Tìm hiểu nhân VN trở thành

thành viên không thường trực UN Security Council

(Cà Phê Tối)

Gửi bài này cho bạn bè 04 tháng 11, 2007

 

 

LIÊN HIỆP QUỐC

 

Liên Hiệp Quốc (còn gọi là Liên Hợp Quốc, tên gọi xuất xứ từ tiếng Hán 联合国), viết tắt là LHQ, là một tổ chức quốc tế bao gồm nhiều thành viên quốc gia trên thế giới. Hầu như mọi quốc gia trên thế giới đều là thành viên của tổ chức này. Tuy được thành lập vào ngày 24 tháng 10 năm 1945 tại San Francisco, California (dựa vào Hội nghị Durbarton Oaks Washington, D.C.) nhưng Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (General Assembly) đầu tiên, tham dự bởi 51 nước, không được tổ chức cho mãi đến ngày 10 tháng 1 năm 1946 (tại Nhà họp chính Westminster Luân Đôn). Tiền thân của LHQ là Hội Quốc Liên (League of Nations), vốn là một sáng kiến của Tổng thống Hoa Kỳ Wilson sau Đệ Nhất Thế Chiến. Điểm nực cười là Hoa Kỳ tuy sáng lập nhưng lại không chính thức làm hội viên, hơn thế quy chế hoạt động của hội lại lỏng lẻo, các cường quốc như Anh, Pháp, Nga, Đức, Ý, Nhật tham gia vốn chỉ để tranh giành ảnh hưởng cho mình. Dù hội đạt được một số thành tựu đáng kể trong công cuộc giải phóng phụ nữ cũng như những hoạt động nhân đạo nhưng Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ và buộc Hội quốc liên phải giải tán. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, chứng kiến sự tàn phá khủng khiếp của chiến tranh cũng như sự cần thiết của một tổ chức quốc tế để đứng ra nhận vai trò điều phối hòa bình cũng như khắc phục kinh tế, giải quyết hậu quả chiến tranh, Liên Hiệp Quốc được thành lập. Hội viên của LHQ là tất cả những "nước yêu hoà bình", chấp nhận bổn phận trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc và, dựa theo ý kiến của tổ chức, có khả năng đáp ứng những bổn phận đó. Đại hội đồng của LHQ sẽ chọn một thành viên mới dựa theo lời khuyên của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Cho đến tháng 9 năm 2003, LHQ có 191 hội viên; xin xem Danh sách Hội viên Liên hiệp quốc.

Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc ngày 20 tháng 9 năm 1977.


 

1/ Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc

Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc là một trong sáu cơ quan chính của Liên Hiệp Quốc. Được thành lập bởi các quốc gia thành viên, Đại Hội đồng triệu tập các kỳ họp thường niên dưới quyền của vị chủ tịch được bầu chọn trong vòng các đại biểu đến từ các quốc gia thành viên.

Là cơ quan duy nhất của Liên Hiệp Quốc có đại diện của tất cả thành viên, Đại Hội đồng có chức năng của một diễn đàn để các thành viên đề đạt sáng kiến trong những vấn đề về hoà bình, tiến bộ kinh tế và nhân quyền. Cũng có thể đề xuất các cuộc nghiên cứu, đưa ra những lời khuyên, cổ xuý cho nhân quyền, soạn thảo và phát triển công pháp quốc tế và xúc tiến những chương trình kinh tế, xã hội, văn hoá và giáo dục.

Sơ lược

Kỳ họp thường niên của Đại Hội đồng thường bắt đầu vào ngày thứ Ba thứ ba của tháng 9 và kết thúc vào giữa tháng 12 với chức danh Chủ tịch Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc được bầu vào lúc khởi đầu của mỗi kỳ họp. Kỳ họp đầu tiên được triệu tập ngày 10 tháng 1 năm 1946 tại Westminster Central Hall tại Luân Đôn với các đại biểu đến từ 51 quốc gia.

Đại Hội đồng biểu quyết bằng cách bỏ phiếu trong các vấn đề quan trọng - đề xuất hoà bình và an ninh; tuyển chọn thành viên cho các cơ quan; thu nhận, đình chỉ và trục xuất thành viên và các vấn đề ngân sách - cần được thông qua bởi đa số 2/3 số đại biểu có mặt và bỏ phiếu. Các vấn đề khác được quyết định bởi đa số quá bán. Mỗi quốc gia thành viên chỉ có một phiếu. Ngoại trừ việc thông qua các vấn đề về ngân sách bao gồm việc chấp nhận một thang bậc thẩm định, nghị quyết của Đại Hội đồng không có giá trị ràng buộc đối với thành viên. Đại Hội đồng có thể đề xuất về các sự việc trong khuôn khổ của Liên Hiệp Quốc, ngoại trừ các vấn đề liên quan đến hoà bình và an ninh thuộc thẩm quyền xem xét của Hội đồng Bảo an. Trên lý thuyết, qui chế một quốc gia, một lá phiếu cho phép các nước nhỏ với dân số tổng cộng chiếm chỉ 8% dân số thế giới có khả năng thông qua nghị quyết với đa số 2/3.

Suốt thập niên 1980, Đại Hội đồng trở thành diễn đàn cho "đối thoại Bắc-Nam" - thảo luận về các vấn đề nảy sinh giữa các nước đã công nghiệp hoá và các nước đang phát triển. Những vấn đề này được đưa lên hàng đầu vì cớ sự phát triển thần kỳ và vì cớ diện mạo đang thay đổi của thành phần thành viên Liên Hiệp Quốc. Năm 1945, Liên Hiệp Quốc có 51 thành viên, nay con số này là 191, với hơn hai phần ba là các quốc gia đang phát triển. Chiếm phần đa số, các nước đang phát triển có khả năng ấn định nghị trình của Đại Hội đồng (thông qua phương pháp phối hợp các nhóm quốc gia như Nhóm G77), chiều hướng các cuộc tranh luận và thực chất của các quyết định. Đối với nhiều quốc gia đang phát triển, Liên Hiệp Quốc là nguồn cung ứng cho họ ảnh hưởng ngoại giao và diễn đàn chính cho những sáng kiến ngoại giao.

Những kỳ họp đặc biệt

Những kỳ họp đặc biệt có thể được triệu tập theo yêu cầu của Hội đồng Bảo an, của đa số thành viên Liên Hiệp Quốc, hoặc của một thành viên nếu được đa số tán đồng. Một phiên họp đặc biệt được triệu tập vào tháng 10 năm 1995 với sự tham dự của những người đứng đầu chính phủ để kỷ niệm 50 năm thành lập Liên Hiệp Quốc. Một kỳ họp đặc biệt khác được tổ chức vào tháng 9 năm 2000 để chào mừng thiên niên kỷ mới và xúc tiến Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Thêm một kỳ họp đặc biệt nữa (Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới 2005) được triệu tập vào tháng 9 năm 2000 kỷ niệm lần thứ 60 ngày thành lập Liên Hiệp Quốc và thẩm định sự tiến bộ của Mục tiêu Thiên niên kỷ, cũng như thảo luận đề án In Larger Freedom (Tự do hơn nữa) của Kofi Annan.

Đại Hội đồng được phép hành động để duy trì hoà bình quốc tế nhằm hành xử trách nhiệm chính yếu của mình trong trường hợp Hội đồng Bảo an không có khả năng làm điều này, thường là do bất đồng giữa các thành viên thường trực. Nghị quyết "Đoàn kết cho Hoà bình", được thông qua năm 1950, dành cho Đại Hội đồng quyền triệu tập kỳ họp đặc biệt trong trường hợp khẩn cấp nhằm đưa ra những biện pháp chung - kể cả quyền sử dụng lực lượng vũ trang – trong trường hợp hoà bình bị xâm phạm hoặc có tiến hành xâm lấn. Cần có 2/3 số thành viên ủng hộ đề xuất. Những kỳ họp đặc biệt trong trường hợp khẩn cấp theo qui trình này đã được triệu tập trong mười trường hợp. Hai kỳ họp gần đây nhất, lần trước vào năm 1982 và lần sau từ 1997 đến 2003, đã được triệu tập nhằm phản ứng lại những hành động của Israel. Kỳ họp thứ chín xem xét tình hình tại những lãnh thổ Ả Rập đang bị chiếm đóng sau khi Israel đơn phương gia hạn luật pháp, quyền tài phán và quyền cai trị tại Cao nguyên Golan. Kỳ họp thứ mười khởi phát bởi sự chiếm đóng Khu Đông Jerusalem và các vấn đề Palestine.

Tại kỳ họp đặc biệt của Đại Hội đồng triệu tập năm 1947, Oswaldo Aranha, khi ấy là trưởng phái đoàn Brasil tại Liên Hiệp Quốc, khởi đầu truyền thống vẫn còn duy trì đến ngày nay, theo đó diễn giả đầu tiên của diễn đàn quốc tế quan trọng này luôn luôn là người Brasil.

Cải tổ

Ngày 21 tháng 3 năm 2005, Tổng Thư ký Kofi Annan đệ trình một bản tường trình, In larger Freedom, phê phán Đại Hội đồng là quá chú trọng đến sự đồng thuận đến nỗi đã thông qua những nghị quyết kém phẩm chất chỉ để phản ảnh "mẫu số chung thấp nhất của các quan điểm dị biệt". Ông cũng chỉ trích Đại Hội đồng chỉ cố thiết lập một nghị trình quá bao quát thay vì tập chú vào "những vấn đề căn bản chủ chốt như tình trạng di dân quốc tế và một công ước toàn diện về khủng bố đã được bàn luận từ lâu". Annan đề nghị thu gọn nghị trình, cơ cấu các uỷ ban và thủ tục của Đại Hội đồng; củng cố vai trò và thẩm quyền của chủ tịch Đại Hội đồng; nâng cao vai trò của những định chế dân sự và thiết lập cơ chế tái thẩm định những quyết định của các uỷ ban nhằm giảm thiểu những uỷ thác không được cấp ngân sách và phương cách quản trị vi mô của Ban Thư ký Liên Hiệp Quốc. Annan cũng nhắc nhở các thành viên Liên Hiệp Quốc về trách nhiệm của họ phải thực thi cải tổ nếu họ muốn nhìn thấy Liên Hiệp Quốc ngày càng hoạt động hiệu quả hơn.

 

2/Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc

 

Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc là cơ quan chính trị quan trọng nhất và họat động thường xuyên của Liên Hiệp Quốc, chịu trách nhiệm chính về việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Những nghị quyết của Hội đồng Bảo an được thông qua mà phù hợp với Hiến chương Liên Hiệp Quốc thì bắt buộc các nước hội viên của Liên Hiệp Quốc phải thi hành. Hội đồng Bảo an không phục tùng Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.

 

Mọi nghị quyết của Hội đồng Bảo an chỉ được thông qua với sự nhất trí của 5 nước thành viên thường trực là Hoa Kỳ/a>, Anh, Pháp, Nga Trung Quốc. Mỗi khi có một nghị quyết của Hội đồng Bảo an không được thông qua do 1 nước thường trực bỏ phiếu chống, ta nói rằng nước đó đã phủ quyết.

Ngoài 5 thành viên thường trực, còn có các nước thành viên không thường trực. Từ 1946 đến 1965, Hội đồng Bảo an chỉ có 6 thành viên không thường trực nhưng con số này sau đó được mở rộng lên 10 thành viên với định mức cho mỗi khu vực như sau: châu Phi, châu Á, châu Mỹ, Tây Âu mỗi khu vực 2; Đông Âu: 1 và suất còn lại luân phiên giữa châu Phi và châu Á (hiện đang đến phiên của châu Phi). Các nước thành viên không thường trực được chia thành 2 nhóm với nhiệm kỳ 2 năm xen kẽ nhau, tức mỗi năm có 5 thành viên ra đi để nhường chỗ cho 5 gương mặt mới. Các thành viên hiện tại gồm Argentina, Tanzania, Hy Lạp, Nhật Bản, Đan Mạch, Cộng hoà Congo, Ghana, Peru, Qatar Slovakia, trong đó 5 nước xếp đầu sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào cuối năm nay.

Cùng với sự đổi thay của thế giới, Hội đồng Bảo an đang đứng trước yêu cầu phải "làm mới bản thân", trong đó quy mô của số thành viên thường trực là một vấn đề gây tranh cãi. Theo một kế hoạch cải tổ được đề xuất gần đây, số thành viên thường trực có thể sẽ tăng thêm 5 quốc gia nữa, trong đó các ứng cử viên được đề cập nhiều nhất là Đức, Nhật Bản, Brasil, Ấn Độ và 1 quốc gia châu Phi (có thể là Nam Phi hoặc Nigeria). Gần đây, đại diện của một số quốc gia gợi ý rằng có thể 5 thành viên thường trực mới sẽ không được trao quyền phủ quyết. Những đề xuất trên vẫn còn nằm trong vòng tranh cãi.

Lịch sử

Phiên họp đầu tiên của Hội đồng Bảo an được triệu tập ngày 17 tháng 1 năm 1946 tại Church House, Luân Đôn.

Thành viên

Thành viên của Hội đồng Bảo an phải có mặt thường trực tại trụ sở LHQ để Hội đồng có thể tổ chức họp bất cứ lúc nào. Yêu cầu này của Hiến chương LHQ được chấp nhận nhằm chỉ ra sự yếu kém của Hội Quốc Liên vì cớ tổ chức đó không có khả năng phản ứng kịp thời khi xảy ra khủng hoảng. Chức vụ Chủ tịch Hội đồng Bảo an chỉ kéo dài một tháng và được bổ nhiệm luân phiên, đảm nhiệm những công việc như thiết lập nghị trình, chủ toạ các buổi họp và xem xét, đôn đốc khi xảy ra khủng hoảng. Chức vụ này được bổ nhiệm theo thứ tự trên bảng chữ cái tên của các thành viên (theo tiếng Anh).

Có hai loại thành viên tại Hội đồng Bảo an: Thành viên thường trực và Thành viên tuyển cử

Thành viên thường trực

Hội đồng có 5 thành viên thường trực:

·                     Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa

·                     Cộng hoà Pháp

·                     Liên bang Nga

·                     Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland

·                     Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ

Nguyên thủy, các thành viên thường trực được chọn từ những cường quốc chiến thắng sau Đệ nhị Thế chiến/a>: Cộng hoà Trung Hoa (Đài Loan), Pháp, Liên Xô, Anh quốc và Hoa Kỳ. Năm 1971, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được chọn để thế chỗ của Cộng hoà Trung Hoa theo nghị quyết 2758 của Đại hội đồng LHQ. Năm 1991, Liên bang Nga dành quyền thành viên LHQ của Liên Xô trước đây, kể cả chiếc ghế thường trực tại Hội đồng Bảo an.

Hiện nay chỉ có năm thành viên này là những quốc gia được phép sở hữu vũ khí hạt nhân chiếu theo Hiệp ước Cấm phổ biến Vũ khí Hạt nhân. Hiệp ước này không có giá trị pháp lý toàn cầu, vì không phải tất cả các quốc gia có vũ khí hạt nhân đều ký phê chuẩn hiệp ước. Mặc dù không phải do sở hữu vũ khí hạt nhân mà các quốc gia này dành được quyền thành viên thường trực, lý do này đôi khi được dùng để biện minh cho vị trí của họ tại Hội đồng. Ấn Độ, Pakistan, có lẽ cả Bắc Triều Tiên Israel (dù Israel chưa bao giờ thừa nhận có vũ khí hạt nhân) là những quốc gia đã thực sự có vũ khí hạt nhân bên ngoài khuôn khổ Hiệp ước Cấm phổ biến Vũ khí Hạt nhân.

Mỗi thành viên thường trực đều có quyền phủ quyết, quyền này có thể được dùng để phủ quyết bất kỳ nghị quyết nào. Một phiếu chống có thể phủ quyết ý kiến của đa số (trên lý thuyết, một phiếu phủ quyết chỉ là một phiếu chống, dù vậy chỉ cần một phiếu chống đồng nghĩa với việc nghị quyết không thể được thông qua).

Thành viên tuyển cử

Có 10 thành viên khác được bầu chọn bởi Đại hội đồng cho nhiệm kỳ hai năm, khởi đầu từ ngày 1 tháng 1. Mỗi năm có 5 vị trí bị thay thế. Các thành viên được chọn bởi những nhóm các quốc gia trong cùng một khu vực, rồi được phê chuẩn bởi Đại Hội đồng LHQ. Nhóm khu vực châu Phi chọn 2 thành viên; các nhóm Bắc/Nam Mỹ, Á châu và Tây Âu chọn 2 thành viên cho mỗi nhóm; và khu vực Đông Âu chọn cho mình 1 thành viên. Vị trí thứ mười được chọn luân phiên mỗi hai năm một lần giữa các nhóm Á châu, Phi châu mà hiện nay là Phi châu.

Cải tổ qui chế thành viên

Lâu nay vẫn có nhiều cuộc tranh luận bàn về việc gia tăng số lượng thành viên thường trực. Các quốc gia mạnh mẽ đòi hỏi cho mình vị trí thường trực tại Hội đồng là Nhật Bản, Đức và Ấn Độ. Trong thực tế, Nhật và Đức là hai quốc gia đóng góp nhiều thứ nhì và thứ ba cho Liên Hiệp Quốc. Mặt khác, Đức và Ấn Độ có mặt trong số các quốc gia góp quân nhiều nhất cho các sứ mạng gìn giữ hoà bình của LHQ.

Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan đã yêu cầu một nhóm cố vấn nghiên cứu để đưa ra những đề xuất cải tổ LHQ vào cuối năm 2004. Một giải pháp đang được xem xét là nâng số thành viên thường trực lên con số mười. Năm ứng viên được đề cử là Nhật Bản, Đức, Ấn Độ, Brasil (được biết dưới tên Nhóm G4), vị trí còn lại dành cho châu Phi (có phần chắc là Nigeria hoặc Cộng hòa Nam Phi), hoặc là một đại diện từ Liên minh Ả Rập. Ngày 21 tháng 11 năm 2004, nhóm G4 đã ra một thông cáo chung ủng hộ lẫn nhau trong nỗ lực dành bốn vị trí thường trực này, cùng với một vị trí dành cho châu Phi. Pháp và Hoa Kỳ tuyên bố ủng hộ ý định trên. Hiện nay đề xuất này đã được chấp thuận bởi hai phần ba thành viên Đại hội đồng với 128 phiếu.

Nhật Bản

Nhật là thành viên với mức đóng góp lớn thứ nhì cho ngân sách thường niên của LHQ. Số tiền nước Nhật chi cho ngân sách LHQ lớn hơn tổng số đóng góp của Anh, Pháp, Trung Quốc và Nga. Nhật cũng có tên trong danh sách những quốc gia tặng dữ lớn nhất cho Quỹ Hỗ trợ Phát triển – ODA (đóng góp bởi Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước Tây Âu, viện trợ cho chính phủ các nước đang phát triển nhằm khuyến khích phát triển kinh tế và phúc lợi tại các quốc gia này). Không có gì đáng ngạc nhiên khi Nhật Bản được xem là ứng viên triển vọng nhất cho ghế thành viên thường trực.

Dù vậy, nỗ lực của Nhật Bản dành vị trí thường trực tại Hội đồng Bảo an LHQ gặp phải sự chống đối mạnh mẽ từ các quốc gia Đông Á, nhất là Trung Quốc, Hàn Quốc Bắc Triều Tiên. Riêng Mông Cổ lại ủng hộ Nhật Bản trong nỗ lực này. Vẫn thường diễn ra nhiều cuộc biểu tình chống Nhật tại Trung Quốc và Hàn Quốc. Dù những quốc gia này nối kết sự phản kháng của họ với quá khứ của Nhật Bản trong thời kỳ chiến tranh, nhiều người tin rằng nguyên do ẩn giấu đằng sau, đặc biệt trong trường hợp của Trung Quốc, là những tranh chấp về lãnh thổ.

Trong khi đó, có nhiều quốc gia khác bày tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ dành cho Nhật Bản. Những nước trong khu vực ủng hộ Nhật gồm có Campuchia, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Singapore, Philippines Việt Nam. Những quốc gia khác như Úc, Brasil, Pháp, Đức và Anh cũng bày tỏ lập trường tương tự.

Dù Hoa Kỳ mạnh mẽ ủng hộ việc dành cho Nhật Bản chiếc ghế thường trực tại Hội đồng Bảo an, nước này lại bác bỏ đề xuất dành quyền thường trực trọn gói cho nhóm G4+1, mà Nhật lại rất cần sự ủng hộ của nhóm này.

Tương tự, Trung Quốc không muốn Nhật có được vị trí thường trực. Hai thành viên có quyền phủ quyết này có thể gây nhiều khó khăn cho những cơ may của Nhật. Nga, dù thích thú với việc Nhật là một đối trọng quyền lực với Trung Quốc trong khu vực, lại tỏ ra quan tâm đến mối quan hệ chặt chẽ giữa Nhật và Hoa Kỳ.

Đức

Đức là thành viên đóng góp nhiều thứ ba cho ngân sách LHQ. Do vậy, cùng với Nhật Bản, nước này kiên quyết dành vị trí thường trực tại Hội đồng Bảo an.

Pháp công khai ủng hộ Đức: "Sự đóng góp tích cực của Đức, tư thế của nước này như một đại cường, ảnh hưởng quốc tế của Đức - nước Pháp muốn thấy quốc gia này được công nhận bằng một ghế thường trực tại Hội đồng Bảo an", Tổng thống Pháp Jacques Chirac đã nói như thế trong một bài diễn văn đọc tại Berlin năm 2000. Cựu Thủ tướng Đức, Gerhard Schröder cũng thừa nhận rằng Nga, cùng các nước khác, ủng hộ Đức. Ngược lại, Ý Hà Lan đề nghị nên dành vị trí ấy cho Liên minh châu Âu (EU), để EU trở nên thành viên Âu châu thứ ba tại Hội đồng, cùng với Anh và Pháp. Nhưng cựu ngoại trưởng Đức Joschka Fischer nói rằng Đức sẽ chấp nhận một ghế đại diện cho châu Âu miễn là Anh và Pháp tỏ dấu cho biết họ sẽ từ bỏ vị trí của mình. Ngược lại, Đức, với tư cách là một nước lớn hơn, cần có một ghế tại Hội đồng. Như vậy, trong năm 2004 nước Đức đẩy mạnh hơn chiến dịch vận động của mình. Tháng 8 năm 2004, cựu thủ tướng Gerhard Schröder bày tỏ lập trường hết sức rõ ràng: "Nước Đức có quyền dành một ghế (tại Hội đồng Bảo an)". Nỗ lực của Đức dành được sự ủng hộ của Nhật, Ấn Độ, Brasil, Pháp, Anh, Nga và những nước khác. Thủ tướng đương nhiệm của Đức, Angela Merkel chưa có ý kiến về vấn đề này.

Ấn Độ

Ấn Độ, một cường quốc có vũ khí hạt nhân, có dân số đông vào hạng thứ sáu thế giới, vì vậy, là nền dân chủ lớn nhất thế giới. Nước này cũng là nền kinh tế lớn thứ tư thế giới tính theo sức mua tương đương (purchasing power parity - PPP), và đang duy trì một lực lượng vũ trang lớn thứ nhì trên thế giới. Ấn Độ nhận được sự ủng hộ công khai của một số thành viên thường trực như Pháp, Anh và Nga.

Lúc đầu, Trung Quốc chống Ấn Độ vì những lý do địa-chính trị, gần đây Trung Quốc dần dần thay đổi lập trường từ tiêu cực sang trung dung rồi trở nên tích cực. Ngày 11 tháng 4 năm 2005, Trung Quốc chính thức ủng hộ việc dành cho Ấn Độ một ghế thường trực tại Hội đồng Bảo an, miễn là không có phiếu phủ quyết nào. Mặc dù Hoa Kỳ không chính thức ủng hộ Ấn Độ - vì nhiều lý do, trong đó có một số không rõ ràng – Hoa Kỳ đang đàm phán riêng với Ấn Độ nhằm ủng hộ nước này (nghĩa là Hoa Kỳ không dùng quyền phủ quyết). Nếu tính đến số dân đông đảo và sức mạnh kinh tế chính trị đang phát triển, Ân Độ là một ứng viên nhiều triển vọng cho vị trí thường trực tại Hội đồng. Một nhân tố khác giúp ích cho cuộc vận động của Ấn Độ là sự kiện nước này là một trong những thành viên sáng lập của Hội đồng và đã tham gia vào các hoạt động của cơ quan này như các chiến dịch tại Cộng hòa Dân chủ Congo, Kypros, Campuchia, Yemen, Somalia, Rwanda, Namibia và những nơi khác.

Brasil

Brasil cũng là một ứng viên triển vọng cho vị trí thường trực tại Hội đồng. Có những chỉ dấu cho thấy Hoa Kỳ tỏ ý muốn ủng hộ Brasil miễn là không có phiếu phủ quyết. Một chọn lựa khả thi khác là Brasil có thể chia sẻ với Argentina cùng một ghế thành viên thường trực. Brasil có những thế mạnh của mình khi muốn dành quyền thường trực tại Hội đồng. Brasil là quốc gia có diện tích lớn nhất và dân số đông nhất châu Mỹ La tinh. Tuy vậy, nước này không sử dụng tiếng Tây Ban Nha, ngôn ngữ có khả năng kết nối Brasil với phần còn lại của Nam Mỹ (ngoại trừ Guyana). Brasil cũng nhận được sự ủng hộ từ Nga.

Một thành viên đến từ thế giới Hồi giáo

Kể từ sau khi Đế quốc Ottoman sụp đổ, khu vực Trung Đông chịu ảnh hưởng sâu đậm của Hồi giáo là vùng đất triền miên xảy ra những tranh chấp quốc tế. Những xung đột bùng nổ từng hồi từng lúc trong vùng buộc Hội đồng Bảo an LHQ phải can thiệp qua thông nhiều cuộc tranh luận và nhiều nghị quyết. Do đó, triển vọng giới thiệu một quốc gia Hồi giáo cho vị trí thường trực tại Hội đồng làm nhiều người lo âu, nhất là khi thành viên này được ban cho đặc quyền phủ quyết.

Bên ngoài thế giới Hồi giáo, đặc biệt là tại Hoa Kỳ, những nhà bình luận nêu lên các quan ngại cho rằng một thành viên Hồi giáo có thể sẽ dùng quyền phủ quyết để ngăn cản LHQ sử dụng vũ lực tại Trung Đông hoặc tại biên giới giữa các quốc gia Hồi giáo (như trường hợp Kashmir Chechnya), như vậy sẽ dẫn đến việc vô hiệu hoá sức mạnh của LHQ trong khu vực này. Tình trạng thiếu dân chủ tại các quốc gia Trung Đông cũng là một lý cớ khác được các bình luận gia phương Tây đưa ra nhằm chống lại ý tưởng mời các quốc gia này gia nhập câu lạc bộ những thành viên thường trực với đặc quyền phủ quyết.

Đồng thời, đề án cải tổ của nhóm G-4 đã chối bỏ quyền có đại diện thường trực tại Hội đồng Bảo an LHQ cho hơn 1,6 tỉ người Hồi giáo trên khắp thế giới. Đây cũng là vấn đề gây nhiều tranh cãi trong thế giới Hồi giáo và tạo ra ảnh hưởng tiêu cực cho uy tín của LHQ khi tổ chức này tham gia giải quyết các điểm nóng xảy ra tại Trung Đông và trong thế giới Hồi giáo. Tháng 6 năm 2005, các ngoại trưởng thuộc Tổ chức Hồi giáo (OIC) ra tuyên bố yêu cầu một ghế thường trực cho thế giới Hồi giáo tại Hội đồng Bảo an LHQ.

Những chống đối gần đây dành cho đề án cải tổ của nhóm G-4 có phần xuất phát từ vấn đề tế nhị vừa nêu. Hoa Kỳ và một vài quốc gia phương Tây chống lại bất cứ đề án nào dành quyền phủ quyết cho các thành viên mới. Trong Liên minh Phi châu, Ai Cập dẫn đầu sự phản kháng chống lại một đề án của Nigeria, theo đó chấp nhận một phiên bản của đề án G-4, phiên bản này đồng ý không dành quyền phủ quyết cho thành viên mới đến từ thế giới Hồi giáo.

Châu Phi

Cho đến nay chưa có quốc gia châu Phi nào dành được ghế thường trực tại Hội đồng Bảo an, điều này được xem là nguyên do chính thúc đẩy cuộc vận động cho châu Phi một vị trí tại Hội đồng. Những luận cứ sau đây có thể được xem là những lý cớ có tính thuyết phục giúp châu Phi dành được một vị trí thường trực tại Hội đồng:

·                    Châu Phi là lục địa đông dân và lớn thứ nhì sau châu Á (đại diện cho châu Á, Trung Quốc đã có ghế thường trực và Nhật Bản cũng đang vận động cho mình một ghế).

·                    Châu Phi có số thành viên LHQ nhiều hơn bất cứ châu lục nào khác.

·                    Châu Phi, như một toàn thể, không phải là một mối đe doạ cho hoà bình thế giới.

Hiện nay châu Phi nhận được sự ủng hộ của Ấn Độ, hầu hết các nước Nam Mỹ (Liên minh Bắc-Nam), cùng với Nhật Bản và nhóm G-4. Anh và Pháp cũng kêu gọi dành quyền đại diện cho châu Phi.

Dù chưa có quốc gia châu Phi nào chính thức ứng cử cho vị trí thường trực tại Hội đồng Bảo an, [Cộng hòa Nam Phi]] và Nigeria được xem là những lựa chọn triển vọng nhất. Nam Phi có nền kinh tế lớn nhất và phát triển nhất châu lục, trong khi Nigeria là nước đông dân nhất. Nigeria đang trở nên một trong những quốc gia phát triển nhanh nhất thế giới nhờ vào trữ lượng dầu mỏ khổng lổ của mình.

Quyền phủ quyết

Nghị quyết của Hội đồng Bảo an với 15 thành viên về các vấn đề căn bản – chẳng hạn như nghị quyết kêu gọi đưa ra những biện pháp trực tiếp nhằm giải quyết một tranh chấp - cần có phiếu thuận của 9 thành viên. Một phiếu chống - phiếu phủ quyết - của một thành viên thường trực sẽ ngăn cản việc chấp thuận dự thảo nghị quyết, ngay cả khi bản dự thảo này có đủ số phiếu thuận theo qui định. Không tham gia bỏ phiếu không được xem là phủ quyết. Kể từ lúc ban đầu, Trung Hoa (Đài Loan/Trung Quốc) đã 5 lần sử dụng quyền phủ quyết; Pháp, 18 lần; Nga/Liên Xô, 122 lần; Anh, 32 lần; và Hoa Kỳ, 80 lần. Phần lớn phiếu phủ quyết của Liên Xô được đưa ra trong mười năm đầu tiên của Hội đồng Bảo an. Con số phiếu phủ quyết kể từ năm 1984 là: Trung Quốc, 2; Pháp, 3; Nga, 4; Anh, 10; và Hoa Kỳ, 42.

Quyền lợi các thành viên không thuộc Hội đồng

Một quốc gia thành viên LHQ nhưng không phải là thành viên Hội đồng Bảo an có thể được tham gia các cuộc thảo luận của Hội đồng trong trường hợp Hội đồng xét thấy có liên quan đến quyền lợi của quốc gia này. Trong những năm gần đây, đặc quyền này được giải thích thoáng hơn, cho phép nhiều quốc gia tham dự các cuộc thảo luận của Hội đồng. Các quốc gia không phải thành viên Hội đồng thường được mời tham dự các cuộc họp khi Hội đồng xét thấy có liên quan.

Vai trò của Hội đồng Bảo an

Theo chương Sáu của bản Hiến chương, "Giải quyết các tranh chấp vì mục đích hoà bình", Hội đồng Bảo an "có thể điều tra bất cứ vụ tranh chấp nào, hoặc bất cứ tình huống nào có thể dẫn đến sự xung đột quốc tế hoặc khơi mào một cuộc tranh chấp". Hội đồng có thể "đề xuất những thủ tục hoặc phương pháp điều chỉnh" nếu Hội đồng xét thấy tình huống có thể gây nguy hại cho hoà bình và an ninh quốc tế. Những đề xuất này có tính ràng buộc đối với các thành viên LHQ.

Chương Bảy dành cho Hội đồng quyền hạn lớn hơn để chọn lựa biện pháp cần thiết trong những tình huống "đe dọa hoà bình, xâm phạm hoà bình hoặc tiến hành xâm lấn". Trong những tình huống như thế, Hội đồng không bị giới hạn trong việc đưa ra những đề xuất nhưng có quyền hành động, bao gồm cả việc sử dụng lực lượng vũ trang "để duy trì hoặc phục hồi hoà bình và an ninh quốc tế". Điều này là nền tảng cho hoạt động quân sự của LHQ tại bán đảo Triều Tiên năm 1950 trong Chiến tranh Triều Tiên và việc sử dụng quân lực liên minh tại Iraq Kuwait năm 1991. Chiếu theo Chương Bảy các quyết định, như cấm vận kinh tế, có giá trị ràng buộc trên các thành viên LHQ.

Vai trò của LHQ trong nền an ninh chung của quốc tế được định nghĩa bởi Hiến chương Liên Hiệp Quốc, dành cho Hội đồng Bảo an quyền lực để:

·            Điều tra bất cứ tình huống nào đe doạ hoà bình quốc tế;

·            Đề xuất những thủ tục nhằm giải quyết các tranh chấp cách hoà bình;

·            Kêu gọi các quốc gia thành viên gián đoạn hoàn toàn hoặc một phần quan hệ kinh tế cũng như các tiếp xúc viễn thông, bưu chính, hàng không, hàng hải, hoặc cắt đứt quan hệ ngoại giao; và

·            Thi hành nghị quyết của Hội đồng bằng các biện pháp quân sự, nếu xét thấy cần thiết.

Liên Hiệp Quốc đã giúp ngăn chặn nhiều vụ bùng nổ vũ lực quốc tế để không trở thành những xung đột rộng lớn hơn. Tổ chức này cũng giúp mở lối giải quyết những tranh chấp qua thương thảo nhờ chức năng của mình như là một trung tâm thảo luận và thương thuyết, cũng như thông qua các hoạt động được LHQ bảo trợ như sứ mạng tìm hiểu sự thật, các nhà trung gian hoà giải, và những quan sát viên các cuộc ngừng bắn. Lực lượng Gìn giữ Hoà bình/a> của LHQ, với binh sĩ và trang bị được cung ứng bởi các quốc gia thành viên, thường chứng tỏ đủ khả năng hạn chế hoặc ngăn chặn những cuộc xung đột. Chìa khoá dẫn đến những thành công của nỗ lực gìn giữ hoà bình của LHQ là thiện chí của các bên trong một cuộc xung đột muốn tiến tới một giải pháp hoà bình qua một tiến trình chính trị khả thi.

 

3/Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc

 

Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc là chức danh đứng đầu Ban Thư ký, một trong những bộ phận chính yếu của Liên Hiệp Quốc. Theo Hiến chương Liên Hiệp Quốc, chức danh Tổng Thư ký được bổ nhiệm bởi Đại Hội đồng căn cứ trên sự tiến cử của Hội đồng Bảo an. Chức vụ này được xem là vị trí có nhiều ảnh hưởng nhất tại LHQ.

Tổng Thư ký đương nhiệm

Đang đảm nhiệm chức vụ này là Kofi Annan. Được bổ nhiệm ngày 1 tháng 1 năm 1997, ông tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai khởi đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 2002. “Tôi là thủ lĩnh cổ động viên (cheerleader), người cổ vũ, người bán hàng, người thu nợ, cha xứ nghe xưng tội và còn nhiều vai trò khác mà tôi chưa nhận ra”, Annan đã mô tả công việc của mình như thế.

Vai trò

Chức danh Tổng Thư ký được qui định trong Bản Hiến chương như là “viên chức quản trị chính” của tổ chức này. Lúc đầu nhiều người cho rằng vai trò của Tổng Thư ký chỉ nên giới hạn trong lãnh vực hành chính. Song vị Tổng Thư ký đầu tiên, Trygve Lie, đã khẳng định vị trí của ông là phát ngôn và hành xử như một nhà lãnh đạo và một nhà hoà giải. Từ đó, các tổng thư ký thường phát biểu về các vấn đề toàn cầu cũng như sử dụng chức vụ của mình để dàn xếp các mối bất hoà. Điều này phù hợp với định ý ban đầu của Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt, người đã có nhiều ảnh hưởng trên việc hình thành LHQ, cho rằng tổ chức này nên được lãnh đạo bởi một “nhà hoà giải của thế giới”.

Nhiệm kỳ và qui trình tuyển chọn

Chức danh này được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ năm năm. Các tổng thư ký thường phục vụ hai nhiệm kỳ liên tiếp, riêng Boutros Boutros-Ghali chỉ ngồi ở vị trí này trong một nhiệm kỳ. Tổng Thư ký được bổ nhiệm bởi Đại Hội đồng, dựa trên sự tiến cử của Hội đồng Bảo an. Do vậy, sự tuyển chọn phụ thuộc vào phiếu phủ quyết của các thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an. Chức danh này không được bầu chọn theo cách phổ thông đầu phiếu.

Theo qui ước, chức vụ Tổng Thư ký được chọn tuần tự theo các khu vực địa lý, nhưng vì Boutros Boutros-Ghali từ Ai Cập chỉ phục vụ một nhiệm kỳ nên một người đến từ Phi châu, Kofi Annan, được chọn để kế nhiệm. Khi Annan hoàn tất nhiệm kỳ đầu tiên, các quốc gia thành viên, vì có ấn tượng tốt với thành tích của ông, đã quyết định dành cho ông nhiệm kỳ thứ hai mà không tính đến yếu tố nên chọn tổng thư ký kế nhiệm từ Á châu. Cho đến nay vẫn chưa có tổng thư ký nào đến từ Bắc Mỹ hoặc châu Đại Dương.

Hầu hết các tổng thư ký là những ứng viên thoả hiệp xuất thân là viên chức trung cấp và ít có tiếng tăm. Những chính trị gia có thanh danh thường được giới thiệu cho chức vụ này, nhưng hầu như luôn luôn bị gạt bỏ. Chẳng hạn như các nhân vật tiếng tăm như Charles de Gaulle, Dwight Einsenhower Anthony Eden được xem xét cho chức tổng thư ký đầu tiên của LHQ nhưng cuối cùng đều bị khước từ và một người đến từ Na Uy, Trygve Lie, dành được sự đồng thuận để được bổ nhiệm vào chức vụ này. Phụ thuộc vào nền chính trị quốc tế và cơ chế vận hành của nền chính trị thoả hiệp, vì vậy dễ dàng tìm thấy nhiều điểm tương đồng trong qui trình và tiêu chuẩn tuyển chọn chức vụ Tổng Thư ký với các vị trí lãnh đạo thuộc các tổ chức quốc tế khác, trong đó nên kể đến qui trình bầu chọn Giáo hoàng cho Giáo hội Công giáo La mã.

Các ứng viên triển vọng

Đã có những đồn đại cho rằng cựu tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton và cựu tổng thống Chile Ricardo Lagos đang tính trở thành Tổng Thư ký LHQ. Các ứng viên khác có thể là Gro Harlem Brundtland, cựu thủ tướng Na Uy, hiện đang là tổng giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), và Vaira Vike Freiberga, tổng thống Latvia. Dù vậy, nhiều người cho rằng đã đến lúc chức Tổng Thư ký LHQ nên dành cho châu Á. Cả Clinton lẫn Lagos cũng bác bỏ tin đồn họ có ý định ra tranh chức vụ này. Hiện vẫn chưa có công bố nào, nhưng đằng sau hậu trường Trung Quốc đang vận động ráo riết cho phó thủ tướng Thái Lan, Surkiart Sathirathai, ông này cũng nhận được sự ủng hộ từ Hoa Kỳ, NgaASEAN. Trong khi đó,Jayantha Dhanapala của Sri Lanka cũng được xem là một ứng viên có nhiều triển vọng. Dhanapala là nhân vật có tiếng tăm trong nội bộ LHQ nhờ vào những đóng góp của ông trong các vấn đề giải trừ quân bị.

Có ý kiến được nhiều người đồng tình cho rằng đã đến lúc nên bổ nhiệm một phụ nữ vào chức vụ tổng thư ký. Trong suốt 60 năm qua, tất cả tổng thư ký đều là nam giới. Thủ tướng Tân Tây Lan, Helen Clark, và Toàn quyền nước này, Dame Silvia Cartwright, được xem là các ứng viên triển vọng sau khi được giới thiệu bởi tổ chức phụ nữ quốc tế Equality Now.

Đề xuất bất thành

Đầu thập niên 1960, nhà lãnh đạo Xô viết Nikita Sergeyevich Khrushchyov dẫn đầu một nỗ lực nhằm bãi bỏ chức vụ Tổng Thư ký. Với đa số áp đảo của các quốc gia phương Tây, các nước này chọn người của họ cho chức vụ này, vì vậy những người này thường tỏ ra có thiện cảm với phương Tây. Khrushchev đưa ra đề xuất thay thế chức danh này bằng một hội đồng lãnh đạo gồm ba thành viên (tam đầu chế): một đến từ phương Tây, một từ các nước chủ nghĩa xã hội và một từ các nước phi liên kết. Ý tưởng này không thực hiện được vì thiếu sự ủng hộ từ các quốc gia trung lập.

Danh sách Tổng Thư ký

Ảnh Tổng Thư ký Thời gian đương nhiệm Quốc gia xuất thân Ghi chú Tham khảo
Hình:Gladwyn Jebb.jpg Sir Gladwyn Jebb 1945 1946 Anh Lâm thời  
Hình:Trygve Lie Bio Photo.jpg Trygve Halvdan Lie 2 tháng 2 1946 – tháng 11 1952 Na Uy Từ nhiệm [1]
Hình:Dag Hammarskjöld june 1959.jpg Dag Hammarskjöld 10 tháng 4 1953 18 tháng 11 1961 Thụy Điển Tử nạn trong một tai nạn máy bay tại Rhodesia (nay là Zambia) [2]
Hình:U Thant Bio Photo.jpg U Thant 30 tháng 11 1961 31 tháng 12 1971 Miến Điện (nay là Myanma) Quyền Tổng Thư ký từ 3 tháng 11 1961 đến 30 tháng 11 1962 [3]
Hình:K Waldheim.jpg Kurt Waldheim 1 tháng 1 1972 31 tháng 12 1981 Áo Trung Quốc phủ quyết nhiệm kỳ thứ ba [4]
Hình:Perez de cuellar.gif Javier Pérez de Cuéllar 1 tháng 1 1982 31 tháng 12 1991 Peru Từ chối nhiệm kỳ thứ ba [5]
Hình:BoutrosGhali.jpg Boutros Boutros-Ghali 1 tháng 1 1992 31 tháng 12 1996 Ai Cập Hoa Kỳ phủ quyết nhiệm kỳ thứ hai [6]
Kofi Annan 1 tháng 1 1997 Ghana   [7]
    hiện nay S. Korea

 

 

 

4/Tòa án Quốc tế vì Công lý

Toà án Quốc tế vì Công lý (International Court of Justice – ICJ) là một phân ban trực thuộc Liên Hiệp Quốc, được thành lập vào năm 1945 với tiền thân là Toà án Thường trực Công lý Quốc tế (Permanent Court of International Justice) có từ năm 1922. Tòa bắt đầu chính thức nhận hồ sơ, thụ lý và giải quyết tranh chấp các vấn đề giữa các quốc gia thành viên có liên quan, cũng như làm công tác cố vấn pháp luật cho Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, cũng như các ủy ban khác trực thuộc Liên Hiệp Quốcnhư đã ghi rõ trong Công ước Liên Hiệp Quốc từ 1946.

Tòa tọa lạc tại thành phố Den Haag (The Hague – tiếng Anh, hay La Haye – tiếng Pháp), Hà Lan gồm có 15 thẩm phán được bổ nhiệm bởi Đại Hội đồng LHQ và Hội đồng Bảo an LHQ dựa trên danh sách tiến cử bởi Permanent Court of Arbitration. Nhiệm kỳ của tòa là 9 năm, không hạn chế việc tái đắc cử miễn là đảm bảo quy tắc không có hai thẩm phán cùng quốc tịch. Một phần ba tòa được bầu lại mỗi 3 năm và trong 5 thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ, mỗi nước luôn có một thẩm phán đại diện trong tòa. Vấn đề được quyết định theo nguyên tắc đa số phục tùng thiểu số, và mọi phán quyết được đưa ra là phán quyết cuối cùng, không phải phúc thẩm. Chánh án hiện tại (2004) là thẩm phán Shi Jiuyong của Trung Quốc.

Các phán quyết của Tòa án Quốc tế chỉ mang ý nghĩa chính trị hơn là có hiệu lực thi hành, và mọi việc đều tùy thuộc vào thiện chí của các nước. Theo lý thuyết, nếu một bên từ chối thi hành phán quyết của tòa, vấn đề có thể được chuyển lên cho Hội đồng Bảo an LHQ xử lý, nhưng việc này thường lâm vào bế tắc vì năm thành viên thường trực thường xuyên sử dụng quyền phủ quyết. Trong năm 2004 tòa đưa ra một phán quyết đầy tranh cãi bằng việc lên án hàng rào an ninh của Israel, kết tội hành động của Israel là vi phạm luật pháp quốc tế và phải dỡ bỏ hàng rào này ngay lập tức, cũng như bồi hoàn chi phí thiệt hại cho người Palestine. Israel phản đối quyết liệt quyết định trên và lờ đi, vẫn tiếp tục xây dựng và củng cố hàng rào an ninh. Và Israel không phải là nước đầu tiên phớt lờ quyết định của tòa, Argentina vào năm 1977 Hoa Kỳ vào năm 1984 cũng có các quyết định tương tự.

Chú ý

Xin đừng nhầm lẫn Toà án Quốc tế vì Công lý (ICJ) với Tòa án Tội phạm Quốc tế (International Criminal Court - ICC) vì Toà án Quốc tế vì Công lý chỉ thụ lý các vụ việc tranh chấp giữa các quốc gia và không có quyền xét xử cá nhân, vì việc này là trách nhiệm của Tòa án Tội phạm Quốc tế, cũng có trụ sở tại La Hay. Tòa án Tội phạm Quốc tế có nhiệm vụ xét xử và truy tố các cá nhân phạm tội ác tồi tệ nhất như tội ác chống lại loài người, tội ác chiến tranh, tội diệt chủng,...

 

5/Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn

 

Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn (tiếng Anh: United Nations High Commissioner for Refugees, viết tắt UNHCR) được thành lập ngày 14 tháng 12 năm 1950 và có trụ sở tại Genève (Thụy Sĩ).

Tiền thân của tổ chức này là Tổ chức quốc tế về người tị nạn (International Refugee Organization), và trước nữa là Cơ quan Liên Hiệp Quốc về Cứu tế và Phục hồi (United Nations Relief and Rehabilitation Administration).

Mục đích của Cao ủy là chỉ huy và phối hợp các hoạt động quốc tế nhằm bảo vệ người tị nạn và giải quyết các vấn đề về tị nạn trên toàn thế giới.

Cao ủy đã được tặng giải Nobel về hòa bình hai lần: 1954 1981.

 

6/Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc

 

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (tiếng Anh: United Nations Educational Scientific and Cultural Organization, viết tắt UNESCO) là một trong những tổ chức chuyên môn lớn của Liên hiệp quốc, hoạt động với mục đích "thắt chặt sự hợp tác giữa các quốc gia về giáo dục, khoa học văn hoá để đảm bảo sự tôn trọng công lý, luật pháp, nhân quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo" (trích Công ước thành lập UNESCO).

UNESCO hiện có 191 quốc gia thành viên. Trụ sở chính đặt tại Paris, Pháp, với hơn 50 văn phòng và vài viện hay trung tâm trực thuộc đặt khắp nơi trên thế giới.

Một trong các dự án của UNESCO là duy trì danh sách các di sản thế giới.

Chức năng

1.         Khuyến khích sự hiểu biết và thông cảm lẫn nhau giữa các dân tộc thông qua những phương tiện thông tin rộng rãi; khuyến nghị những hiệp định quốc tế cần thiết để khuyến khích tự do giao lưu tư tưởng bằng ngôn ngữ và hình ảnh;

2.         Thúc đẩy mạnh mẽ việc giáo dục quần chúng và truyền bá văn hoá bằng cách:

o       Hợp tác với các nước thành viên trong việc phát triển các hoạt động giáo dục theo yêu cầu của từng nước;

o       Hợp tác giữa các quốc gia nhằm thực hiện từng bước lý tưởng bình đẳng về giáo dục cho mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ hoặc bất cứ sự khác biệt nào khác về kinh tế hay xã hội;

o       Đề xuất những phương pháp giáo dục thích hợp để luyện tập thiếu nhi toàn thế giới về trách nhiệm của con người tự do;

3.     Duy trì, tăng cường và truyền bá kiến thức bằng cách:

o       Bảo tồn và bảo vệ di sản thế giới về sách báo, tác phẩm nghệ thuật và các công trình lịch sử hay khoa học, khuyến nghị với các nước hữu quan về các Công ước quốc tế cần thiết;

o       Khuyến khích hợp tác giữa các quốc gia về tất cả các ngành hoạt động trí óc, trao đổi quốc tế những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục, khoa học và văn hoá kể cả trao đổi sách báo, tác phẩm nghệ thuật,dụng cụ thí nghiệm và mọi tư liệu có ích;

o       Tạo điều kiện thuận lợi cho các dân tộc tiếp xúc với các xuất bản phẩm của mỗi nước thông qua các phương pháp hợp tác quốc tế thích hợp.

Cơ cấu

UNESCO được tổ chức với một Đại hội đồng một Hội đồng chấp hành và một Ban Thư ký. Đại Hội Đồng gồm các đại diện của các nước thành viên UNESCO (mỗi nước thành viên được chọn cử 5 đại biểu). Hội Đồng Chấp Hành gồm các ủy viên được Đại hội đồng bầu ra trong số các đại biểu được các nước thành viên chọn cử; mỗi ủy viên của Hội đồng chấp hành đại diện cho Chính phủ nước mình. Ban Thư Ký UNESCO gồm có Tổng Giám đốc và số nhân viên được thừa nhận là cần thiết. Tổng Giám đốc do Hội đồng chấp hành đề nghị và Đại hội đồng bầu cử (nhiệm kỳ 6 năm) với những điều kiện được Đại hội đồng chấp nhận. Tổng Giám đốc là viên chức cao nhất của UNESCO..

Hiện UNESCO có 191 quốc gia là thành viên. Các quốc gia thành viên của Liên hiệp quốc có quyền gia nhập UNESCO; còn các quốc gia khác có thể được chấp nhận nếu được Hội đồng chấp hành giới thiệu và được Đại hội đồng biểu quyết với đa số hai phần ba thành viên có mặt tán thành.

Các quốc gia thành viên thường thành lập một tổ chức đại diện cho UNESCO ở nước mình, tùy điều kiện cụ thể. Phổ biến hiện nay là Ủy ban quốc gia UNESCO, trong đó có đại diện của Chính phủ và của các ngành Giáo dục, Khoa học, Văn hoá và Thông tin. Tuy có đại diện tại từng quốc gia, phương châm hoạt động của UNESCO là không can thiệp vào vấn đề nội bộ của các quốc gia. Ủy ban quốc gia UNESCO làm nhiệm vụ cố vấn cho đoàn đại biểu nước mình ở Đại hội đồng và cho Chính phủ trong các vấn đề liên quan đến UNESCO. Ủy ban này thường gồm đại diện các Vụ, Cục, các Bộ, các cơ quan và tổ chức khác quan tâm đến các vấn đề giáo dục, khoa học, văn hoá và thông tin, các nhân vật độc lập tiêu biểu cho các giới liên quan. Nó cũng có thể bao gồm Ban chấp hành thường trực, các cơ quan phối hợp, các tiểu ban và các cơ quan phụ cần thiết khác.

Lịch sử

UNESCO được thành lập ngày 16 tháng 11 năm 1945 với việc ký kết Công ước thành lập của UNESCO. Ngày 4 tháng 11 năm 1946, Công ước này được chính thức có hiệu lực với 20 quốc gia công nhận: Úc, Brasil, Canada, Trung Quốc, Tiệp Khắc, Đan Mạch, Cộng hòa Dominica, Ai Cập, Pháp, Hy Lạp, Ấn Độ, Li Băng, Mexico, New Zealand, Na Uy, Các tiểu vương quốc Ả Rập, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ, Vương quốc Anh Hoa Kỳ.

Những năm 1970 1980, UNESCO là trung tâm của một tranh cãi trong đó Hoa KỳAnh cho rằng đây là một diễn đàn để các nước theo chủ nghĩa cộng sản thế giới thứ ba chống lại phương tây. Hoa Kỳ và Anh lần lượt rút khỏi tổ chức này năm 1984 1985. Sau đó, Anh và Hoa Kỳ lại tham gia tổ chức này lần lượt vào các năm 19972003.

Những năm cuối thập kỷ 1990, UNESCO đã thực hiện một số cải cách trong tổ chức, như cắt giảm nhân lực và số đơn vị. Số văn phòng giảm từ 79 (năm 1999) xuống 52 (hiện nay).

Năm 1998, UNESCO ủng hộ phần mềm tự do.

 

7/Tổ chức Y tế Thế giới

 

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO, World Health Organization) là một cơ quan của Liên hiệp quốc, đóng vai trò thẩm quyền điều phối các vấn đề sức khoẻ công cộng trên bình diện quốc tế, có trụ sở đặt tại Geneva, Thuỵ Sĩ. WHO được Liên hiệp quốc thành lập vào ngày 7 tháng 4 năm 1948. Tổng Giám đốc hiện nay là Lee Jong-wook. WHO kế thừa phần nhiều chức trách và tài nguyên từ tổ chức tiền thân của nó là Tổ chức Sức khoẻ (Health Organization), một cơ quan của Hội Quốc Liên.


 

Các bài cùng tác giả:

Danh Phận Tín Đồ Trong Các Tôn Giáo

Tìm hiểu thành viên không thường trực UN Security Council

Trang Chính Trị Xã Hội