, bố tôi chấp nhận. Người anh trai của  chị, mười ba tuổi mũi xanh vẫn chảy thò lò, bố tôi xin cho học nghề thợ máy, trước mắt cũng đủ ăn hai  bữa một ngày.

Trong cảnh túng đói và ngột ngạt, cả Hà Nội rùng rùng! Người ta ào ào rủ nhau đi phá kho thóc chống đói, cầm súng chống giặc ngoại xâm.

Và rồi thoát qua cơn đói, mới đủ rau cháo cầm hơi, Hà Nội đã cùng cả nước bừng bừng ngọn lửa kháng chiến trường kỳ.

Hằn trong đầu óc trẻ thơ chúng tôi, thời dĩ vãng xa xôi là một chuỗi dài những hình ảnh u buồ: xác người chết đói nằm co quắp, thảm thương nơi xó chợ đầu hè, tiếng lọc cọc của chiếc xe bò phủ chiếu, rủ xuống những mớ tóc dài rũ rượi quét lê trên đường phố, những thân người bầm dập, phơi mình bên những vũng máu loang lổ nơi gốc đa bến nước đầu làng, phố phường đổ nát, vườn ruộng hoang tàn, xóm làng xơ xác, quán vắng đìu hiu, góa phụ, trẻ thơ nháo nhác một bầy, lớp lớp những chàng trai tráng ra đi...!.

Gia đình tôi ly tán một thời rồi cũng tụ gom lại được. Trong số cả chục anh chị em, chỉ có một người anh con bác Hai tôi thất lạc, đi mãi không về! Lúc ấy anh còn ở tuổi thiếu niên, chừng đôi tám!

 

Dù cuộc đời có gian truân cay nghiệt đến đâu, tuổi trẻ vẫn dễ vượt qua, bỏ lại sau lưng quá khứ ngổn ngang, bừa bộn. Chúng tôi lớn lên tuy vất vả nhưng được hưởng tình cảm gia đình đằm thắm, ấm êm. Chị tôi thoáng đấy đã thành cô gái nhan sắc một vùng quê. Người ta bảo nếu chị sinh vào cửa giàu sang chắc là đẹp lắm. Nước da trời cho dầm trong lam lũ dãi dầu mưa nắng lại như sự pha hòa màu sắc tự nhiên đã tạo nên một làn da trắng nâu tươi mịn! Chị tôi tính hay e thẹn và lúc nào cũng như ngỡ ngàng trước cuộc đời này! Khi đôi mắt to tròn đen láy mở bừng ra ngơ ngác và đôi má ửng dần lên, người ta có cảm tưởng như trên khuôn mặt hiền hậu thoáng một áng mây buồn ấy vừa có ánh mặt trời một sáng ngày thu lại vừa có ánh trăng khuya bàng bạc. Chẳng phải chỉ là mấy cậu trai làng, có chàng trai đôi mươi nào không thấy lòng mình xôn xao lay động trước một người con gái thùy mị, u huyền...! Mối quan hệ gắn bó với đại gia đình tôi ở trên thành phố lại càng khiến các chàng trai quê e dè không dám mạnh dạn đến với chị tôi. Nhiều ông cả bà lớn trong làng ngấp nghé muốn chắp mối cho con trai họ, luôn tỏ ra quý mến, trọng vọng cha mẹ và anh em tôi mỗi khi chúng tôi về quê thăm chị. Đám nào cũng đánh tiếng qua bà mẹ nuôi của chị. Bà nói với cha mẹ tôi:

- Cháu tuy là con nuôi tôi nhưng là máu mủ của ông bà, tôi không dám quyết!

Cha tôi nói lại với bà:

- Tôi là cậu mà không nuôi được cháu, nhờ bà cho bú mớm, cháu mới nên người. Công sinh không bằng công dưỡng, tùy bà định liệu!

Người dặn chị:

- Đời cháu côi cút không may, nhờ gặp người hiền lương cho bú ẵm, được đến ngày nay là phúc nhà còn lớn, phải lấy ân nghĩa mà báo đáp người ta. Duyên phận cháu thế nào, cậu không ép uổng. Giàu sang có khi là tai vạ. Quyền thế chũng chỉ một thời. Chọn cửa nào hiền đức, ấm êm. Phận hồng nhan bước chân qua cửa, họa phúc còn do trời định liệu!

Chị lẳng lặng ngồi nghe...

Thời gian trôi qua một cách mệt mỏi theo những tiếng Vắt!... Vắt!... Họ!... Họ!... vang lên buồn tẻ trên những cánh đồng nay úng, mai hạn! Trẻ con mau lớn theo những đợt tuyển quân! Người lớn thấy mau gìa theo những đợt giải ngạch nghỉ hưu non!

Cuộc sống hồi hộp, nặng nề, âu lo và quẫn bách!

Nhưng rồi mỗi người phải có ngày đứng trước bước ngoặt của đời mình. Bà mẹ nuôi của chị nói với bố mẹ tôi:

- Đã bao người  đến hỏi, cháu nó chẳng chịu một ai. Dường như nó chỉ ưng cái anh... nhà chỉ một mẹ một con. Người hiền lành, tốt nết. Cả làng chẳng mất lòng ai! Nhà trước kia thì khá, bây giờ cũng đủ bát ăn. Cái thằng khoẻ mạnh, siêng năng mà hiếu thảo. Mẹ con tần tảo nuôi nhau. Song chỉ có điều nhà này cha nó trước đi … lính ngụy, chết trận! Hồi cải cách bị qui phú nông. Sợ rằng sau này nó khổ! Bao nhiêu con cái ông này bà nọ, nó chẳng ưng cho! Nó phải duyên phải số hay sao ấy!

Trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu, bố tôi mới hỏi:

- Cái điều cốt yếu là ông bà, cha mẹ nó có làm điều gì thất đức hay không?

Bà phân trần:

- Ông nội anh ta ngày xưa là lính cụ Đề Thám, thất trận, chẳng thấy về! Bố anh ấy cũng chỉ một mẹ một con! Thời Pháp, thanh niên lớn lên ở vùng tề, không theo du kích thì cũng bị bắt vào lính thôi. Không chịu đi xa, ở nhà thì làm lính dõng. Một sáng ra mở cổng làng, bị mìn bẫy nổ tung! Từ ấy mẹ góa con côi. Nhà có hơn mẫu ruộng nên bị qui phú nông. Mẹ con chăm chỉ siêng năng, giờ cũng được vào hợp tác. Anh này chỉ học xong lớp 7 rồi ở nhà với mẹ, nhất nhật cần cù chí thú…

Bố tôi bảo:

- Đời người ta ở bầu thì tròn, ở ống thì dài, ai mà cưỡng lại được thời thế! Nếu các cháu nó thương nhau thật, bên đó êm ấm trong ngoài, bà chấp thuận thì tôi cũng đồng ý với bà!

Thế rồi từ quê lục tục kéo ra chạm ngõ, ăn hỏi và đám cưới được tổ chức ở trong quê. Cả họ nội nhà tôi từ thành phố về mừng ngày vui của chị. Thời đó đám cưới cũng đơn sơ thôi, nửa đời sống mới, nửa theo nếp cũ. Nhìn hai chữ BÌNH – YÊN được cắt lồng trong một trái tim đỏ rực nấp dưới cánh bồ câu trắng tung bay trên nền trời xanh, anh em tôi cầu mong được sự trùng hợp may mắn như vậy cho đời chị. Thật ra, hồi nhỏ, mọi người vẫn quen gọi là chị Gái, rồi thành tên, chứ đâu có chứng sinh, chứng chỉ gì. Lớn lên, bạn bè thôn xóm đặt cho chị cái tên Bình, chị cũng thích thế, rồi thành tên thật. Chị tôi về nhà chồng lúc 25 tuổi. Con gái quê như vậy là đã muộn màng.

Cuộc chiến trên bình diện toàn khu vực, bước vào những năm 1970, như những lò thiêu lớn : Ở miền Bắc là cuộc chiến tranh phá hoại trên không, trên biển cực kỳ gay gắt. Ở miền Nam, cuộc chiến tranh giành đất, giành dân quyết liệt đến mức mất còn. Các cuộc chiến tranh phối hợp ở Lào và Campuchia càng mở rộng. Lại lớp lớp những người trai tráng ra đi. Người ta quy định chỉ tiêu tuyển quân cụ thể cho từng huyện, xã. Những người có chức quyền không thiếu gì cách cho con cái mình lánh né việc đi vào nơi mũi tên hòn đạn. Cũng có những người gương mẫu nhưng số đó giảm dần theo mức độ ác liệt của chiến tranh. Con cái dân dã thì biết đường nào mà chạy? Và có chạy thì ẩn nấp vào đâu? Chỉ có một con đường ra phía trước, nơi ấy bom rơi đạn nổ, khói lửa mịt mù như Hỏa Diệm sơn!.

Hai vợ chồng anh đưa nhau ra chào bố mẹ tôi. Bữa cơm tiễn biệt sơ sài. Trời đông lạnh, lòng người càng buốt giá. Bố tôi hỏi:

- Gia đình con một có được miễn không?

Chồng chị trả lời:

- Cũng chẳng ai biết luật lệ thế nào. Mẹ con tìm đến hỏi ông Chủ tịch xã, ông ấy mắng cho: “Con một là với gia đình liệt sĩ, thương binh. Thằng con nhà bà phải đi mà rửa tội cho cha nó”! Thôi, chết cũng chẳng sao, chứ sống để nghe người ta nhiếc móc cha ông mà thấy nhục.

Mẹ tôi và chị, hai mợ cháu nhỏ to ở trong buồng. Chị ngồi yên lặng, những giọt nước mắt rơi lã chã trên chiếu. Mẹ tôi lắc đầu vẻ thương hại.  

Ít lâu sau khi anh rể tôi lên đường ra trận. Bà mẹ nuôi của chị từ quê lên thăm bố mẹ tôi. Bà và mẹ tôi thù thì chuyện gì đó ở dưới bếp, nét mặt tươi tỉnh lắm. Tối hôm ấy, mẹ tôi nói với bố tôi:

- Tội nghiệp cái con Bình! Vợ chồng ở với nhau cả năm chẳng có chuyện gì, thế mà ngày chồng lên đường, nó lại mang thai… Thôi, cũng mừng cho chúng nó, chớ lỡ bề nào khéo là tuyệt tự...

Theo đà  cuộc chiến leo thang, người Mỹ đem máy bay ra thả bom ở miền Bắc càng khốc liệt. Cuộc tọa đàm ở Paris cứ như một trò chơi: lúc thì tưởng như hòa bình đã trong tầm tay! lúc thì nó bị đẩy xa ra mịt mùng bom đạn! Người Hà Nội kéo nhau đi sơ tán. Phố phường thưa thớt. Lòng người vừa lo lắng, vừa căm hận. Máy bay Mỹ ném bom rải thảm lên các phố phường Hà Nội, Hải Phòng. Chị tôi ra đón cha mẹ tôi về quê sơ tán. Dù sao thì ở đó cũng xa những căn cứ quân sự, nhà cửa rộng rãi, có hệ thống hầm hào chắc chắn và nhất là ở gần Hà Nội, tiện việc chúng tôi đi về tiếp tế và chăm lo bố mẹ tôi.

Lúc này chị tôi đi đứng rõ là dáng dấp của người phụ nữ mang thai. Nhưng ở thôn quê, trong thời chiến tranh bóng dáng người đàn ông vắng tanh, trăm việc đều trong tay người phụ nữ từ trong nhà cho đến ngoài đồng ruộng. Nhà chỉ còn có một mẹ già, tranh thủ lúc còn đi lại được chớ nay mai nằm ổ ai người cáng đáng! Vất vả vậy mà chị tôi vẫn tươi vui, có lẽ cái mầm sống đang nẩy trong mình làm chị tôi chứa  chan hy vọng.     

Một tối thứ bảy, chúng tôi qua thăm mẹ tôi và nghỉ tại đây. Đêm khuya, máy bay Mỹ lại kéo cả bầy ra ném bom Hà Nội. Bầu trời đỏ rực lên. Tiếng bom rền ầm ầm như sấm.

Từng đám lửa phừng phực rọi lên nhấp nhoáng trên trời đan xen nhằng nhịt các tia lửa đạn đủ các loại, nổi bật lên là  những cục lửa sáng lòa của tên lửa lao đi vùn vụt. Các tiếng nổ to, nhỏ chát chúa của đạn bom âm vang như tiếng cối xay khổng lồ. Bỗng từ trên bầu trời cao tít bùng lên một cục lửa, ngay lập tức cục lửa đó bị xé ra thành nhiều mảnh, tan tác tả tơi, vùn vụt lao xuống đất… Vang lên những tiếng hò reo:

- Trúng rồi!

- Máy bay Mỹ rơi rồi!

Mấy người vội từ trong hầm ào ra, trên đầu những mảnh lửa nhỏ to rơi lả tả. Thấp thoáng mờ mờ một bóng trắng bồng bềnh, đu đưa. Cùng lúc tứ phía nghe tiếng thét lên:

- Dù! Dù! Phi công Mỹ nhảy dù!

Mấy anh em tôi lao ra cổng. Chị Bình chạy theo giúp chúng tôi mở cổng. Người ta xô nhau chạy huỳnh huỵch trên đường làng, tiếng ai đó hô to, dõng dạc như mệnh lệnh:

- Dù phi công Mỹ rơi phía đồng thượng làng mình!

Đám đông cả đàn ông, đàn bà, người lớn, trẻ con vừa chạy, vừa hét, vừa la, vừa gọi nhau í  ới, bất chấp cả sự hiểm nguy của mảnh bom rơi, đạn lạc. Mấy bà lạch bạch chạy sau cùng, thấy anh em chúng tôi đứng lấp ló sau vòm cổng, một bà thét lên vừa như thúc giục, vừa như trách móc:

- Không đi mà bắt giặc lái, còn đứng đó làm gì?!

Chúng tôi như bị cuốn theo, vớ vội chiếc đòn gánh, cây gậy tre... chạy theo ra phía đồng làng. Lúc này tiếng loa vang dậy khắp đầu thôn, cuối xóm:

- Các anh chị em dân quân, du kích, thanh niên nam nữ! Toàn thể nam, phụ, lão, ấu làng ta quyết không để tên giặc lái máy bay Mỹ trốn thoát! Dù có chạy lên trời bà con ta cũng lôi nó xuống đây trị tội!

Văng vẳng phía sau, tiếng bà cụ mẹ chồng chị tôi réo gọi:

- Con vợ thằng Yên… Bụng mang dạ chửa đi đâu?!

Chị tôi đi sau quày quả, vai vác cây đòn càn, nói to lên như để đáp lại lời gọi đầy lo âu của bà:

- Chém cha quân ăn cướp!

Người ta chạy đã xa tít trên đồng, mấy anh chị em tôi còn lẹt đẹt mãi sau. Phần vì chị tôi ậm ạch với cái bụng bầu. Phần vì chúng tôi là người xa lạ, đường xá không quen... Cả một cánh đồng tiếng người la quát râm ran... Cái dù trắng nằm phơi giữa đồng mà thằng giặc lái chạy trốn đi đâu?! Người ta tỏa ra tứ phía sục sạo khắp bụi bờ. Đêm tối nhờ nhờ dưới những ánh sao khuya nhấp nháy. Phía Hà Nội ánh lửa bốc rực lên nhưng khói đen còn mờ mịt! Người ta không dám đốt đèn đuốc. Thỉnh thoảng có ánh đèn pin loáng lên rồi tắt lịm ngay.

Đang đi trên đường mòn, chị tôi rẽ tắt qua một gò mộ. Cái gò này cao, trống lốc. Chúng tôi đứng nhìn tứ phía và nghe tiếng người lao xao. Chị tôi bước xuống một bờ ruộng cao nối vào gò mộ, bỗng chị tôi ngã lộn xuống góc bờ cùng lúc tiếng chị la lên:          

- Ối giời ơi!  

Và tiếp đó là tiếng ồ ồ chu chéo, không ra tiếng người, không ra tiếng thú, cùng với một bóng người cao lớn lênh khênh nhô lên từ bờ ruộng rồi lăn bịch về phía bên kia. Tiếng chị tôi thất thần:

- Giặc lái đây rồi!

Và không biết bằng sức mạnh nào chị cũng lao bật từ bờ bên này qua bờ ruộng bên kia. Chiếc đòn càn trong tay chị đập bình bịch. Anh em tôi cũng la toáng lên:

- Giặc lái đây rồi!

- Giặc lái đây rồi!

Cùng lúc chúng tôi nhảy ngay về phía chị. Chúng tôi thấy một đống đen lù lù ở góc bờ, dường như là một người cao lớn, hai tay ôm đầu chúi sâu xuống đất, đít chổng lên trời, miệng rống lên những tiếng ú ớ ồ ồ, không rõ nó kêu hay nó khóc! Trong đêm tối mù mờ, chúng tôi chẳng kịp nghĩ gì. Như một phản xạ phòng thân, bằng những thứ có trong tay, chúng tôi phang túi bụi như phang vào con rắn, con chuột ở góc bờ. Chẳng hiểu những nhát gậy ấy đập vào đâu: vào bờ? vào ruộng? hay vào cái đống thịt nằm chình ình ở đấy?

Người đâu mà đổ xô đến rất nhanh và đông như vậy? Có ai đó gạt phắt chúng tôi ra, chị tôi ngã quay lơ, miệng vẫn còn la ơi ới mà chẳng ai ngó tới! Người ta chen lấn đè lên cái đống thịt lù lù như xác con trâu. Tiếng một người đàn ông nói lớn:

- Hãy bắt sống lấy nó! Ai đánh nó là vi phạm chính sách tù binh!

Lẫn với những tiếng la hét, chửi bới ầm ĩ ồn ào, tiếng thằng giặc lái rên ư ử… Nó đứng lên, cao lênh khênh như cái cột nhà. Đám đông xô đẩy. Cái cột nhà cao đen trùi trũi di động. Tôi phải thét lên:

- Tránh ra, kẻo đạp vào người ta!

Trong nhập nhoạng bóng đêm, đám đông người như một mảng bè trên sông trôi đi, mang theo những tiếng la hét xa dần.

Mấy anh em tôi dìu chị về nhà. Người chị lạnh ngắt. Dưới ánh đèn lù mù, mặt chị tái xanh, nhợt nhạt. Chị ghé vào tai mẹ tôi thì thầm điều gì. Mẹ tôi hốt hoảng cuống quýt bảo phải đưa chị tới trạm xá xã ngay. Chúng tôi đặt chị lên cái chõng tre, luýnh quýnh khiêng đi.

Trong đêm tối ầm ì tiếng máy bay, tiếng cao xạ gần xa, tiếng còi hụ lúc báo động lúc báo yên... Ở đầu làng, người ta đẩy thằng phi công lên chiếc xe tải quân sự chở về trên, thì ở gần đấy, anh em tôi cột chiếc võng cáng trên hai chiếc xe đạp, bước cao, bước thấp chở chị tôi lên bệnh viện huyện, cách đó cả chục kilômét...

Ở bệnh viện huyện, người ta  chẩn đoán chị tôi bị Nhau bong non do bị chấn động mạnh! Cái thai không thể giữ được. Chị tôi băng huyết tưởng chết. Bao nhiêu dịch truyền vào người, huyết áp vẫn không lên được. Người ta động viên chúng tôi cho máu. Trong cơn thập tử nhất sinh biết tính làm sao! May mà có hai anh em tôi đồng nhóm máu, nên lấy được nửa lít máu truyền cho chị mới tỉnh lại dần…                                                           Cái thai nhi đẻ non trắng bệch, đã chết từ trong bụng mẹ! Chúng tôi phải dấu mẹ con chị mãi, không dám nói thật cái thai nhi đó là một đứa con trai!

Trong khi chị tôi ốm yếu, xanh xao, còn nằm trên bệnh viện thì ở làng quê, đủ các thứ tin truyền cứ loang ra, không biết từ đâu mà ai cũng tin là sự thật:

- Anh xã đội trưởng Quỷnh đã bắt sống được thằng phi công Mỹ!

- Nếu không có anh xã đội trưởng lấy thân mình che chở cho thằng phi công thì  người ta đã đánh chết nó rồi!

- Con vợ thằng Yên ở đâu nhảy bổ vào đánh hôi, bị nó đạp cho đến nỗi cấn thai!

Ông Chủ tịch xã là cha anh Quỷnh, đứng giữa đám đông đang hào hứng tại sân đình hùng hồn tuyên bố:

- Bà con thôn dưới, thôn trên không nề nguy hiểm, khó khăn, quyết tâm bắt sống giặc trời Mỹ. Dù đau thương căm thù biết mấy ta cũng phải thể hiện lòng nhân đạo, khoan hồng. Phải bảo vệ nó bằng được vì nó sẽ là vốn quý cho ta đấu tranh ttrên bàn hội nghị. Chiến công này là của bà con toàn xã. Nhưng công đầu là của lực lượng dân quân, du kích xã nhà!

Mọi người hồ hởi hoan hô ông và thán phục con ông.

Mấy hôm sau, một tờ báo lớn đã đăng hình ảnh hai cha con ông tươi cười trước dân làng kèm theo những lời đáp cuộc phỏng vấn chớp nhoáng của phóng viên (PV) với anh xã đội trưởng (XĐT):

- PV: Trong đêm tối mù mờ, cả một cánh đồng mênh mông lại dưới lưới lửa đạn hiểm nguy như vậy, làm sao anh đoán trúng hướng di chuyển của mục tiêu?

- XĐT : Tôi biết là bọn giặc lái Mỹ nó được học hỏi chính  quy, bài bản nên rất mưu mô xảo quyệt. Nó không dại gì dấu mình trong những mục tiêu lộ liễu. Nó biết lợi dụng địa hình vì thế tôi không sục vào những bụi rậm mà triển khai sang hướng khác!

- PV: Bọn giặc trời này đã gây nên những tội ác lớn lao với bà con ta như vậy, làm sao anh có thể kiềm chế được sự phẫn nộ của mình và của bà con?          

- XĐT: Khi tôi phát hiện được mục tiêu liền hô hào anh em hợp đồng tác chiến. Tên giặc dù có ngoan cố nhưng cũng phải khiếp sợ trước lực lượng dân quân, du kích và quần chúng nhân dân đông đảo. Nó run lên và ú ớ xin tha tội chết. Một số bà con căm phẫn dùng gậy gộc đánh đập nó, tôi đã kịp thời lấy thân mình che cho nó và kiên trì giải thích cho đồng bào rõ chính sách tù binh, đặc biệt là với bọn giặc lái Mỹ này!

Chẳng mấy lâu sau, Nhà nước có sắc lệnh tưởng thưởng cho xã huân chương Chiến công hạng hai và một chiếc hạng ba cho anh xã đội!...

Chị tôi về nhà, người xanh lướt vì mất máu, đi lại lẩy bẩy, gầy rộc hẳn đi và vẻ mặt đầy nét khổ đau! Trong lòng chị đã tan nát cả một niềm hy vọng! Bà mẹ chồng chị trông còn khổ sở, suốt ngày rền rỉ:

- Con ơi là con ơi!

Bà thương chị? hay thương con bà?!

 

Anh Quỷnh thời mới lớn cũng thích chị Bình tôi. Bố anh thời kháng chiến chống Pháp là du kích xã, sau ngày hòa bình ông làm xã đội rồi lên làm Chủ tịch xã. Anh Quỷnh chỉ học đến lớp 5 rồi bỏ học vì cái tật nói lắp của anh làm cả thầy trò trong lớp không thể nín cười mỗi khi anh bị gọi lên trước lớp trả bài. Anh lớn dần lên không ai để ý vì cái cố tật ấy làm anh nhút nhát, ít dám nói chuyện với ai. Anh lụi cụi làm việc một mình nên có dáng người vạm vỡ, hiền lành. Anh đến nhà chơi với chị Bình mà chỉ ngồi nín lặng, vẩn vơ, đôi lúc buột miệng nói ra điều gì thì chị tôi lại quay đi, kín đáo bụm miệng cười làm dòng tình cảm của anh đứt đoạn! Có thể là anh cũng yêu chị Bình tôi, nhưng đó chỉ là mối tình câm, nên dù anh có miệt mài đeo đuổi bao lâu thì mối tình ấy vẫn dậm chân tại chỗ! Mấy bà, mấy cô trong xóm lại đem cái chuyện anh đến “trồng cây nêu” ở nhà chị tôi ra kháo với nhau như câu chuyện làm quà lúc họ túm năm, tụm ba nơi đầu xóm lúc đình làng! Bà mẹ anh nghe được, xót con, tự ái, nói chỏng cho bõ tức:

- Con tao đâu phải đui què mẻ sứt! Nhà tao đâu phải nghèo hèn! Cửa nào con tao không vào lọt? Lấy vợ chọn tông, lấy chồng chọn giống! Cái ngữ chẳng biết tông giống ở đâu, có các vàng bà cũng “đếch” vào!

Rồi đùng một cái, ông bà Chủ tịch cưới ngay cho cậu con trai trưởng của mình cô con gái ông Chủ tịch xã bên, bạn cùng nếm mật nằm gai với ông thời trai trẻ. Chuyện phong thanh đến tai chị tôi, chị đã khóc nhiều. Không phải chị tiếc cho duyên số bẽ bàng, mà chị tủi thân tủi phận trời đầy chị thân côi cút!.

Anh Quỷnh từ ngày lấy vợ, vẻ mạnh bạo tự tin hơn. Anh nói bớt cà lăm chỉ trừ khi anh tức khí chuyện gì. Anh còn dám trêu ghẹo phụ nữ, dùng cả những lời tục tĩu làm các cô gái làng đỏ mặt chạy biến đi. Có lẽ anh muốn trả thù cho cái thời trai xoan cứ phải ngậm miệng dằn lòng không dám thổ lộ can tràng! Anh cày cuốc khoẻ và tham gia du kích. Có bố anh là cây cột cái nên người ta dễ dàng giao cho anh chức “thôn đội” rồi lên “xã đội”. Là nòng cốt của địa phương, nên những đợt tuyển quân, anh đều được yêu cầu giữ lại. Thế là công việc lớn nhỏ của cả cái xã này: lo chi viện tiền phương, lo đảm bảo hậu phương, hai cha con anh bốn tay chèo chống. Kể từ cái ngày bắt sống được thằng phi công Mỹ đem về tấm huy chương đỏ chói luôn trưng giữa trụ sở Ủy ban, làm vẻ vang cho cả xã, hai cha con anh càng có danh giá trong một xã ngoại thành hầu như chỉ toàn những ông già, bà cả cùng với những đàn bà, con gái...

Lớp thanh niên trong xã cùng đi nghĩa vụ với anh Yên, lác đác có thư báo tử trở về. Thư gởi về huyện. Huyện gọi xã lên bàn việc trao giấy báo tử về từng gia đình, không trao liền một lúc dễ gây xáo động, hoang mang cho đợt tuyển quân sau. Cứ dăm ngày lại có một vài gia đình được mời lên Ủy Ban thông báo tin buồn và bàn việc tổ chức lễ truy điệu với thân nhân. Cả xóm thôn nháo nhác, tin đến nhà ai là cầm chắc cái chết cho con em mình. Nhưng không nhận được tin tức gì của người thân thiết ở nơi tuyến lửa, nỗi bồn chồn lo lắng, suy đoán vẩn vơ còn đáng sợ hơn.

Chị tôi vẫn vắng tin chồng. Thôn trong, xã ngoài có vài người trở về với thân mình tiều tụy, xác xơ : thương tích! bệnh tật! tâm thần!...

Người ta xì xầm kháo nhau: đợt ấy cả tỉnh thành lập một tiểu đoàn, chỉ luyện tập ở hậu phương ba tháng rồi đưa quân thẳng vào chiến trường theo phương châm “vừa đi đường vừa huấn luyện”. Đơn vị hành quân vào tới Khe Sanh thì bị B.52 dập trúng đội hình! Cả tiểu đoàn tan tác! Những gia đình có giấy báo tử suốt ngày tỉ tê than khóc nỉ non: vợ khóc chồng! mẹ khóc con! chị khóc em!… Các đoàn thể nườm nượp ra vào ủy lạo, ai nấy mặt cứ đăm đăm, có người sùi sụt! Cũng cảnh chồng con ra đi không về mà nhà vắng lạnh, ai chẳng tủi thân, nhưng lại hoảng sợ khi nghĩ tới ngày mai đoàn người kia kéo đến nhà mình.

Chị tôi và bà mẹ chồng ngơ ngẩn, không biết ngóng đợi cái gì! Nỗi lo sợ, trống vắng hoang lạnh trong lòng. Biết hỏi ai bây giờ? Ai người biết? Ai người không biết? Mọi người đều kín như bưng! Chị tô rũ rượi, đi làm về lại vào buồng thút thít! Chị không dám nghĩ, lỡ nghĩ dại thì mang tội! Bà mẹ chồng cũng đâu ngủ được, đêm đêm bà thắp hương trên bàn thờ cúi lạy gia tiên phù hộ độ trì cho một giọt máu duy nhất còn lại trong dòng họ. Rồi bà ra sân, thắp hương khấn cầu trời đất. Bà ngửa mặt lên trời: Trời cao vòi vọi, vài vì sao xa mờ tít tắp nhấp nháy nhìn bà, có phải là sao bản mệnh con bà còn sáng? Bà cúi xuống chân, đất dày thăm thẳm, những giọt nước mắt khô kiệt của bà rơi xuống thấm được tới đâu?

Những gia đình liệt sĩ dần dà rồi họ cũng chai lỳ, chấp nhận. Họ còn được mối an ủi: vậy là chồng con mình còn một chỗ an nghỉ, chờ ngày yên bình để được đón về nơi quê cha đất tổ! Còn những gia đình như chị tôi thì mối lo sợ cứ gậm nhấm sự kiên trì. Không ai nói ra những suy nghĩ của mình nhưng mỗi ngày lại nảy ra một suy đoán càng nhức nhói hơn: Ừ, có thể thoát qua trận B.52 ấy, nhưng người chiến sĩ nơi sa trường, trận mạc bao nhiêu?! Trong chiến trận, đâu hiếm người mất tích: hay là chết đau đớn nơi bờ bụi góc rừng? hay là tan xác vì trái bom, trái pháo? Có thể sa cơ bị bắt rồi bị đày đọa, tù đày? và nhỡ ra, lỡ dại dột đào ngũ, đầu hàng? Người ta đồn đại ở huyện bên, tỉnh nọ có anh chàng đào ngũ trốn về nhà, vợ giấu nuôi trong buồng béo trục béo tròn. Đến khi máy bay nó dội bom, nhà cháy, chạy ra không được, chết thui trong buồng. Rõ là “cháy nhà ra  mặt chuột”! Chết nào cũng là chết. Chết như vậy thà chết nơi chiến trận còn hơn...

đời làm sao tránh những kẻ độc tâm, độc miệng. Có ai đó đặt điều nghi vấn: Sao mẹ con thằng Yên cứ lầm lũi lánh né mọi người? Người ta quên rằng từ ngày cha anh chết, từ ngày gia đình anh bị qui là phú nông trong cải cách ruộng đất, mẹ con anh cô thế, có ai là người mặn mòi, chia sẻ nỗi đau?! Mới chỉ ngót năm nay, từ ngày anh Yên ra tiền tuyến, những ngày lễ lạt là có vài ông, bà, anh chị, chính quyền, đoàn thể ghé thăm gia đình bộ đội. Nhưng mấy tháng nay vắng lặng. Mẹ con chị tự an ủi nhau: chắc là họ bận bịu thăm hỏi các gia đình liệt sĩ...

Một sự nghi vấn không biết tự đâu, nó đã trở thành lời xầm xì và mối nghi ngờ ngày một loang ra. Làm sao mà có chứng cứ được nhưng từ một suy luận cố chấp bấy nay: xuất thân từ gia đình như vậy khó mà có được sự chịu đựng, trung thành! Chỗ này, chỗ nọ năm bảy người túm tụm than thở cùng nhau, họ kể lại những kỷ niệm về con em họ và khi chia tay, họ an ủi với nhau bằng niềm tự hào cố hữu: Chỉ có gia đình mình mới chí cốt vậy thôi! Nghĩ như vậy, nỗi đau thương của họ được xoa dịu phần nào.

Mấy hôm này loáng thoáng có người ghé nhà bà. Khi là bà hàng xóm, lúc là cô gái mới lớn nhà bên, có khi là anh du kích hay là một ông lão nhà mãi đầu đình. Hình như họ muốn dòm ngó cái gì. Họ xộc thẳng vào nhà bà tự nhiên, họ sục xuống bếp, họ ngó vào buồng bà, buồng chị lơ láo như tìm kiếm, có khi họ quanh ra sau bếp, ra cả tới chân đống rơm mục ở góc vườn. Lúc đầu, mẹ con chị mừng rỡ, tưởng có người tới được chia sẻ nỗi lòng. Nhưng mấy người chỉ chuyện trò vài câu đưa đẩy rồi lại quày quả bỏ đi. Bà già chân thật không hiểu ra điều gì, thân bà góa bụa từ thời son trẻ, có ai là người mặn mà san sẻ với bà? Nhưng chị tôi linh cảm được sự khác thường. Chị thật thà hỏi họ:

- Mẹ con tôi chỉ biết quanh quẩn từ nhà ra ruộng rồi lại từ ruộng về nhà. Ông bà, anh chị có biết thêm tin tức vì của chồng tôi và mấy anh em?

Có người thông cảm, yên lặng lắc đầu. Có người nói xa xôi bóng gió:

- Chà, thanh niên bây giờ có ba bảy loại. Có người xông pha mũi tên hòn đạn. Có kẻ mới xa hơi vợ đã không chịu được, lẩn trốn về nhà sống như con chuột!

Chị tôi đã hiểu họ nghi chồng mình. Chị nói lại với mẹ chồng, bà sợ hãi, run rẩy:

- Có thật không con?

Chị tôi nghẹn ngào:

- Con không muốn phải sống tủi nhục suốt cả đời mình lại đến đời con!

Bà lẩy bẩy đi đến bàn thờ, bà lầm rầm nói với chồng bà:

- Lạy ông sống khôn thác thiêng phù hộ độ trì cho thằng Yên mạnh chân khoẻ tay, da sắt mình đồng, thoát cơn binh lửa…

Bà gục đầu trên bàn thờ nức nở. Bà nghĩ đến cả một đời lẻ loi đơn chiếc của bà. Bà nhớ tới những nỗi tủi nhục và những lời thị phi dai dẳng mà thằng con của bà đã phải hứng chịu từ khi nó còn đỏ hỏn… Bà không muốn mất con! Bà không muốn con dâu bà góa bụa như bà! Bà muốn dòng máu của chồng bà cứ lưu truyền mãi… Nhưng bà cũng không muốn dòng họ nhà bà để tai để tiếng trong cái làng này!

- Ối giời cao đất dày ơi!

Không nén được lòng mình, bà buột miệng và ngước mặt lên. Bà giật mình: bóng một người đàn ông vạm vỡ lù lù đứng giữa nhà bà... Bà đã nhận ra cái bóng quen thuộc ấy là anh Quỷnh.

Bao nhiêu năm nay, gần đây anh xã đội Quỷnh mới bước chân vào lại cái nhà này. Ngày xưa anh rụt rè ngượng ngập bao nhiêu thì bây giờ anh lại tự nhiên chủ động bấy nhiêu. Ngày xưa anh chỉ dám nói nhát gừng khi có một chị Bình thì bây giờ anh ăn to nói lớn, đi lại đùng đùng và cười khạch khạch trước mặt mọi người. Anh ra vào nhà chị tôi lúc sớm, lúc trưa, lúc chiều, lúc tối tự do như ở nhà mình. Con chó không dám cắn! Ở quê nuôi chó để cho vui chớ mấy ai dám nuôi chó dữ. Đã chẳng có câu “chó dữ mất mặt chủ” đó sao. Nhà đơn côi, lâu lâu có người ghé vào là quý lắm, nuôi chó dữ thì ai thèm tới lại còn bị tiếng chê cười! Thành thử con chó nhà chị tôi dễ quen hơi bén tiếng với anh.

- Cúng bái gì mà khói hương nghi ngút thế này?

Anh bô bô hỏi trước sự im lặng của chủ nhà. Rồi anh nói một câu bâng quơ không hiểu anh động viên hay anh trách móc:

- Mình mà không quyết tâm thì có thần phật nào làm hộ!

Bà cụ se sẽ cúi chào anh rồi bà lánh mặt: để cho con mẹ Yên nó tiếp ông xã đội! Ông ấy quyền thế lắm! Con bà chưa biết thế nào...

Chị Bình ra bàn rót nước mời anh Quỷnh. Anh ngồi trên chiếc tràng kỷ phía ngoài, chị ngồi đối diện phía trong. Chiếc đèn hoa kỳ nhấp nháy hắt bóng chị tôi lên tường. Chị Bình nỗi lo cho chồng, nỗi sợ anh xã đội, chẳng biết nói chuyện gì. Lâu lắm, giờ đây anh Quỷnh mới có dịp một mình ngồi ngắm chị tôi. Cuộc đời mỗi người giờ thay đổi khác rồi. Anh đang là người quyền thế có uy. Chị tôi đang như chiếc bóng chập chờn. Những tình cảm xa xưa làm lòng anh dịu lại, nhìn chị tôi ái ngại, anh bỗng thốt lên:

- Tr... ô… ng… tr… ô… ng…  Bình gi... ố… ng… gi… ố… ng… thiếu phụ Nam Xương!

Lâu lắm rồi anh mới lúng túng và nói cà lăm như vậy! Chị tôi tuy ít học nhưng chuyện thiếu phụ Nam Xương, người lớn, trẻ con mấy ai không biết. Chị dồn dập hỏi anh:

- Vậy là chồng tôi vẫn còn! Anh có chắc không?

Anh ngồi thừ người trên ghế . Chị tôi nói nhỏ hơn, nửa trách móc anh nửa tủi thân mình:

- Hay là anh nói gở cho tôi?!                                  Biết là mình lỡ ví von không đúng cảnh , anh ngượng ngùng đứng dậy đi những bước nhẹ nhàng ra cổng... Chị tôi nhìn theo anh thắc mắc bồn chồn...

Anh Yên ơi , anh có biết sự yên lặng của anh đáng sợ biết chừng nào? Bây giờ nó đang làm cuộc sống của mẹ anh, của vợ anh thêm nặng nề  và hơn nữa, nó là sự khởi đầu cho những mối oan nghiệt đeo đẳng suốt đời chị, đời anh...

 

Hiệp định Paris ký đầunăm 1973. Cả miền Bắc đã yên được tiếng máy bay gầm rú nhưng ở miền Nam, ở Lào, ở Campuchia lửa chiến tranh vẫn còn ngùn ngụt. Lớp tuổi mười tám, hai mươi chưa đủ, lớp tam thập, tứ thập nặng gánh thê nhi cũng phải ra đi.

Tôi đã ngoài ba mươi tuổi, đang làm kỹ sư ở một nhà máy lớn cũng được gọi lên đường. Mẹ tôi thắp nén nhang trên bàn thờ, nghẹn ngào khấn vái:

- Cầu xin Trời, Phật, ông bà phù hộ cho cháu nó ra đi chân cứng đá mềm, tránh được bom rơi đạn lạc, đi đến nơi về đến chốn trọn vẹn an lành!

Cha tôi mắt đỏ hoe vừa sịt mũi vừa dặn tôi:

- Thời tao loạn, thân làm trai khó tránh nơi rừng gươm, giáo, mác. Gươm ngắn giáo dài, mong con biết vận dụng tùy lúc tùy nơi. Phúc đức tổ tiên ông bà sẽ che chở cho con!

Dù rằng cái khí thế chiến thắng cũng tạo cho mọi người một niềm tin nhưng thực sự là sức người đã kiệt. Người ra đi nườm nượp mà mấy ai trở lại! Người ở nhà thắt lưng buộc bụng mòn mỏi đợi chờ.

Cũng may là tôi chưa có vợ con nên ra đi nhẹ gánh.

Đơn vị tân binh chúng tôi đóng quân ở miền đồi núi trung du. Toàn là lính già! Người ta gọi đó là lính thực binh: đủ ngành, đủ nghề, đủ phong cách, nhiều anh quen nếp khệnh khạng của ông chủ gia đình, tác phong luộm thuộm, sửa cho đúng quân phong, quân kỷ chưa biết đến bao giờ. Cán bộ từ cấp tiểu đội trưởng trở lên đều có sẵn khung rồi. Tôi được chỉ định làm tiểu đội phó vì xem ra tôi còn thuộc vào loại trai trẻ và nhanh nhẹn. Các thao tác quân sự tập tành cũng đơn giản thôi, chủ yếu là mấy động tác lăn lê bò toài cơ bản, cách sử dụng súng trường tự động và súng AK, đêm đêm hành quân leo đồi dốc với bao cát và ba lô gạch. Còi nghỉ giải lao chưa dứt, chiến sĩ ta đã cụm lại rít thuốc lào sòng sọc. Còi tập trung đến lần thứ ba, các tiểu đội còn gọi nhau í ới. Anh trung đội trưởng mặt non choẹt, nói như bất lực:

- Các bố tập tành thế này thì sớm phủi chân lên bàn thờ ngồi lắm!

Chiến sĩ ta tỉnh bơ đáp lại:

- Ngồi đó lại yên thân, khỏi phải lo đủ việc!

Tập tành chừng hai ba tháng, chúng tôi được xếp vào đội hình tiểu đoàn bộ binh chiến đấu đưa thẳng ra tiền tuyến.

Đường phía bắc xe đi công khai giữa ban ngày. Lính ngồi trên xe và người hai bên đường vẫy nhau hò reo ầm ĩ. Những nhà ga đổ nát. Những chiếc cầu gãy sập chỏng chơ. Những bến phà ùn tắc hối hả, ồn ào…

Càng vào sâu Khu Bốn, cảnh vật càng tan hoang, dấu tích phố phường chỉ còn là những đống gạch nổi lên giữa mấy mái nhà chơ vơ, xiêu vẹo. Những khu trọng điểm càng chằng chịt những hố bom khủng khiếp. Tới Nghệ An, xe đi lên hướng Tây, qua khu vĩ tuyến 17… Từ đây lại nghe tiếng máy bay trinh sát ì ì, ro ro suốt ngày đêm. Máy bay phản lực từng tốp gầm rú dội bom dọc tuyến đường mòn. Có khúc được đi xe. Có khúc hành quân bộ... Cả tháng trời, chúng tôi tới bắc Tây Nguyên.

 

Cái nắng ở miền cao nguyên này gay gắt như đổ lửa. Những rừng dầu ngùn ngụt phả hơi nóng trên đất sỏi cát hắt lên mặt người rát rạt. Từng cơn gió nóng ào ào rứt tung những chiếc lá dầu tàn úa trên cành, bay rơi lả tả trên nền cỏ khô héo quắt queo, đâm xen lơ thơ những ngọn cỏ xanh phơ phất làm tôi chạnh nghĩ tới sự tồn tại vĩnh hằng của sinh vật trong cái khắc nghiệt của thiên nhiên... Nó cũng có cái gì giống như chúng tôi đây...

Cả trăm người âm thầm, tản mạn lánh nắng trong khu rừng le thấp lè tè, lòng dạ đói meo. Bụng rỗng cồn cào. Cái gió nóng và nắng như vắt kiệt nước trong người. Đường tắc! Phía trước, một tiểu đoàn biệt kích đổ dò, đánh nhau ì xèo. Nằm lại đây năm ngày rồi, chưa biết lúc nào đi được. Nước phải hà tiện từng giọt, đi xa một hai tiếng đồng hồ mới tìm được con suối cạn. Từng cặp lui cui đào từng hố sâu tới nửa mét, chờ cả giờ cho nước rỉ ra, múc từng bát nước đổ vào bọc nilon khiêng về. Thực phẩm lĩnh nửa tháng, ăn chưa tới mười ngày đã hết. Gạo hết, ăn đậu xanh thay gạo. Canh lá nhạt thếch. Ruột nóng và háo không chịu được. Quân ta tỏa ra lùng sục. Ba người trong tiểu đội tôi đi đâu ba ngày nay tìm chưa thấy! Đã đói lại lo nỗi giặc, nỗi mình! Chung quy cũng chỉ tại  cái ông già làng chết tiệt! Đã 45 tuổi đầu, đang làm Chủ nhiệm hợp tác xã mà cũng bị điều vào lính theo lệnh tổng động viên, lúc nào cũng cái điếu cày kè kè như vật bất ly thân.

- Tao có thể vứt mẹ “cái ấy” đi chứ tao không thể bỏ cái này!

Ông vừa dứ dứ cái điếu lên, vừa tuyên bố như đóng đinh trước mọi người như vậy.

Công việc hậu cần, bếp núc thì ông siêng năng, xăng xái, nhưng việc quân quả thì đã có mấy chú em trẻ khoẻ nó lo. Ông nhanh trí và có tài chống chế. Hành quân đêm, vừa tới trạm, vẫn ba lô trên vai, ông lủi ngay vào gốc cây, bật lửa rít thuốc lào. Trời tối đen, trên đầu máy bay trinh sát ì ì. Cảnh giới trạm thét lên:

- Tắt lửa! Chết cả bây giờ! Bắt lấy nó!

Mọi người đổ xô lại. Ông thét toáng lên:

- Đứa nào? Lủi đi đâu rồi? Giết mẹ nó đi!

Mồm ông sặc múi thuốc xông ra. Tôi ghé tai ông giận dữ:

- Ông định giết chết tất cả đấy à?

- Ơ ! Cái anh này… Dơ bỏ mẹ!

Ông cãi và cun cút lủi đi...                 

Nhưng cái mục nuôi quân thì ông hăng hái. Tới trạm nghỉ nào ông cũng lùng sục tìm các loại rau, loại lá có thể nấu canh. Mì chính, mắm ruốc ông nêm thoải mái. Có nhắc nhở ông phải phân bố cho đều kẻo hết nửa chừng, ông tặc lưỡi:

- Thực túc binh cường! Tới đó sẽ lo!

Mà ông lo thật. Ông cũng lăng xăng đi đây đi đó ngoại giao, săm soi kiếm cái này, đổi cái khác, có khi xin xỏ, có khi chỉ trời mới biết nhưng cũng không ai xoi mói làm chi, miễn có cái ăn là được. Ông lo cho cả tiểu đội chứ đâu chỉ mình ông. Lúc túm tụm cán bộ, chiến sĩ chén chè, điếu thuốc, ông ngửa mặt lên trời phà khói quánh đặc, lim dim đôi mắt, chỉ chỏ mọi người, hứng chí:

- Ở đây tớ là lính. Nhưng nếu về quê, chỉ cần các cậu nhìn thấy bầy con gái nhà tớ như hương như hoa, bảo đảm cậu nào cũng năn nỉ xin hầu trà, hầu thuốc tớ!

Anh tiểu đội trưởng còn trẻ, giọng khu Bốn, tức khí nói móc ông:

- Con gái bố đẹp hết chê, mê thật! Nhưng chỉ sợ nó giống cha, đẻ con một bề toàn giống đái ngồi thì làm sao tụi tôi đi tuyển quân cho được?!

Bị cụt hứng và từ đó ông ghét cay ghét đắng anh tiểu đội tưởng, có ăn ông không thèm gọi, thậm chí tới mức nghe lệnh ông tảng lờ đi. Ai trách được ông lớn tuổi nặng tai. Tiểu đội trưởng biết mình lỡ hố, có gì cần truyền đạt lại nhờ tôi.

Bây giờ ông dắt hai đệ tử đi đâu? Biết tìm ở đâu trong cánh rừng bạt ngàn này?! Liệu có làm sao?! Biệt kích? Thú dữ? Lạc tít vào rừng sâu? Hay là đi mò ăn vào nương rẫy, bị sập hầm chông, bãi ná? Hay các bố rủ nhau ngược đường đào ngũ? Ngày nào cũng phải đi tìm rồi lên đại đội, tiểu đoàn báo cáo. Cả tiểu đội mệt lả.

Tôi nằm trên võng bải hoải, lim dim. Có liên lạc tiểu đoàn gọi tiểu đội trưởng và tôi.

 

Tiểu đoàn bộ, người đứng ngồi lố nhố. Chúng tôi bước tới… ngạc nhiên, ngỡ ngàng nhìn ba đồng đội phờ phạc, ỉu xìu đang đứng giáp vào nhau, ở cổ tay còn lòng thòng sợi dây dù. “Ông già làng” vừa nhìn thấy chúng tôi bỗng miệng méo xệch, nước mắt ròng ròng nửa hờn nửa tủi nói:

- Tôi vì lo cho tập thể mà hai hôm nay bị nó trói như thân tù tội thế này!

Ông giơ tay lên, sợi dây dù kéo tay hai đệ tử của ông cũng đưa lên.

Tôi chưa kịp hiểu ra sao thì một người trong số mấy người lạ mặt đứng gần đó chạy bổ đến tôi và reo lên:

- Cậu Thành!

Tôi định thần nhìn lại rồi cũng reo lên:

- Anh Yên!

Chúng tôi ôm chầm lấy nhau trước sự ngạc nhiên, mừng rỡ, hân hoan của mọi người.

Việc đầu tiên là anh Yên bảo mấy người của anh cởi trói cho đồng đội của tôi. Ngay lập tức tôi thấy ông già làng chạy tới ghé tai Tiểu đoàn trưởng thì thào điều gì. Tiểu đoàn trưởng gật gù, mặt tươi dần lên. Một lúc sau, ông đến bên anh em tôi và nói:

- Chúc mừng các đồng chí! Thôi, chiến sĩ chúng tôi sai, chúng tôi nhận khuyết điểm, sẽ kiểm điểm và xử trí sau. Bây giờ mời các đồng chí lại đây!

Ông kéo chúng tôi tới một gốc cây lớn, tán lá xum xuê, mát mẻ – Đó là bản doanh của Tiểu đoàn bộ. Tất cả quây quần quanh ông và hai anh em tôi. Nhưng chúng tôi còn gì mà đãi khách?! Anh Yên rút từ trong túi ra bịch thuốc lá cuốn. Chẳng cần mời, tất cả mọi người xúm lại, vân vê mỗi người một điếu, bịch thuốc hết vèo! Anh Yên nhìn chúng tôi thông cảm. Chờ cho vị thuốc ngấm vào ruột, vào gan mọi người, Tiểu đoàn trưởng nhìn anh em, nhìn tôi, nhìn anh Yên, rồi chỉ vào ba vị tù binh mới được phóng thích, ông nói:

- Không ai bảo mấy người đó đi làm công việc ấy cả! Nhưng anh em đây phần lớn là tân binh, nhiều người lớn tuổi, thích nghi chậm, quen cách làm tùy tiện, lại rơi vào cái thế cùng…

Ông ngắt lời cùng lúc dừng mắt nhìn tôi.

Tôi biết là mình phải tiếp lời ông:

- Đường xa, mang nặng lại ỷ vào khả năng vượt trạm nên tắc lại đây mấy ngày nay là thực phẩm cạn kiệt! Ăn đậu xanh thay cơm chịu không nổi, ruột gan ai cũng cồn cào!

Nét mặt anh Yên buồn buồn, suy nghĩ một lát rồi anh nói với Tiểu đoàn trưởng của tôi:

- Trạm của tôi là kho dự trữ chứ không cấp phát trực tiếp cho khách. Nhưng thôi, các đồng chí cứ theo tôi!

Một đoàn gồm đại diện tiểu đoàn, đại đội, trung đội và mỗi tiểu đội hai người chuẩn bị lên đường. Ông già làng nhanh nhẩu nói:

- Để ba anh em tôi cùng đi, đây đến đó cả nửa ngày đường, dù sao anh em tôi cũng đã từng đi, đường xa khỏi sợ lạc!

Ông nói cũng có lý, Tiểu đoàn trưởng gật đầu.

 

Về tới trạm kho thì trời tối lâu rồi. Anh Yên lo ngay việc tổ chức chiêu đãi chúng tôi. Cháo gà. Cơm không độn. Thịt lợn muối nấu canh khoai mì, xào mướp, bí ngô. Lại có cả hũ rượu cần. Lần đầu tiên lính chúng tôi được thưởng thức cái thứ rượu mới chỉ từng được nghe kể như trong chuyện cổ tích ấy. Anh Yên giải thích:

- Rượu này nấu bằng bắp (ngô) do anh em chúng tôi tự túc!

Chúng tôi được bữa no say. Mấy anh nổi hứng văn nghệ. Thơ, chèo, hát hò ầm ĩ… Nồi, soong, nắp vung , ca, bát... khua lẻng xẻng. Không còn phân biệt chủ, khách nữa. Ông già làng cầm cái cần rượu mút một hơi dài, phơi bày gan ruột:

- Hôm trước, ba đứa tôi bị các anh trói gô, cột vào mấy gốc cây kia chẳng khác gì thân con chó! Hôm nay lại được đãi đằng như thượng khách thế này. Thế mới biết  cuộc đời lên voi xuống chó, ai lường?!

Phấn chí, ông kể tiếp:

- Cuộc đời dại, khôn chưa biết thế nào! Tôi rủ hai thằng này đi tìm cái gì về cải thiện cho tiểu đội. Cứ đường mòn lớn rồi rẽ vào đường mòn nhỏ. Mỗi chỗ rẽ, tôi chặt một cây làm dấu. Mãi rồi cũng tới một nương sắn. Sướng hơn vớ được vàng! Hì hục nhổ một lúc, mỗi đứa một vác lặc lè. Lúc trở ra, trời tối dần, mất dấu, lại cứ lần theo dấu chân người. Khuya, vào tới kho này, lần mò một hồi trúng kho đồ hộp. Phen này cả tiểu đội sướng mê ly! Đêm tối rờ rẫm biết đâu mà chọn, cứ thùng nào dễ bê thì vác, toàn đồ ăn được cả thôi. Lâu lâu có một ông đi vòng vòng rọi đèn pin vu vơ. Lại lần ra theo đường mòn. Mệt và đói nhưng ráng đi xa kẻo lộ. Sáng ra tới bờ suối, mừng rơn. Nạy thử một thùng, toàn sữa bột! Sướng điên! Sữa bột uống với nước suối thả ga. Chẳng ai thèm nghĩ tới mấy bó củ sắn bỏ đâu. No rồi mới thấy rã rời chân tay. Tôi bảo đi sâu vào chỗ khuất mà nghỉ. Hai thằng này lần khân: “Cho thư thả chút đã, trời còn sớm chán, chỗ này khuất nẻo lắm rồi!”. Thế là  cả lũ lăn ra… ngủ thiếp đi lúc nào không biết! Lúc nghe thấy tiếng cười rúc rích mới choàng tỉnh dậy. Mặt trời rọi xuống suối chói con mắt. Một toán con gái xúm quanh nói cười líu lo. Nghĩ là con gái trong bản ra nương, bọn này làm quen, tán tỉnh. Chẳng ai biết tiếng ai, chỉ cười. Mình làm dấu hỏi đường. Mấy cô em vẫy đi theo. Có cô vượt chạy trước. Loanh quanh vòng vo lại vào gần đến kho. Biết là bị lộ, bọn này quẳng thùng đồ bỏ chạy kẻo bị bắt thì chết. Tiếng tù và báo động rúc lên. Bộ đội và dân bủa vây, tóm gọn!

Anh Yên giải thích:

- Bà con dân tộc ở đây cảnh giác cao lắm. Nhìn tướng các ông, nếu không phải là biệt kích cải trang thì cũng là dân “B quay” thôi! Đừng giận anh em nhé! Vì mấy ông ngoan cố, khai báo loanh quanh, làm sao tin được?            

Rồi anh quay qua nói với Tiểu đoàn trưởng của tôi:

- Tôi chỉ là thủ kho, không được tự quyền xuất. Sớm mai, đồng chí cùng tôi lên Ban chỉ huy trạm xin ý kiến.

Hôm sau, sương sớm còn dày đặc tù mù, mấy người vội vã ra đi. Đến quá trưa mới về. Anh Yên cho lệnh xuất hàng. Ai nấy mừng rơn. Sau khi ăn uống no nê, anh Yên tặng riêng cán bộ tiểu đoàn, đại đội, trung đội mỗi người một gói khô nai và một bịch thuốc lá cuốn. Ai nấy hỉ hả. Lúc này anh Yên mới nói với cấp trên của tôi:

- Tôi là anh rể chú này. Ông cậu tôi coi vợ tôi như con. Anh em tôi lâu ngày mới gặp nhau. Xin thủ trưởng thông cảm cho chú em tôi ở lại đây ít ngày, anh em tâm sự, rồi tôi sẽ gửi chú ấy theo đường dây đặc biệt, có thể kịp đến trạm tập kết cùng đoàn.

Tiểu đoàn trưởng còn đang lưỡng lự thì ông già làng đã đứng bên từ lúc nào, nói xen vào:

- Phải đấy thủ trưởng ạ! Cái công của anh em chú Thành là đã giải nguy cho cả tiểu đoàn mình, có châm chế một chút cũng được thôi. Tôi tin là cái nhà anh Thành này không tụt tạt đâu!

Tiểu đoàn trưởng gật đầu, nhắc tôi:

- Cậu ráng theo cho kịp đoàn để đảm bảo quân số đấy nhé!

Tôi chia tay với đoàn. Mọi người vác nặng mà mặt mày hả hê. Ông già làng nắm tay anh em tôi dặn với:

- Hẹn ngày chiến thắng ta sẽ gặp nhau đấy nhé!

Tôi không ngờ rằng từ đấy cho đến nay, mấy chục năm rồi, tôi chưa gặp lại một ai trong tiểu đoàn tân binh ngày ấy. Sau này, tôi có may mắn được đi đó, đi đây, thường vào Nam ra Bắc, nhiều lần ra nước ngoài, tới cả những nước từng là đối phương trên chiến trận một thời, được đến các thành phố lớn, được ở những khách sạn cao tầng 3-4-5 sao. Nhưng nhiều khi tôi vẫn nhớ đến con đường hành quân ngày ấy, đến những ngày đói khát lòng dạ nôn nao, đến những con người từng chịu chung một nỗi gian lao, mỗi người một cá tính nhưng vẫn gắn bó, đỡ đần nhau. Như ông già làng ấy, tôi thật sự có lúc rất bực và tức với ông, nhưng chưa bao giờ tôi ghét ông hoặc nghĩ xấu về ông. Tôi vẫn thầm cảm ơn ông, cảm ơn đồng đội đã cùng nhau chung sức, chung lòng, chia sẻ cho nhau những ngọt bùi, cay đắng. Tôi cầu chúc mọi người cũng được may mắn như tôi.

Tôi có được một thời gian dưỡng sức ngoài sự mong đợi của mình. Anh em tôi tha hồ trò chuyện với nhau. Thiệt tình đang trên đường hành quân vất vả và thiếu thốn, nay được dừng chân trong không khí thanh thản, vô tư, ngày ăn no đủ, tối tối nhìn bầy gà như chim đậu san sát trên các cành cây, muốn cải thiện, cứ việc rọi đèn pin, cầm sào mà đập. Tôi nghĩ là đời lính coi kho tươi lắm, và anh tôi đã gặp may.

Khu vực kho mênh mông, có cả chục nhà chứa hàng lẩn khuất trong rừng, có kho nằm sâu trong hang đá. Chừng hơn chục người rải rác canh kho. Ban ngày anh em chia nhau đi làm rẫy hoặc vào các buôn, sóc xây dựng cơ sở, có khi làm cả việc tải hàng xuất nhập. Mỗi ngày, lúc nào rảnh rỗi anh kể cho tôi nghe về những năm tháng đã qua:

“... Tôi được chọn làm liên lạc cho Tiểu đoàn độc lập D.308, trùng phiên liệu với Sư đoàn F.308 chủ lực nổi danh. Sau này tôi mới biết là một hình thức nghi binh. Có thể vì thế mà trên đường hành quân, đơn vị tôi bị địch theo dõi sát. Vừa tới Khe Sanh, tôi được lệnh chuyển công văn tới Bộ chỉ huy tiền phương đóng cách đó gần một ngày đường. Khi đang ở đấy chờ chỉ thị mang về, tôi nghe tiếng bom B.52 nổ vang rền. Mới tới, tôi chưa biết định hướng. Mỗi tốp B.52 có ba chiếc – ba loạt nổ liên hồi. Lâu lâu sau lại một chập, một chập... Gần hết một đêm, núi rừng rung chuyển. Sớm hôm sau, một cán bộ gặp tôi:

- Đồng chí cầm chỉ thị này về gấp. Có gì trắc trở, tìm đến đơn vị gần nhất đưa công văn này, chúng tôi sẽ nhận được tin.

Có một giao liên đưa đường tôi trở lại. Dọc đường về vẫn nghe tiếng bom đạn ì ầm mỗi lúc một gần. Gần tới điểm đóng quân, thấy hàng bầy trực thăng bay lượn cùng những tiếng đại liên, rốc két ầm vang. Anh giao liên cho biết đơn vị tôi đã nằm gọn trong trận địa B.52 đêm qua. Anh dẫn tôi quanh quẩn tìm được một đơn vị của quân khu, anh giao tôi cho họ. Mấy hôm sau, tôi được bổ sung vào đơn vị hậu cần mới được điều đến làm nhiệm vụ thu dọn chiến trường. Cậu đã đi qua những dải rừng bị B.52 tàn phá: nó trống trơn, hoang vắng! Nhưng nếu cậu đến đó ngay sau khi xảy ra trận oanh kích ấy, tôi không hiểu cậu có chịu đựng nổi không? Đến bây giờ tôi vẫn còn cảm giác ghê rợn đến mức hoảng loạn khi mình bơ vơ, trơ trọi, không còn thấy dấu tích của một ai trong cái mùi bom đạn khét lẹt pha lẫn mùi tử khí vương vất trong những mảnh áo quần, đồ đạc văng khắp đó đây trên mặt đất, trên những cành cây đổ gẫy”...

Tôi thấy rờn rợn người, nằm trên võng đu đưa, nghe tiếng con sâu, con dế nỉ non, lâu lâu con chim H’tớp gáy lẻ tìm bạn, nghe buồn thê thảm...

Tôi đi theo anh xuống buôn. Nhà dân ở rải rác ẩn mình dưới các lùm cây bên sườn đồi, triền núi. Những ngôi nhà sàn lúp xúp tả tơi, tạm bợ. Có bạn đường, có người tâm sự, con đường dài ngắn lại…

“… Một sự ngẫu nhiên, tôi từ lính chủ lực thành lính địa phương. Đơn vị coi như xóa sổ! Có một số người may mắn cũng tấp vào chỗ này, chỗ nọ. Ai biết đâu mà tìm. Người đã chết hoặc người mất tích cũng như nhau thôi! Chẳng cần thư từ làm gì. Cuộc chiến này biết đến bao giờ. Cậu tưởng đời lính hậu cần, coi kho là yên ổn lắm sao? Nghĩ cũng tội cho cô ấy ở nhà! Dù có thế nào tôi cũng chẳng trách đâu! Giá được thằng cu ấy cho bà cụ, bà cũng mát lòng mà tôi cũng yên tâm!”.

Mấy người dân đi rừng gặp anh, mừng lắm. Đời sống bà con còn khổ cực. Đàn ông chỉ một chiếc khố che thân. Đàn bà mặc váy, ở trần. Mấy cô gái mới lớn khoác trên mình một chiếc áo bộ đội, bởi các cô đã biết ngượng ngùng khi các anh lính trẻ cứ nhìn chằm chắm vào ngực mình. Hôm ấy trong buôn có hội. Năm bảy nhà chụm lại dưới vòm cây kơ nia ăn uống, hát ca. Lễ hội sơ sài, nghèo và đạm bạc nhưng có âm sắc riêng của núi rừng Tây nguyên là tiếng cồng  ngân vang và những bài hát vui bên hũ rượu cần. Tôi thán phục anh Yên vì anh nói tiếng dân tộc giỏi quá! Anh còn hát những bài ca dân tộc líu lo, các chàng trai và cô gái cười rộ lên tán thưởng...

Chúng tôi đang trên đường về. Nắng chiều Tây Nguyên trải vàng rực trên dải rừng dầu. Tiếng cồng cứ âm vang như theo chân chúng tôi. Lác đác những cánh lá dầu vàng, đỏ nằm rải rác đó đây gợi tôi nhớ tới những chiếc lá bàng khô cong nằm phơi trên hè phố vắng của Hà Nội vào tiết thu đông. Anh Yên dắt tôi rẽ vào ngôi nhà mồ vắng lặng. Trên ụ đất là mấy cái nồi trong còn chứa gạo. Một con gà thấy bóng người, nhảy tâng tâng và kêu lên kẹc kẹc vì bị cột chân không chạy được! Một tượng gỗ đẽo hình người phụ nữ ngồi tựa cằm trên đôi cùi tay buồn nhìn xa xăm. Trong ngôi nhà sàn lỏng chỏng lơ chơ mấy vật dụng hàng ngày... Vừa đi anh vừa nói với tôi:

- Không biết lúc nào thì mình thành người gác rừng như thế này?!

Anh chỉ vào một ụ đất cao chơ vơ như một gốc cây:

- Nếu nằm trúng ụ mối, chỉ cần một đêm là sạch! – Anh nói như than thở:

- Lính chiến đấu đâu phải quanh năm trận mạc. Chỉ có mùa chiến dịch thôi. Lính hậu cần quanh năm bận rộn. Người ta đánh, mình phải tiếp hàng. Người ta nghỉ thì mình nhận hàng. Đủ việc, từ coi kho, thồ hàng, áp tải, giao liên, sản xuất, làm cả anh dân vệ nữa. Thám báo, biệt kích nó lùng sục hoài, nhiều khi đơn phương chiến đấu, chết bỏ xác trong rừng không ai hay... Chúng tôi ví mình như cái thứ lính tạp...

Tôi hỏi anh hát bài gì mà trai gái vui thế? Anh hát lại bằng tiếng dân tộc với những tiếng ê... a... luyến láy, điệu đàng, rồi anh dịch cho tôi nghe. Tôi vẫn nhớ một khúc hát mộc mạc mà đắm đuối, thiết tha:“Cái cây giữa đường người ta đốn – mình đốn! Sợi dây giữa đường người ta bứt – mình bứt! Khúc củi giữa đường người ta bửa – mình bửa! Quả trứng trên ổ người ta dùng – mình dùng! Nam nữ xuân thì người ta yêu – mình yêu!”.

Tôi cười khoái chí, bảo anh:

- Vậy là anh tán gái có hạng rồi đó!

Anh nói nghiêm túc:

- Chơi cho vui thôi. Con gái dân tộc họ thương mà chân thật lắm. Bập vào là chết. Thứ nhất là chẳng ai muốn suốt đời ở rừng! Thứ hai là muốn ở yên thì đừng có dại, phải được lòng dân, léng phéng người ta nghĩ con trai Kinh đến cướp con gái bản, còn ai bảo vệ cho mình! Cậu chớ có tặng vòng, tặng nhẫn cô nào. Họ mê mình lắm. Họ nhận có nghĩa là họ ưng lời cầu hôn của anh. Giỡn chơi là không được. Trước khi tôi về đây, có một anh thủ kho khéo tay, cứ rảnh rang là lấy vỏ đạn làm nhẫn, làm vòng đủ loại mang tặng lung tung. Họ ưng, họ tin, họ cho “đổ nước” và thế là để lại một “bộ đội con” trong bụng! Cấp trên biết vội điều đi! Cả bản đòi đi theo! Không được họ thù vì họ không ưa chuyện gì lừa dối. Họ không cho bộ đội vào buôn nữa. May mà có ông già làng là người cách mạng, phải nhờ có uy tín của ông mới giúp cho mình gây dựng lại tình cảm từ đầu. Cho nên anh em ở đây vẫn phải bảo nhau: Khuyết điểm gì thì còn châm chế, chớ dính vào chuyện đó là không xong rồi!

Ở được ít ngày, tôi đòi đi, sợ không theo kịp đoàn sẽ phiền phức. Anh bảo:

- Để thủng thẳng, chừng nào có đoàn đặc biệt sẽ tổ chức đi theo đường nội bộ, vừa mau, vừa an toàn. Chẳng ai hơi đâu mà chờ mình. Quân chi viện như nước mưa tưới xuống đồng hạn. Dù đến chậm đã có trạm thu dung sắp xếp, lo gì!

Tôi thường theo anh đi rẫy. Ngô sắn bạt ngàn. Lúa nương lơ thơ, phơ phất... Hôm nay trời hơi nằng nặng và dịu mát. Anh bảo sắp vào tiết mùa mưa. Đột nhiên một trận mưa rào như có người từ trên cao dội nước xuống. Chúng tôi kịp chạy vào một gốc cây lớn thì mưa đã tạnh.

- Mưa Tây Nguyên đột đến, đột đi như vậy đấy. Chẳng khác chi biệt kích đổ dò: bất thần ào ào, ầm ầm một trận rồi dông!

Chúng tôi giở cơm ra ăn. Bỗng có tiếng máy bay ì ì từ sau núi, không phải tiếng gầm rú của máy bay phản lực dội bom. Bóng mây phủ đen một mảng đồi còn dãi nắng. Rất nhanh lẹ, anh Yên tung tấm nilon che mưa phủ kín lên những thứ đồ ăn nước uống chúng tôi đã bày ra:

- Máy bay rải chất độc diệt cỏ đấy!

Chiếc máy bay đã bay qua, những hạt bụi li ti màu vàng như sương mù mịt một vùng đồi núi. Đợi cả giờ sau chúng tôi mới giở ra ăn tiếp. Bây giờ tôi mới thấm thía với đời lính coi kho và nói với anh như lời tự thú về sự nóng ruột của mình:

- Thế này là ta cứ ở yên một chỗ, chẳng biết lúc nào máy bay nó dội bom lên đầu mình, gieo rắc chất độc hoá học trên nương rẫy, vườn tược, nguồn nước của mình… hoặc là thám báo mò tới hỏi thăm rồi bất thần biệt kích nó ào vô đánh điểm!

Anh bình thản như người cam phận:

- Đành chịu vậy, chứ sao?!

 

Gần tháng sau, có một đoàn cán bộ đặc biệt của Tổng cục Hậu cần đi công tác ra tuyến trước. Anh lo việc chuẩn bị và tổ chức cho đoàn đi theo đường đặc biệt. Anh gởi tôi đi cùng. Trong đoàn có mấy cán bộ của Cục Quân giới-quân xa, anh giới thiệu tôi với họ. Biết tôi là kỹ sư cơ khí, họ mừng lắm, hỏi han, thăm dò đủ điều. Anh chuẩn bị cho tôi chu đáo từ gói lương khô cho đến tấm tăng, chiếc võng, bidon nước, con dao. Khi chia tay, anh chỉ nói mấy lời:

- Chẳng biết chúc cậu điều gì. Nếu anh em mình còn được gặp nhau khoẻ mạnh là điều may mắn lắm!

Chúng tôi đi chừng hơn chục ngày thì tới trạm tập kết của đoàn tân binh. Cả tiểu đoàn đã được bổ sung vào một sư đoàn chủ lực và đang hành quân về hướng Buôn Mê Thuột. Mấy cán bộ quân giới đưa tôi qua trạm thu dung và làm thủ tục nhận tôi về. Thế là do sự tình cờ, tôi được đưa về công tác ở một trạm sửa chữa cơ khí tiền phương Z.50.

Nhiệm vụ của chúng tôi là kiểm tra và duy tu xe tăng, thiết giáp, ô tô. Nghề nghiệp của tôi được sử dụng. Nhiều lần tôi xuống tận các đơn vị xe tăng, thiết giáp để kiểm tra, sửa chữa kịp thời xe pháo trước khi vào trận. Lính tăng – giáp của mình trẻ lắm. Thời gian huấn luyện không nhiều, kinh nghiệm chiến đấu còn ít, lại phải hành tiến trên địa hình xa lạ, tỷ lệ hư hỏng xe cao. Anh em lính bộ binh gặp tăng địch là ngán nên thấy lính tăng của ta thì thèm. Nhưng mấy chiến sĩ xe tăng nhìn anh lính bộ binh mà lại ham: gọn gàng, cơ động. Với mục tiêu ở xa thì tăng ta phát huy tối đa mãnh lực. Nhưng khi đã xông vào tao-ngộ, nếu không có bộ binh yểm trợ, tăng ta khác chi chàng khổng lồ quáng gà và chậm chạp. Lính tăng ta vẫn bảo nhau:

- Khi đã chui vào chiếc xe tăng, có khác chi chui vào chiếc quan tài bằng thép!

Tôi làm việc được anh em tin tưởng. Tôi coi đó là niềm động viên tinh thần: Thế là tôi có đóng góp thiết thực vào cuộc kháng chiến lớn lao của nhân dân ta ngay tại tuyến đầu khói lửa! Cũng như anh Yên, tôi tự nghĩ : May mà sống được thì  về, bằng không chết thì thôi, chẳng cần thư từ làm gì để người ở nhà mong ngóng, có khi còn khổ đau hơn!

Là kỹ sư nhưng tôi nhập ngũ theo diện lính thực binh nên không được phong hàm sĩ quan, coi như người lính làm kỹ thuật. Vì thế, sau ngày 30 tháng 4, các cán bộ chủ chốt đều về tiếp quản thành phố thì tôi được giữ lại hậu cứ trông coi các phương tiện vật chất. Cho mãi tới nửa năm sau, có lệnh của Tổng cục chuyển dời về cơ sở mới thì nhân dịp ấy tôi xin phục viên về lại nhà máy cũ của tôi ở Hà Nội và được cấp trên dễ dàng chấp thuận.

Ngày 30 tháng chạp năm Ất Mão, tức là ngày 30 Tết Bính Thìn, năm 1976, tôi đột ngột về nhà. Đã ba năm, kể từ ngày ra đi, gia đình không nhận được tin tức của tôi. Sau ngày chiến thắng, tôi vẫn biệt tăm, bố mẹ tôi khắc khoải lo âu, chờ đợi. Sáng sớm, khi tôi gõ cửa, mẹ tôi ra mở. Người bàng hoàng và quỵ xuống trong vòng tay tôi, không nói nên lời… Sau khi tôi đỡ mẹ lên, người mới nức nở, nghẹn ngào gọi: “Con ơi!”… Cha tôi lật đật chạy ra. Mới hôm nào mà giờ đây tóc cha tôi đã bạc phơ, mẹ tôi da mặt nhăn nheo, già sọm. Tôi xót xa vòng cả hai tay ôm chặt bố mẹ vào mình mà khóc hu hu...

Chiều 30 Tết, gia đình tôi mới cuống cuồng đi chợ Tết.

Tôi kể chuyện ngày gặp anh Yên. Cả nhà tôi đều mừng, nhưng rồi người nọ nhìn người kia như ngại nói ra một điều gì. Bố tôi bảo:  

  - Vậy là Trời Phật, ông bà run rủi cho anh Yên nó cứu con đó! Nghĩ mà thương cho nó!

Mắt người rơm rớm lệ. Tôi lờ mờ cảm thấy có chuyện không hay.

Sau này, dần dà bố mẹ, anh chị em tôi mỗi người tỉ tê một chút, tôi mới biết chị Bình tôi nên nông nỗi ấy...

 

Anh Quỷnh lấy vợ do bố mẹ tìm cho. Người mà anh thích là chị Bình tôi. Nhưng anh nhút nhát lại mặc cảm nên không dám thổ lộ nỗi lòng. Anh  năng lui tới nhà chị và thường ngồi lặng thinh, đôi lúc loanh quanh tìm việc gì giúp chị, lâu lâu anh mới nói một cách một cách ngượng ngập khó khăn, thấy vừa tội nghiệp lại tức cười. Chỉ vậy thôi, chớ chị Bình đâu có nói gì anh.

Cha mẹ anh vừa lo cho con, vừa sĩ diện, đã chọn vợ cho anh ở mãi xã bên, vừa là nơi môn đăng hộ đối, vừa xa xôi chẳng ai được nghe những lời châm chọc từ cửa miệng người đời. Ở thôn quê, việc trai gái nên vợ nên chồng do cha mẹ định liệu vẫn là chuyện thường tình, họ chấp nhận một cách đương nhiên, coi như mối duyên tiền định. Ấy vậy mà khi chiếc thuyền tình của anh đã được neo cột chặt rồi, bà mẹ anh còn bóng gió ví von với bà con trong làng trên xóm dưới:

- Chuông khánh còn chẳng ăn ai. Nữa là mảnh chĩnh nằm ngoài bụi tre!

Chị tôi nghe được, tủi thân, tủi phận, chỉ biết khóc thầm:

- Mẹ ơi, con đâu dám trêu chọc gì ai?!

Vợ anh là chị cả trong một gia đình đông con, cô học xong lớp 7 thì ở nhà làm ruộng, không thua gì một người chủ lực trong gia đình. Bước về nhà chồng, cô cũng chỉ biết có chồng và công việc từ trong nhà ra ngoài đồng ruộng. Có sức vóc, tần tảo, cô vừa đảm việc nhà vừa đẻ như gà. Qua bảy vụ mùa kể từ ngày cưới, cô sinh liền năm đứa! Thân voi cũng phải mỏi mòn! Người cô như cái xác ve! Ông chủ tịch hoan hỉ, cứ vần Q mà đặt tên cho bầy cháu trai theo cái lệ nhà ông : Ông Quỳnh – Bố Quỷnh – Con: Quýnh – Quáng – Quang – Quàng – Quạc! Xấu tốt đâu bởi cái tên. Con đàn cháu đống nhớ được từng thằng đâu phải dễ! Và như một sự ngẫu nhiên, chị Quỷnh – người đàn bà chưa đến 30 tuổi ấy đã được cả xóm trong, xóm ngoài gọi là “Bà La Sát” không phải với một ác ý gì, bởi vì lúc nào người ta cũng thấy chị quýnh-quáng-quang-quàng-quạc...

Là người chỉ huy của Bà La Sát và nửa tá nhóc vần Q, đã là sự rèn luyện cho anh Quỷnh bỏ được tính nhút nhát, tự ti. Anh đã là người ăn to, nói lớn. Những buổi theo du kích hội họp, tập tành, anh vui với bạn bè kể chuyện tiếu lâm, pha trò thỏa chí cho bõ những những ngày phải lặng lẽ nín thinh trước đám đông người. Gì thì gì anh cũng là người chỉ huy quân sự từ thôn lên xã, anh không còn mặc cảm và tự tin dần. Anh nói năng mạch lạc và lưu loát, có lúc hùng hồn, đôi khi có những câu ví von dí dỏm.

Những tình cảm mến mến thương thương với người con gái xinh đẹp ngày nào đã chìm vào quá khứ mờ nhạt không có gì đáng nhớ của anh. Bây giờ nhiều lần gặp lại người bạn gái năm xưa, tuy chẳng còn mẩy mầm hay hạt nhưng vẫn là một thiếu phụ thon thả tròn đầy với tâm trạng rối bời, u uất… Sâu mãi trong lòng anh dâng lên cảm giác thương nhớ bâng khuâng. Anh Quỷnh biết rằng chị Bình hiện là vợ bộ đội đi B và anh trong số những người chủ chốt thực hiện chính sách hậu phương quân đội ở xã này. Anh vẫn còn nhiều tình cảm với chị Bình.

Nhưng trường hợp anh Yên là đặc biệt. Chỉ mấy năm gần đây, nhu cầu tuyển quân ào ạt, những người trong gia đình như vậy mới được chọn đi nên chưa biết thế nào mà tin được. Mấy thương bệnh binh còn sống sót trở về kể lại rõ ràng rằng ngay sáng hôm đơn vị mới hành quân tới điểm đã không ai nhìn thấy anh Yên! Anh nói với chị Bình:

- Tôi không tin là thằng Yên nó trốn về nhà. Bình chẳng bao giờ chứa chấp một thanh niên lạc hậu thế đâu. Nhưng nghe nói có không ít thanh niên tụt tạt, họ cụm nhau lại loanh quanh trên đường Trường Sơn, có người trốn qua Lào và Campuchia, tệ hại hơn, còn có kẻ cam tâm hàng giặc!

Chị Bình chống chế cho chồng, không mấy tự tin:

- Anh Yên đã biết thân phận anh ấy khổ từ tấm bé vì bố anh ấy lầm đường. Nhưng bây giờ trước cái sống, cái chết, rồi bạn bè rủ rê, chưa biết làm sao?!

Anh Quỷnh biết chị Bình đang yếu lòng, cần chỗ dựa. Ngày xưa có vẻ chị coi thường anh. Bây giờ anh sẽ cho chị biết! Cả làng này đã quên đi cái thằng “Quỷnh lắp” thời nào. Giờ đây mọi người đều gọi Anh Quỷnh với vẻ tin tưởng và nể trọng. Lời anh nói có gang có thép. Anh sẽ ra tay che chở cho cô Bình tội nghiệp. Trước những lời xầm xì to nhỏ nghi ngờ của xóm làng, anh Quỷnh nói đầy lý lẽ:

- Chuyện ngã ngũ chưa biết thế nào. Ai hay, ai dở để hạ hồi phân giải. Đây là một gia đình bộ đội neo đơn, Chính quyền, Đoàn thể cần quan tâm giúp đỡ!

Lời anh nói thật là có uy. Nó như một sự giải oan. Nhà chị ít khi vắng vẻ, bà con lối xóm vào ra thăm hỏi, đỡ đần. Ngôi nhà gạch năm gian đỡ phần lạnh lẽo. Những ngày vụ, ngày mùa đều có người chia sẻ, chung lo. Mẹ con chị Bình biết rõ là đã được nhờ ơn anh Quỷnh. Bà vui ra, chị Bình tươi lại. Bà cầu mong con bà sáng cái mắt, cái lòng, đừng có đâm vào đường xiên ngõ cụt. Chị nhớ chồng rạo rực, nỗi mong mỏi xen lẫn nỗi lo sợ.

Anh Quỷnh thành người gần gũi của bà, của chị. Anh ra vào nhà chị thường xuyên, cũng là trách nhiệm của người cán bộ cơ sở địa phương, chẳng thể là điều tai tiếng và xưa nay ai cũng biết anh cơ chỉ, hiền lành. Với anh, ở cái làng này, mơi dăm năm mà đã bao nhiêu vật đổi, sao dời, ngay cả đời  anh cũng vậy, chỉ duy có chị Bình ngày nào giờ vẫn còn đây, có khác chăng cũng chỉ như con gà mái đổi chuồng, vẫn là sự kín đáo âm thầm và lôi cuốn với chút đổi thay mà chỉ có riêng anh mới hiểu: xưa cô hờ hửng, anh nói câu nào cô cũng lặng lẽ cười. Bây giờ anh lại lặng lẽ ngắm nhìn cô và cô luôn hỏi anh điều này, điều nọ. Anh nói gì cô lắng nghe như mấy anh du kích ngồi nghe chỉ thị của anh. Có những lúc anh lãng quên đi nghịch cảnh  của hai người, anh nhìn cô đắm đuối, cô lảng tránh nhìn đi, vẻ sợ sệt tần ngần. Hai người trong hoàn cảnh ấy gần nhau như lửa gần rơm...

Người ta nói tình cũ không rủ cũng đến! Thật ra tình cũ cũng chửa là chi nhưng kỷ niệm thuở xuân thì vẫn còn giăng mắc, một khi được gợi nhớ, những mối tơ nhện ấy nó lại rung rinh khiến lòng người xao xuyến. Anh Quỷnh giờ đã là người có quyền, có thế và đang là người bảo trợ cho chị Bình tôi. Chị Bình như ván đã đóng thuyền, nhưng con thuyền bé nhỏ ấy đang chơi vơi, chao đảo trong gió táp, mưa sa. Một mảnh thuyền vỡ rồi sẽ trôi dạt về đâu giữa mênh mông sóng nước.

Bà mẹ chồng chị ốm mấy ngày nay, nằm bẹp trong buồng. Chị Bình bận bịu ngoài đồng, bước chân về nhà lại tất bật lo cho mẹ bát canh, bát cháo. Thuốc thang chưa biết làm sao.

Anh Quỷnh hối hả bước vào, tay cầm nắm lá, tay cầm gói thuốc đưa cho chị Bình. Như gặp cứu tinh, chị cảm động nhận lấy từ anh, nghẹn ngào không nói nên lời. Hai tay anh giữ hai tay chị trong những cây lá thuốc. Tay chị run run... rồi chị hớt hải cầm nắm lá chạy ù xuống bếp. Anh bước nhanh theo chị. Chị lúng túng không biết để nắm lá ở đâu, chị ngước nhìn anh, rồi chị giơ tay với lên gác bếp, hai chân chị phải kiễng cố lên. Anh Quỷnh giơ tay phụ chị. Bàn tay anh nắm chặt bàn tay chị trên cao. Chị rơi thõng tay xuống, hai chân chị đứng không vững nữa. Anh vòng tay ôm chặt chị vào lòng. Người chị mềm nhũn ngả vào anh. Chị rên rỉ:

- Mẹ ơi con chết mất!

Anh ghì chặt vòng tay siết chị như con trăn siết chặt con mồi:

- Tôi thương Bình lắm, Bình ơi!

Tiếng thở của hai người quyện với nhau… hổn hển...

Chị Bình tôi đã ngả vào lòng anh Quỷnh như thế đấy.

Chuyện trai gái bén hơi nhau, điều gì sẽ đến?! Ở hai con người vừa sung sức, vừa khao khát ái ân buộc lòng phải chế ngự, càng thêm nồng nàn cho những cuộc hẹn hò lén lút. Và hậu quả của nó ngày một rõ ra. Đến lúc không còn che giấu được ai.

Đầu tiên là những tiếng eo xèo đến tai chị Quỷnh, người ta hát bóng gió, xa xôi:

- Ai ơi, chẳng biết giữ chồng – Người ta… phỗng mất, chổng mông mà gào!

Chị Quỷnh giật mình, te tưởi đi hóng chuyện chỗ này, chỗ nọ. Có người thì thào vào tai chị. Có người lại chọc thẳng vào nỗi khắc khoải thầm kín luôn day dứt trong lòng của người phụ nữ chỉ biết tận tụy với chồng con:

- Ai bảo em đẻ sòn sòn / Để anh ôm cái xác con ve sầu!

Không thể dằn lòng được nữa, chị lồng lên, cong cớn:

- Bà đây tuy là gái năm con nhưng còn ngon hơn cơm tám! Chớ cái ngữ đàn bà thối thây chỉ để cho cái gậy thằng ăn mày nó chọc!

Chiều chiều, những người đi về qua xóm nhà anh Quỷnh nhiều lần nghe thấy tiếng la choe choé, tiếng huỳnh huỵch như người bửa củi...

Đàn bà con gái ở cái làng này xa chồng, xa người yêu hồi ấy thiếu gì. Ngoài đời có biết bao nhiêu chuyện động trời nhưng người ta đâu có biết. Bởi vậy những chuyện như của chị Bình đủ làm rung động cả làng. Người ta kháo nhau mọi lúc, mọi nơi, không thiếu những lời chê bai, riếc móc. Lại có những người lái thành câu ca, bài vè tán dóc cho quên đi cái nỗi đau ngấm ngầm trong lòng. Nhà chị Bình ngay sát đường làng, chỉ có một cái tường bao. Một đám người qua cổng, ai đó nổi hứng xướng lên:

- Thà rằng chưa biết thì thôi / Biết rồi nó... ngứa đứng ngồi khó yên!

Họ cười ré lên và đấm nhau thùm thụp. Ra đồng, để tiêu tan nỗi sầu, nỗi mệt, họ hát ví von đối đáp  với nhau:

- Đêm đêm em mở cửa ngóng chồng / Chồng đâu không thấy, thấy... gió đông lọt vào / Đêm đêm em mở cửa ngóng sao / Sao không rớt xuống mà lại có anh nào… mò vô!  

- Anh nảo… anh nào? Chị em cho tôi biết được không nào?!                     

- Dạ, thưa rằng anh... xã đội đấy ạ!                       

Họ cười rũ ra... Có người kể thêm rằng đêm qua họ nghe thấy từ nhà anh Quỷnh vọng ra tiếng gào the thé như chó sủa đầu hôm:                             

- Ối giời đất ơi! Xã đội gì mày! Việc quan thì nhác, việc khác thì siêng! Về nhà còn vênh mặt lên với vợ!

Phụ họa vào là những tiếng la khóc nhiều bè của bầy ca sĩ nhí vần Q.

Tất cả những động tĩnh từ trong xóm tới ngoài đồng đều như có cánh bay đến tai mẹ con chị Bình. Bà cảm thấy như có ai xát muối vào gan ruột mình. Chị cảm thấy như người ta hơ lửa đốt vào mặt mình rát rạt, đầu óc bưng bưng muốn nổ tung ra! Mẹ không dám hỏi con! Con không dám nhìn mẹ! Họ không còn chỗ dựa, trơ vơ, xiêu vẹo giữa cuộc đời như cây khô đứng giữa trời trong mưa dầm gió bấc! Ngôi nhà ngói năm gian trống trải, lạnh lùng không khác ngôi nhà mồ hoang vắng! Bà cụ run rẩy, sa sút, đêm ngày rền rĩ trước bàn thờ nghi ngút khói hương:                                               

- Ông ơi! Thằng Yên nếu nó không còn, ông cho tôi đi theo với ông!                                                          Chị không dám bén mảng tới gian thờ, sợ làm uế tạp chốn thiêng liêng, thanh khiết! Ra đường, chị ngó trước nhìn sau, không có bóng người chị mới dám trùm khăn, che nón cun cút bước đi vội vã...

Chuyện đã tới tai ông Chủ tịch nhưng từ đầu ông vẫn im hơi lặng tiếng xem chuyện dẫn tới đâu. Là người từng trải, ông thấy đã tới lúc phải có tay ông can thiệp. Là bậc cha chú có uy tín ở trong làng, ông biết cách dàn xếp làm sao để giữ thể diện cho bố con ông. Ông gọi vợ chồng anh Quỷnh lại. Ông dằn mặt vợ anh:                            

- Tôi cưới hỏi chị về làm con dâu trưởng ở cái nhà này, chị phải biết sống làm sao cho phải với chồng con, cha mẹ, anh em, họ hàng, giữ cho danh giá gia đình. Chị tưởng ở cái làng này chỉ có mình chồng chị là đàn ông thôi sao? Con đàn bà nó đã muốn nằm dạng ngửa ra thì thằng đàn ông nào ngủ mà chẳng được?! Sao bỗng dưng chị chuốc vạ vào mình?! Rõ là cái đồ ngu! Bát cơm chồng con đang và vào miệng mà chị giật xuống cho chó nó ăn! Chị chẳng còn là cái giống người! Chồng chị xấu thì mặt chị đẹp gì?! Xấu chàng hổ ai? Chị có biết không? Con dại, cái mang! Thằng Quỷnh nó hư thì liệu tôi còn có ra gì?! Rút dây động rừng! Tôi bị điều tiếng ở đây thử hỏi ông bà thông gia trên ấy liệu có êm đẹp được không ?! Đã năm mặt con rồi mà sao chị hàm hồ như vậy?! Tôi cấm chỉ chị từ rày không được hở răng ra lu loa, bép xép một lời về chuyện ấy nữa, nghe chưa?!

Ông dồn chị một chặp. Chị bỗng hoảng sợ. Giờ chị mới nhớ ra rằng ít ra thì mình cũng là con hai ông chủ tịch xã trên, xã dưới, là vợ ông xã đội ở đây, ai chẳng nể vì. Chị im thin thít. Ông ra lệnh:                           

- Chị hãy đi lo tròn phận sự của người đàn bà trong cửa trong nhà. Còn việc đại sự đã có người lo!

Chỉ còn hai bố con, ông nói gay gắt nhưng vừa đủ nghe:

- Thằng đàn ông có cái cu. Sướng cũng nó mà khổ cũng nó! Anh muốn sướng hay muốn khổ? Bao nhiêu năm tôi mới gây dựng được sự nghiệp thế này. Thiếu gì đứa nó dòm, nó ngó. Bây giờ anh chọc vào đúng gia đình chính sách, đứa nào nó chịu tha anh? Dù có chui xuống đất nó cũng nắm tóc moi lên. Mặt anh, mặt tôi như cái mặt mo. Tôi đốn củi bao nhiêu năm, anh thiêu rụi một giờ!                                             

Anh Quỷnh ngồi đực người ra. Anh vốn người chân chất, thật thà, không phải là người mưu lược. Chuyện này chẳng qua là cái tình đời đưa đẩy, rồi ma xui quỷ khiến làm anh mụ mẫm đê mê chứ anh không chủ mưu chiếm đoạt, hãm hại một ai! Hồi lâu anh mới ấp úng hỏi cha:               

- B... â... ây... bây giờ bố ba... ảo bảo làm sao?

Ông dặn dò anh rành rọt như người chỉ huy giao cho cấp dưới một công việc quyết định sự được, thua:

- Anh muốn sống, muốn ngẩng mặt lên với đời, anh phải làm đúng lời tôi dặn: Một là từ nay cấm không được lai vãng tới nhà đó, cấm anh thậm thụt cái trò mèo mả gà đồng, trước sau cũng bể bạc ra, không sao gỡ được. Hai là anh không được đánh đập vợ con để cho người ta rình rập đi bêu riếu khắp làng khắp xóm. Ba là anh cứ hoạt động bình thường, đứa nào nói gì cứ bỏ ngoài tai, càng thanh minh nó càng được nước, càng nài nỉ nó càng làm già. Chuyện trai gái lời ong tiếng ve, miệng thế gian xía vào xưa nay thiếu gì. Không bắt được quả tang trai trên gái dưới đố đứa nào làm gì được nhau! 

Anh vẫn còn bứt rứt, cuối cùng anh mới phụt được ra cái nỗi băn khoăn lo sợ của mình:

- Nh... ư... ưng nhưng… còn c... ai... ái cái thai?!

Ông nói trôi chảy như đã giải quyết xong xuôi:

- Nó đã ngủ với trai thì dù lớn, bé, già, trẻ gì mà không phễnh bụng ra được? Có điều để cái bụng nó phượt ra đến thế thì Y tế nó cũng chẳng can thiệp vào. Tôi đã giao cho Phụ nữ nó lo!                                 

Anh như trút được gánh nặng lo âu, mặt anh tươi lại. Anh xin ông sự cứu viện cuối cùng:          

- Mấy điều bố dặn con đều làm được. Chỉ riêng con mẹ La sát thì bố phải trị giúp con. Nó là đồ bất trị!  

Ông chủ tịch phà một hơi khói thuốc lào, nhìn thằng con trai thương hại rồi phẩy tay như giục anh đi và nói với theo:                                                       

- Khôn sống, mống chết con ạ!

Ít hôm sau, ông Chủ tịch cùng mấy vị Ủy ban, Đoàn thể đến nhà chị Bình tôi. Hai mẹ con chị líu ríu, đưa đẩy nhau không ai muốn xuất đầu lộ diện. Ông chủ tịch ân cần xuống tận bếp, nắm tay hai mẹ con, dắt lên nhà đặt ngồi vào bàn khách. Ông nói rỉ rả, chân tình:         

- Mọi chuyện, chúng tôi đã biết cả rồi. Thuyền dại thì lái chịu đòn. Dân dại thì cán bộ phải lãnh trách nhiệm thôi. Vả lại chuyện này thế gian đây đó chẳng phải một người. Đoàn thể, Chính quyền lúc nào cũng rộng lòng là còn nghĩ tới người ở xa vì dân, vì nước. Tôi với ông nhà xưa cũng là trai đinh trong làng. Ông ấy lạc đường, nhân dân tha thứ. Con cái lớn lên, dù là dâu con cũng phải làm mát mặt ông bà, cha mẹ. Ở đời ai cũng có dại rồi mới nên khôn. Chẳng cái dại nào giống cái dại nào. Lỡ dại thì thôi, biết là được rồi, để sau này sửa. Bà con làng xóm bảo bọc cho nhau qua lúc lửa hồng, nắng rát thế này. Chớ có nghe người ta xúi bẩy, hốt hoảng, hoang mang, đổ vấy vá chỗ này, chỗ khác, gây điều tai tiếng cho người tử tế thì từ cái lỗi nhỏ lại thành cái lỗi to, càng thiệt cho mình lại thêm hổ người đến cả cha ông!

Quay sang bà cán bộ phụ nữ, ông nói:                  

- Chính quyền đã giao cho Hội Phụ nữ việc này. Nhớ động viên giúp đỡ chị ta. Làm việc phải nghiêm minh nhưng cũng phải biết khoan hồng. Không được để làm mất đoàn kết trong làng, trong xóm!                         

Hai mẹ con chị chỉ biết ngồi đấy, nước mắt chảy tràn. Ông Chủ tịch vỗ về, an ủi mấy câu rồi bước ra sân. Mọi người lục tục theo ông...

Chỉ còn hai mẹ con trong căn nhà trở lại vắng vẻ. Cả hai người chưa hết bàng hoàng. Đã tưởng làng nước người ta khinh rẻ mình, người ta chừa cái mặt mình ra! Thế mà cả đoàn người đủ ông to bà lớn kéo vào đây, nói năng khuyên giải ân tình. Ông Chủ tịch nói gì? Những là... tha thứ, khoan dung, lỡ dại thì thôi, chớ đổ vạ cho ai, nghĩ tới người vì dân, vì nước. Lâu lắm rồi hai mẹ con mới ngồi đối diện với nhau, buộc lòng phải nói với nhau về cảnh ngộ của mình. Bà cụ nói với chị:                 

- Thôi, con ạ! Mình làm mình chịu. Nếu thằng Yên nó còn mà về đây, mẹ sẽ nói để nó thương con. Giả như  nếu nó không về, đời con cũng đỡ lẻ loi, đơn chiếc! Mẹ không còn sức để sống lâu đâu. Có bới đống tro ra, cũng chỉ khói bụi cay xè, mình chịu trước!   

Chị không cầm lòng được nữa, sụp xuống chân bà:

- Mẹ ơi… con lạy mẹ! Con có lỗi với mẹ, với chồng con! Con xin mẹ tha thứ cho con. Con cố gắng đợi anh Yên về, anh ấy bắt tội con thế nào con xin chịu hết! Con chẳng đổ lỗi cho ai. Lỗi tại con! Tại con tất cả. Sao đời con khốn khổ thế, mẹ ơi?!                          

Hai người đàn bà – một già, một trẻ, xa nhau cả nửa thế kỷ vậy mà vẫn mang nỗi đau cay nghiệt của chiến tranh! Giờ đây họ lẻ loi đơn chiếc mà vẫn ráng vực nhau dậy, dựa dẫm vào nhau để đứng được giữa cuộc đời này!

 

Sau ngày hôm đó, có một vài lần, ông Chủ tịch lúc đi một mình, lúc cùng với người này, người nọ ghé vào nhà thăm bà và chị. Bà cán bộ phụ nữ xã là cháu gọi ông Chủ tịch bằng cậu, thường xuyên đến nhà chị chuyện nhỏ, chuyện to.

Một hôm ông Chủ tịch gọi anh Quỷnh tới dặn dò:

- Ngày mai có cuộc họp liên tịch của xã về chuyện của anh. Tôi không có mặt. Tôi chỉ nhắc anh rằng ai nói sao mặc họ, anh chỉ biết nghe và rút kinh nghiệm mà thôi!

Anh Quỷnh tỏ ra lo lắng:                             

- Con nghĩ có bố thì họ sẽ nể, có nói họ cũng nói nhẹ đi… 

Anh chưa nói hết câu, ông chủ tịch đã bực dọc ngắt lời anh: 

- Bây giờ tôi mới biết là anh ngu dốt tới chừng nào! Anh chỉ là loại ăn no, vác nặng, hứng lên nhắm mắt làm bừa mà thôi! Liệu rồi anh có khôn lên được?!

Những ngày cuối năm, phải giải quyết cho xong mọi việc để bước sang năm mới. Cuộc hội nghị liên tịch của xã vắng ông Chủ tịch vì phải lên Huyện họp, có ông Phó Chủ tịch chủ trì. Bà đại diện Hội Phụ nữ đọc biên bản vẻn vẹn mấy dòng cùng chữ ký của chị Bình tôi: “Tôi có thai với Trời vơí Đất, do ý của tôi. Tôi chỉ có lỗi với chồng tôi. Không có ai liên lụy đến chuyện này!”

Mấy người hăm hở định nhân chuyện này lật đổ cha con ông Chủ tịch, ngồi ngay như phỗng! Họ cố vặn vẹo được mấy câu nhưng chẳng thể ghi vào biên bản. Anh Quỷnh cứ ngồi yên như ngậm hột thị mà lòng nôn nao. Câu cuối cùng ghi trong biên bản có chữ ký của mọi thành phần là: “Nhắc nhở đồng chí Quỷnh cần rút kinh nghiệm trong mối quan hệ với nhân dân!”.

Trên đường về, lòng anh nhẹ thênh thênh. Anh nghĩ cha anh là nhất! Ông cao kiến thật! Anh tuổi Thân, năm nay năm Dần, ông đã giải hạn cho anh! Anh nhoẻn miệng cười, nghĩ mình khỉ thật! Vợ anh lỏm nghe được ý nghĩa trọng yếu của cuộc họp trên xã ngày hôm nay, chị bồn chồn gan ruột, quẩn quanh ở nhà không dám ra đồng. Mặt trời sắp lặn mà chị vẫn chưa bụng dạ nào đặt được nồi cơm lên bếp trong khi nửa tiểu đội thiếu sinh quân luôn háu đói túc trực trong nhà! Ngóng ra cổng, thấy bóng chồng về miệng cười toe toét, gan ruột chị như lộn hết ra ngoài, buột miệng văng ra tất cả những nỗi bực tức hờn giận dồn nén bấy lâu:             

- Rõ là cái đồ mặt dày mày dạn! Giơ cái mặt mo ra cho làng nước người ta xỉ vả mà còn cười nhăn nhở!

Anh thẳng tay cho chị một cái tát như trời giáng, con mắt nổ hoa! Đó là sự giải phóng đôi tay bị trói buộc bấy nay! Chị lăn đùng trên sân, rẫy đành đạch, miệng la oai oải! Lập tức dàn đồng ca nửa tá vần Q phụ họa! Ông Chủ tịch từ huyện về, dắt xe vào cổng, cám cảnh lắc đầu...

Tháng 5 năm 1975, trong khi cả nước râm ran tiếng pháo mừng chiến thắng, làng xóm kẻ cười, người khóc về sự hợp – tan thì chị Bình tôi một mình lủi thủi, ậm ạch mang túi xách tới nhà Hộ sinh xã và sinh một đứa con trai. Chị nhìn con vừa mừng, vừa sợ: cuộc đời chị từ nay không còn đơn lẻ! Nhưng anh về, chị biết nói sao! Lần đầu tiên trong đời, chị cất tiếng gọi: “con ơi!” mà nước mắt ràn rụa… Chị mừng hay thương cho con chị?

Thằng bé đỏ hỏn, nhăn nheo, sao biết được là nó giống ai, vậy mà đã nghe đồn  đại khắp làng: Thằng cu giống anh xã đội ở cái thân lực lưỡng và giống ông Chủ tịch ở cái trán hói trợt, tóc lơ thơ! Ông Chủ tịch biết lời độc miệng từ những người ấm ức với ông. Ông nhổ bọt lầm bầm:          

- Mẹ cha những thằng phá đám!

Tôi về thăm chị vào dịp đầu năm. Thấy tôi, chị khóc nức nở, không nói được gì. Thằng cu chưa đầy một tuổi, cũng chẳng bụ bẫm gì vì ngoài vú mẹ day dứt cả ngày, nó chỉ ăn thêm cháo và bột gạo với chút đường vàng! Tôi không dám nói với chị về chuyện tôi đã gặp anh Yên ở Tây nguyên năm ấy. Tôi cũng không thể giải thích cho chị vì sao anh Yên vẫn bằn bặt không có tin về. Đêm ấy, tôi ở lại bên nhà chị. Khuya, tôi bỗng dưng trở bụng, phải tìm ra nhà sau ở phía cuối vườn... Bỗng tôi nghe có tiếng động và thấy bóng người từ ngoàii đường vượt tường nhảy vào vườn. Người đó lực lưỡng, đi thẳng tới cửa sổ buồng chị Bình tôi, ghé vào và se sẽ gọi:

- Bình ơi!

- !

- Cô Bình ơi!

…                                                                

Lát sau, chị Bình tôi ra tới. Hai người đi tới một gốc cây bên bức tường bao, cũng gần nơi tôi đang đứng. Một cuộc nói chuyện vội vàng:                          

- Có tin gì của Yên không?                                    

- !                                                                 

- Cậu Thành có hỏi gì về chuyện của mình? Bình có nói tôi không?!          

- !                                                                 

- Bình mà nói ra, đời tôi hỏng hết! Nếu tôi không chết thì cũng phải bỏ làng, bỏ xứ mà đi!                  

Thì ra là anh Quỷnh. Anh cứ hỏi dồn. Chị tôi đứng đó. Sau cùng mới nghe được tiếng chị Bình tôi, bình tĩnh và tỉnh táo:                                         

- Anh như quỷ ám tôi! Anh đã làm tôi hỏng mất đứa con đầu! Bây giờ tôi ra nông nỗi này anh vẫn chẳng buông tha! Tôi chỉ mong anh hãy để tôi yên! Anh đi đi!

- Chị Bình bước quay vào. Anh ta còn năn nỉ với theo:

- Bình thương tôi… Bình nhé! – rồi anh nhảy vọt ra ngoài.                        

Tôi ghê tởm, nhổ bọt phì phì:            

- Thằng đê tiện!                                           

Tôi về giường, nằm thao thức cho đến sáng, vừa thương vừa giận chị Bình tôi. Tôi lại tự trách mình sao không nhân lúc ấy nhảy ra cho thằng đốn mạt kia một chập!...

Sáng ra, trước khi chia tay chị trở về thành phố, tôi hỏi ướm:                    

- Bố thằng này đâu? Sao chị không bắt nó phải cùng chung trách nhiệm?!

Chị nói với tôi, giọng thiết tha:                    

- Chị chỉ mong cậu đừng nghĩ chị là đồ bỏ đi. Em hãy hiểu cho chị và thương chị. Khổ bao nhiêu chị chịu cũng được. Thằng bé chẳng tội tình gì. Nói cho nó biết cha nó là ai thì nó càng khổ thêm thôi! Chị vẫn cầu mong anh Yên về, anh ấy xử thế nào, chị xin chịu hết. Chị sẽ quỳ lạy anh ấy hãy nhận thằng bé làm con thì dù chết chị cũng cam lòng!        

Tôi nói lời an ủi chị:                                              

- Nếu ngoài nhà nghĩ khác thì anh chị em đâu có thường xuyên về đây thăm chị!

Trên đường về, tôi nghĩ : Tối hôm qua mình không xông ra can thiệp vào chuyện riêng của chị, như thế mà hay.

Bà mẹ chồng chị suy sụp khá nhanh. Bà như người lẩm cẩm, suốt ngày ngồi chờ ngoài cổng, có bóng người đàn ông qua lại, cụ ngước lên đón hỏi:

- Yên đấy ư con?!

Đằng đẵng hàng năm chờ đợi mỏi mòn, rồi cụ quỵ xuống, nằm bất động. Chị Bình đã làm hết sức để chăm sóc bà mẹ già tội nghiệp, chị coi đấy là cách chuộc lỗi với bà. Ngay những người thờ ơ cũng phải thốt lên:

- Thằng Yên có về cũng chẳng thể làm gì để đáp được cái nghĩa, cái ơn của vợ nó đâu!

Cả năm trời quần quật lo ngoài đồng áng, lo việc trong nhà, mẹ già bệnh tật, con nhỏ đau yếu, thiếu ăn... đã làm chị tôi hao mòn, héo hắt như một bà già. Rồi vào một chiều đông buốt giá, bà đã ra đi trong vòng tay của chị. Câu nói thều thào cuối cùng của bà:

- Đời mẹ đã khổ, đời con còn khổ hơn!

 

Sau năm 1975, lãnh đạo các cấp đều sắp xếp nhân sự có trẻ, có già xen kẽ để khỏi trống người kế tục. Anh Quỷnh đã thành người có tiếng. Ông Chủ tịch đủ điều kiện để bồi dưỡng người con cả kế nghiệp mình. Ông là Chủ tịch, con ông là phó Chủ tịch, cũng chẳng ai nói được điều gì, vì ông ngồi đấy chẳng còn bao lâu nữa. Nhưng ông nghĩ xa hơn. Ông bảo con ông:

- Anh không thể ở cái xã này! Mai kia cái thằng nhỏ ấy nó lớn dần lên, càng ngày càng rõ là cái mặt ấy, mặt này chớ ai! Vô phúc thằng Yên nó sống sót trở về, lúc đó anh biết ăn làm sao, nói làm sao với làng, với nước?!

Anh Quỷnh băn khoăn:

- Chuyện thằng nhỏ phải tính làm sao?                

Ông lắc đầu nhìn anh:

- Tôi nghĩ không sai. Cái đầu óc anh vẫn còn tính quẩn! Nhà này không thiếu gì đứa nối dõi tông đường. Con rô, con diếc anh chỉ được bắt một con thôi! Đây là cái dịp tốt nhất để anh dứt bỏ. Anh phải đi xa nhưng phải là cao hơn khi anh ở cái làng này!             

Ông thuộc lớp lão trượng trong huyện. Bạn bè, đồng chí ông nhiều người đang ở trên huyện, trên tỉnh, tất nhiên họ nể ông. Ông đã đề đạt với trên :

- Cha làm Chủ tịch, con làm phó Chủ tịch là không nên. Dù là khi tôi đã nghỉ thì cũng không nên để con kế nghiệp cha. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, thiếu gì người có đức, có tài!

Người ta nghĩ  ông trong sáng và có lý, đã rút con ông lên huyện. Cái ghế Chánh văn phòng Ủy ban Nhân dân huyện là vị trí thăng tiến dễ dàng. Ông thỏa mãn động viên anh Quỷnh lẹ làng dứt áo ra đi.

Thời gian cứ trôi đi theo vòng xoay trái đất. Hồi đó mọi người đều tất bật, không ai nghĩ tới ngày, tới tháng. Cả nước lại lao vào cuộc chiến tranh biên giới. Nhìn con cái ngày một cao lên, cha mẹ thót tim khi thấy con mình đến tuổi tòng quân! Anh Yên vẫn bặt tin. Chúng tôi đã giúp chị Bình tìm hỏi nhiều nơi. Người ta xếp anh vào diện mất tích. Gia đình không hưởng chính sách gì. Trong chiến tranh, chuyện ấy cũng thường thôi. Chị vẫn luôn nhớ anh và mong ngóng có ngày anh trở lại. Chị lấy ngày anh đi tòng quân làm ngày tưởng nhớ hàng năm. Chị không dám làm như ngày giỗ, lỡ sao sẽ có tội với anh. Mâm cơm được đặt trên bộ ngựa giữa nhà. Chị thắp hương vái lạy Trời Phật, gia tiên:

- Cầu phù hộ chồng con là Nguyễn Đình Yên thoát mọi hoạn nạn, hiểm nguy, lòng luôn nhớ về quê cha đất tổ, đừng quên nẻo về nhà để vợ đợi, con mong!

Anh em, bạn bè thân thiết rót chén cượu nâng lên, chúc người ở xa động lòng nhớ về mái nhà xưa, bạn cũ. Chị rơm rớm mắt, cảm ơn cái tình thân thiết ấy.

Thằng bé con cứ lớn dần lên. Nó không có tên! Chị sinh ra nó trong hoàn cảnh ấy thì có ai là người đứng ra làm khai sinh cho nó! Ở nhà, chị cứ gọi nó là thằng Cu. Chị chẳng bận tâm, dù nó có lớn mấy thì vẫn cứ là thằng Cu của chị. Ra đường, ra ngõ chơi với chúng bạn, không biết duyên cớ gì hoặc có ai xúi vào mà bọn trẻ gọi nó là thằng cu Khoái để phân biệt với những thằng cu Tèo, thằng cu Tý, thằng cu Em... Gọi riết rồi thành danh. Đến lúc nó cắp sách tới trường làng, tên ấy được ghi đích danh trong sổ, chỉ thêm họ Nguyễn Đình của anh Yên. Cũng may là thằng cu Khoái khoẻ mạnh, trùng trục như trâu lăn, bọn trẻ cùng lứa lúc nào cũng sợ vì lôi thôi là nó “tỉn” liền, nhất là với những đứa nghe ai xúi bẩy nói móc máy chuyện xa xưa của gia đình nó thì nó quyết không tha. Có đứa hộc máu mồm, máu mũi làm mẹ nó nhiều phen liên lụy. Mẹ nó dỗ dành:

- Mẹ xin con, trách chi những đứa độc mồm độc miệng!

Nó đáp thẳng thừng:

- Thế thì phải cho nó phun hết cái độc trong mồm, trong miệng nó ra!        Mấy người lớn tuổi nói động đến gia đình nó, nó gườm gườm, lừ lừ như muốn cắn người ta và rồi vào một đêm tối trời nào đó sẽ có một viên gạch củ đậu văng trên mái ngói hoặc rớt  trên sân! Không ai bắt được quả tang nhưng nếu đừng trêu chọc nó thì họ cũng được yên. Dần dà người ta sợ nó. Ấy vậy mà ở lớp, nó tuy là đứa trẻ tinh nghịch nhưng sáng ý. Không mấy khi nó bị thầy cô quở trách về chuyện học hành. Nó lại hay bênh vực những đứa hiền lành, yếu đuối nên lúc nào nó cũng phải đương đầu với đám trẻ hùng hổ, đành hanh. Vậy nên có lúc nó cũng bị trận đòn nhừ tử, cũng là cách tập cho nó tính lỳ đòn. Đau đòn mấy nó cũng cắn răng chịu đựng, dấu mẹ đến cùng vì nó rất thương mẹ. Nó biết tính mẹ hay tủi thân, hơi một chút là sụt sịt, nó nói:

- Có gì mẹ cứ bảo con. Việc gì mà phải khóc, người ta biết họ cười cho!

Nó khéo tay, thường giúp mẹ nhiều việc trong nhà. Nó mạnh mẽ, mang đúng tính khí đàn ông, nên tuy còn nhỏ nhưng nó cũng làm được chỗ dựa và là nguồn an ủi cho chị Bình tôi. Chị tươi dần lên và an phận. Nhan sắc của chị trở về hợp với cái tuổi trời cho của chị. Trong làng xóm, chị là một thiếu phụ mặn mà. Những kẻ vô công rồi nghề, ngứa miệng lại tìm chỗ khác lê la.

 

Những năm 1980 đi qua thật nặng nề. Gần cuối thập kỷ, đất nước mới thoát khỏi cuộc chiến tranh biên giới ở phía Tây Nam. Một hôm đi làm về, tôi thấy nhà đông người khác thường, ai nấy mặt mày hớn hở. Tôi ngỡ ngàng. Một người mặc quần áo bộ đội, cái tay áo lòng thòng bên phải, tóc ngắn, cứng và xoăn, mặt đen nhẻm giống như người Thượng, hàm răng trắng và nét cười quen làm tôi giật thót mình nhẩy đến ôm chầm lấy anh:

- Anh Yên!

Tôi không kìm được xúc động:

- Anh Yên ơi!  Mười mấy năm rồi còn gì kể từ khi anh em mình gặp nhau ở cánh rừng le Tây Nguyên ngày ấy!

Tay tôi lần sờ, vô tình nắm lấy mỏm cụt ở cánh tay anh...

Anh được phục viên và từ đơn vị về thẳng nhà tôi. Chuyện nhà, anh có biết đại khái: Mẹ anh đã qua đời! Vợ anh có một đứa con! Bố tôi bảo:

- Cậu giờ già rồi, đã lạc lõng với thời thế, như người cổ xưa. Anh em góp ý giúp đỡ nhau thật tình. Người trong nhà không lo cho nhau thiết thực chờ xã hội quan tâm thì biết đến bao giờ!

Người nói riêng với tôi:                      

- Con phải biết ơn anh ấy! Ở đời, ai họ thật lòng giúp mình không bao giờ họ nghĩ tới sự trả ơn đâu nhưng mình phải luôn nhớ và sẽ giúp người khác vô tư… huống hồ là gặp lại ân nhân!

Tôi giữ anh ở lại mấy ngày vì với hoàn cảnh của anh lúc này cũng không có gì cần nôn nóng. Anh kể cho tôi về lý do anh xa vắng mười mấy năm rồi:

- Từ sau hiệp định Paris, tình hình biên giới ngày một biến động theo chiều hướng xấu. Tình hữu nghị kém mặn mòi và có cái gì khang khác như muốn phản nhau. Trực tiếp ở trên đất người ta, chúng tôi cảm nhận điều ấy sớm lắm. Họ eo xèo, gây sự và làm rắc rối. Có khi cướp bóc tài sản, quậy phá kho tàng, hãm hại người mình. Có lần chịu hết nổi, tôi cho anh em nổ súng tiêu diệt mấy tên. Thế là họ lu loa, vịn cớ ấy, đuổi toàn bộ cả khu vực căn cứ của mình vẫn đóng bấy lâu nay. Cấp trên thấy lớn chuyện liền kỷ luật bọn tôi. Cả đơn vị đều cho về sản xuất! Có người bất mãn bỏ đi. Mấy anh em tôi vẫn kiên trì, kệ mẹ nó, cho qua cái thời buổi chiến tranh, trước sau gì rồi mình cũng là anh nông dân cày ruộng. Khi tình hình đã rõ ra rồi thì cấp trên nghĩ lại, gọi tụi tôi về, cho phục hồi chức tước. Có đáng kể gì mấy cái chức quèn. Nhưng lúc nào mình cũng là người lính dù rằng mình đã có lúc sống như dân. Tiện thể, người ta chuyển chúng tôi sang Ban Quân báo, đánh vào đối phương sống trà trộn với dân. Năm 1977, tôi được phép về thăm quê. Trên đường về, tới Sàigòn, tình cờ gặp thằng bạn cùng học nhà ở xã trên. Nó mới đi phép về quê, bây giờ nó chuyển ngành về thành phố Hồ chí Minh. Nó biết chuyện gia đình tôi, rủ tôi xin chuyển ngành về chỗ nó. Tôi chán ngán và tự ái, lên xe quay về đơn vị. Lúc này chiến sự đang mở rộng. Tôi theo mặt trận dùi mãi về phía Tây. Năm 1985, tôi trà trộn vào lính  Khmer đỏ, bị quân ta tập kích bắn gẫy tay! Tôi càng có dịp cài sâu và đã có lần đến tận căn cứ Pailin là nơi mà chỉ có quan và lính chọn lọc của nó mới được về đây chốt giữ… Bây giờ mọi việc xong rồi người ta cho tôi giải ngũ. Tôi qua thành phố Hồ Chí Minh, gặp mấy thằng bạn cũ. Nhưng tất cả đã muộn rồi. Cái thời người ta cần tìm bạn bè vây cánh thì mình lại thờ ơ. Bây giờ bộ sậu đủ rồi. Vả lại, mình đã hết thời: thương binh, luống tuổi, chỉ biết cày ruộng và đánh đấm thôi, ai nhận làm gì! Đành về quê thôi, rồi sẽ tính sau...

Tôi thông báo đầy đủ cho anh mọi chuyện ở nhà nhưng tôi không bàn bạc, khuyên can gì cả. Tôi nghĩ một người lính dày dạn như thế, họ tự biết phải xoay xở thế nào trong mọi tình huống. Tôi biếu anh ít vải, áo và mền ấm là những thứ cần thiết trước mắt cho người lính từ phía Nam ra và đặc biệt tặng anh chiếc xe đạp Diamond của Đức, vào thời buổi đó là quý lắm. Tôi cùng anh về quê...

Đang vào vụ. Mọi người ở hết ngoài đồng. Cổng ngõ chỉ khép hờ, chúng tôi đẩy cửa bước vào. Chiếc sân rộng phơi đầy rơm. Bầy gà quanh quẩn kiếm ăn. Chú gà trống trang kim mào mặt đỏ gay loanh quanh gạ gẫm mấy cô gà mái. Mấy cô ả làm bộ lảng ra. Chú gà trống mổ một viên sạn nhỏ, đặt lên đặt xuống rồi rít kêu lục cục... lục cục. Mấy cô gà mái te tái chạy tới, châu đầu vào ngó. Chú gà trống bỏ rơi cục mồi giả, quay lại nhảy bổ vào một cô gà mái đứng gần, cô ta hốt hoảng chạy thục mạng, kêu la rầm rĩ... Chúng tôi đứng tần ngần một chút rồi quay qua bể nước mưa mát rượi. Anh cúi sâu vào bể, bóng anh sóng sánh mờ mờ dưới đáy...

Căn nhà trống tuềnh toàng càng rộng thênh thang. Trên đường làng, anh Yên gặp một vài người… Phút chốc cả thôn xóm vắng teo náo động lên. Người ta chạy huỳnh huỵch ngoài đường, trong ngõ như có giặc. Người kéo đến đầy nhà, đầy sân.

Chị Bình chạy một mạch từ ngoài đồng về, vào được nhà thì hết hơi, chị quỵ xuống, mặt mày xanh lét, chân tay lạnh ngắt. Mấy người vực chị lên tấm phản, xoa dầu, cạo gió. Thằng cu Khoái đứng nép ngoài cửa, không ai dám kéo nó ra giới thiệu với anh. Khi tỉnh lại, chị Bình ngồi dậy, kéo thằng con đến trước mặt anh:

- Lạy bố đi con!                                           

Thằng Khoái đứng thừ người ra, đầu cúi xuống mà mắt thì nghếch lên nhìn anh, cho hai ngón tay cái vào miệng nhai nhai như chờ anh nói với nó điều gì. Chị quỳ xuống bên con, mấy lần giục nó mà thằng bé vẫn đứng ì ra. Chị khóc òa lên. Anh Yên ngồi như tượng gỗ, nhìn chị, nhìn thằng bé, chẳng ra buồn cũng chẳng ra vui. Rồi anh đứng dậy đi đến bàn thờ. Anh trèo lên bộ sập, tay trái với cầm ảnh mẹ, người anh rung rung và như từ miệng một ống bơm nước khổng lồ chợt òa ra. Anh khóc hu hu, rất to, từng chập, từng chập… Chập sau lớn hơn chập trước, vai anh rung lên, cánh tay cụt lắc lay trông càng tội nghiệp. Những người có mặt ở đó, đàn ông nước mắt chảy tràn, đàn bà thút thít, chỉ có đám trẻ là trố mắt nhìn mọi người, có đứa còn nhe răng cười. Thằng cu Khoái giơ tay quẹt ngang đuôi hai con mắt.

Bữa cơm họp mặt đầu tiên sau hàng chục năm xa cách mà không ai ăn được. Thằng cu Khoái quanh quẩn dưới bếp, không chịu lên. Chị Bình phải xuống kéo nó. Chân tay nó gân lên cưỡng lại. Anh Yên lên tiếng:

- Ê, vào đây mày! – như anh gọi bạn.

Thằng bé không dám chống lại nữa, theo tay mẹ len lén bước vào. Anh vẫy nó lại gần, xoa đầu và hỏi:

- Tên gì?                                                      

- Cu Khoái!                                        

Anh bật cười:

- Ai đặt tên kỳ vậy? Mày khoái lắm sao… cu?!

Anh lại cười to hơn. Đôi mắt nó thao láo nhìn anh, đôi mắt sáng trong mà rực rỡ, mặt nó tươi lên, miệng nó toe toét cười… nhưng nụ cười ấy dừng ngay lại, đôi mắt lộ vẻ ngạc nhiên, mặt nó xịu dần... vì nó thấy tiếng anh cười lạ quá: Khặc khặc!… Khặc khặc khặc!… Hai ba tiếng một, mặt anh xám ngoét, nước mắt anh túa trào ra. Chị Bình không dám nhìn anh, cúi xuống, tay cầm đôi đũa cả bới bới nồi cơm, nước mắt rơi lã chã, nói trong nghẹn ngào:

- Tôi xin mình! Mình tha tội cho tôi! Trẻ con nó chẳng tội tình gì!             

Chị bỏ chạy vào buồng...

 

Làng xóm sau cơn xúc động ban đầu, bây giờ họ theo dõi mọi động tĩnh của nhà anh. Ông Chủ tịch mới, bạn bè trang lứa anh Yên, đến thăm vui vẻ. Anh trình  bày đủ thứ giấy tờ. Ông Chủ tịch nói động viên anh:

- Chiến tranh ông ạ! Về được thế này là mừng! Chúng tôi thực hiện đầy đủ chính sách cho ông!

Trong nhà anh không một lời to tiếng, mỗi người một việc. Tuổi tác và thương tật của anh khiến chị tôi vẫn là người lao động chính trong nhà nhưng có anh, chị thấy yên tâm như từ nay nhà có nóc. Chị tìm mọi cách để chồng và con gần lại với nhau. Nhưng cả hai cứ ngãng ra thế nào!

Thực ra, thằng cu Khoái, từ lúc còn năm bảy tuổi nó đã từng nghe những người lẻo mép thọc vào chuyện gia đình nó. Nó ghét lắm, phản ứng lại liền. Nó nghe mẹ nó, chỉ biết cha nó là Yên, đi bộ đội chưa về. Lớn dần lên, nó mù mờ cảm thấy có chuyện gì, nhất là cả làng ai cũng bảo nó giống cha con ông Chủ tịch. Có lần nó cầm tấm ảnh của nó so với tấm ảnh anh Yên. Mẹ nó thấy, bảo hai người giống nhau cái tai dài dài và cái tóc đen lởm chởm. Nó chẳng nói gì. Nhưng bảo nó là cái giống nhà ông Quỳnh ông Quỷnh là nó tức lắm! Cả cái nhà ấy, nó không ưa. Ông Chủ tịch đi đường, thấy nó ông tảng lờ như không biết! Bà Quỷnh gặp nó nếu không hấm hứ thì cũng nhổ toẹt một đống nước bọt to như bãi cứt trâu! Mấy đứa con nhà ấy mặt cứ vênh vênh ra chiều khinh nó! Ông cả Quỷnh từ xa thấy nó thế nào cũng quẹo qua đường khác!

Bây giờ thì cả nhà ấy đang như thuyền gặp mùa nước nổi. Ông Chủ tịch đã nghỉ hưu nhưng với tuổi tác và bề dày kinh nghiệm, người ta mời ông làm chủ tịch Mặt trận Tổ quốc xã và có chân trên huyện. Cha khôn, con sướng. Ông thật là người biết nhìn xa. Lên huyện, anh Quỷnh được xếp vào lớp trẻ, có thành tích, có truyền thống gia đình, anh tiến như diều gặp gió. Người ta bồi dưỡng cho anh đủ thứ kiến thức: văn hoá, chính trị, kinh tế. Anh theo học hệ đào tạo từ xa, vừa làm vừa học, lúc nào anh cũng bám sát phong trào thực tế của địa phương. Bằng cấp anh có đủ. Thế là anh lên phó Chủ tịch huyện, rồi lên tỉnh làm phó Ty Thương nghiệp. Anh đem cả vợ và bầy con lên tỉnh ở. Hai thằng con đầu anh cho đi lao động hợp tác ở Đức và Tiệp, toàn là những nơi lý tưởng. Chị được giao làm cửa hàng trưởng Cửa hàng bách hoá. Chị chẳng phải lo vì anh đã dặn: Vừa làm vừa học. Lúc nào cũng phải dựa vào tập thể thì mọi chuyện đều xong! Chị thường về làng tiếp tế cho hai ông Chủ tịch già. Mỗi lần qua cái nhà xí hai ngăn, chị nhổ phì phì, kêu: Mất vệ sinh! Thấy cái gì dơ bẩn, lấm lem, chị hét: Eo ơi, ghê quá! Chẳng hiểu ai đặt  bài vè, xúi trẻ đọc rêu rao khắp xóm: Xưa cô chân lấm tay bùn / Quần xắn tới háng chôn thời hở ra / Nay cô khăn gấm lụa là / Chôn dù phủ kín vẫn là cái... chôn đen! Thằng cu Khoái cũng thuộc và nó là thằng tích cực dạy truyền miệng bài ấy cho bọn trẻ trong làng. Cả nhà anh Quỷnh biết chuyện đó.

Từ tấm bé, mẹ nó chỉ nói tới bố Yên. Nó nhìn thấy bố trên ảnh hiền từ. Bây giờ là một ông lạ hoắc, đen thui, cái cánh tay phải ngắn củn như một khúc cây ngoe nguẩy, cả ngày ít nói. Với vợ con chẳng ra giận cũng chẳng ra thương. Mẹ nó thì cứ thin thít dạ, vâng. Có điều gì cần nó thì gọi: Ê, nhỏ!… lấy cái này, làm cái kia... Một hôm nhà vắng, chỉ còn hai bố con. Anh ngồi hút thuốc bên tràng kỷ. Nó hì hụi ngồi làm mấy việc trong nhà. Anh nhìn nó đằm thắm, vẻ yêu thương lắm. Anh vẫy nó lại. Nó mạnh dạn tới gần. Anh nắm tay kéo nó vào lòng, vuốt tóc, xoa má, nhìn thẳng vào mắt nó. Anh thốt lên:

- Mày giống ai?

Nó thật thà:

- Không biết nữa!

Tay anh run lên. Mặt anh tái lại… rồi bất  chợt anh đẩy mạnh nó ra, co hai chân lên ngồi bần thần trên ghế, nước mắt anh ứa ra… Nó nghĩ: Hay là bố bị tâm thần, có những cơn động kinh kỳ lạ! Từ đấy nó không bao giờ lại gần anh nữa...

Có lần anh tâm sự với tôi:

- Mình rất thương cô ấy. Cô ấy không phải là người bội nghĩa, quên tình. Đời lính chúng mình nguy nan, sống chết, cực thật đấy nhưng lại rảnh rang. Có lo là chỉ lo cho cái thân mình. Người đàn bà ở nhà một mình lo trăm việc, cho mình thì ít, cho người thì nhiều, lại phải lo phòng thân nữa! Ngày xưa mới có chuyện mẹ Mốc. Bây giờ chẳng ai điên mà làm như vậy, nên mới dễ xẩy chân! Nhưng mình là thằng đàn ông, cậu ạ! Quên đi thì thôi, nghĩ tới… là máu dồn lên cổ! Có ăn nằm với nhau cũng như ăn cơm nhạt với mèo! Lại thêm lúc nào trước mắt mình cũng lù lù một cục nợ, càng gai con mắt! Thà rằng mình vô sinh, đi xin một đứa con nuôi. Đằng này nó đấy, hiển hiện đêm ngày, mở mắt ra, nhắm mắt lại đều thấy nó! Nó là kết quả của phút giây khoái lạc của thằng vô lại mà mình phải hứng chịu trong khi nó nhởn nhơ! Trong chiến tranh, mình đã qua bao nhiêu những làng xóm chết chóc, hoang tàn, gặp những đứa trẻ cù bất cù bơ, lang thang, hoang dại cùng với bầy chó đói! Mình phẫn uất, xót thương, ôm chúng vào  lòng che chở và chia từng khẩu phần ăn với chúng. Nhưng đấy là chuyện khác. Có lúc mình đã dằn lòng, nghĩ cũng xót xa cho nó, mình ôm lấy nó muốn vuốt ve, bảo bọc. Nhưng cậu biết không, cái mặt nó lồn lột giống ai như thế... làm mình muốn điên lên! Tôi vẫn biết rằng thằng bé vô tội. Nhưng mình và nó cứ dày vò nhau, thằng nào cũng khổ! Chị cậu tưởng như tôi thù oán nó, đêm ngày cứ khóc tỉ ti...

Thật tình là nếu tôi rơi vào cảnh ngộ như anh, tôi cũng không biết mình sẽ ứng xử thế nào. Tôi nghĩ ba con người ấy cùng sống chung dưới một mái nhà nhưng trong lòng mỗi người mang nỗi khổ đau riêng. Không người nào hiểu được cho nhau. Mà điều nghiệt ngã là không ai trút bỏ nỗi đau đi được và càng để lâu càng bị giằng xé, dày vò! Tôi nhớ lại hồi sống ở rừng, bị sốt rét phải uống thuốc quinine. Viên thuốc kẹt ở cổ, không dám phun ra, để lâu càng đắng, nuốt vào thì nhợn, có khi nôn thốc tháo ra tưởng chết. Nhưng trong lòng tôi thấy lo lo, vì người lớn tuổi cần phải sống dựa vào nhau nên người ta biết chịu đựng, rồi như cam phận. Còn  đứa trẻ đang lớn lên kia, sẽ tới một lúc nào đó, nó dứt tung ra...

 

Cho tới một ngày chị tôi có dấu hiệu mang thai thì cả nhà tôi ai cũng thở phào nhẹ nhõm, hy vọng rằng đó là cứu cánh duy nhất để ba người thân thiết của tôi ra khỏi vòng bế tắc. Nét mặt anh chị tôi nhiều khi tươi tỉnh. Trong nhà đã nghe thấy tiếng cười.

Thời gian hờ hững trôi đi, chẳng mong ngóng chi mà cũng chẳng lưu luyến điều gì. Đã lâu rồi, hôm nay thằng cu Khoái mới đến nhà tôi. Nó đã 15-17 tuổi rồi còn gì. Hồi bé thì nó trùng trục mà bây giờ thì nó cao nhẳng, đen thui, tóc tai lởm chởm, mặt mày hốc hác. Tay nó xách cái túi con con. Nó đi chơi hay nó đi đâu mà trông có vẻ buồn bã, âu sầu?! Mãi tới lúc ăn cơm, nó mới nói cho cả nhà nghe:

- Mẹ con đẻ em bé gái… mà cái tay nó làm sao… ngắn cũn, như mọc từ…  nách ra!

Tôi buột miệng:

- Dị tật bẩm sinh rồi!

Mọi người đặt bát xuống, miếng cơm còn nuốt dở! Mẹ tôi kêu trời:

- Thật là Trời hành con bé!

Bố tôi ngậm ngùi than:

- Thân phận người đàn bà khốn khổ đến thế là cùng!

Thằng bé chớp chớp con mắt. Tôi nghĩ tới anh Yên: Bố mày khổ đâu có thua gì!

Ngay chiều hôm ấy tôi bổ về thăm chị. Tôi bảo thằng cu Khoái cùng về. Nó buồn rầu nói:

- Bố con đuổi con đi!

Trong lúc vội vã, tôi dặn nó:

- Thôi, con cứ ở đây. Cậu về xem đầu đuôi sự việc!

Nhà vắng tanh. Tôi nhìn vào buồng, chị tôi nằm đấy, sụt sùi! Thấy tôi, chị ngồi bật dậy:

- Cậu ơi! Thằng Cu nhà tôi có ra ngoài ấy không?

- Có, nó đang ở nhà em!

Tôi đứng bên giường chị, nhìn đứa bé khăn tã bọc kín mình, chỉ lộ có cái mặt bé xíu nhăn nheo. Tôi tránh không hỏi gì. Anh Yên từ dưới bếp đi lên, không kìm được xúc cảm, anh gục đầu vào vai tôi, giọng nghẹn ngào:

- Tôi không chịu nổi, cậu ơi!

Vai anh rung rung. Tôi ôm lấy vai anh, tình cờ nắm vào mỏm cụt cánh tay, cái khúc thịt xương còn lại ấy teo quắt, run rẩy trong nắm tay tôi. Mắt tôi mờ nhòa. Chị tôi nói trong tức tưởi:

- Tại tôi, tại tôi tất cả! Bố mẹ tôi vụng đường tu nên tôi phải trả nợ kiếp này! Tôi làm sao cũng được. Chỉ thương cho thằng bé, nó chẳng có tội tình gì!

Lúc này anh đã bình tĩnh lại, vẻ vững vàng hơn, ngồi xuống bên giường vợ. Tôi hỏi:

- Chuyện thằng cu Khoái thế nào?

Chị nhìn anh không nói. Giọng anh rầu rầu:

- Đón con bé về nhà. Tôi như người mất trí. Nó cứ quấn lại hỏi: Cái tay em bé làm sao thế? Cái tay em bé sao lạ vậy? Tôi phát điên lên, không hiểu mình đã làm gì!

Chị giọng đầy nước mắt:

- Ông xô nó ra và hét ầm lên: Cút đi! Mày không phải là con tao!

Chị khóc thành tiếng và nói xen vào trong tiếng khóc nghe càng ai oán:

- Trời ơi! Nó là con tôi! Tôi mang thai và sinh ra nó trong đau khổ, đọa đầy. Tôi tủi nhục! Nó cũng chịu tủi nhục với tôi! Mang tiếng đứa con không cha, nó sống  sao được với bạn bè! Tôi cho nó dựa vào anh! Bấy lâu nay nó cũng bấu víu vào niềm tin ấy! Thế mà anh nỡ lòng nào! Anh đâu có thương xót gì tôi! Cu ơi! Đừng đi đâu cả! Mẹ không cần ai hết! Về đây với mẹ đi con!...

Anh ngồi sững sờ như một tượng đá mờ mờ trong bóng tối. Tôi nói vài lời an ủi cả anh và chị.

Ngày hôm sau tôi trở ra thành phố. Bố mẹ tôi bảo thằng cu Khoái không chịu ở đây, nó đòi về nhà nó...

 

Chừng nửa tháng sau, anh Yên đạp xe từ quê ra, hớt hải đưa tôi xem lá thư ngắn ngủi:

Mẹ!

Con đi đây! Mẹ đừng mất công tìm con vì con cũng chưa biết đi đâu! Không có con chắc bố hết buồn! Cả làng chỉ có mình mẹ thương con. Nhưng mẹ còn phải thương bố, thương em!

                               Thôi, con chào mẹ!

                               Con là thằng cu Khoái.

Anh nói như muốn khóc:

- Nó mà không về chắc cô ấy chết mất… mà tôi cũng không sống nổi!

Tôi đã linh cảm chuyện này rồi. Nó đang học lớp 9, ở cái tuổi dở dở ương ương này, thoát ra khỏi vòng tay cha mẹ là nguy lắm! Bao nhiêu là cạm bẫy, tai ương.

Cả tuần tôi với anh lùng sục các phố phường, bến xe, bãi chợ, bến tàu, lang thang các ngõ phố, gầm cầu... ngó trước nhìn sau... không thấy! Anh thẫn thờ trở về nhà.

Mấy tháng sau cũng không thấy tin tức gì của thàng cu Khoái. Anh nói với tôi giọng đầy lo lắng:

- Cậu ơi! Nếu nó bỏ nhà ra đi luôn không về thì tôi ân hận lắm! Nếu đời nó không may rơi vào hố sâu, vực thẳm, tôi thành người có tội! Ngày ngày nhìn đứa con tật nguyền, nhìn vợ sầu não, rũ rượi như người sắp chết, tôi cảm thấy như mình sống trong cảnh âm ty, địa ngục! Cậu có cách nào giúp tôi?!

Tôi đã trình cảnh sát, đăng báo nhắn tin trên đài  truyền hình:

“Bố là Nguyễn Đình Yên. Mẹ là Nguyễn Thị Bình. Nhắn con là Nguyễn Đình Khoái, 17 tuổi, bỏ nhà đi đã mấy tháng nay! Con về ngay. Bố mẹ sống không thể thiếu con. Ai biết cháu ở đâu nhắn về cậu Thành, nhà ở phố Lò Đúc số... Điện thoại số... Gia đình xin hậu tạ!”.

Anh Yên như ngồi trên tổ kiến lửa, đã đi đến các thành phố Hải Phòng, Quảng Ninh, Lào Cai, Lạng Sơn, Điện Biên... là những nơi hội tụ những người tha phương phía Bắc đến tìm sinh kế.

Những lần tôi có dịp vào công tác ở các tỉnh phía Nam, tôi đều kết hợp thăm dò tin tức cháu. Tôi đã đến tận khu kinh tế mới Lâm Đồng, Đồng Tháp, Cà Mau... là những nơi tập trung nhiều người từ phía Bắc vào đây lập nghiệp.

Chị tôi ngày một võ vàng. Bao nhiêu ngày tháng trông ngóng mỏi mòn khiến chị tôi thành người mê tín, hay đi lễ chùa gần chùa xa, thậm chí còn tin vào bói toán! Con bé đã lẫm chẫm biết đi. Nó giống mẹ. Khuôn mặt thật là đẹp. Mấy chiếc răng sữa trắng muốt. Nụ cười tươi tắn hồn nhiên. Đôi mắt sáng, to, trong vắt... đẹp như tranh. Nhưng từ hai nách nó trồi ra hai bàn tay ngắn cũn, vẫy vẫy như cánh con vịt con vươn lên đập đập, trông thật não lòng! Không biết ai đó gọi nó là cô Tiên cánh cụp cánh xòe rồi cũng thành danh, một vùng đều biết...   

                                                            

Bỗng một ngày nào trong làng phao lên một nguồn tin: Anh Quỷnh giờ đã lên làm tổng giám Đốc Công ty du lịch tỉnh. Anh giàu lắm, mở khách sạn ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Thằng cu Khoái đã lên tỉnh lén tìm bố đẻ và anh đưa nó vào Sài Gòn trông nom khách sạn cho anh. Nó vẫn kín đáo gởi tiền về cho mẹ nó. Nhiều người tò mò tìm cách dò la. Có người thèm muốn và tỏ ra ganh tỵ!

Lời nói gió bay. Miệng thế gian dựng chuyện, ai nghe ai bỏ mặc ai! Đúng là anh Quỷnh đang làm Tổng Giám Đốc Công ty du lịch, cả tỉnh đều biết. Người ta còn biết vợ anh làm ăn thua lỗ, nay chuyển qua làm giám đốc Nhà trẻ mồ côi SOS do quốc tế bảo trợ, việc này chẳng lỗ lã gì, cũng có lộc chút đỉnh, lại được tiếng thơm từ thiện như việc làm để phúc đức lại cho con cháu đời sau. Còn việc anh Quỷnh có khách sạn ở đâu thì ai mà biết được! Dù thằng cu Khoái có ở Sài Gòn hay ở trên trời dưới đất thì đã ai nhìn thấy nó? Thực tế là tình cảnh anh chị tôi ngày một khó khăn vì chị Bình sức khoẻ sa sút nhiều, anh Yên dù có ráng lên cũng đâu bằng được người ta, thằng cu Khoái nếu ở nhà cũng giúp được nhiều, nó chẳng chịu thua ai. Tiền của dành dụm được chút đỉnh lại đổ vào việc đi tìm kiếm nó. Nhưng người ta vẫn cứ nghĩ rằng anh chị tôi là người kín đáo.

Anh Yên mới đích thân đi một chuyến các tỉnh phía Nam về. Thằng bé vẫn như chim trời cá nước. Người anh hốc hác. Tóc anh bạc nhiều. Anh thành người trầm ngâm và hay suy lý. Anh nói:

- Mỗi khi nghĩ đến những ngày thằng bé sống cạnh mình với những hẹp hòi cố hữu, mình càng thấy thương nó và tự trách mình. Nỗi đau của mỗi người chỉ tự mình hóa giải được thôi. Nếu cứ lần tìm căn nguyên rồi đi đòi nợ thì đó là món nợ khó đòi vì con nợ… là tất cả mà cũng chẳng là ai! Mỗi người vừa làm con nợ, vửa là chủ nợ! Ở đời, người ta nợ lẫn nhau, tôi đã vỡ ra cái nợ đồng lần. Vợ mình hiểu được điều ấy trước mình!           

Đã ba, bốn năm rồi thằng cu Khoái vẫn đi biền biệt. Anh chị vẫn nhân ngày sinh của con bé Tý để cả nhà nghĩ tới thằng anh nó. Năm nay anh nói với tôi bằng nỗi lòng đau đớn và day dứt:

- Có thể là mình đã bị nhiễm chất độc hoá học chiến tranh! Mình không nên sinh đẻ nữa. Như con bé Tý này: Bây giờ thì khổ mình, sau này thì khổ nó! Để sinh ra nó là mình đã có lỗi. Nhưng cũng có thể châm chế được vì có ai ngờ được… Nhưng để một thằng bé lành lặn thơ ngây, cũng như mình phải gánh chịu nỗi oan nghiệt của chiến tranh lại không thể dựa vào mình mà phải lao vào cảnh bơ vơ lúc tuổi đời còn non nớt thì thật là tội lớn! Có một thời ta đã dám quên mình vì nghĩa lớn, nhưng rồi ta lại sa vào những suy nghĩ nhỏ nhen. Mình đòi phải được bù trừ lại những cái gì đã mất. Như bát cơm đổ xuống đất rồi, dẫu vớt lên đầy sạn vẫn vơi! Mình già rồi mà còn mông muội! Mình vẫn trong vòng xoáy của lòng ích kỹ, nhỏ nhen.

Chia sẻ nỗi khổ đau của anh, của chị, năm nào vào dịp ấy tôi cũng đăng lại tin tìm người thân trên báo, trên đài...

 

Bỗng một hôm tôi nhận được bức điện khẩn:

“Con bị nạn! Bố mẹ lên ngay tại Bệnh viện Bắc Cạn – Khoa Ngoại – Phòng A.

Con Khoái!”

Tôi phóng ngay về quê, kín đáo bàn với anh dấu chị. Tôi rủ anh ra Hà Nội và anh em tôi đi xe thẳng lên Bắc Cạn...

Thằng bé nằm ngay đơ, khắp người bột băng trắng xóa, mặt mày rách mướp. Anh cúi xuống run run:

- Phải Khoái không con?!

Từ cái khối trắng bột, băng ấy, hai mí mắt và cái môi động đậy, cái chân phải từ từ co lại, cái tay phải giơ lên vẫy vẫy nhẹ như cái lá úa rung rinh… Anh Yên ôm lấy cái thân hình thương tật ấy, khóc nấc lên...

Thằng Khoái theo người ta đi đãi vàng trong mỏ. Nó gặp trận mưa sạt núi, đất đá đè lên tưởng chết. Nó nghĩ là không sống được nên nhờ bạn gọi bố mẹ lên để nó được nhìn lần cuối. Nó kết nghĩa anh em với một thằng cùng cảnh ngộ: Bố chết trận. Mẹ làm lẽ người ta. Gia đình lục đục, nghèo khó, ghen tuông... nên nó bỏ đi hoang! Hai đứa gặp nhau từ những ngày đầu ở chợ Bến Nứa – Long Biên. Cùng cảnh bơ vơ cần nơi nương dựa, chúng mau gắn bó với nhau. Hai đứa cùng bảo nhau và cùng giữ cho nhau không sa đà vào trộm cướp, hút sách, lưu manh. Những người giàu có hạch sách, bức bách quá chúng không chịu. Những kẻ cùng cảnh nghèo khó, khốn cùng lại sách nhiễu, trấn áp lẫn nhau chúng cũng lảng ra. Trên đường kiếm sống chúng lang thang đây đó, từng vào Nam ra Bắc, lên rừng xuống biển, làm đủ thứ nghề: quét đường, hốt rác, bốc xếp, chạy quán, thợ hồ, sơn tràng, làm rẫy... Nhưng ở đâu khá lắm cũng chỉ đủ ăn ngày hai bữa nói chi đến chuyện dành dụm phòng khi ốm khi đau... Cuối cùng chúng theo người ta vào núi đãi sạn tìm vàng. Chúng hy vọng chắt chiu được chút nào đấy để thoát cảnh khốn cùng, tìm cách lập thân. Mặc dù bọn cai khống chế và o ép, hai thằng biết bảo nhau là vừa ý chúng, che chắn cho nhau tránh né được những con mắt tò mò, soi mói. Chúng thề cùng nhau giữ tròn tình trước nghĩa sau cho dù chẳng may đứa còn đứa mất.

Bây giờ gặp rủi ro, cũng may là thằng cu Khoái qua được cơn choáng chấn động ban đầu, chỉ bị gãy xương chân và tay trái. Chúng tôi bàn cùng đưa bạn nó về luôn...

Chuyến xe riêng đỗ ở bến chợ bên kia sông. Chiếc cầu bắc trên con sông đào chạy dọc theo làng cặp thẳng đầu đình. Mấy người chúng tôi luộm thuộm lôi thôi dìu nhau kềnh càng bước trên cầu.

Chiếc xe du lịch bóng loáng từ trong làng chạy ào ra bóp còi inh ỏi. Chúng tôi líu ríu nép sát thành cầu. Chiếc xe vùn vụt chạy qua. Trong xe lố nhố mấy người. Mắt thằng cu Khoái vậy còn tinh:

- Trông như vợ chồng nhà ông Quỷnh!

- Anh Yên đáp lại tự nhiên:

- Kệ họ, chẳng liên quan gì tới mình!

Chiếc  xe dừng lại ở đầu cầu phía chợ. Anh tài xế thò đầu ra ngoái lại nhìn rồi quay xuống ghế sau nhận xét:

- Hình như ông Yên và thằng cu Khoái đã về!

Người đàn bà to béo quay ra nhổ phì phì, nước bọt văng vào mấy chú nhóc đang bám sau xe:

- Mặc xác cha chúng nó!

Người đàn ông to lớn, bệ vệ ngồi bên:

- Mấy đứa này về là hỏng việc!

Chiếc xe rồ máy lao đi. Mấy chú nhỏ tức khí la lối um xùm, quay lại kể chuyện tùm lum, có điều thêm thắt.

Trong, ngoài sân đình, đám đông người bàn tán xôn xao. Thấy chúng tôi, người ta kéo tới vây quanh:

- A! Thằng cu Khoái!

- Ô… Ồ… Ông Yên đã tìm được thằng cu Khoái về đây!

- Nó ở đâu về mà trông thảm hại thế này?

Người ta đổ xô đến hỏi han, giúp đỡ. Kẻ mang người vác, lúc cõng, lúc khiêng thằng cu Khoái rầm rập về nhà. Chị Bình vồ lấy con, nấc lên la lối:

-  Ối giời đất ơi… Ai làm con tôi đau đớn, khốn khổ thế này?!

Nhà mỗi lúc một đông, vòng trong, vòng ngoài, chật ních. Anh Yên đã mệt, càng muốn đứt hơi vì cứ phải kể đi kể lại không biết bao nhiêu lần chuyện tìm được thằng con...

Chán chê, người ta quay về bàn chuyện thời sự làng xóm chiều nay. Chẳng là anh Quỷnh về làng nói “Mặt trận” xã mời các vị cao niên, chức sắc uy tín trong làng đến bàn việc trên Tỉnh dự định di dời làng lên núi, lấy mặt bằng liên doanh với nước ngoài xây dựng khu giải trí. Anh nói đây là dịp để bà con làng xã đổi đời:

- Bỗng dưng tiền vào một cục. Có bột sẽ gột nên hồ! Con cái lớn lên có việc làm, có lương, có bổng!

Người gật, người lắc, người ừ hử chưa biết thế nào. Họ nhận xét:

- Xem ý ông Quỷnh kiên quyết lắm… Ông ấy còn tiến xa!

Một bà chép miệng:

- Ối dào, chẳng biết tiến tới đâu? Đi xe về làng bóp còi inh ỏi! Kia kìa, ai đã viết câu đối ngay trước cổng nhà... gì nhỉ?!

Một thằng bé nhanh nhẩu đọc luôn: Xe – bố cu bóp còi! Ghe – mẹ đĩ tốc váy!

Người này người nọ mỗi người đế một câu, cười nói râm ran. Một ông cụ buồn rầu nói xen vào:

- Vậy người chết chôn ở đâu ?!

Thằng cu Tèo, bạn thân của thằng cu Khoái dạo nào giải thích luôn:

- Ông khỏi lo đi, mai kia chết người ta đốt điện, còn có tý tro, chứa trong cái bình nhỏ xíu, để đâu chả được. Vợ con thương nhớ tối ủ vào lòng càng ấm!

Mọi người nhao nhao, mạnh ai nấy nói:

- Eo ơi… ghê lắm!

- Cần gì, có tiền có tất, mình đang nghèo xác xơ!

- Liệu rồi mình sẽ ở đâu?! Xưa kia đất rộng sông dài sao các cụ chọn nơi này? Đất phải có cái thế mới mở mang, phát triển trường tồn. Sống lâu, đất cũng như người, xa nhau khó lắm!

- Người ta sống lâu cũng chỉ bảy tám mươi năm! Đời cua cua máy, đời cáy cáy đào!

- Liên doanh làm chơi ăn thật tội gì!

Khi mọi người đã mỏi mồm, chán tai, sự ồn ào lắng xuống. Thằng cu Khoái ngồi lên, dựa lưng vào  mẹ, nó còn mệt mỏi nhưng nói nhẩn nha rành rọt:

- Người nghèo có chút của, sớm muộn rồi cũng chết! Làm giàu khó lắm, phải có bạn bè thân thế. Mình dân quê, ai chơi?! Chơi dại càng mau chết! Làm đầy tớ tưởng như dễ dàng? Có làm như trâu ngựa cũng chẳng chủ nào dùng lâu! Người giàu nào cũng muốn bỏ một lấy mười và khi không chắc chân thì họ rút… Rồi ra mình lại bơ vơ, tay trắng! Cái chòi không có mà ở. Đến chết còn phải trông vào bố thí! Chi bằng sẵn ao vườn ruộng đất, mình chí thú làm ăn, giàu thì đừng ai mơ tới, nhưng nghèo hèn thì chẳng đến mình. Nhà cửa đề huề, gia đình êm ấm... Ai có tài thì hãy ra đi, nhưng phải có cái gốc để mà nhờ cậy...như tôi!

Nó ôm choàng lấy mẹ…                              

Mọi người cứ ngồi im suy ngẫm, chỉ nghe được tiếng sùi sụt của chị Bình tôi... Anh Yên đến, đặt con bé Tý ngồi bên, xoa tay con bé rồi lại xoa chân thằng bé, anh nói vẻ hài lòng tin tưởng:

- Nhà mình mỗi người mỗi cảnh, nhưng bốn cái lá rách biết đùm lại cũng thành một cái lá lành! Bố mẹ già rồi, giao lại tất cả cho con!

Tôi nhìn thằng cu Khoái ngồi đấy, người còn xanh xao, hốc hác nhưng đôi mắt nó không còn vẻ u buồn như hồi nào. Nó nhìn bố, nhìn em đằm thắm. Tôi nghĩ vậy là anh chị tôi còn có phúc. Bây giờ khi mỗi người đã quên đi nỗi đau của riêng mình để chỉ nghĩ đến nhau, họ thấy cần nhau, tin nhau, yêu nhau và cùng dựa vào nhau để đứng được trên cuộc đời này.

 

NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN

– 2000 –

 

(đón đọc Chương 4: MỘT CHUYỆN TÌNH)

Link http://sachhiem.net/VANHOC/N/NguyenvThinh_NCMTb.php

26-Apr-2017

_________________

• Các bài của Nguyễn Văn Thịnh: link http://sachhiem.net/VANHOC/N/ListNVTh.inc.php

Trang Văn Học