|
toàn bài: 1
2
Ngày 14 tháng 5 năm 2008
Khai mạc
Từ khách sạn Cửu Long trên đường Trần Duy Hưng, Lê
và tôi lững thững đi bộ tới Trung tâm Hội nghị Quốc
gia ở khu Mỹ Đình, Hà Nội. Trên đường đi, nhiều nhóm
tu sĩ và Phật tử áo nâu, áo lam cũng cùng đi về phía
hội trường. Hôm nay là ngày khai mạc chính thức của
Lễ hội Phật đản Liên hiệp quốc Vesak 2008 tại Hà
Nội.
Dẫu biết rằng mình chỉ là một Phật tử thầm lặng
không có thẻ vào cửa Hội trường, nhưng chúng tôi vẫn
đến khu Mỹ Đình như người “hành hương” trong chính
tâm thức của mình. Tôi muốn có niềm an lạc được gần
gũi và vái chào những bậc cao tăng, danh sĩ Phật
giáo từ những vùng chùa tháp, tự viện xa xôi trên
thế giới đổ về tụ hội nơi đây. Bản thân mình và bằng
hữu đều có chung một kinh nghiệm thực chứng rằng,
được ngồi gần những bậc tu hành cao tăng tôn túc như
đức Ðạt Lai Lạt Ma… chẳng hạn, là được tiếp cận một
vùng “phát sóng” đầy năng lượng tâm linh. Con người
như chiếc máy thu thanh bắt được tần số của làn sóng
điện đang phát thanh một chương trình tuyệt diệu nào
đó. Đối thể được tiếp nhận nhờ đó mà thu nhận được
một nội dung đầy hoan lạc vô hình.
Khi đến trước cổng vào số 2 của Trung tâm Hội nghị,
đã có quá nhiều người đang lũ lượt đứng chờ kiểm tra
an ninh vào cửa. Đọc trên thẻ tham dự to bằng bàn
tay của các tham dự viên đeo lủng lẳng trước ngực,
tôi nhận ra có 4 hạng khách tham dự khác nhau được
ghi bằng tiếng Anh, chữ lớn, đứng xa cũng đọc được:
(1) Organizer (ban tổ chức), (2) Staff (nhân viên),
(3) Delegate (phái đoàn) và (4) Observer (người tới
xem).
Số người đứng bên ngoài như chúng tôi lên tới hàng
nghìn. Phía ngoài cổng chính, màu áo vàng tươi của
phía quý thầy và sư cô phái tịnh độ; áo màu đất sậm
và vàng nâu đỏ của quý sư phái thiền tông; áo màu đỏ
tươi khoác bên ngoài áo vàng của các nhà sư miền Ấn
Độ, Tích Lan; màu áo nâu và lam đơn giản của tăng
thân làng Mai và Phật tử từ bốn phương kéo về… đã
làm tươi mới những con đường vào cổng chính của Hội
trường.
Được chiêm ngắm dáng vẻ thanh thản an nhiên, nhìn nụ
cười sống thực và hòa ái; được xá tay đảnh lễ và
nhận đáp lễ giản đơn, an tịnh với các nhà sư – có vị
mặt đẹp như Ca Diếp, có vị mặt dáng “sư tử hống” mà
lặng thinh như Đạt Ma Tổ Sư… – chưa từng gặp, chưa
từng quen từ những phương trời xa lạ về trên mảnh
đất nầy, đối với chúng tôi, quả là một ân đức tâm
linh. Dưới nắng vàng và trời cao lồng lộng, có hội
trường nào đủ lớn để chứa hết lòng kính ngưỡng; để
gói cho tròn cảm nhận thương yêu và giữ mãi được
niềm tin trong chính nó! Có bài diễn văn, lời phát
biểu, cuộc tham luận nào nói hết muôn triệu lời
trong một lời và một lời chứa muôn triệu lời bằng sự
im lặng như hải triều âm trong lúc nầy.
Trong biển áo vàng, nâu, lam… tôi tìm được an lạc
ngay giữa dòng đời xao động. Người ta có thể đang
hạnh phúc với một đối tượng tinh thần mà đâu cần
phải dính mắc với hình thức hay tổ chức. Khi chúng
tôi dọn mình cung kính đảnh lễ chư tôn đức và các
thiện hữu ngay ngoài cổng chính rồi thanh thản quay
về lại phòng trọ không một chút băn khoăn vì không
vào cổng được thì thực tế đời thường lại kéo về thực
tại. Phan Duy Nhân ở đâu gọi tới. Tiếng anh có vẻ
vui mừng như một đáp số vừa tìm ra cho một bài tính
khó:
“A ha! Ta tìm được cách cho ông vào rồi…”
Tôi còn đang thắc mắc chưa biết cách nào – bàng môn
tả đạo hay chánh đạo – thì Duy Nhân đã nói tướng
trong phôn:
“Cậu cứ chờ mình trước cổng số 2, nghe!”
Nhân đến, lục lọi ra được tấm thẻ “Organizer” dành
cho ban tổ chức vừa chìa ra cho tôi, vừa băn khoăn
rút lại:
“Ơ, mà không được. Đeo ‘ban tổ chức mượn tạm’ sợ gặp
nhiều lôi thôi phiền não lắm.”
Khi Duy Nhân nhường cái thẻ “Delegate” mà anh đang
đeo cho tôi thì lại gặp thêm một trở ngại lớn. Dẫu
có muốn đi tu chăng nữa thì cũng phải phát huy
truyền thống dân tộc “đói no có thiếp, có chàng…”
chứ làm sao tôi nỡ vào hội trường một mình, để lại
nhà tôi… bơ vơ ngoài cửa thành Hà Nội được! Thế
nhưng rồi, cái “duyên” ở đâu cũng đến! Duy Nhân cuối
cùng cũng xoay xở cho cả hai chúng tôi đều được vào
dự. Tuy muộn màng nhưng còn hơn không vào được.
Hội thảo
Trung tâm Hội nghị Quốc gia ở khu Mỹ Đình, Hà Nội là
một hội trường lớn, được xây dựng mỹ thuật và hiện
đại theo tiêu chuẩn “convention center” thời tự động
và điện tử hóa của thế giới. Phải vất vả đi hết ba
vòng sáu tráo loanh quanh mới kiếm ra được hai ghế
trống hàng sau cùng. Có vẻ như tu sĩ chiếm đại đa
số. Màu áo vàng chiếm ngự phần lớn các dãy ghế trong
hội trường.
Sau khi đã an định được chỗ ngồi, quan sát kỹ, tôi
hơi ngạc nhiên pha một chút cảm khái vì trên sân
khấu làm lễ đài và khắp nơi trong hội trường chỉ có
hoa đèn và cờ Phật giáo. Tuyệt nhiên không có sự xen
lấn của một mảng chính trị nào. Hình ảnh, màu sắc và
cung cách mà tôi đã bị dị ứng nặng nề trong suốt đời
mình là sự trộn lẫn chính trị vào tôn giáo. Đặc
biệt, hình ảnh “khó nuốt” nhất là tượng đức Phật
đem… phụ diễn bên cạnh tượng lãnh tụ; hay khẩu hiệu
sáo mòn, rỗng tuếch đem đặt với lời kinh cao viễn.
Biểu tượng tâm linh để quán niệm và chiêm bái nhất
định không thể bị hạ thấp ngang tầm với biểu tượng
hành động để cổ xúy đấu tranh và chiến đấu được. Đạo
pháp và dân tộc là một cuộc đồng hành nhân bản.
Không thể có một cái đuôi chủ nghĩa chính trị nào áp
đặt vào mà vừa vặn cả.
Sau lễ chào cờ Phật giáo, thả chim bồ câu và bong
bóng màu ngoài trời, phía trước hội trường, lễ khai
mạc chính thức diễn ra trong hội trường.
Lễ khai mạc kéo dài suốt buổi sáng ngày 14-5-2008
với 15 tiểu mục và quy tụ trên 20 lượt các nhân vật
quan trọng trực tiếp hay đại diện cho các vị nguyên
thủ quốc gia lên diễn đàn phát biểu. Nội dung các
bài phát biểu, nói chung, đều phản ánh ngôn ngữ lễ
nghi, hình thức, ngoại giao rất hoàn chỉnh và tròn
trịa. Tất cả đều mở đầu bằng thông điệp chào mừng,
đến lời ngợi ca truyền thống từ bi, hỷ xả, vị tha,
hiếu hòa và hiếu hạnh của đạo Phật trong dòng lịch
sử nhân loại, lịch sử Việt Nam và giáo sử đạo Phật.
Hầu như khía cạnh chính trị đã được gọt giũa và giảm
thiểu tối đa nên đã tạo được một không khí tương đối
đượm tính tôn giáo thuần túy trong suốt phần khai
mạc, mặc dầu có sự tham dự của các nhân vật cao cấp
Liên hiệp quốc, Phật giáo thế giới và ông Nguyễn
Minh Triết, chủ tịch nhà nước Việt Nam đương quyền.
Buổi chiều, chương trình nghiêng về phần hội thảo,
nhưng thực chất cũng chỉ quy tụ diễn thuyết của các
nhân vật được cộng đồng quốc tế biết tới nhiều như:
- Hòa thượng tiến sĩ Dharmkosajaras, chủ tịch sáng
lập IOC (Ủy ban Tổ chức Quốc tế) thuyết trình chủ
đề: “Phật giáo với vấn đề xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”.
- Thượng tọa Recard Mathieu – một tiến sĩ sinh vật
học rất nổi tiếng với tác phẩm Le moine et le
philosophe (Thiền sư và triết gia) – thuyết
trình về chủ đề: “Chánh niệm và sự chuyển hóa Tâm
thức” (Mindfulness and Transformation of mind). Có
thể nói, đây là một bài thuyết trình minh triết, trí
tuệ nhưng cũng thực dụng và khả thi nhất trong các
bài thuyết trình cùng buổi chiều của phần hội thảo.
- Pháp sư Học Thành, phó Hội trưởng kiêm tổng thư ký
Hiệp hội Phật giáo Trung Hoa. Bài nói bằng tiếng Tàu
nên tôi không hiểu được nội dung mà chỉ “thấy” thân
ngữ có vẻ hùng biện và âm ngữ lên bổng, xuống trầm
rất chi là… đại hán Trung Quốc.
- Hòa thượng Thích Nhất Hạnh với bài thuyết trình
nhan đề “Vai trò của Phật giáo trong việc ngăn ngừa
chiến tranh”. Bài nói hoàn toàn bằng tiếng Anh. Ngồi
xung quanh thầy là 500 tăng thân và cư sĩ Làng Mai –
(nghe nói) đến từ 40 nước – trình bày thiền ca 30
phút trước khi thuyết trình. Nội dung bài thuyết
trình là một “tập đại thành” những bài có đề tài
tương tự mà thầy đã thuyết trình trong và ngoài
nước.
Tối đến là một chương trình văn nghệ xuất sắc gồm
ca, múa, nhạc, hoạt cảnh liên quan đến tinh thần
Phật giáo, Phật đản và văn hóa dân tộc.
Nhìn lại trong ngày và nội dung chương trình, có thể
nói đây là ngày tiêu biểu nhất cho Vesak 2008. Về
mặt kỹ thuật, chương trình và sự sắp xếp thời gian,
bố trí trình tự cho các tiểu mục rất vừa vặn và ăn
khớp nhau. Về nội dung, tôi hơi ngạc nhiên và thất
vọng vì sự vắng bóng của tuổi trẻ Phật tử Việt Nam
và thế giới trên diễn đàn, cũng như trong nội dung
thuyết trình và hội thảo. Mặc dầu đây là một lễ hội
tôn giáo quốc tế, nhưng nước đăng cai cũng cần biểu
tỏ quốc tính văn hóa và lễ nghi riêng của tôn giáo
mình trong bối cảnh lịch sử và văn hóa riêng của
mình. Trong phần nghi lễ, tôi chẳng thấy một chút
“mày vẻ” Phật giáo Việt Nam nổi lên ở đâu cả.
Ngày khai mạc và những nghi thức hành lễ đã xác định
rõ nét hơn tính chất hội nghị của Vesak mà tôi đã
trình bày ở phần 1 của “Nhật Ký Vesak 2008”.
Ngày 15-5-2008
Đây là một ngày dành trọn cho chương trình “Hội thảo
theo chuyên đề”. Chủ đề chính cho các nhóm hội thảo
là “Phật giáo và xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Ngôn ngữ tiêu chuẩn là tiếng Anh. Năm chuyển
ngữ chính là: Việt, Hoa, Đại Hàn, Thái. Có 7 phòng
họp cho 7 nhóm hội thảo về 7 chủ đề khác nhau:
- Vai trò Phật giáo trong việc ngăn ngừa chiến
tranh.
- Sự đóng góp của Phật giáo về công bằng xã
hội.
- Phật giáo nhập thế và sự phát triển.
- Chăm sóc môi trường: Giải pháp của Phật giáo
về sự thay đổi khí hậu.
- Vấn nạn gia đình và giải pháp của Phật giáo.
- Diễn đàn giáo dục Phật giáo: Sự kế thừa và
phát triển.
- Phật giáo trong thời đại kỹ thuật số.
Để có thể theo dõi một cách khách quan và tổng quát
cuộc hội thảo Phật giáo quốc tế về những đề tài quá
ư là… trời biển nầy, tôi tự bố trí cho mình một kế
hoạch “chạy xô” nhỏ, mang tích chất quan sát nhiều
hơn là tham gia. Đó là nội trong ngày, phải đi cho
hết cả 7 phòng họp. Không khí tham gia nô nức lúc
ban sáng chỉ vài giờ sau là “rút nước” dần. Sau đợt
giải lao buổi sáng lúc 10 giờ, tôi để ý là có quá
đông hội thảo viên người Việt không trở lại vào
phòng mà xuống lầu và ra sân… tiếp tục giải trí.
Trong số người “lêu lổng” đó có tôi. Lý do đơn giản
là vì “trình độ hội thảo cao quá, leo không tới, với
không cùng…,” như lời một cư sĩ miền Trung mà tôi
gặp ngoài sân phát biểu. Thật thế, ngôn ngữ toàn
bằng tiếng Anh, tuy có “headphone” chuyển ngữ, nhưng
khi mang thử còn khó hiểu hơn là nghe trực tiếp bằng
tiếng Anh! Các tham luận viên hướng dẫn diễn đàn
phần lớn là các giáo sư, học giả từ các trường đại
học ở Úc, Pháp, Mỹ, Ấn Ðộ…, những vấn đề đưa ra thảo
luận phần lớn ở trình độ đại học và nặng tính kỹ
thuật, học thuật nên rất trừu tượng. Trong lúc đó,
nhiều tham dự viên người Việt là các đạo hữu từ các
vùng núi rừng, thôn dã xa xôi, ngữ pháp tiếng Việt
còn chưa thông, nói chi đến tiếng Tây, tiếng Mỹ. Quả
thật đây là một trở ngại đòi hỏi sự chọn lựa không
đơn giản cho người tổ chức.
Buổi chiều, số người tham gia hội thảo trong các
phòng họp càng giảm xuống. Có nhiều phòng, chỉ toàn
người nước ngoài thảo luận với nhau như đang ở tại
một “campus” của trường đại học Mỹ” không bằng.
Vì chỉ đóng vai trò của một quan sát viên hơn là một
tham dự viên, nên tôi không hiểu được là cuối cuộc
hội thảo, những thành viên tham dự nghiêm túc đã gặt
hái được bao nhiêu lợi lạc về mặt kiến thức lẫn kinh
nghiệm. Tuy nhiên, phải ghi nhận rằng, ban tổ chức
đã tạo được một bầu không khí hội thảo hội đủ (hay
có khi còn có vẻ trội hơn) những tiêu chuẩn cơ bản
của một cuộc hội thảo quốc tế. Nếu các thành viên
Việt Nam ta cảm thấy chưa đạt yêu cầu thì cũng chả
sao vì “nhịn miệng đãi khách” vẫn là truyền thống
khả ái nhất của dân ta mà!
Thành quả
Vesak 2008 hẳn nhiên có một ảnh hưởng và hệ quả lâu
dài tại Việt Nam vì cái biển hiệu “quốc tế” hay
“Liên hiệp quốc” của nó. Tuy biển hiệu tự nó chỉ
giới hạn trong giá trị tượng trưng, thế nhưng trong
hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, đó là dấu chỉ đậm nét
nói lên mối quan hệ giữa thế quyền và giáo quyền.
Người “được tất cả” là nhà nước Việt Nam vì Vesak
2008 chỉ thêm chứ không bớt gì cả về mặt tiếng tăm,
quyền lực và bộ mặt của chính quyền Việt Nam trước
cộng đồng quốc tế.
Vesak 2008 sẽ có một tác động sâu sắc và rộng khắp
về mặt tâm lý, tổ chức và tương tác đối với Phật
giáo Việt Nam trong nước. Nếu hiện trạng phân hóa
như hiện nay không được cải thiện thì tác động này
sẽ nghiêng về mặt tiêu cực và có khi dẫn đến tai họa
phân tranh nội bộ, biến đạo Phật Việt Nam thành một
“tôn-giáo-chính-quyền”. Và khi một tôn giáo lớn biến
thành công cụ ngoan ngoãn dưới trướng của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và ban Tôn giáo Trung ương thì cả
đạo Phật lẫn chính quyền đều bất lợi: Chính quyền
mất một đạo Phật vốn dĩ là nguồn suối và chỗ dựa tâm
linh phong phú, góp phần tích cực trong quá trình
điều hòa, hóa giải, xây dựng đời sống tinh thần và
un đúc những giá trị phi vật thể to lớn cho xã hội.
Như mục sư Jerry Lancaster trong hệ phái Tin Lành
Presbyterian của Mỹ đã phát biểu rằng, chính phủ Mỹ
đã tiết kiệm được hàng trăm tỷ đô la mỗi năm cho nhà
tù, bệnh viện, cơ quan giải quyết tệ nạn xã hội là
nhờ hệ thống tôn giáo độc lập, lành mạnh và hữu hiệu
trên toàn nước Mỹ. Ngược lại, một tôn giáo công cụ
sẽ có tác dụng không hơn một “thằng Mõ” đối với
chính quyền. Sức mạnh tôn giáo bấy giờ sẽ khó mà đi
xa hơn là sự tập trung chấp nhặt hình thức lễ nghi
và sự chú mục vào việc phát triển rộn đám về mặt cơ
sở vật chất trước mắt.
Tổ chức Vesak 2008 vừa qua có vẻ như càng tạo thêm
cơ hội kết chặt thêm mối quan hệ giữa quý thầy trong
Giáo hội Phật giáo Việt Nam (thân chính quyền) với
giới lãnh đạo chính quyền; đồng thời vắng bóng quý
thầy trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
(chống chính quyền). Trong dịp nầy, tôi có nhiều
thời gian và cơ hội tìm hiểu và đàm đạo với quý
Thầy, quý sư ni khắp nơi trong nước về tham dự.
Thoạt đầu, tôi yên chí rằng chư tăng ni về Hà Nội dự
Vesak 2008 đều đương nhiên là thành viên của Giáo
hội Phật giáo Việt Nam thân nhà nước mới được mời về
kinh phó hội như thế. Tuy nhiên, thực tế đã nói lên
một hướng khác, hướng chánh đạo phá vô minh. Trong
số hơn mấy chục quý thầy và sư cô mà tôi được duyên
lành tiếp xúc, tuyệt nhiên chưa có một vị nào tự
nhận rằng mình là người thuộc về Giáo hội Phật giáo
Việt Nam thân chính quyền hay thuộc về Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất chống chính quyền cả. Tất
cả chỉ một lời mà khi nhớ lại trên đường bay về Mỹ,
tôi đã âm thầm đưa tay chùi nước mắt; rằng, họ là
Phật tử xuất gia, là trưởng tử của Như Lai, đã
nguyện xả bỏ hết cuộc đời hạnh phúc thường tình để
tu hành tìm phương giải thoát. Hạnh phúc đời thường
đã không màng tới, thì sá gì những chức danh, lợi
lộc, quyền thế hư ảo giữa đời thường mà phải chạy
theo hay bị dính mắc. Quý thầy và sư cô mà tôi được
gặp đã nói lên một lời nhất quán rằng, đã là con
Phật thì họ ở với Phật, tuyệt nhiên không ở phía nào
– bên nầy hay bên kia – cả.
Kết thúc Vesak 2008, người Phật tử chỉ mong rằng,
qua lễ hội nầy, chính quyền Việt Nam đương nhiệm có
cơ hội hiểu về đạo Phật hơn. Và hy vọng, người Phật
tử có dịp gặp nhau, tiếp cận với giới tu sĩ, thiện
tri thức Phật giáo từ nhiều nơi trên thế giới để
giúp mình thông thoáng và dễ hài hòa hơn trong cuộc
sống. Với đạo Phật thì tất cả đều chỉ là phương
tiện. Sự cảm thụ và quyền biến phương tiện không ai
giống ai. Cùng một cây roi nhưng đó là phương tiện
tốt đối với ông thầy; mà lại là phương tiện xấu đối
với đứa học trò bị phạt. Cùng một trận mưa nhưng hạt
lúa nảy mầm mà cây nấm bị ung thối. Vesak là một
phương tiện. Mong rằng, sẽ chẳng có ai được lên Niết
bàn hay bị rơi xuống Địa ngục của tâm lý và tri lý
chính mình vì một phương tiện phù du như thế cả.
Stockton, ngày Phật Đản 2552
Những bài cùng tác giả:
1 2
3
Các bài về Vesak 2008
|
|