 |
16 tháng 12, 2009 |
LTS: Người Công Giáo quen sống hàng ngày với những nghi thức có tính cách "trình diễn": lễ misa, lễ rửa tội, lễ thêm sức, bí tích giải tội,... cho nên dần dà mất đi tác dụng nội tâm đáng lẽ phải có. Đàng sau và bên trong các nghi thức, người ta không dễ tìm thấy một sự thành khẩn thật tâm, mà chỉ là những toan tính mà thôi. Bí tích "giải tội" về mặt tốt nhất của nó là để tín hữu xét lại lỗi lầm của mình. Nhưng cách thể hiện của nó đã tạo ra phản ứng ngược lại vì chỉ là "xin lỗi với Chúa", khỏi bận tâm với nạn nhân nào cả. Người đi "xưng tội" chỉ cần đọc các kinh mà ông linh mục ngồi trong tòa giải tội đã "cho toa", đọc xong là sẽ hết tội, và được ăn bánh "thánh". Vì luyện mỗi ngày như thế, nên việc "xin lỗi" của tín hữu Công giáo chỉ có bề dày của một miếng da bị chai cứng, không có nổi một xúc giác. Sau buổi lễ thì đâu lại hoàn vào đó, vì không có chương trình hành động nào để chứng minh hay thực hiện việc xin lỗi cả. Có chăng là "bỏ quên tội lỗi xưa" để tiếp tục chương trình mới, tinh vi hơn xưa. Đã thế, trong giờ hành lễ, chủ tế cũng không thể đóng nổi vai một kịch sĩ, một đào thương, bởi vì lời lẽ không những gượng gạo, mà còn lếu láo và có phần xấc xược. Mời bạn đọc xem bài phân tích của Giáo Sư Trần Chung Ngọc sau đây.
Đầu đề bài của Linh Mục Lê Công Đức là “Hòa Giải
Và Hy Vọng”, nhưng nội dung không phản ánh đầu đề. Trong bài này, tôi
xin có vài nhận định về hai chủ đề trong bài của Linh Mục Lê Công Đức: Hành
động ban phép lành của Hồng Y Etchégaray, và Giáo Hội Ca-tô Việt Nam sám hối
và xin lỗi.

Về hành động ban phép lành của Hồng Y Etchégaray,
Linh Mục Lê Công Đức viết:
Tôi thấy thật gần tâm tình của Đức Hồng Y
Etchégaray, đến từ Vatican, khi ngài vừa vung mạnh tay vừa nhấn giọng - ở
cuối Thánh Lễ Chúa Kitô Vua tại nhà thờ Chính Tòa Hà Nội - để xác nhận rằng
“Chúng tôi ban phép lành này là cầu chúc phúc lành của Thiên Chúa
không chỉ cho chúng ta ở đây, mà cho tất cả, tất cả mọi người Việt Nam,
không trừ ai.” Cha Etcharren, Bề Trên Cả Hội Thừa Sai Paris, đã
dịch ra tiếng Việt tại chỗ là “... không trừ ai hết!” Ôi, mấy
tiếng “không trừ ai hết” này mới dễ thương làm sao!
Thật tình tôi thấy mấy tiếng này chẳng dễ thương chút
nào, vì phân tích ra thì hành động của Hồng Y Etchégaray là một hành động
trịch thượng vô lối, nếu không muốn nói là thiếu trí tuệ. Thiếu trí tuệ
vì không hiểu truyền thống văn hóa của đa số người dân Việt Nam phi Ca-tô.
Hơn 90% người dân Việt Nam không tin vào Thiên Chúa của Ca-tô Rô-maGiáo, vậy
phúc lành của Thiên Chúa, sản phẩm ảo tưởng của các tín đồ Ca-tô
[Xin đọc “The God Delusion” của Richard Dawkins hay “God Is Not
Great” của Christopher Hitchens, “The Dark Side of God” của
Douglas Lockhart, “Huyền Thoại Cứu Rỗi’ (The Salvation Myth) của Linh
Mục James Kavanaugh [https://www.sachhiem.net/TCNtg/TCN36.php], “Giê-su
Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp bỏ” (Jesus as a Rescuer:
An Image That Has To Go) của Giám Mục John Shelby Spong
[https://www.sachhiem.net/TCNtg/TCN37.php] v…v…] thì có giá trị gì đối với
người dân Việt Nam không “theo đạo để có gạo mà ăn”. Hành động của Hồng Y
Etchégaray có tính cách trịch thượng giống như như hành động vô lối của Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam trước đây, đã dâng cả nước Việt Nam cho bà Maria tuy
rằng hơn 90% người dân Việt Nam không hề biết, và có biết thì cũng không
tin, không quan tâm đến bà Maria là ai.
Nếu Hồng Y Etchégaray thông minh
một chút thì ông ta có thể nói đại khái như sau: “Nhân danh là một quan
chức đại diện cho tiểu quốc Vatican, tôi xin có lời chúc lành cho quý quốc
và nhân dân Việt Nam” thì chúng tôi, dân ngoại đạo, sẽ hoan hỉ chấp nhận
và cám ơn. Nhưng chúc lành là một ý tốt được dùng phổ quát trong dân gian,
còn “ban phép lành” là một nghi thức tôn giáo chỉ có giá trị trong Ca-tô
Rô-maGiáo, thì không thể cưỡng bức áp đặt lên đầu những người ngoại đạo
không hề tin Thiên Chúa. Một điều đơn giản và sơ đẳng như vậy mà Hồng Y
Etchégaray và Linh mục Lê Công Đức cũng không hiểu.
Một Chút Về Nghi Thức Ban Phép Lành
Để vấn đề được rõ ràng hơn chúng ta cần tìm hiểu ý
nghĩa của nghi thức “ban phép lành” của Ca-tô Rô-maGiáo.
p Chúng ta hãy nghe
lời giảng về “phép lành” của Linh Mục Ngô Tôn Huấn trên
Luongtamconggiao.com:
II.- Phép lành (blessings)
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ:
“Vào bất cứ nhà nào, trước tiên anh em hãy nói: bình an cho nhà này! Nếu ở
đó có ai đáng hưởng bình an thì bình an của anh em sẽ đậu trên người ấy;
bằng không thì bình an đó sẽ quay về với anh em.” (Lc 10: 5-6)
Như thế rõ ràng cho thấy Chúa Giêsu đã cho các tông
đồ xưa và Giáo Hội ngày nay quyền xin ơn lành xuống trên người và đồ vật
như các ảnh tượng, nước, dầu, đèn nến, nhà ở, xe cộ, tầu bè, thực phẩm v.v.
[và cả súng đại bác và xe tăng trong cuộc chiến Việt Nam]
Theo Giáo Lý của Giáo Hội thì phép lành hay chúc
lành là “một hành vi thần linh ban sự sống bắt nguồn từ Chúa Cha. Sự
chúc lành của Ngài vừa là một lời vừa là một quà tặng (eu-logia,
bene-dictio). Khi áp dụng cho con người thì lời ‘chúc phúc’ này lại có
nghĩa thờ lậy, suy phục và cảm tạ Đấng Tạo Dựng lên mình.” (x. SGLGHCG,
số 1078)…
Như vậy, khi ban phép lành hay làm phép người
hoặc đồ vật, Giáo Hội cầu xin Chúa ban ơn hay thánh hoá người và vật được
làm phép hay chúc phúc. Thông thường, linh mục được ban các phép lành,
trừ những phép dành riêng cho Đức Thánh Cha và các Giám Mục. (x. Giáo Luật
số 1169)
Phép lành là một Á bí tích (sacramental) tức là dấu
chỉ thánh qua đó hiệu quả thiêng liêng được thông ban cho người hay đồ vật
qua lời cầu xin của Giáo Hội.
LM Phanxivô Xaviê Ngô Tôn Huấn
p Chúng ta hãy nghe lời giải thích thế nào là “phép lành”
trong Ca-tô Rô-maGiáo của linh mục William Saunders trên
https://catholiceducation.org/articles/religion/re0243.html:
Phép lành thuộc loại á bí tích [sacramental]…
Không giống như một bí tích, một á bí tích không ban ân sủng của Thánh
Linh. Tuy nhiên, giống như một bí tích, một á bí tích giúp tín đồ thánh hóa
mọi lúc trong cuộc sống để họ sống trong bí nhiệm phục sinh của Chúa. Trong
các á bí tích thì phép lành là trên hết. Trong sắc lệnh xuất bản cuốn sách
về phép lành, Hồng Y Mayer viết: “Ban phép lành chiếm một vị trí đặc ân
trong tất cả các á bí tích tạo ra bởi Giáo hội cho sự lợi ích mục vụ của dân
Chúa. Là một nghi thức, sự ban phép lành hướng dẫn tin đồ ca tụng Gót
và sửa soạn họ cho ảnh hưởng chính của bí tích. Bằng sự ban phép lành,
tín đồ cũng có thể thánh hóa các trường hợp và biến cố trong đời sống của
họ. Phép lành là dấu hiệu cho tín đồ về những lợi ích tâm linh có thể
đạt được qua sự trung gian của giáo hội.[1]
p Chúng ta hãy đọc thêm một giải thích về “phép lành” trong website sau
đây:
https://atheism.about.com/od/bibledictionaryonline/p/blessblessing.htm
Phép lành là gì?Trong Kinh Thánh, phép lành được miêu tả như là
một dấu chỉ về mối liên hệ của Gót đối với một người hay một quốc gia.
Khi một người hoặc một nhóm được ban phép lành, đó là dấu của sự ân sủng của
Gót lên trên họ hay có thể ngay cả hiện diện trong họ. Một người được
ban phép lành có nghĩa là người đó dự phần trong kế hoạch của Gót cho thế
giới và nhân loại.
Hành động ban phép lành nối kết thần học, nghi thức,
và lễ nghi với nhau. Thần học là vì trong phép lành có ý định của Gót.
Nghi thức vì sự ban phép lành được thực hiện trong bối cảnh của những lời
hành lễ trong nghi thức. Lễ nghi vì khi một người được ban phép lành tự
nhắc nhở về mối liên hệ với Gót
[2]
Từ những lời giải thích về ý nghĩa của sự ban phép lành ở
trên, đối với người ngoại đạo chúng tôi, “ban phép lành” chỉ là một trong mớ
nghi thức mê tín tôn giáo của Ca-tô Rô-maGiáo, không có giá trị gì đối với
bất cứ ai khác, do đó không thể tùy tiện áp đặt trên đầu những người khác
đạo. Thực ra đây chỉ là một trong những nghi thức tôn giáo, cũng như 7 bí
tích trong Ca-tô Rô-maGiáo, được nền thần học Ca-tô dựng ra để tạo quyền
lực cho giới chăn chiên như Linh Mục Joseph McCabe đã chứng minh trong cuốn
“Sự Thực Về Giáo Hội Ca-tô” (The Truth About The Catholic Church), vì
chỉ có giới chăn chiên mới có quyền “ban phép lành” cho những tín đồ có đầu
óc có thể tin rằng một cử chỉ hoa tay làm dấu thập giá, với vài lời bằng
tiếng La-tinh, là “phép lành” thực.
Giáo hội Ca-tô luôn luôn cho rằng Giáo
hội là phương tiện cứu rỗi cho cả nhân loại, nên luôn luôn áp đặt những điều
mê tín của mình lên đầu người khác. Hơn 5000 linh mục can tội loạn dâm, bàn
tay ban phép lành của họ có lành không? Giáo Hoàng Benedict XVI, Hồng Y
Bernard Law ở Boston và nhiều chức sắc cao cấp khác trong Giáo hội đã cố ý
bao che các linh mục can tội loạn dâm, vậy bàn tay “ban phép lành” của họ có
sạch sẽ không?
Vấn đề chính ở đây là, muốn giải thích ra sao thì giải
thích, muốn biện minh thế nào thì biện minh, các tín đồ như LM Lê Công Đức
muốn ca tụng hành động trên của Hồng Y Etchégaray như thế nào thì ca tụng,
trong một thế giới đa tôn giáo, không ai có thể mang một nghi thức tôn giáo
của tôn giáo mình mà áp đặt lên đầu người trong tôn giáo khác, huống chi là
cả một quốc gia mà tuyệt đại đa số không theo tôn giáo của mình. Vì vậy,
người dân Việt Nam chúng tôi, những người không theo Ca-tô Rô-maGiáo, coi
sự ban phép lành của Hồng Y Etchégaray là vô giá trị, vô ý nghĩa, một hành
động trịch thượng vô lối, và cương quyết không chấp nhận, phép lành đó xin
để trả lại cho Ca-tô Rô-maGiáo. Chúng tôi cũng mong Hồng Y Etchégaray hãy
xin lỗi người dân Việt Nam phi-Ca-tô về hành động thiếu trí tuệ trên của
mình.
Linh mục Lê Công Đức cũng còn nhắc đến sự áp đặt nghi
thức ban phép lành của Ca-tô Rô-ma Giáo trên đầu người Việt như sau, qua lời
của Hồng Y Etchégaray:
“Việc ban phép lành này là cầu chúc phúc lành
của Chúa cho hết mọi người, để ai cũng có được niềm hy vọng, cách riêng
những người đau khổ nhất, những người cần niềm hy vọng nhất...”
Chúng ta nên hiểu Chúa là Chúa của Ca-tô Rô-maGiáo chứ
không phải là Chúa của cả nhân loại. Trong hơn 6 tỷ người trên thế giới thì
trên 2/3 không biết Chúa là ai, và những người hiểu biết, ngay cả ở trong Ki
Tô Giáo, cũng biết Chúa chỉ là một cái bung xung mà Giáo hội dựng lên để tạo
quyền lực vật chất và tinh thần cho giới chăn chiên trên đám tín đồ phần lớn
là đầu óc thấp kém. Cho nên, đối với những người phi-Ca-tô, phúc lành
của Chúa chỉ là sự mê tín của những người Ca-tô, chẳng có giá trị gì và ý
nghĩa gì đối với họ. Tại sao những bậc chăn chiên Ki Tô Giáo không hiểu
được những điều sơ đẳng này. Niềm hy vọng của các tín đồ Ca-tô là được Chúa
cứu rỗi. Nhưng chính Giáo hoàng John Paul II đã công nhận thuyết Tiến Hóa,
đồng thời phủ nhận sự hiện hữu của thiên đường và hỏa ngục, vậy chẳng làm gì
có cái gọi là tội tổ tông, chẳng cần ai làm trung gian để hòa giải với Gót,
và do đó vai trò cứu rỗi của Giê-su đã bị chính Linh Mục James Kavanaugh và
Giám Mục John Shelby Spong dẹp bỏ. Vậy người Việt Nam ngoại đạo chúng tôi
đâu có cần đến cái hy vọng hão huyền, viển vông mà Hồng Y Etchégaray muốn
chúng tôi có qua hành động ban phép lành.
Lời “cầu nguyện” của người Pharisêu hay người thu thuế ?(*).
Sau đây là phần Linh mục Lê Công Đức viết về hành động
sám hối và hòa giải của Giáo hội Ca-tô Việt Nam:
Một cách thời sự và thật cảm kích, sự can đảm ấy đã
bộc lộ chiều tối hôm trước, trong nghi thức sám hối và hòa giải được thực
hiện bởi Giáo Phận Thanh Hóa, thay mặt toàn thể Giáo Hội Việt Nam.
“Giáo Hội chúng con xin chân thành thú tội.
Giáo Hội chúng con xin cúi đầu tạ tội!”
Ai mà không nao lòng, không cảm động khi nghe lặp đi
lặp lại những lời tạ tội này, nhất là khi chúng ta không chỉ tạ tội với Chúa
hay với nhau, mà còn chân thành “cúi đầu tạ tội” với tất cả anh chị em đồng
bào mình?:
“Thưa bà con anh em lương dân không cùng tôn giáo.
“Đức Giêsu Đấng sáng lập đạo Công Giáo đã dạy chúng
tôi yêu thương mọi người, kể cả những người thù ghét mình. Lẽ ra chúng tôi
phải thực hiện tinh thần đó mọi nơi mọi lúc và với mọi người. Nhưng chúng
tôi nhận thấy do vô tình hay cố ý, chúng tôi đã làm cho quý vị phiền lòng,
chúng tôi đã thiếu sót nhiều trong nghĩa vụ yêu thương.
“Chiều hôm nay, toàn thể Giáo Hội Công Giáo muốn nói
lời xin lỗi về tất cả những điều ấy, với tất cả mọi người không phân biệt
chính kiến, vị trí và tín ngưỡng tâm linh.
“Chúng tôi xin lỗi mọi thành phần xã hội, tôn giáo,
vì chúng tôi đã chưa đủ hòa mình và đồng hành.
“Chúng tôi xin lỗi người nghèo, người hẩm hiu xấu
số, người khuyết tật, đau khổ vì chúng tôi chưa đủ quan tâm.”
Tôi chợt mường tượng rằng thế nào báo chí trong nước
cũng sẽ nhanh chóng đưa tin về sự kiện chưa từng có và đầy ý nghĩa này, biết
đâu lại chẳng có những dòng tít lớn nơi các trang nhất, chẳng hạn: “GIÁO HỘI
CÔNG GIÁO VIỆT NAM CÔNG KHAI XIN LỖI TOÀN THỂ XÃ HỘI, NHẤT LÀ XIN LỖI NGƯỜI
NGHÈO.” Thế nhưng trong những ngày sau đó, rảo qua các trang báo mạng nổi
tiếng nhất ở Việt Nam, tôi ngạc nhiên vì không tìm thấy một bản tin nào như
thế.
28.11.2009
Linh mục Lê Công Đức
(joslcd@yahoo.com)
Chúng ta hãy bỏ qua chuyện là chẳng làm gì có giáo
hội Công giáo nào do Chúa thành lập, theo như kết luận của tuyệt đại đa số
các học giả nghiên cứu Tân Ước trong vòng 200 năm nay, ở trong cũng như ở
ngoài giáo hội. Theo như Giáo hội Ca-tô Việt Nam ở trên thì “Đức Giêsu
đã dạy chúng tôi yêu thương mọi người, kể cả những người thù ghét mình”.
Như vậy là các bậc chăn chiên Ca-tô Việt Nam chưa hề đọc kỹ Tân Ước, hay
có đọc thì cũng chỉ đọc những gì mà họ được dạy để mà đọc. Trong bài “Thư
cho người tin Chúa” mới đăng trên trang nhà sachhiem.net và
giaodiemonline.com gần đây, Dan Barker, một mục sư đã rao giảng Phúc Âm
trong 19 năm, cuối cùng cũng phải đưa ra nhận định:
Và Giê-su chỉ là một mảnh văng ra từ cái khối tàn bạo cũ kỹ trên.
Hắn ta nói: “Ta với cha ta là một” và hắn ta dạy một chấm một nét cũng không
thể thay đổi trong những luật của cha hắn ta trong Cựu Ước (Matthew 5: 18);
Hắn ta dạy cùng một loại công lý trong Cựu Ước: trả thù và xử chết, sự đau
đớn, hỏa ngục cho những kẻ không tin theo ông ta. Hắn tin là có quỷ, thiên
thần và các hồn ma. Hắn ta chưa từng lên án sự nô dịch các nô lệ hay phái
nữ. Phụ nữ bị loại ra ngoài những đệ tử của hắn và không được dự bàn tiệc
của hắn ở trên trời. Trừ hỏa ngục ra, hắn không đưa ra điều gì mới về đạo
đức hay triết lý. Hắn bất kính đối với mẹ và các em trai ( Matthew.
10:35-36, Luke. 14:26); hắn nói phải căm ghét cha mẹ và bỏ gia đình đi theo
hắn. Hắn lên án sự tức giận nhưng chính hắn lại nhiều khi tức giận
(Matthew. 5:22, Mk. 3:5). Hắn nguyền rủa người khác là đồ điên, đồ rắn rết,
tuy hắn cảnh báo mọi người là ngôn ngữ như vậy sẽ bị đày xuống hỏa ngục
(Matthew 5:22); Hắn tuyên bố: “Đừng tưởng là ta tới để mang lại hòa bình cho
thế giới. Ta không tới để mang lại hòa bình mà là gươm giáo (Matthew
10:34). Hắn vô lý nguyền rủa cây sung không bao giờ ra trái nữa chỉ vì cây
đó không có quả trái mùa để cho hắn ăn khi đói (Matthew 21: 19). Hắn đòi
phải thiêu sống những người không tin hắn (John 15:6) [Giáo hội Ca-tô đã
theo đúng lệnh này (The Church has complied with relish)]. Hắn ăn cắp một
con ngụa (Luke 19:30-33). Hắn bảo người ta phải chặt cụt tay, chân, móc mắt
(Matthew 5:29-30, 19:12). Bạn muốn tôi phải chấp nhận Giê-su, nhưng cám ơn
nhé, tôi nghĩ tôi sẽ chọn bạn của tôi.
Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là quý vị đã làm những gì
để cho người ta thù ghét. Người ta thù ghét vì quý vị yêu thương mọi người
hay không yêu thương đủ hay sao? Điều này không hợp với lô-gíc thông
thường. Nhưng những lời sám hối và xin lỗi trên của Giáo hội Ca-tô Việt Nam
chỉ là những lời trên đầu môi chót lưỡi, không có thành ý, vì đó chỉ là
những lời nói đãi bôi mơ hồ. Giáo hội nói đến “tạ tội” nhưng không nói rõ
tội đó là những tội gì. Giáo hội đã che dấu những tội ác đối với quốc gia,
dân tộc, mà chỉ nói đến những tội vớ vẩn đối với các cá nhân. Thiếu lòng
yêu thương như Giáo hội nói không phải là một tội vì chính Chúa cũng thiếu
lòng yêu thương như Dan Barker đã viết ở trên.. Không quan tâm đủ đến người
nghèo cũng không phải là một tội. Tài sản của Vatican lên tới cả ngàn tỷ
đô-la nhưng Vatican đã làm gì cho những người dân nghèo ở Ethiopa hay Rwanda
v..v… Tiền của Giáo hội giúp người nghèo chẳng phải là giúp mà chỉ để dụ họ
vào đạo như lịch sử đã chứng minh. Người Việt Nam chẳng ai đã quên câu:
“Theo đạo có gạo mà ăn”. Và những thông tin tin trên Internet gần đây cũng
đưa ra sách lược của Giáo hội Ca-tô ở Việt Nam dùng của cải, vật chất để
khuyến dụ tín đồ. Đây là những sự kiện bất khả phủ bác.
Đọc những lời tạ tội đãi bôi trên của Giáo hội Ca-tô
Việt Nam tôi thấy Giáo hội Việt Nam ít lương thiện hơn là Giáo hội mẹ. Điều
này không lạ vì thành phần những bậc chăn chiên Việt Nam, từ ngày giặc Pháp
vào đất nước ta, phần lớn thuộc những thành phần nào trong xã hội, chúng ta
đã rõ. Thật vậy, chúng ta còn nhớ tại Vatican, ngày 12 tháng 3, 2000, Giáo
Hoàng John Paul II và ban tham mưu gồm 5 Hồng Y và 2 Tổng Giám mục đã long
trọng tuyên đọc những lời xưng thú liên quan đến 7 “núi tội ác” của Giáo hội
Ca-tô Rô-ma đối với nhân loại. Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận được hân hạnh
đọc lên những lời xưng thú tội ác trong mục chống lại công lý và hòa bình
v...v... của “hội Thánh” Ca-Tô. Tuy những lời xưng thú rất đại cương ,
nhưng ít ra cũng cho chúng ta viết 7 núi tội ác của Ca-tô Rô-maGiáo là những
núi tội ác nào.
Giáo hoàng và ban tham mưu thần học của ông đưa ra
những lời xưng thú tội ác tổng quát trong 7 mục sau đây:
1. Xưng thú “tội ác chung”.
2. Xưng thú “tội ác trong khi phục vụ “chân lý””.
[Nhân danh chân lý Ca-tô, Giáo hội đã phạm phải những tội ác vô tiền khoáng
hậu đối với nhân loại như: Thánh Chiến, Tòa án xử dị giáo, săn lùng và thiêu
sống phù thủy v..v..]
3. Xưng thú “tội ác đưa đến sự chia rẽ giữa các tín
đồ Ki Tô”. [Các giáo hội Ki Tô như Ca-tô Rô-ma Giáo, Chính Thống Giáo,
Phản Thệ Giáo (Tin Lành) đều chém giết nhau không nương tay. Nguyên ở
Croatia trong đệ nhị thế chiến, Ca-tô giáo đã giết khoảng 700000 người chính
thống giáo (orthodox) và gypsy.]
4. Xưng thú “tội ác trong sách lược bách hại dân Do
Thái”. [Giáo hội vu cho người Do Thái cái tội giết Chúa và bạo hành
người Do Thái suốt bao nhiêu thế kỷ, đưa đến cao điểm là Hitler của Ca-tô
Giáo đã giết 6 triệu người Do Thái trong Đệ Nhị Thế Chiến]
5. Xưng thú “tội ác trong những hành động với ý
muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác,
không tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém
phát triển”. [Giáo hội đã làm tiên phong hoặc theo gót các thế lực thực
dân đi xâm chiếm các nước kém phát triển và thực hiện những lời thú tội
trên. Ở Việt Nam, xin đọc “Phép Giảng 8 Ngày” của tên thừa sai thực
dân Alexandre de Rhodes, hay đọc những Kinh Nhật Khóa của Giáo hội Ca-tô
Việt Nam].
6. Xưng thú “tội ác trong sự kỳ thị phái nữ, coi
thường phẩm giá phụ nữ”.
7. Xưng thú “tội ác trong việc vi phạm những
quyền căn bản của con người”. [Cưỡng bách người khác theo đạo, bạo hành
những người theo đạo khác v…v…]
Đối với dân tộc Việt Nam, những lời xưng thú tội
lỗi của Giáo hội Ca-Tô mẹ như trên đã bạch hóa nhiều sự kiện lịch sử.
Những tác phẩm ngụy sử để biện bác, bào chữa cho Ca-Tô Giáo ở Việt Nam của
những tín đồ Ca-Tô Việt Nam như Phan Phát Huồn, Vũ Đình Hoạt, Bùi Đức Sinh
v..v.. đã trở thành vô giá trị. Vì sự bách hại đạo Ca Tô ở Việt Nam không
bắt nguồn từ lý do tôn giáo mà vì ý muốn thống trị của Ca Tô Giáo, vì thái
độ thù nghịch của Ca Tô Giáo đối với các tôn giáo truyền thống của dân tộc
Việt Nam, vì sự liên kết của Giáo hội Ca Tô với những thế lực thực dân đưa
đến sự đô hộ Việt Nam của Pháp, vì sự coi thường, không tôn trọng nền văn
hóa Việt Nam, vì đã đào tạo một lớp giáo dân cuồng tín, sẵn sàng phản bội
quốc gia, vì đã khích động gây nội loạn trong đất nước Việt Nam v…v… Tất cả
những điều này đã được sử sách ghi rõ. Những lý do cấm đạo mà những tín đồ
cuồng tín Ca Tô bịa ra như các Vua Triều Nguyễn thù nghịch Ca Tô Giáo vì đạo
này đối nghịch với Nho Giáo, giới Văn Thân “Bình Tây Sát Tả” vì Ca Tô làm
cho họ mất thế đứng trong xã hội hay mất nồi cơm, vì đạo Ca Tô chủ trương
công bằng, bác ái v..v… nay đã không còn một giá trị nào, vì toàn bộ những
luận cứ này đã bị Giáo hoàng phủ bác dứt khoát qua những lời xưng thú tội
lỗi trên.
Mặt khác, những lời xưng thú tội lỗi của giáo hội đã
bảo đảm giá trị của những tác phẩm nghiên cứu về Ca Tô Giáo trên thế giới,
và của một số tác giả Việt Nam: ví dụ như cuốn Đạo Thiên Chúa Và Chủ
Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam của Cao Huy Thuần, cuốn Thập Giá và Lưỡi
Gươm của LM Trần Tam Tĩnh, cuốn Công Giáo Chính Sử của Trần Chung
Ngọc, cuốn Thực Chất Của Giáo Hội La Mã của Nguyễn Mạnh Quang, cuốn
“Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm” của Charlie Nguyễn v..v.. vì trong những cuốn
này, các tác giả không làm chuyện gì khác hơn là đưa ra phần nào chi tiết sự
thật về những tội ác của Ca Tô Giáo đối với nhân loại nói chung, đối với
Việt Nam nói riêng, những sự thật mà Giáo Hoàng, đại diện cho Ca Tô Giáo, đã
thừa nhận qua những lời xưng thú những tội lác tổng quát và xin được tha thứ
ở trên.
Vì giáo hoàng đã công khai xưng thú tội lỗi của Giáo
hội Ca Tô đối với nhân loại, những tác phẩm vạch trần những tội lỗi trên
ngày nay đã được bảo đảm giá trị trí thức. Giáo hội và các tín đồ Ca Tô
cuồng tín không còn có thể tiếp tục theo sách lược vu khống từ trước tới nay
của giáo hội, lên án các tác phẩm nghiên cứu sự thật trên là chống Ca Tô,
hay là chụp mũ Cộng Sản chống tôn giáo, hoặc là tác phẩm của những kẻ thù
của Ca Tô Giáo v..v...
Cùng một tiết tấu bâng quơ, đại cương, “mơ hồ”.
Giáo Hội Ca-tô Việt Nam đã phạm nhiều tội ác đối với
nhân dân Việt Nam, nhưng qua những lời xưng thú mơ hồ đãi bôi ở trên chúng
ta không biết là Giáo hội đã có những tội ác nào. Giáo hội xin lỗi những
tội về những vấn đề vốn không phải là tội như “không yêu thương đủ” hay
“không quan tâm đủ đến người nghèo”. Còn các tội khác lớn hơn và quan trọng
hơn thì không nói đến. Theo Học Hội Đức Giêsu Ki Tô Phục Sinh ở Houston thì
hành động tạ tội của giáo hội cũng giống như giáo hội mẹ nhưng thiếu lương
thiện hơn và là thủ đoạn trong “khoa thần học phù phép, ảo thuật biến
“núi tội thành con chuột”.
Vậy thật ra thì Giáo hội Ca-tô Việt Nam đã phạm những
tội ác nào đối với nhân dân Việt Nam? Sử sách đã viết rõ, sau đây là một số
tội ác điển hình:
- Giáo hội đã tiếp tay với thực dân Pháp để
đưa nước nhà vào vòng nô lệ của thực dân Pháp như Giám mục Puginier đã khẳng
định.
- Giáo hội đã dựa vào thế lực của thực dân
Pháp để chiếm hữu tài sản đất đai của nhân dân qua những thủ đoạn có thể gọi
là bất lương, thí dụ như cho nông dân vay tiền để cầy cấy và khi không trả
được nợ và lãi thì tịch thu ruộng đất v..v…
- Giáo hội đã theo sách lược của giáo hội mẹ,
cướp phá chùa chiền để làm nhà thờ. Những vụ điển hình là Nhà Thờ Lớn
Hà-Nội, Nhà Thờ Đức Bà ở Saigon, Nhà Thờ La Vang ở Quảng Trị v…v… đều là đất
và cơ sở của các Chùa trước đây. Trong thời Ngô Đình Diệm, Linh mục dưới
chính quyền Ca-tô đã cưỡng chiếm đất đai của người dân, cưỡng bách người
ngoài đạo phải theo đạo, kỳ thị Phật Giáo và các tôn giáo khác, tấn công
chùa chiền, giết hại tăng ni Phật tử mà không có bất cứ lời phản đối nào của
Giáo hội.
- Giáo hội đã viết ra những kinh nhật khóa mà
nội dung có tính cách phỉ báng Phật Giáo và mạ lỵ cả dân tộc.
- Giáo hội đã sửa đổi lịch sử vinh danh những
kẻ có tội với dân tộc như Alexandre de Rhodes, Nguyễn Trường Tộ, Pétrus Ký,
Ngô Đình Khả, Ngô Đình Diệm v…v….
- Giáo hội vẫn giữ tinh thần tuyệt đối nô lệ
một ngoại bang: tiểu quốc Vatican, dù Vatican ngụy trang đàng sau bộ mặt tôn
giáo. Như vậy là trái với tinh thần không lệ thuộc ngoại bang dưới bất cứ
hình thức nào của dân tộc Việt Nam suốt trong mấy ngàn năm lịch sử.
Theo lời diễn giải của giáo hội mẹ trước đây thì
hành động xưng thú tội lỗi này là một hành động can đảm để thanh tẩy ký ức
(purification of memory) có tác dụng cất bỏ mặc cảm tội lỗi của giáo hội qua
hành động ăn năn thống hối và thú nhận tội lỗi. Một ký giả đã nhận xét như
sau: Nhưng nếu Giáo hoàng cho rằng, với những lời xưng thú tội lỗi của
giáo hội, đọc lên trong vài mươi phút, là có thể xóa bỏ cái lịch sử 2000 năm
chứa đầy tội ác của giáo hội thì Ngài đã lầm. (If the pope thinks that
he can wipe out the criminal record of the Church in the last 2000 years in
a 15-minute sermon, he’s wrong.)
Tờ Newsweek ngày 20 tháng 3, 2000 cũng viết: Nhưng
làm sao mà Giáo hoàng nào có thể giải thích được, đừng nói đến thống hối,
mọi tội lỗi mà giáo hội đã phạm nhân danh đức tin Ca Tô trong ngàn năm qua?
(But how can any pope account for, much less repent for, all the sins
committed in the name of the Catholic faith over the past thousand years?)
Kết luận: "Xin được tha thứ" chỉ là một bước đi chính
trị để xoa dịu dư luận quần chúng trong một thế giới mà sự tiến bộ trí thức
không cho phép giáo hội hành xử như trước, vì như học giả John Remsburg đã
viết: bó củi (để thiêu sống người) và cây gươm (để giết người)
đã bị tước đoạt khỏi những bàn tay đẫm máu của giáo hội (The fagot
and the sword have been wrested from her bloody hands...), hoặc che dấu sự
thực lâu hơn nữa.
Đối với Giáo hội con ở Việt Nam tôi cũng có thể nói
rằng:
- Nhưng nếu Giáo hội cho rằng, với những
lời xưng thú hời hợt tội lỗi của giáo hội, đọc lên trong vài mươi phút, là
có thể xóa bỏ cái lịch sử mấy trăm năm chứa đầy tội ác của giáo hội thì Giáo
hội đã lầm.
- Nhưng làm sao mà Giáo hội có thể giải
thích được, đừng nói đến thống hối, mọi tội lỗi mà giáo hội đã phạm nhân
danh đức tin Ca Tô trong mấy trăm năm qua ở Việt Nam?
Giáo hội vẫn luôn luôn cho rằng tạ tội với Chúa và
xin Chúa tha tội là trước hết. Giáo hội vẫn giữ thái độ kiêu căng tự tôn của
thời Trung Cổ: cho rằng chỉ có Chúa là có quyền tha tội cho giáo hội. Đây
cũng là điều mà khi xưa giáo hội đã từng áp dụng ở bất cứ nơi nào giáo hội
có quyền hành và ở thế mạnh: những linh mục, giám mục v..v.. của giáo hội,
bất cứ họ làm điều ác ôn nào, không ai có quyền phán xét họ ngoài Giáo hội.
Nói tóm lại, Chúa chỉ là cái bung xung mà giáo hội đưa
ra để tha hồ làm điều ác, vì làm xong chỉ việc xưng tội với Chúa, xin Chúa
tha tội là ký ức đã được thanh tẩy, là mặc cảm tội lỗi đã được cất bỏ, là
lương tâm lại yên ổn để tiếp tục làm ác, nếu ở vị thế có quyền hành và có cơ
hội thuận tiện. Chúa chỉ là cái bình phong giáo hội đưa ra để che đậy, bảo
vệ và duy trì định chế độc tài của chính giáo hội chứ thật ra chẳng làm gì
có chuyện Chúa tha tội hay không tha tội.
Chúng ta cũng biết, ở Việt Nam, khi các con chiên phàn
nàn về mấy ông linh mục làm bậy thì giám mục “bề trên” cũng khuyên rằng:
“các con đừng có nói hành các cha mà mang tội với Chúa”. Điều này có
nghĩa là “cha cũng như Chúa”, đưa Chúa ra làm bung xung che đỡ cho những
hành động bậy bạ của các cha “bề trên”.
Nhìn kỹ vào vấn đề xưng tội cùng Chúa và xin Chúa
tha thứ, chúng ta thấy có nhiều điều không ổn, và việc xưng tội cùng Chúa
không hợp với lôgic thông thường, không có căn bản vững chắc, thực chất chỉ
là một thủ đoạn của giáo hội trước đám tín đồ thấp kém bị huyễn hoặc bởi
những luận điệu đầy tính chất mê tín dị đoan. Tại sao? Vì giáo hội đã
theo đúng những lời trong Thánh Kinh, được coi là chứa những lời không thể
sai lầm của Chúa, nên mới có những hành động dã man tàn bạo đối với nhân
loại. Chúa không thể tha thứ cho giáo hội, vì chính Chúa là nguồn
cảm hứng và cũng là nguồn chỉ đạo tâm linh cho giáo hội, hướng dẫn giáo hội.
Vậy nếu giáo hội phạm tội, thì theo một nghĩa nào đó, tội của Chúa nặng hơn
tội của giáo hội, vì giáo hội chỉ là cấp thừa hành. Đây không phải là những
lời vô căn cứ, có tính cách phỉ báng Chúa, mà dựa trên sự kiện đã được chứng
minh qua nhiều tác phẩm nghiên cứu.
Lời thú tội thứ hai của Giáo hội mẹ: Xưng thú “tội
ác trong khi phục vụ “chân lý”” , chân lý của Ca-tô Rô-ma Giáo trong khi
thực hiện chân lý của Chúa Ki Tô, đã chứng minh hơn gì hết cho luận cứ trên.
Đâu là hành động cụ thể của việc “xin lỗi”?
Vấn đề chính là trong tương lai Giáo hội Ca-tô Việt
sẽ có những hành động cụ thể nào để thực hiện hy vọng của Giáo hội là đi đến
Hòa Giải. Giáo hội có công khai thẳng thắn xưng thú những tội lỗi của Giáo
hội đối với dân tộc như trên không, ít ra cũng đại cương giống như việc thú
tội và xin tha thứ 7 núi tội ác của Giáo hội mẹ như trên [Be specific].
Giáo hội có những biện pháp gì để đền bù những tội lỗi
của Giáo hội không, thí dụ như trả lại đất đai của nhà Chùa mà trước đây
Giáo hội đã chiếm hữu một cách không chính đáng.
Giáo hội có bỏ đi những câu không thích hợp trong
những kinh nhật khóa không? Giáo hội có bỏ đi những áp lực bắt người hôn
phối khác đạo phải học đạo trước khi cưới, và con cái sinh ra phải đi rửa
cái tội không hề có không? Giáo hội có bỏ đi sách lược dùng của cải vật
chất để truyền đạo không? Và Giáo hội có nghĩ đến việc độc lập với Vatican
không? Giáo hội có tuyên hứa trước quốc dân đồng bào là sẽ không bao giờ
tái phạm những lỗi lầm của Giáo hội trong quá khứ và hiện tại không? Còn
nhiều điều nữa nhưng tôi cho thế cũng tạm đủ.
Sau cùng, Giáo hội hy vọng với vài lời xin lỗi như
trên có thể tạo nên sự hòa giải giữa lòng dân tộc, nhưng Giáo hội vẫn giữ
thái độ trịch thượng bất kể đến cảm nghĩ của những người ngoại đạo, như tôi
đã trình bày về hành động trịch thượng vô trí của Hồng Y Etchégaray ở trên,
ngụy trang đàng sau bộ mặt “thiện chí”.
Muốn xóa vết chân cũ, để dẫm thêm những bước chân mới.
Chúng ta không bao giờ nên quên là Ca-tô Rô-ma Giáo có
2000 năm kinh nghiệm để tồn tại, vượt qua bao biến cố tưởng có thể không thể
cứu vãn. Chúng ta cũng không bao giờ nên quên là Ca-tô Rô-maGiáo chưa bao
giờ từ bỏ con đường xâm lăng văn hóa và tôn giáo của mình, vì tự cho Ca-tô
Rô-ma Giáo là con đường duy nhất để đi đến hòa giải với Thiên Chúa, lẽ dĩ
nhiên là Thiên Chúa của Ca-tô Giáo.
Những điều này thể hiện rõ trong những phát biểu của
Giáo Hoàng Benedict XVI và Giáo Hội Ca-tô Việt Nam.
Giáo hoàng nói:
“Năm Thánh là một thời điểm chứa
chan ân sủng, thuận lợi cho việc hòa giải với Thiên Chúa và anh em
đồng loại. Trong ý hướng đó, chúng ta nên nhìn nhận những sai lỗi chúng ta
đã phạm trong quá khứ và hiện tại, đối với anh em đồng đạo và anh em đồng
bào, và xin mọi người tha thứ”
Ngài không giải thích cho chúng ta biết tại
sao các con chiên của ngài lại cần phải hòa giải với Thiên Chúa. Ngài cũng
chỉ nói một cách hết sức đại cương là “nhìn nhận những sai lỗi” mà không nói
ra đó là những sai lỗi nào. Sai lỗi có nhiều mức độ, có những sai lỗi thông
thường không đáng kể, và có những sai lỗi trầm trọng đối với quốc gia dân
tộc. Nếu chúng ta không biết đó là những sai lỗi nào thì chúng ta dựa vào
đâu để mà tha thứ và tha thứ như thế nào.
Trong Diễn văn Khai mạc Năm Thánh, Chủ tịch HĐGMVN,
Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, nhấn mạnh:
"Chúng ta khiêm tốn nhìn nhận những lỗi lầm thiếu
sót đó, chân thành xin Chúa và mọi người tha thứ, để với tâm hồn
thanh thản, chúng ta mạnh mẽ tiến lên trên con đường loan báo Chúa
Giêsu và Tin Mừng của Người cho anh chị em đồng bào của mình."
Giáo hội Ca-tô Việt Nam đã làm bao nhiêu việc
thất đức đối với quốc gia, dân tộc, và nay với vài lời “chân thành xin
Chúa và mọi người tha thứ” rồi tâm hồn lại thanh thản, coi như không có
chuyện gì. Với tâm trạng như vậy thì rất có thể Giáo hội lại sai phạm những
lỗi lầm cũ, và rồi, trong một tình thế nào đó, lại xin Chúa và mọi người tha
thứ, và tâm hồn lại thanh thản. Chúng ta cũng biết là các con chiên, sau
khi đi xưng tội với các bề trên, được tha tội, rồi coi như không có chuyện
gì, lại yên tâm để tái phạm tội lỗi.
Mục đích của Giáo hội là hi vọng với vài lời xin lỗi
đại cương mơ hồ có thể xóa bỏ được những tội lỗi trong quá khứ, và hiện tại,
để tiếp tục con đường loan báo Tin Mừng của Chúa, nghĩa là tiếp tục sách
lược cải đạo và xâm lăng văn hóa như cũ, vì văn hóa Ki-tô Giáo đối ngược
với văn hóa Á Đông. Giáo hội không cần biết là ngày nay, ở Âu Châu, Tin
Mừng của Chúa đang rơi vào những cặp tai không muốn nghe, vì giới trí thức
và người dân Âu Châu đã cho Tin Mừng của Chúa chỉ là điều mê tín cổ xưa.
Tại sao, chính Giáo hoàng Benedict XVI đã phải than nhiều lần là: “Âu
Châu ngày nay sống như là không hề biết đến Thiên Chúa, mà cũng chẳng cần
đến sự cứu rỗi (Tin Mừng) của Chúa Giê-su nữa”. Tại sao Hội Đồng
Giám Mục Âu Châu, sau phiên họp năm 1999, đã phải tuyên bố là: “Âu Châu
ngày nay sống như là không hề biết đến Thiên Chúa”. Và tại sao Giáo Hội
Ca-tô Việt Nam vẫn muốn mang cái loại Tin Mừng này để đầu độc đầu óc người
dân Việt Nam?
Chúng ta cũng còn nhớ,
Giáo Hoàng Benedict
XVI đã “ban huấn từ” (sic) cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam như sau:
“Khi đem tới nét đặc thù của mình - là việc loan báo Tin
Mừng của Chúa Kitô - Giáo Hội đóng góp vào việc phát triển nhân bản và
thiêng liêng của con người, nhưng cũng đồng thời đóng góp vào sự phát triển
đất nước. Việc tham gia vào tiến trình này là một bổn phận và một sự đóng
góp quan trọng, nhất là vào thời điểm mà Việt Nam đang từ từ mở ra đối với
cộng đồng quốc tế”.
Chúng ta thấy rõ, đó là chủ trương “Hòa Giải”
của Ca-tô Rô-ma Giáo, Hòa giải để xâm lăng, chinh phục chứ không phải hòa
giải để sống chung hòa bình và tôn trọng lẫn nhau. Chiêu bài “hòa giải”
của Ca-tô Rô-maGiáo thiên hạ đã rõ. Chiêu bài đó như sau:
“Xin lỗi nhé! Nhân danh Chúa của chúng tôi,
chúng tôi đã nô lệ hóa các người. Xin lỗi nhé! Chúng tôi đã giết các
người. Xin lỗi nhé! Chúng tôi đã chia rẽ, xâu xé, tàn phá quốc gia của các
người. Bây giờ các người có thể tin tưởng ở chúng tôi được rồi." (Nguồn: A freethinker: Sorry! In the name of our
God, we enslaved you. Sorry! We killed you. Sorry! We screwed up your
country. You can trust us now)
Giáo hội Ca-tô chưa bao giờ đưa ra lời hứa, hay lời
thề trước Chúa, là sẽ không bao giờ tái phạm những lỗi lầm trong quá khứ,
ngoài mấy lời xin lỗi bâng quơ tạ tội với Chúa và xin được tha thứ. Cho nên
chúng ta không nên đưa vội tay ra bắt tay hòa giải. Chúng ta cũng không nên
vội ôm người anh em Ca-tô mà không đề phòng lưỡi dao găm kề sau lưng. Với
những kinh nghiệm lịch sử, chúng ta không nên vội tin những gì Tòa Thánh hay
Giáo hội Ca-tô Việt Nam hứa hẹn hay tuyên bố. Tại sao? Chúng ta nên nhớ
câu thời danh của Tổng Thống Ronald Reagan: “Trust, But Verify”
[Tin, Nhưng Để Coi Xem “Việc Làm Đi Đôi Với Lời Nói” Không Đã]
(*) Người Pharisêu được Giáo Hội Công Giáo diễn tả như là một giới người đạo đức giả, tự đắc, huênh hoang, trái ngược với sự sự khiêm nhượng của giới người thu thuế. Bạn đọc có thể xem bài giảng về hai hạng người này của Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb https://www.vietnhim.com/dongnhim/archive/index.php/t-17329.html
[1] [Blessings come under the category of sacramentals.
Unlike a sacrament, a sacramental does not itself confer the grace
of the Holy Spirit. Nevertheless, like a sacrament, a sacramental
helps the faithful to sanctify each moment of life and to live in
the paschal mystery of our Lord.
Among the sacramentals, blessings would be foremost. In the
decree publishing the Book of Blessings, Cardinal Mayer wrote, “The
celebration of blessings holds a privileged place among all the
sacramentals created by the Church for the pastoral benefit of the
people of God. As a liturgical action the celebration leads the
faithful to praise God and prepares them for the principle effect of
the sacraments.
By celebrating a blessing, the faithful can also sanctify
various situations and events in their lives.
Blessings are signs to the faithful of
the spiritual benefits achieved through the Church’s intercession.]
[2] [What is a Blessing?:
In the Bible, a blessing is depicted as a mark
of God’s relationship with a person or nation. When a person or
group is blessed, it is a sign of God’s grace upon them and perhaps
even presence among them. To be blessed means that a person or
people take part in God’s plans for the world and humanity.
An act of blessing links theology, liturgy, and
ritual. Theology is involved because a blessing involves the
intentions of God. Liturgy is involved because a blessing occurs in
the context of liturgical readings. Ritual is involved because
significant rituals occur when a “blessed” people remind themselves
about their relationship with God… ]
Các bài tôn giáo cùng tác giả