CÔNG GIÁO TÂY PHƯƠNG ĐÃ TỈNH

CÔNG GIÁO VIỆT NAM VẪN CÒN MÊ

Trần Chung Ngọc

08 tháng 4, 2010

LTS: Người ta đôi khi được nghe đến cụm từ "Công Giáo cấp tiến" dành cho những giáo dân tiến bộ. Giáo dân cấp tiến là những người biết nhìn lại những gì giáo hội đã nhồi sọ, thích suy nghĩ về những gì mình nghe, thích tìm hiểu những gì mình đọc. Họ nhìn lại từ tín lý, giáo điều, các bài kinh, các bài giảng, đến các sinh hoạt tôn giáo, nghi thức, lễ lạc, cho đến lịch sử ... và kết quả là họ bắt đầu có một quan niệm khác với những gì mà giáo hội muốn, là điều mà Giáo Hội La Mã rất đố kỵ. Trong lúc đó, những giáo dân thuần thành, đọc thánh kinh mà không hề thấy muôn ngàn sự mâu thuẩn, không nhìn ra bộ mặt ác độc, loạn luân, mê tín, của các "ông thánh" trong đó, đọc kinh sáng tối mà không hề thắc mắc điều gì trong các bài kinh, cha nói sao làm vậy. Hễ cha bảo "đó là mầu nhiệm" thì lập tức ngưng không thắc mắc suy nghĩ nữa, cha bảo sao nghe thế. Những con chiên này sẽ được tiếng ca tụng của cộng đồng giáo xứ, nhất là các cha. Những người này không thể nào tiến lên trên cái mức "ngoan đạo". Thật đáng buồn, những câu tâng bốc, những hứa hẹn, lợi lộc đã làm cho giới "ngoan đạo" lúc nào cũng đông hơn giới "công giáo cấp tiến". (SH)


 

Phần II

Công Giáo Việt Nam Vẫn Còn Mê

  1    3  4 

 

Trước hết, tôi xin giải thích từ “mê”. Từ những tài liệu trích dẫn của Giáo hoàng Công giáo cũng như của các giới chức có thẩm quyền trong Ki Tô Giáo trong Phần [I], chúng ta biết rằng:

nhà thờ bên Pháp

- Công giáo đã công nhận Big Bang là nguồn gốc của vũ trụ, Tiến Hóa là nguồn gốc của con người, và u>không làm gì có tội tổ tông, không làm gì có thiên đường trên các tầng mây, không làm gì có hỏa ngục dưới lòng đất. [Giáo Hoàng John Paul II đã công nhận trước thế giới]

- Chúa Giê-su thực ra chỉ là một thường dân Do Thái sống với ảo tưởng mình là con Thượng đế của người Do Thái và được Ki Tô Giáo tôn lên làm Chúa Cứu Thế. [Russell Shorto: Kết luận của đa số học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô đã nghiên cứu về nhân vật Giê-su trong 200 năm nay]

- Tất cả những gì viết trong bốn Phúc Âm về Giê-su sinh ra từ một nữ trinh, đã làm những phép lạ, chịu đóng đinh để chuộc tội cho nhân loại, chết đi rồi sống lại và bay lên trời, chỉ là những huyền thoại của dân tộc Do Thái trong thời bán khai. [Kết luận của một số Linh mục, Mục sư và các nhà Thần Học Ki Tô Giáo và đa số các học giả nghiên cứu về Ki Tô Giáo]

- Từ những sự thực này, Tây phương đã thức tỉnh và thoát ra khỏi ngục tù tâm linh của Ki Tô Giáo, đưa đến sự suy thoái của Ki Tô Giáo trên thế giới [Giáo hoàng Benedict XVI và Hội Đồng Giám Mục Âu Châu đã thú nhận và than phiền nhiều lần].

Như vậy, những ai còn tin vào những điều không thể tin được, bất cứ vì lý do gì, đều có thể nói là vẫn còn đang ở trong cơn “mê”, mê muội. Đưa lên những sự kiện trên không phải là vấn đề vi phạm tự do tín ngưỡng mà là vấn đề thuộc lãnh vực học thuật [scholarship] trong thế giới Tây phương và sự thực về tình trạng Công giáo đang xảy ra ở Tây phương cũng như ở khắp nơi trên thế giới. Tôi không phản đối hay dè bỉu những người tự chọn sống trong sự mê muội. Đó là quyền của họ nhưng tôi thấy họ thực sự đáng thương. Do đó, điều mà tôi, và chắc chắn có rất nhiều người khác muốn làm, là giúp những người này thức tỉnh để họ có thể thoát ra khỏi sự u mê không những không có ích lợi thực tế gì cho họ mà nhiều khi còn có hại cho xã hội vì sự cuồng tín của họ bắt nguồn từ sự u mê. Đây là điều mà các trí thức cũng như một số lãnh đạo tôn giáo Tây phương đã làm trong mấy trăm năm nay qua những tác phẩm nghiên cứu của họ, đối với quần chúng Tây phương. Đối với các tín đồ Công giáo Việt Nam, chúng ta muốn giúp cho họ thức tỉnh, theo kịp đà tiến hóa của nhân loại, là chuyện của chúng ta. Còn họ có để cho chúng ta giúp không là chuyện của họ. Nếu họ muốn sống trong vòng trói buộc tâm linh vì một niềm hi vọng không tưởng là sau khi chết sẽ được lên thiên đường là quyền của họ. Nhưng hi vọng càng cao thì sự thất vọng càng lớn, nhất là khi mà niềm hi vọng đó lại đặt vào một cái gì không có thực và do đó chỉ là một ảo tưởng và trở thành vô vọng...

Sau đây là một sự thật đau lòng. Tất cả những tài liệu trên về sự suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung, Công Giáo nói riêng, đã nói rõ hơn gì hết sự thức tỉnh của Tây phương. Trong khi đó thì Công Giáo Việt Nam vẫn còn đang trong cơn mê, mê mẩn về những giáo lý mà Tây phương không còn tin, không còn theo, đang phế thải dần dần. Vì vậy, trong khi đa số dân chúng Tây phương không còn đi lễ nhà thờ nữa, có nơi chỉ còn có 2% đi lễ nhà thờ ngày Chủ Nhật, thì ở Việt Nam và trong những cộng đồng Công giáo ở hải ngoại, giáo dân vẫn đi lễ nhà thờ nườm nượp, vì tin lời bề trên dọa rằng không đi lễ nhà thờ là một tội trọng, và tin rằng đó là điều kiện để được lên một thiên đường không có thực sau khi chết. Ở một vài giáo xứ Công Giáo ở Việt Nam, giáo dân còn nghe lời các bề trên, đi lễ nhà thờ hai ba lần một ngày, sáng tối cầu nguyện xin cho. Họ không hề biết rằng tất cả chỉ là mánh mưu của giới chăn chiên dùng để kiểm soát, nắm giữ đầu óc con chiên.

Trong khi dân chúng Tây phương đã thẳng thắn lên tiếng phê bình những việc là sai trái, vô đạo đức của Giáo hoàng Benedict XVI thì tinh thần nô lệ “bề trên” còn rõ rệt trong cộng đồng Công giáo Việt Nam khi chúng ta vẫn thấy trên vài diễn đàn truyền thông Công giáo, tín đồ Công giáo Việt Nam vẫn thường ca tụng “Đức Thánh Cha” Benedict XVI, không cần để ý ông ta là một người đã nổi tiếng là vô đạo đức. Ông Giáo hoàng này đã bị quần chúng chống đối hầu như ở bất cứ nơi nào ông ta tới vì những lời phán bậy của ông ta, và sinh viên đại học Sapienza ở Rome, Ý, đã ngăn chận, không cho ông ta đến nói láo ở đại học của họ như trước.

Sau đây là vài sự kiện điển hình: Giáo Hoàng Benedict XVI, đã công du Nam Mỹ, tuyên bố mục đích chuyến đi là để “chiếm lại lòng tin của những tín đồ Công giáo” [To win back Catholics]. Ngài chú trọng đến Ba Tây (Brazil) vì nơi đây mỗi năm có tới 600000 [sáu trăm ngàn] tín đồ Công giáo bỏ đạo, theo sự thú nhận của các giám mục Ba Tây, ghi bởi John Cornwell, một trí thức Công giáo, trong cuốn Đức Tin Đổ Vỡ: Giáo Hoàng, Giáo Dân, và Số Phận của Công Giáo (Breaking Faith: The Pope, The People, and The Fate of Catholicism).

Mục đích chuyến đi Nam Mỹ của Benedict XVI, như trên đã nói, là để kéo tín đồ bỏ đạo trở lại đạo. Nhưng thay vì làm sao để cho các tín đồ Công giáo “lấy lại niềm tin và trở lại đạo” Ngài lại dùng một sách lược ngu xuẩn của các thừa sai khi xưa, phê bình hạ thấp các tín ngưỡng địa phương và huênh hoang cho rằng Công giáo đã đến Nam Mỹ để văn minh hóa người dân ở đây.

Theo tin của hãng Reuters thì lãnh tụ những thổ dân Brazil cảm thấy xúc phạm vì những lời bình luận “kiêu căng và vô lễ” của Benedict XVI là Giáo hội Công giáo La mã đã đến Nam Mỹ để thanh tẩy họ, và [nếu họ] làm sống lại những tôn giáo truyền thống của họ thì đó là một bước đi giật lùi. [1]

Cố tình gian dối xuyên tạc bẻ queo lịch sử, Benedict XVI cũng còn cường điệu cho rằng: Giáo hội không áp đặt trên thổ dân Nam Mỹ đạo Công giáo mà là chính những thổ dân này đã đón tiếp (sic) những linh mục Âu Châu trong thời đất nước của họ bị chinh phục vì họ đã “âm thầm khao khát” (sic) Ki Tô Giáo. [2] [Giáo hoàng nói nhảm, thời đó, toàn thể lục địa Mỹ Châu cũng như Á Châu, có ai biết gì về cái gọi là Ki Tô Giáo đâu]

Không có gì có thể sai sự thực hơn là những lời gian dối cố ý xuyên tạc lịch sử, bẻ queo sự thật của Benedict XVI. Bởi vì bất cứ ai có đôi chút hiểu biết về những cuộc chinh phục Nam Mỹ của các nước Công giáo cũng phải biết rằng Giáo hội Công giáo đã đứng đàng sau những cuộc xâm chiếm thuộc địa ở Nam Mỹ cũng như ở mọi nơi khác của thực dân Âu Châu đưa đến kết quả là hàng triệu thổ dân ở Mỹ Châu chết vì bị tàn sát, bệnh tật do người Tây phương mang tới, và chính sách nô lệ của Tây phương, kể từ khi Columbus đến Mỹ Châu vào năm 1492.. Các linh mục đã ban phúc lành cho những chinh phục quân Tây Ban Nha (Priests bless the Spanish conquistadors) trong cuộc chiến tiêu diệt thổ dân. Đây là những sự kiện lịch sử. Điều đáng nói ở đây là Benedict XVI đã nói ngược lại những điều mà năm 1992 giáo hoàng John Paul II đã xin lỗi thổ dân Nam Mỹ và thú nhận những sai lầm trong việc truyền bá phúc âm đến Mỹ Châu. [Pope John Paul II spoke in 1992 of mistakes in the evangelization of native peoples of the America].

Nhưng đối với những người hiểu biết ít nhiều về Giáo hội Công giáo La Mã thì những gì Benedict XVI nói ở Brazil không có gì là lạ, vì xuyên tạc lịch sử, bẻ queo sự thật vốn là sách lược lắt léo cố hữu của Vatican và các tay sai bản địa.

Trước đây, Benedict XVI, khi còn là Hồng Y Ratzinger, ông ta đã phê bình Phật Giáo bằng một câu vô đạo đức tôn giáo nếu không muốn nói là vô giáo dục. Gần đây, Benedict XVI, trong thông điệp “Spe Salvi”, còn nói một câu rất láo lếu và hỗn xược đối với mấy tỷ người không theo Công giáo như sau: “Dù có bao nhiêu thần minh đi nữa, họ sống “không có Thiên Chúa” và hệ quả là họ thấy mình sống trong một thế giới tối tăm, đối diện với tương lai mịt mù.”

Một con người như vậy chỉ đáng để chúng ta khinh bỉ, đừng nói đến kính trọng, dù ông ta là một Giáo hoàng hay là gì gì đi chăng nữa.. Nhưng vì ông ta có một khối tín đồ đồ sộ ngu ngơ rất cuồng tín ở dưới, và trên danh nghĩa là nguyên thủ của một quốc gia, nên trên bình diện ngoại giao quốc tế, nhiều nước vẫn coi ông ta như một nguyên thủ quốc gia.

Nếu ông ta được phép đến Việt Nam để đẩy mạnh sự cuồng tín của đám giáo dân Việt Nam thì rất có thể ông ta cũng nói láo lếu như trên đối với hơn 90% người dân Việt Nam không theo Ki-Tô Giáo. Nhà Nước Việt Nam nên coi chừng cái con người vô đạo đức không đáng để ai kính trọng này và không đáng để Nhà Nước phải đón tiếp này, đừng vì lẽ gì mà cho phép ông ta đặt chân lên đất nước Việt Nam, vì qua kinh nghiệm vừa qua ở Brazil, ông ta có tới Việt Nam cũng không phải vì thiện chí ngoại giao, mà chỉ để khích động sự cuồng tín trong đám tín đồ thấp kém, và rất có thể ông ta sẽ lập lại sách lược của các thừa sai Công giáo trong thế kỷ 17-19, xuyên tạc lịch sử và nói bậy giống như ở Brazil, mạ lỵ truyền thống tín ngưỡng của người Việt Nam như ông ta đã nói về tín ngưỡng của các thổ dân Nam Mỹ ở Brazil. Ông ta biết rằng vì ông ta là Giáo hoàng nên ông ta muốn nói gì cũng được, không ai có thể làm gì được ông ta, nhiều nhất là chỉ có thể lên tiếng phê bình, nhưng ông không quan tâm vì thủ đoạn của ông là “phương tiện biện minh cho cứu cánh.Thủ đoạn của ông ta là cố tình nói ngược cho mục đích đã định rồi nếu cần thì sẽ nói suôi để làm dịu sự chống đối. Nhưng ảnh hưởng tác hại của những lời nói láo lếu này đã gây ra rồi, vài lời nói suôi đãi bôi không thể vớt vát lại bao nhiêu. Và đó là thủ đoạn mà các vị chủ chăn Công Giáo thường áp dụng. Mà không phải chỉ có Benedict XVI. Giáo hoàng tiền nhiệm, John Paul II, cũng đã nhiều lần sử dụng thủ đoạn bất chính này. Bằng chứng là viết láo lếu về Phật Giáo trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng”, rồi khi Phật Giáo phản đối thì sai một thuộc hạ ra nói vài lời xin lỗi đãi bôi và coi như không có chuyện gì xảy ra, vì mục đích đen tối đã đạt. Giáo hoàng hay không, nói láo vẫn là nói láo, nói bậy vẫn là nói bậy, và những lời nói láo nói bậy này đã đi vào sử sách.

Sự mê mẩn của Công giáo Việt Nam cũng thấy rõ khi Công giáo ở Việt Nam hân hoan đón tiếp cúi đầu hôn nhẫn Hồng Y Bernard Law, không hề quan tâm rằng ông Hồng Y vô đạo đức này đã bắt buộc phải rời khỏi giáo phận Boston vì tội bao che các linh mục loạn dâm và ấu dâm. Nhưng sách lược của Vatican là luôn luôn bảo vệ các chức sắc của họ dù rằng họ đã phạm tội, cho nên Law được gọi về Vatican trao cho một chức vụ với mức lương $12.000 một tháng. Có bao nhiêu linh mục Việt Nam có được mức lương này. Chúng ta thấy tinh thần nô lệ và sự mù quáng tôn giáo của Công giáo Việt Nam không còn chỗ nào để nói, coi rác rưởi là đồ trân quý..

Giáo dân Công giáo Việt Nam bị bưng bít thông tin, bị tiếp tục nhồi sọ về sự cao quý không hề có của “hội thánh Công giáo” cũng như của giới chăn chiên, cho nên khó có thể tin là cái đạo của họ lại có thể suy thoái một cách trầm trọng như trên ở ngay trong cái nôi của Công giáo là Tây phương, và rất hãnh diện là tín đồ Công giáo Việt Nam vẫn giữ vững đức tin, “vâng lời đức thánh cha” kiên trì đi trong đường hầm, hi vọng có thể nhìn thấy ánh sáng le lói của Chúa Giê-su ở cuối đường hầm như Giáo hoàng của họ hứa hẹn, vẫn còn tin vào những điều mà Tây phương đang phế thải, và chẳng cần nói chúng ta cũng biết họ thuộc lớp người nào, nếu không phải là những lớp người ở trong những ốc đảo dân trí thấp kém nhất trong xã hội ở một số nước nghèo, nhỏ, kém phát triển. Điều này không lạ, vì họ là hậu duệ của lớp người theo đạo đầu tiên, mà lớp người này đều là những người đánh cá, hay nông dân nghèo đói, vô học, như Linh Mục Trần Tam Tĩnh đã ghi nhận trong cuốn “Thập Giá Và Lưỡi Gươm”. Khai thác sự cuồng tín lạc hậu này, các “cha nhà thờ” Việt Nam vẫn nườm nượp xuất ngoại, mở tiệc ăn mừng quyên tiền giáo dân để về xây nhà thờ, hay để làm những chuyện mà giáo dân không hề biết, nơi quê nhà. Nhưng không tin là một chuyện, còn tình trạng suy thoái thực sự của giáo hội Công giáo hoàn vũ lại là một chuyện khác.

Chắc quý độc giả không tin là Công giáo Việt Nam vẫn còn u mê như vậy, vì vượt ngoài sự tưởng tượng của con người trong thời đại ngày nay. Không hẳn vậy, một thí dụ điển hình là ở Việt Nam: trong một thư của 12 môn đồ của linh mục Nguyễn Hữu Trọng đệ lên Giáo hoàng John Paul II và Hồng Y Phạm Đình Tụng năm 1998, có nói đến một số vấn nạn trong nội bộ Công giáo Việt Nam trong đó chúng ta có thể đọc được vài đoạn điển hình sau đây:

“Nhiều Linh Mục VN thường thường hễ lên tòa giảng là thao thao bất tuyệt lên giọng dạy đời, chửi bới giáo dân, dùng lời Chúa xỏ xiên đàng này đàng khác, hoặc văn chương lả lướt, ăn nói bạt mạng, chọc quê chọc cười cho giáo dân vui tai…Dòng ta lại có Linh Mục Phạm Thanh Quang giảng thì hết xẩy, nổi tiếng nói nhiều, nói dai, nói dài, nói dở, chẳng ăn nhập gì với lời Chúa, bạ đâu tán đó, Hồng Lâu Mộng, Tề Thiên, Bao Công, BBC... chị em ta chào mời ở đường Tú Xương ra sao, ông bê vào bài giảng hết trọi... Ai có dịp đi lễ của Linh Mục Chân Tín đều cảm thấy bị nghe đường lối chính trị của ông mà ông cho đó là lời Chúa... Các Giám Mục, Linh Mục của chúng ta thường làm ngược lời Chúa, tranh thủ quyền lực, tiền tài, cấu kết với các thế lực để mở mang nước Chúa, nên đã sa vào con đường sắc dục một cách bệnh hoạn, quấy rối tình dục bừa bãi, trẻ không tha, già không thương, làm cho Linh Mục sao nhãng việc truyền giáo và ham mê việc truyền giống.Giáo phận Saigon có một số giáo xứ nổi tiếng về truyền thống có các linh mục truyền giống như Xóm Chiếu, Thị Nghè, Vườn Xoài, Tân Định... Hội đồng giáo xứ Tân Định biết rõ các LM bê bối của mình, nhưng không dám làm gì cả, sợ mang tiếng.

Các cha đẹp trai, "cơm Đức Chúa Trời ngon, con Đức Chúa Trời đẹp", lắm tiền, nhiều quyền, no cơm ấm cật, không ai kiểm soát được…“tối làm tình sáng làm lễ”; “Khi Giáo dân trình lên Bề trên những yếu đuối của các Linh Mục thì thường được dạy bảo rằng: "các con đừng nói hành các cha kẻo mắc tội với Chúa, đừng xét đoán các cha kẻo bị Chúa phán xét." Nghe dạy như thế, nhiều giáo dân sợ hãi vô cùng, phải nhắm mắt làm ngơ trước những đồi bại của các Linh Mục ma giáo, khéo che đậy và nịnh bợ các Đấng Bề trên!”.

Đây là một tài liệu quý giá xuất phát từ nội bộ Công Giáo Việt Nam, đã được đăng trong cuốn Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, Tuyển Tập 2, trang 154-171, Ban Nghiên Cứu Đạo Giáo phát hành, Texas, 1998. Các “bề trên” ở Việt Nam vẫn còn luôn luôn đưa luận điệu “Cha cũng như Chúa” ra làm con ngoáo ộp để đe dọa tín đồ, nhốt các tín đồ thấp kém vào trong khuôn phép, và cũng cho thấy trình độ của giáo dân ra sao mà không dám nói đụng đến các cha vì sợ mắc tội với Chúa, bị Chúa phán xét không cho lên thiên đường. Quả thật là tội nghiệp. Trong khi đó thì trên nước Mỹ, chính giáo dân Công Giáo đã truy tố các Linh mục can tôi loạn dâm và ấu dâm. Hơn 5000 “Chúa thứ hai” trên đất Mỹ đã bị truy tố về những tội danh trên, một số đang ngồi tù, và Giáo hội đã phải bỏ ra hơn 2 tỷ đô la để bồi thường cho các nạn nhân tình dục của các “Chúa thứ hai”. Vụ việc các Linh mục loạn dâm không chỉ xẩy ra trên nước Mỹ mà còn xẩy ra trên khắp thế giới trong những cộng đồng Công Giáo, kể cả ở nước Đức, quê hương xứ sở của Giáo Hoàng. Tệ hại hơn nữa, người ta đã phanh phui ra là các Linh mục đã cưỡng dâm các nữ tu, chị em tâm linh của họ, trên 23 quốc gia, và một số trường hợp đã đưa các nữ tu đi phá thai. Chúng ta nên nhớ, theo sự dạy bảo các giáo dân Việt Nam của các “bề trên” thì Giáo Hoàng chính là “đại diện của Chúa ở trên trần” [Vicar of Christ], và linh mục chính là các “Chúa thứ hai” [Alter Christus], có quyền tha tội cho con chiên trong khi chính họ đã phạm tội khủng khiếp hơn con chiên, chứ không phải là người thường như mọi người.

Những nạn nhân của các linh mục
lạm dụng tình dục biểu tình lên án
sự che đậy tội lỗi

Thế mà, gần đây, trên một vài diễn đàn truyền thông của Công giáo Việt Nam chúng ta còn thấy đăng tin: Giáo hoàng Benedict XVI rất lấy làm khổ tâm vì những vụ linh mục lạm dụng tình dục tràn lan trên thế giới. Tin này muốn nói là Giáo hoàng là người rất mực đạo đức, khổ tâm trước những việc đồi bại của các linh mục. Nhưng khổ tâm làm sao được khi chính ông ta, Giáo hoàng Benedict XVI, khi còn là Hồng Y Ratzinger, đã có văn kiện chính thức cho các giám mục trên thế giới phải bao che những vụ bê bối về tình dục của các “Chúa thứ hai”. Theo tin của AP ngày 24 tháng 3, 2010, thì: Tài liệu của Nhà thờ [ở Wisconsin] và Vatican cho thấy, Hai Giám mục ở Wisconsin yêu cầu văn phòng ở Vatican chỉ đạo bởi Hồng y Joseph Ratzinger – nay là Giáo hoàng Benedict XVI – để cho họ lập một vụ xử của Giáo hội về một linh mục phạm tội gạ gẫm tình dục khoảng 200 bé trai bị điếc, nhưng Vatican ra lệnh phải ngưng vụ xử. [3]

Hiện nay, vụ giới chăn chiên loạn dâm và ấu dâm, với sự bao che của chính Giáo hoàng Benedict XVI và một số Hồng Y, Tổng Giám Mục ở các giáo phận v..v.. đang nổ ra như pháo trên khắp thế giới. Người ta còn đòi Giáo hoàng Benedict XVI phải từ chức vì đã che dấu và bao bọc cho những linh mục loạn dâm. Bản tin tổng hợp trên sachhiem.net ngày 26 tháng 3, 2010 có đoạn như sau:

Qua điểm tin từ những tờ báo nổi tiếng tại : Anh quốc, Pháp quốc, Ý, và Hoa Kỳ ...nhà bình luận có tên là Richart de la Cure kết luận như sau :

..."Đạo công giáo đang đi vào ngỏ cụt, và hao tốn, vị giáo hoàng hiện nay bất lực kèm theo lo lắng nay mai sẻ bị thải hồi, và nhất là thế giới nguyền rủa, căm thù ...mà từ trước đến nay Vatican thường tuyên bố .." đạo công giáo là một tôn giáo bác ái và Yêu thương hay thường gọi là công giáo hoàn cầu "...nay đang trên con đường lụi bại và nhục nhả.

Hồ sơ các linh mục lạm dụng tình dục ở Ái Nhĩ Lan bị che đậy

Đó là đạo đức của Ratzinger. Sách lược bao che này đã được thi hành cho đến khi sự việc không thể bưng bít che dấu được nữa cho nên Tòa Thánh mới phải thú nhận là trong “hội thánh Công giáo” có vấn nạn rất nghiêm trọng về các “Chúa thứ hai“ loạn dâm, và Giáo Hoàng mới tỏ ý khổ tâm về vấn nạn này. Sự đạo đức giả và vô liêm sỉ của ông ta đã lên đến mức không còn gì để nói, khi ông ta nói là đã rất khổ tâm về vấn nạn này. Cho nên ngày nay, người dân Âu Mỹ đã đặt vấn đề: Thực ra Công giáo có phải là một tôn giáo “thánh thiện, duy nhất, tông truyền” hay không, Giáo hoàng có phải là đại diện của Chúa trên trần không, và Linh mục có phải là Chúa thứ hai không? Câu trả lời nằm trong câu hỏi. Nhưng đối với những tín đồ Công giáo Việt Nam vẫn còn đang cơn mê thì những thắc mắc trí thức trên không phải là vấn đề cần phải quan tâm, Giáo hoàng vẫn luôn luôn là “đức thánh cha”, và linh mục là “đức cha” mà họ phải nhắm mắt tuân phục trong “đức vâng lời”.

Qua những chính sách mê hoặc nhồi sọ của Giáo hội về một cái bánh vẽ “cứu rỗi” trên trời, Giáo hội Công Giáo đã thành công dựng lên chức vụ linh mục như là một nhà độc tài trong cái gọi là “hội thánh”, ngự trị trên đám giáo dân thấp kém. Sự thành công này thực hiện được là nhờ giới linh mục đã cấy vào đầu óc tín đồ từ khi còn nhỏ những giáo lý phi thực tế như “Cha cũng như Chúa”, “Cha có quyền tha tội”, “Cha giữ chìa khóa thiên đường”, “Đụng đến Cha là bị Chúa phạt”, “hỏa ngục” v..v.. Thực tế cho cho chúng ta thấy rằng trong những ốc đảo Công Giáo dân trí còn thấp kém, giáo dân đã được đưa vào khuôn đúc phải hoàn toàn tuân phục ông linh mục một cách rất mù quáng. Linh mục kiểm soát và quyết định mọi việc cho giáo dân, từ việc đi lễ nhà thờ, học trường học nào, lập gia đình ra sao, nuôi nấng con cái như thế nào, đọc cái gì, và nếu tham dự chính trị thì phải theo sự chỉ đạo của linh mục.

Nói tóm lại, với vai trò linh mục được giáo hội dựng lên, ảnh hưởng của linh mục trên giáo dân thật là to lớn, và những giáo dân thấp kém không có khả năng trí thức để đặt nghi vấn, đừng nói đến thay đổi. Ảnh hưởng này đặt nặng trên bờ vai của giáo dân từ ngày sinh cho đến ngày chết.

Một nữ nhân Công Giáo ở miền Nam Ái Nhĩ Lan (miền Công giáo) tỉnh ngộ đã viết:

“Những người nào chưa từng bị ở dưới cái ảnh hưởng này, mà từ nhỏ đã được cho phép tự do ngôn luận, tự do tri thức, và không thấy sự phân biệt giữa giáo sĩ và giáo dân, thì không thể, không bao giờ có thể hiểu được ảnh hưởng của các linh mục Công giáo La mã trên những giáo dân trong quốc gia của họ.” [4]

Đúng vậy, nếu không có loại ảnh hưởng này, thì ở Việt Nam, năm 1954, Lansdale không thể thành công kéo 700000 giáo dân Công Giáo miền Bắc, đi theo Chúa và Đức Mẹ đã chạy trước, cha con kéo nhau chạy sau, di cư vào Nam để tránh Cộng Sản, và ở trong Nam, không thể có cảnh giáo dân Hố Nai, Gia Kiệm vác gậy gộc đi theo linh mục Hoàng Quỳnh làm loạn ở Saigon, hô to khẩu hiệu: “Thà mất nước, không thà mất Chúa”, cũng như cảnh giáo dân, kể cả con nít, nghe lời xúi dục bậy bạ của “bề trên” Ngô Quang Kiệt, vác gậy, búa, kìm, xà beng đi hiệp thông cầu nguyện xin cho ở Tòa Khâm Sứ, Thái Hà, Tam Tòa và cắm bậy cây thập ác ở Đồng Chiêm và trên đất công..

Các hàng Giáo phẩm Công giáo thừa biết hơn ai hết là cầu nguyện xin cho chẳng bao giờ có kết quả, nhưng họ vẫn sử dụng mấy cái màn gọi là cầu nguyện hiệp thông để xách động quần chúng ngu dốt. Thật vậy, Nũ tu Công giáo Teresa ở Ấn Độ, được Công giáo quảng cáo tôn vinh như một bậc Thánh trong khi thực chất của bà Teresa chỉ là một tín đồ Công giáo cuồng tín, khai thác lòng thương người của quần chúng để kiếm nhiều triệu đô la, dấu kín trong những ngân hàng. Bà ta suốt ngày cầu nguyện nhưng rút cuộc cũng phải thú nhận là chẳng thấy hiệu quả gì. Sơ Susan Shields, từng phục vụ trong “Dòng Tu Thừa Sai Bác Ái” [sic] của Mẹ Teresa đã viết trong tờ Free Inquiry, số mùa đông 1998, tiết lộ rằng:

Một phần nhiệm vụ của sơ là giúp trong việc giữ sổ sách về số tiền, lên đến nhiều triệu đô la, do những người có từ tâm đóng góp để bà Teresa làm việc "từ thiện" vì tin ở những lời tuyên truyền quảng cáo của dòng tu "Thừa sai bác ái", nhưng hầu hết những số tiền đó lại để trong nhiều ngân hàng khác nhau mà không dùng gì đến, trong khi các sơ hàng ngày phải đi ăn mày (beg) thức ăn của các thương gia địa phương, vì bà Teresa chủ trương "nghèo khổ" là một đức tính. Ngày nào xin không đủ thì các em mồ côi hoặc các bệnh nhân dưới sự "săn sóc" của hội "thừa sai bác ái" phải ăn đói. Đó là từ thiện hay sao? Với hàng triệu đô la nằm ì trong các ngân hàng mà bà Teresa vẫn thường xuyên kêu gọi đóng góp thêm cho công cuộc từ thiện của bà, thật là hoàn toàn vô nghĩa. [5]

Ngoài ra, chúng ta có thể đọc trong cuốn “Tài Liệu Vatican II Với Những Ghi Chú, Bình Luận Của Những Giới Chức Có Thẩm Quyền Công Giáo, Tin Lành, và Chính Thống Giáo” [The Documents of Vatican II: With Notes and Comments By Catholic, Protestant and Orthodox Authorities, General Editor: Walter M. Abbott; p.336]

Trong nhiều thập niên, mỗi năm vào tháng Giêng, Công giáo La-mã để ra 8 ngày để cầu nguyện cho sự thống nhất của Giáo hội [Ki Tô]. Cho đến năm 1959, ý tưởng chính trong những ngày đó, từ 8 đến 15 tháng 1, là hi vọng giáo dân Tin Lành sẽ “trở lại” Giáo hội chân thật duy nhất [nghĩa là Công giáo] và Chính Thống giáo sẽ không còn nữa. [6]

Những ngày cầu nguyện hàng năm trên có mang lại kết quả gì không? Tin Lành vẫn là Tin Lành, Chính thống vẫn là Chính thống. Cho nên, chúng ta không lấy gì làm lạ khi thấy những màn hiệp thông cầu nguyện xin cho của Công giáo Việt Nam ở trong nước cũng như ở ngoại quốc chẳng mang lại một kết quả nào. Nhưng màn cầu nguyện hàng năm của Vatican cũng đã mang lại một kết quả ngoạn mục, đó là Chúa và Đức Mẹ đã đáp ứng như sau: mỗi ngày ở Nam Mỹ và Phi Châu có tới 8000 tín đồ Công giáo bỏ đạo để theo Tin Lành, nên giáo hoàng John Paul II đã mất bình tĩnh, và để lộ đạo đức tôn giáo chân thật của người chủ chăn Công giáo, người mà các tín đồ Công giáo vẫn thường gọi là “đức thánh cha” (Holy Father), “đại diện của Chúa Ki Tô trên trần” (Vicar of Christ), khi ông gọi những nhà truyền giáo Tin Lành ở những nơi đây là “những con chó sói đói mồi..gây bất hòa và chia rẽ trong những cộng đồng của chúng ta. (Newsweek, Feb. 12, 1996: John Paul II denounces them (the Protestant missionaries) as ravenous wolves...causing discord and division in our communities.).

Nhưng chỉ vài năm sau, như tự tát vào chính mặt mình, ông ta đã thúc dục những giám mục của ông ta phải tăng gia nỗ lực đi cải đạo các tín đồ tôn giáo khác ở Á Châu. (BBC, Ibid.: The Pope called on the bishops to step up evangelisation in Asia).

Chúng ta hãy đặt một câu hỏi: bản chất của những giám mục này có khác chi những nhà truyền giáo Tin Lành ở Nam Mỹ và Phi Châu mà ông ta đã gọi là “những con chó sói đói mồi gây bất hòa và chia rẽ”? Nếu những nhà truyền giáo Tin Lành đi cải đạo các tín đồ Công giáo, theo giáo hoàng John Paul II, là những con “Chó sói Tin Lành đói mồi”, thì những nhà truyền giáo Công giáo hay Tin Lành ở Á Châu hay đi đến Á Châu để cải đạo người khác phải chăng cũng chỉ là những con “chó sói Công giáo hoặc chó sói Tin Lành đói mồi”? Có gì khác biệt trong mục đích đi khuyến dụ người khác cải đạo của Tin Lành và của Công giáo?

Đối với người phi Ki-Tô thì “chó sói Tin Lành” hay “chó sói Công giáo” hoàn toàn không có gì khác biệt, vì chúng có cùng một bản chất và cùng một mục đích, gây bất hòa và chia rẽ trong những cộng đồng phi Ki-Tô. Kinh nghiệm Việt Nam đã chứng tỏ sự truyền đạo Công giáo vào đất nước thân yêu của chúng ta, vốn vẫn sống trong tinh thần hòa hợp thuần nhất, đã gây ra những cảnh bất hòa, chia rẽ trong gia đình những kẻ tân tòng, và gây ra cảnh chia rẽ, Lương Giáo tàn sát lẫn nhau trong xã hội Việt Nam như Linh mục Lương Kim Định đã thú nhận. Và gần đây, sự truyền đạo Tin Lành trong một vài miền cao nguyên Việt Nam cũng đã gây ra những cảnh chia rẽ, xáo trộn trong xã hội. Ai có thể phủ bác được những sự kiện này, xin lên tiếng.

Tôi xin quý độc giả để ý, từ “chó sói đói mồi” (ravenous wolves) là từ của giáo hoàng John Paul II gọi các nhà truyền giáo Tin Lành ở Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh chứ không phải là từ của tôi đưa ra. Tôi không hạ cấp đến độ gọi các nhà truyền giáo Ki Tô, Công giáo cũng như Tin Lành, là những con “chó sói đói mồi” mà chỉ phê bình và phân tích vấn đề.

Trước tình trạng suy thoái thê thảm của Công giáo, để cứu giáo hội của Chúa, tín đồ Công giáo Việt Nam bèn xung phong đổ xô đi học nghề linh mục. Thật vậy, ở trường dòng Dubuque, Iowa, có 70 người theo học nghề linh mục thì có tới 43 người là Việt Nam, tỷ lệ hơn 60%. Đa số các tân linh mục ngày nay là Mít, Mễ, Ba Lan, Phi Luật Tân. Nhưng Giáo hoàng Benedict XVI lại không lấy đó làm vui, vì là “đại diện của Chúa Ki Tô trên trần” (Vicar of Christ) nên ngài biết hết, hiểu hết, và đã nhìn ra sự thật. Ngài phán: Niềm vui này đi kèm với một niềm cay đắng vì một số sẽ trở thành linh mục này chỉ tìm kiếm một đời sống thoải mái hơn. Trở thành linh mục, họ trở thành hầu như là một tộc trưởng của một bộ lạc, đương nhiên là họ được ưu đãi và có một đời sống khác[7]

Nhưng Giáo hoàng không biết rằng làm linh mục Việt Nam thì đặc biệt hơn các linh mục Tây Phương nhiều, vì con chiên Việt Nam nổi tiếng là ngoan đạo, cho nên dù các linh mục có làm gì thì con chiên cũng không dám ho he. Một giám mục Việt Nam đã chẳng răn đe họ là: “Các con đừng có nói hành các cha mà mang tội với Chúa”“Đừng có phán xét các Cha để khỏi bị Chúa phán xét” hay sao. Nghe đến “mang tội với Chúa”“Chúa phán xét” là con chiên sợ rét run lên rồi, dù rằng Chúa đã chết cách đây 2000 năm và người ta đã tìm thấy bộ xương của “Chúa Cứu Thế” trong một tiểu quách ở Jerusalem, cùng với những bộ xương của vợ, Mary Magdalene, và của con, Judah, trong vài tiểu quách khác. Cho nên một số linh mục Việt Nam tự do thoải mái truyền giống thay vì truyền giáo (Xin đọc bức thư của nhóm đệ tử Linh Mục Nguyễn Hữu Trọng ở Việt Nam gửi giáo hoàng John Paul II và Hồng Y Phạm Đình Tụng), hay làm bất cứ điều gì khác mà không sợ con chiên tố khổ như ở Mỹ.]

Tôi nghĩ rằng những tín đồ Công giáo Việt Nam nào còn có chút đầu óc thì cũng phải cảm thấy xấu hổ vì có một chủ chăn vô đạo đức như Benedict XVI mà mình vẫn được dạy phải cúi đầu “quên mình trong vâng phục”, và cảm thấy ngượng ngùng trước người ngoại đạo là tại sao mình vẫn còn ở trong một một đạo mà cái lịch sử tàn bạo ô nhục đẫm máu của nó là một sự kiện không thể chối cãi và các niềm tin trong đó đã không còn giá trị trong các xã hội văn minh tân tiến ngày nay. Tín đồ Công giáo không có cách nào để đặt mình ra ngoài những sự kiện lịch sử này, và dù muốn dù không, cái gánh nặng này sẽ còn tiếp tục đè nặng trên vai họ, dù họ có biết đến nó hay không. Nhưng điều bất hạnh là trên một số diễn đàn truyền thông Công giáo ở hải ngoại, chúng ta vẫn thấy các con chiên ngoan đạo tiếp tục tâng bốc ca tụng “Đức Thánh Cha” của họ, khoe chuyện phong thánh ở Ba Tây, theo truyền thống “mẹ Công giáo hát thì con Công giáo phải khen hay” từ nhiều đời cha truyền con nối của giáo dân Việt Nam, và vẫn huênh hoang tin rằng mình đang ở trong một “hội thánh”. Một số trí thức Công giáo vẫn tiếp tục ra công đề cao đánh bóng Công giáo là đạo của bác ái, của tình thương, và rất văn minh tiến bộ, không hề có chút mê tín nào, hiểu đạo bằng trí tuệ . Biết bao giờ họ mới thức tỉnh để nhận thức được rằng Ki Tô Giáo là một tôn giáo mê tín nhất hạng, là một sự đại lừa bịp đã đè nặng trên đầu nhân loại qua bao thế kỷ cho tới mấy thế kỷ gần đây, con người mới cất bỏ được gánh nặng đó trên đầu, và suy nghĩ lại tại sao mình còn cứ tự mình làm khổ mình, tiếp tục mang khối nặng đó trên đầu trên cổ..

Ở Mễ Tây Cơ trước đây có luật cấm các Linh mục không được mặc áo chùng thâm ra đường và không được lập các trường học. Trong cuốn Freedom’s Foe – The Vatican, The Pioneer Press, London, Adrian Pigott, viết, trang 51: “Giáo sư đại học W. K. Clifford khuyến cáo: Nếu có một bài học lịch sử nào cho chúng ta thì đó là – Hãy giữ con cái tránh xa ông Linh mụcnếu không hắn sẽ làm cho chúng thành những kẻ thù của Nhân Loại.” [8] và đưa ra vài nhận định về linh mục như sau, trang 52:

“Linh mục Công giáo La Mã chủ yếu là một điệp viên của Vatican, và bắt buộc phải chỉ đạo đàn chiên theo lệnh mà hắn ta nhận được từ những cố vấn chính trị của giáo hoàng. Hắn ta là cảnh sát của giáo hoàng – và cũng là người thu thuế của giáo hoàng…

Thật là sai lầm đối với chúng ta khi qui trách quá đáng cho chính các linh mục, vì nhiều người trong họ là những người đáng kính mà có thể trong thâm tâm không thích phải thi hành nhiều hoạt động mà Vatican ra lệnh. [Theo lệnh của Vatican, giới giáo sĩ ở Đức, Ý và Pháp phải đứng ra ca tụng Hitler, Mussolini và Pétain (Pháp gian). Hồng Y Tổng Giám Mục ở Florence (Ý) còn hôn Mussolini trước quần chúng.] Nhưng kỷ luật sắt có thừa của Công giáo đến độ ảnh hưởng của linh mục Công giáo La Mã trên đàn chiên thường đưa đến cảnh khốn khổ “kẻ mù dẫn dắt người mù”. Là người Anh, người Mỹ, Peru, Ba Lan hay Cuba, giám mục và linh mục Công giáo đã hoàn toàn lệ thuộc Vatican để thi hành những huấn thị của những người ở trong cái Phòng Kín ở La Mã – ngay cả khi những lệnh đó có hại cho chính quốc gia của họ hay xúc phạm đến lý trí của họ. Nói cách khác, họ như là nô lệ trong hệ thống chính trị của Vatican. Không lạ gì, Công Giáo La Mã thành công nhất ở trong những nước thuộc Châu Mỹ La-Tinh, nơi đây người dân cả tin và mê tín; trong khi ở những nước miền Bắc, dân chúng có đầu óc độc lập, Công giáo chỉ là thiểu số.” [9]

Những điều Adrian Pigott viết ở trên không phải là không có cơ sở nếu chúng ta chịu khó nghiên cứu sâu xa về Công giáo. Một trí thức Công giáo đạo gốc Việt Nam, Charlie Nguyễn, đã từng viết:

Bảy triệu tín đồ Công giáo tại quốc nội là đạo quân thứ năm bản địa dưới sự lãnh đạo của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Hội đồng này do Vatican tuyển chọn và phong chức nên. Hội đồng Giám mục Việt Nam hiện nay gồm toàn những cán bộ tuyệt đối trung thành với Vatican. Họ sẵn sàng phản bội tổ quốc Việt Nam vì tổ quốc thật của họ là “nước Chúa Vatican”!.

Giới linh mục dựa vào quyền năng thần thánh tự tạo của mình để làm phép ma thuật trong 6 bí tích của Công giáo, khai thác đầu óc yếu kém của tín đồ, và từ đó nắm giữ đầu óc tín đồ, chỉ đạo họ đi theo con đường “quên mình trong vâng phục” Vatican. Giáo hội Công giáo đã nhồi vào đầu óc tín đồ từ khi còn nhỏ, rằng tất cả những gì giáo hội bày đặt ra và bắt tín đồ phải tin đều là thật, và đó là những "bí tích" hay "nhiệm tích", nghĩa là những tích bí mật và màu nhiệm do Chúa đặt ra, cho nên tín đồ chỉ việc tin, không cần hiểu.

Khi trí tuệ nhân loại chưa mở mang thì những cái gọi là "bí tích" hay “tín lý” (dogma) đó được tín đồ tin theo, không bàn cãi. Nhưng tiến hóa là một định luật của vũ trụ trong đó có con người, cho nên, với trình độ hiểu biết của con người ngày nay, những niềm tin mù quáng, vô căn cứ, hoang đường, phi lôgic, phản lý trí, phản khoa học v..v.. vào những "bí tích" trong Công Giáo không còn chỗ đứng nữa, ít ra là trong giới có học, trí thức và khoa học, ở trong cũng như ở ngoài giáo hội. Trong những xã hội Âu Mỹ, số người đi lễ nhà thờ giảm sút một cách rõ rệt. Điều này chứng tỏ những "bí tích" không còn hấp dẫn đối với những tín đồ có trình độ hiểu biết cao. Hiện tượng nhà thờ vắng khách ở Âu Châu là một sự kiện không ai có thể phủ nhận. Trong khi đó, tại những nước chậm tiến như Phi Châu, Nam Mỹ, Mễ Tây Cơ, Phi Luật Tân và một số ốc đảo ở Việt Nam cũng như trong những cộng đồng đông đảo người Việt di cư, trình độ dân trí còn thấp, cho nên tín đồ Công giáo vẫn còn đi lễ nhà thờ đông đảo và tin vào những cái gọi là "bí tích" mà Giáo hội dạy các tín đồ là do Chúa đặt ra, nhưng thực ra chỉ là Giáo hội đặt ra để tạo quyền lực tự ban cho giới chăn chiên trong việc kiểm soát và nắm giữ đầu óc tín đồ. Tuy nhiên, ngày nay có nhiều dấu hiệu cho thấy các quốc gia Phi Châu, Nam Mỹ và ngay cả trong những ốc đảo Công giáo ở Việt Nam, con người đã bắt đầu thức tỉnh, song song với sự mở mang dân trí trong những quốc gia này.

Người Công giáo Việt Nam cần phải biết rõ nhiều hơn nữa về chính tôn giáo của mình để có thể thấy rằng, lệ thuộc Vatican, dù là về tâm linh là chuyện phi lý, không có cơ sở trong Thánh Kinh, khoan kể như vậy là tự đặt mình ra khỏi cộng đồng dân tộc, vì Vatican, như một quốc gia, là một ngoại bang, và như một tôn giáo, đã có một lịch sử đẫm máu hàng triệu người vô tội và một lịch sử không mấy tốt đẹp khi truyền vào Việt Nam, biến các tín đồ Công giáo Việt Nam thành tập đoàn những kẻ phản bội quốc gia, và gây nên sự bất hòa giữa Lương và Giáo mà theo Linh Mục Lương Kim Định, xem ra không sao xóa sạch được. Ngày nay, người Công giáo Việt Nam có khuynh hướng trở về với Dân Tộc, ít nhất là theo sự tuyên truyền của Giáo hội Công giáo. Nhưng đại khối dân tộc Việt Nam sẽ chưa vội tin những lời tuyên truyền của Giáo hội, mà sẽ để ý xem việc làm của Giáo hội có đi đôi với lời nói không. Qua những hành động huy động giáo dân, kể cả con nít và các bà già, tụ tập hiệp thông cầu nguyện bất hợp pháp ở một vài nơi như Tòa Khâm Sứ, Thái Hà, Tam Tòa v…v…, và vẫn cúi đầu tuân phục Vatican, thì chúng ta có thể thấy rõ là Giáo hội nói một đàng, làm một nẻo và không hề có thành tâm để trở về với dân tộc.. Đây là một vấn nạn mà người Công giáo Việt Nam nên để tâm suy nghĩ kỹ.

Trong khi Ki Tô Giáo nói chung đang suy thoái trong các nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ thì Công Giáo và Tin Lành đều đặt nỗ lực vào việc mang những thứ đang dần dần bị phế thải ở Âu Mỹ để đi truyền đạo, xâm lăng văn hóa các nước Á Châu, trong đó có Việt Nam. Ở một vài địa phương ở Phi Châu và Á Châu, trong những vùng chậm tiến và nghèo khổ, nếu chỉ kể trên con số, Ki Tô Giáo lại có vẻ phát triển, tuy rằng những con số đó, so với mức gia tăng của dân số thì thực sự không phải là một dấu hiệu phát triển. Điều đáng buồn là có một số tín đồ Công giáo cũng như Tin Lành Việt Nam lại khoe khoang là số tín đồ của tôn giáo mình gia tăng, cũng như một số tân tòng Công giáo hay Tin Lành cũng khoe khoang là mình được vào trong “hội thánh”. Họ thường vinh hạnh khoe: nay có ông tu sĩ Phật giáo này bỏ Phật theo Chúa, mai có người kia làm chứng lời Chúa v..v.. nhưng tất cả đều chỉ là những nhân vật vô tên tuổi, không ai biết đến, và phần lớn là bịa ra làm chứng láo. Vấn đề là thực chất những điều này không phải là những điều đáng khoe khoang mà trái lại, đó là một sự biểu hiện của ô nhục và ngu đần (A badge of shame and ignorance). Tại sao? Vì thử hỏi, có gì đáng khoe khoang ở cái chuyện đi nhặt những niềm tin thuộc loại hoang đường mê tín mà Âu Châu và Mỹ Châu đang dần dần phế thải về làm của báu cho mình. Âu Châu và Mỹ Châu vốn là cái nôi của Ki Tô Giáo, nhưng ngày nay Ki Tô Giáo ở những phương trời này lại bị phá sản, như học giả Eliezer Berkovits đã viết về “sự phá sản đạo đức của nền văn minh Ki Tô Giáo và sự phá sản Tâm Linh của Ki Tô Giáo” (The moral bankrupcy of Christian civilization and the spiritual bankrupcy of Christian religion) trong cuốn “Đạo Do Thái Trong Thời Kỳ Hậu Ki Tô” (Judaism in the Post-Christian Era). Trong khi nhiều người đã thoát ra để tự thanh tẩy ký ức và để dứt bỏ sự dính líu của mình vào một tôn giáo có một lịch sử tàn bạo nhất thế gian, thì có người lại tự đâm đầu vào cái định chế tôn giáo mà lịch sử ô nhục của nó không ai có thể chối cãi. Đó có phải là điều đáng khoe hay là điều đáng thương hại và tội nghiệp?

Giáo sư Nguyễn Văn Trung, một tín đồ Công giáo, đã nhận định về Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Việt Nam: Tòa Thánh có đánh rắm cũng khen thơm đã nói lên sự thực về bản chất của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Việt Nam và cùng lúc, sự thành công của Giáo hội hoàn vũ đối với tuyệt đại đa số người Công giáo Việt Nam, một sự thực khá đau lòng đối với tuyệt đại đa số người dân Việt Nam trước sự bất hạnh của 7% dân số theo đạo, nạn nhân của sách lược “ngu dân dễ trị’ của một định chế hoàn toàn thế tục nấp sau bộ mặt tôn giáo. Charlie Nguyễn, một trí thức Công giáo đạo gốc, trong một gia đình theo đạo từ đầu, đã phải đau lòng mà viết rằng: Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Việt Nam phải gánh phần lớn trách nhiệm trong việc nhốt những con chiên của mình vào những chuồng tâm linh tăm tối. Nhưng trách như vậy là Charlie Nguyễn đã lầm, vì đó là chính sách của Giáo hội Công Giáo hoàn vũ, và Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Việt Nam chẳng qua chỉ gồm những thuộc hạ của Giáo hoàng và của tập đoàn chỉ đạo ở Vatican, và vì chính quyền lợi thế tục của họ mà họ phải duy trì chính sách này. Bởi vậy mà cho đến ngày nay mà tuyệt đại đa số tín đồ Công Giáo Việt Nam, kể cả một số trí thức Công Giáo, vẫn còn tin Giáo hoàng là đại diện của Chúa Giê-su trên trần, có quyền cho họ lên thiên đường hay tuyệt thông họ, và vẫn có những ông Linh mục như Linh mục Vũ Đức ở Detroit rao giảng: “Linh Mục là Chúa thứ hai” (Alter Christus), và sau khi được phong chức linh mục thì các linh mục “đương nhiên là Chúa Ki Tô” v..v.. Thật không có gì có thể lố bịch hơn. Đối với giới hiểu biết thì chẳng làm gì có Chúa thứ nhất, khoan nói đến hơn 5000 “Chúa thứ hai” đã từng đi cưỡng bách tình dục các nữ tu và trẻ con, cùng ăn cắp tiền của nhà thờ như tuần báo Time, số ngày 26 tháng 2, 2007, đã phanh phui, và phạm đủ mọi thứ tội như lịch sử đã ghi rõ.

 

(xem tiếp bài chót...)


Chú thích:

[1]. BRASILIA (Reuters) - Outraged Indian leaders in Brazil said on Monday they were offended by Pope Benedict's "arrogant and disrespectful" comments that the Roman Catholic Church had purified them and a revival of their religions would be a backward step.

[2]. In a speech to Latin American and Caribbean bishops at the end of a visit to Brazil, the Pope said the Church had not imposed itself on the indigenous peoples of the Americas. They had welcomed the arrival of European priests at the time of the conquest as they were "silently longing” for Christianity, he said.

[3]. AP - Two Wisconsin bishops urged the Vatican office led by Cardinal Joseph Ratzinger — now Pope Benedict XVI — to let them conduct a church trial against a priest accused of molesting some 200 deaf boys, but the Vatican ordered the process halted, church and Vatican documents show.

[4]. Margaret Shepherd from South Ireland, My Life in the Convent, p. 46: You who have never been under this influence, who have from childhood been allowed freedom of speech, liberty of conscience, and who see no distinction between your clergy and laity, you cannot, you never will understand the influence that RC priests have over the laity of their own nationality.

[5]. Judith Hayes trong The Happy Heretic, p. 66-67: Shields revealed that part of her job was to help keep track of the millions of dollars donated to Teresa's "charity" work. Unfortunately, most of that money sat unused in various bank accounts while the sisters literally had to beg for food from local merchants, since "poverty" is supposedly a virtue. If the locals couldn't help out, the soup kitchens did without. This is charity? With millions sitting idle and Teresa constantly asking for more donations, it makes no sense at all.

[6]. Each year in January, for many decades, Roman Catholics have offered eight days of prayer for Church unity. Until 1959, the idea behind those days of prayer, January 8-15, was the hope that the Protestants would “return” to the one true Church, and the Orthodox schism would end.

[7]. Benedict said the "joy" at the growing numbers of churchmen in the developing world is accompanied by "a certain bitterness" because some would-be priests were only looking for a better life. “Becoming a priest, they become almost like a head of a tribe, they are naturally privileged and have another type of life," he said.

[8]. If there is one lesson which History forces upon us, it is this – Keep your children away from the Priest – or he will make them the enemies of Mankind.

[9]. The Romanist priest is primarily a Vatican agent, and is compelled to direct his flock in accordance with the commands which he receives from the Pope’s political advisers. He is the pope’s policeman – and also his tax collector as well…

It would be wrong of us to blame unduly the priests themselves, because many of them are worthy men who probably (in their heart of hearts), dislike having to carry out many of the actions which the Vatican ordains. [Under Vatican orders, the clergy in Germany, Italy and France had to come out with fulsome praises of Hitler, Mussolini and Pétain. The Cardinal Archbishop of Florence even kissed Mussolini in public] But the iron discipline abounding is such that the impact of the Romanist priest on his flock often amounts to the distressing one of “the blind leading the blind”. Whether he is English, American, Peruvian, Polish or Cuban, the Romanist bishop or priest has servilely to carry out orders which he receives from the Back Room Boys in Rome – even when the orders are detrimental to the interests of his own country or if they offend his own powers of Reason. In other words, he is a sort of slave in the Vatican political network. It is small wonder that Roman Catholicism flourishes chiefly in Latin countries with their credulous, superstitious people; while in northern countries, whose people are independently-minded, it is in a minority.

Trang Tôn giáo