20 LÝ DO ĐỂ TỪ BỎ KI-TÔ GIÁO

[20 Reasons To Abandon Christianity]

By: Chaz Bufe

Trần Chung Ngọc dịch và giới thiệu

https://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN78.php

27 tháng 7, 2009

Trước Khi Vào Đề:

Tôi xin nói trước: Phần “Trước Khi Vào Đề” này có vẻ lạc với nội dung của chủ đề “20 Lý Do Để Từ Bỏ Ki-Tô-Giáo” nhưng tôi cho rằng rất quan trọng đối với người Việt Nam, có thể coi như tiền đề trước khi đi vào chính đề.

Ki Tô Giáo suy thoái trầm trọng ở phương trời Âu Mỹ, đây là một sự kiện không ai có thể phủ bác. Giới trí thức Âu Châu đã biết rõ bản chất của Ki Tô Giáo từ vài thế kỷ nay và họ đã nghiên cứu, xuất bản nhiều tác phẩm đưa ra những sự thật để giải hoặc KiTô Giáo. Kết quả là từ linh mục, nữ tu cho đến các giáo dân đã bỏ đạo hàng loạt. Vatican hiện đang phải đối diện với một trong những khủng khoảng trầm trọng nhất của định chế tôn giáo nầy, đó là vấn đề nhân lực, đó là tình trạng thiếu hụt linh mục, nữ tu ở khắp nơi. Sau vụ các linh mục loạn dâm bị phanh phui ở Boston năm 2002 mà tiền bồi hoàn cho nạn nhân lên đến hơn một tỉ Mỹ kim, số tiền giáo dân đóng cho các giáo hội địa phương đã giảm nhiều, ảnh hưởng đến ngân quỹ của Vatican, vì tiền các giáo dân đóng cho các giáo hội địa phương một phần sẽ được gửi về La Mã để nuôi Vatican. Theo thống kê thì giáo hội Công giáo Mỹ là nguồn đóng góp tài chính lớn nhất cho Vatican.

Mất chỗ đứng ở Châu Âu, ngay từ thời giáo hoàng John Paul II, Vatican đã đặt kế hoạch để xâm lăng văn hóa Á Châu,mang đồ phế thải ở Âu Châu thảy sang Á Châu, làm ô nhiễm môi trường Á Châu, qua bản “Tông huấn Giáo hội tại Châu Á”, dựa trên tinh thần nô lệ và cuồng tín của con chiên ở một số quốc gia kém phát triển ở Á Châu, để thi hành những tiểu xảo truyền đạo rất bất lương.Tại sao lại là bất lương?Những tài liệu sau đây sẽ cho chúng ta thấy rõ bộ mặt bất lương của Ca-tô Rô-maGiáo.

Vatican nhắm đến các nước như Trung Quốc [có khoảng 0.4% giáo dân], Thái Lan [có khoảng 0.2% giáo dân] và Việt Nam. Nhất là Việt Nam, vì Vatican đã có sẵn một “đạo quân thứ 5”, nổi tiếng về tinh thần nô lệ Vatican cao nhất và u mê cuồng tín nhất, và bất hạnh hay, lại là nước thứ hai có nhiều tín đồ nhất ở Á Châu (sau nước hầu như toàn tong Phillipines), vào khoảng 7% trên dân số toàn quốc. Một khi Vatican có thể đặt chân vào một quốc gia nào qua đường ngoại giao với những bộ mặt “hiền như “Ma soeur””, hòa hoãn “hợp tác lành mạnh” v.v… và đôi khi kèm theo vài hứa hẹn về giúp đỡ vật chất hay trên mặt ngoại giao quốc tế v.v… thì quốc gia đó sẽ khốn khổ với Vatican, vì Vatican đã có thể chính thức thực hiện những âm mưu bành trướng đạo của mình, phá các đạo khác,mà không còn e dè. Kinh nghiệm ở Thái Lan sẽ cho chúng ta thấy rõ vấn đề và hi vọng Việt Nam sẽ học được bài học “truyền đạo” của Ca-tô Rô-maGiáo.

Thật vậy, tình trạng truyền đạo bằng cách hạ thấp, xuyên tạc để đánh phá Phật Giáo đã và đang xảy ra ở Thái Lan, vì tại nước nầy, lợi dụng sự hiền hòa dễ dãi của dân chúng Phật tử, Ca-tô Rô-maGiáo đã công khai phát tán tài liệu xuyên tạc hạ thấp Phật Giáo.Cũng ở Thái Lan, nhiều mục sư bảo thủ Tin Lành đã thường xuyên phát ra những tài liệu truyền giáo mô tả Thái Lan là “địa hạt của Satan”; rằng “99% dân Thái bị câu thúc bởi ma quỷ”; lên án Phật Giáo là “thờ hình tượng” và là “một tôn giáo yếm thế một cách vô vọng” và chấp chặt là “không có sự mặc khảiKi Tô Giáo thì không hiệp thông được với God”

[Missionaries, p. 186: ...evangelical literature that describes Thailand as “the territory of Satan”; that declares “99 percent of Thais are in bondage to demons”; that condemns Buddhism as “idolatry” and “a religion of hopeless escapism”; and which insists that “without Christian revelation, there is no relationship with God”.This is the everyday language of certain kind of mission literature, which is deeply offensive to Thai Buddhists], xúc phạm nặng nề các Phật tử Thái với sự hoang tưởng là mọi người đều cần đến sự hiệp thông với God của KiTô Giáo. Ở Việt Nam cũng đã thấy xuất hiện vài tác phẩm xuyên tạc giáo lý Phật Giáo, đánh đồng những ý niệm của tín ngưỡng dân gian với thần học KiTô giáo (như “ông Trời” là Thiên Chúa), hoặc vinh danh những tín đồ Ca-Tô ngoại quốc cũng như nội địa như Alexandre de Rhodes, Pétrus Ký, Nguyễn Trường Tộ v…v… mà thực chất chỉ là những tội đồ của dân tộc.

Có một bản văn khá quan trọng với nhiều chi tiết có thể giúp chúng ta thấy rõ vấn đề hơn và do đó rút kinh nghiệm để tìm ra một đối sách trước kế hoạch xâm lăng văn hóa và tôn giáo tại Á Châu, đó là cuốn "Âm Mưu Của Ca Tô Chống Phá Phật Giáo” (The Catholic Plot Against Buddhism, Printed by Siva Phorn Limited Partnership, Bangkok, Thailand, 1986).Những chi tiết quan trọng trong cuốn sách trên đã được trình bày đầy đủ trong cuốn Ki Tô Giáo: Kế Hoạch Cải Đạo Á Châu của Thích Nhật Từ, Ngô Triệu Lịch và Trần Chung Ngọc,NXB Á Châu, Hè 2005.

Toàn bộ cuốn sách đã được đưa lên trang nhà giaodiemonline.com theo từng phần của mỗi tác giả,

- Tỳ Kheo Thích Nhật Từ https://giaodiemonline.com/2009/07/ thanhoc.htm ;

- Ngô Triệu Lịch https://giaodiemonline.com/2009/07/ tonghuan.htm;

- Trần Chung Ngọc https://giaodiemonline.com/2009/07/ caidao3.htm.

Trong cuốn sách trên, Tỳ Kheo Thích Nhật Từ đã phê bình những sai lầm và cố ý xuyên tạc Phật Giáo của Mục sư Tống Tuyền Thịnh ở Đài Loan; Ngô Triệu Lịch và Trần Chung Ngọc đã phân tíchvà phê bình văn kiện “Tông huấn Giáo hội tại Châu Á”của Vatican.

Sau đây chỉ là vài chi tiết điển hình trong cuốn sách trên, dựa theo những tài liệu “mật” (confidential) của Vatican, những tài liệu trích dẫn phần lớn từ những Bản Tin (Bulletin) của Bộ Ngoại Giáo Sự Vụ, và được đánh số ví dụ như (1: 4-5) có nghĩa là từ Bản Tin Số 1, trang 4-5.

Trước hết là một huấn thị từ Tổng Thư Ký Bộ Ngoại Giáo Sự Vụ P. Humbertclaude

Vì tất cả những việc của chúng ta phải được thi hành với sự thỏa thuận của các giám mục xứ và qua họ, một phương tiện tiếp xúc với họ (Bản Tin) là điều cần thiết. Đây là những nét đại cương: chúng sẽ được cải tiến cùng với kinh nghiệm và cùng với những đề nghị mà Bộ trông đợi từ nhiều người đọc Bản Tin của Bộ. (1: 3)

Thật là rất quan trọng cho lợi ích chung cũng như cho tương lai của Bản Tin, mọi người phải ý thức được rằng đây là một ấn phẩm mật dành riêng cho các giám mục xứ và cho những cá nhân mà các giám mục hay Bộ đã chỉ định trong nhiệm vụ đối thoại. Nếu khi nào mà các giám mục xứ tin rằng cần phải in lại toàn phần hay một phần của bài nào hay văn kiện liên lạc nào họ có thể làm như vậy mà không được nêu xuất xứ. Vì đây là một ấn phẩm mật, không được thông báo cho báo chí. (1: 4-5)

(Since all of our work must be done with the agreement of the Ordinaries and through them, an instrument of contact was necessary. Here it is its general outines: it will improve with experience and also with the suggestions that we await from many of our readers. (1: 3)

It is extremely important for the common good, as well as for the future of the Bulletin itself, that everyone be well aware that it is a confidential publication exclusively for Ordinaries and for persons that the Bishops or we have designated for dialogue. If then the Ordinaries believe it useful to reprint entirely or in part a certain article or communication they should do so without citing the source.Since it is a confidential publication, the press should not be informed. (1: 4-5))

Đoạn (1: 3) chứng tỏ Vatican đã chỉ đạo đường hướng hoạt động cho các giám mục địa phương và đường hướng này sẽ được thay đổi tùy theo tình hình địa phương qua hồi ứng của các giám mục địa phương.Đọc tiếp những tài liệu trích dẫn từ những Bản Tin mật của Vatican chúng ta thấy rõ Vatican đã chỉ thị cho các giám mục địa phương và mọi tín đồ Ca Tô phải nghiên cứu kỹ tình hình Phật Giáo và dân tình địa phương để từ đó Vatican sẽ hoạch định những kế hoạch xâm lăng văn hóa và tôn giáo thích ứng.Như vậy, rõ ràng các giáo hội địa phương thực chất chỉ là những ổ gián điệp nằm vùng trong các quốc gia phục vụ cho Vatican, một ngoại bang.Điều này chúng ta có thể thấy rõ ngay trong đoạn (1: 4-5) ở trên:Tại sao một Bản Tin liên lạc với các giám mục địa phương của Ca-Tô Rô-maGiáo, một “tôn giáo” tự coi là thiên khải, tông truyền v..v.. có nhiệm vụ mang “Tin Mừng” đến cho nhân loại, lại phải là một ấn phẩm mật mà các giám mục địa phương phải tuân hành mà không được tiết lộ xuất xứ, và phải dấu báo chí, nếu trong đó không có những kế hoạch truyền đạo bất chính mà Vatican không muốn cho các tôn giáo khác biết? Câu trả lời thật là rõ ràng: “Tin Mừng” của Ca-Tô Rô-maGiáo phải được rao truyền qua những phương tiện và với những thủ đoạn lắt léo, bất chính mà chỉ có giới giám mục được biết và đặt kế hoạch cho các con chiên ở dưới.”Nói có sách, mách có chứng, tôi không có nói vu vơ. Những đoạn điển hình sau đây trong những bản tin mật của Vatican về sách lược cải đạo Á Châu sẽ chứng minh điều này.

Những huấn thị viết trong các Bản Tin là một loạt những khẳng định vô trách nhiệm, kiêu căng vô lối, hỗn hào, láo xược, đối với các tôn giáo phi Ki-Tô, kèm theo những tiểu xảo hạ cấp để truyền đạo như sau:

Trong Bản Tin (Bulletin) số 7, trang 12:

Một chiến thuật trong cuộc bút chiến là mô tả qua loa những sự phong phú (trong các tôn giáo phi Ki-Tô) nhưng sự công nhận những sự phong phú đó không được để cho những người ngoại đạo được hưởng. Do đó chúng ta phải công nhận giá trị theo nghĩa hòa nhập, vì tư tưởng Ki Tô Giáo là trên hết. Trích dẫn từ những người ngoại đạo phải được chọn dựa theo Thánh Kinh: những biểu tượng (của người ngoại đạo) phải được sửa đổi để đưa vào đó khuôn mặt của Giê-su; và sau cùng làm cho những lời lẽ của ngoại đạo sẽ mang ý nghĩa khác hẳn. [Nghĩa là sửa đổi, xuyên tạc giáo lý của các tôn giáo khác. TCN] Những tôn giáo ngoại đạo không có gì là quan trọng cho chính chúng, mà chỉ là cho những ốc đảo chân lý nhỏ bé có chứa trong chúng..

Xét về toàn thể, những tôn giáo và triết lý ngoại đạo chỉ là một đống những sai lầm. Chúng là kết quả của tội lỗi con người và sau cùng là của quỷ. Nhưng trong sự tối tăm đó cũng còn có lập lòe chút ánh sáng. Chính trong cái ánh sáng đó chúng ta phải khám phá ra thiện chí từ những người ngoại đạo và đoan chắc chân lý của Ki Tô Giáo, vì những mảnh chân lý đó đến từ đức Ki Tô.

(It is a polemical way of describing riches glimsed, credit for which must not be left to the pagans. So we must speak of a recognition of value but in the sense of an integration, for the Christian thought is primary throughout. The pagan quotations are chosen with reference to Scripture: the symbols are modified to throw more into the relief the face of Jesus Christ; and finally the pagan words take on a totally different meaning. The pagan religions have no importance for themselves, but solely for the little islands of truth which are contained in them....

Taking as a whole, the pagan religions and philosophies are for them merely a mass of errors. They are the fruit of the sins of men and ultimately of the devil. But in this darkness there are still some gleams of light. In this virtue of this light that we must proceed to discover the pagans of good will and confirm thus the truth of Christianity, for those scraps of truth come from Christ. (7:12))

Những lời huênh hoang kiêu căng vô lối, và những lời hỗn hào, láo xược, xuyên tạc, mạ lỵ các tôn giáo phi-KiTô như trên, chỉ để tuyên truyền nhồi sọ cho đám tín đồ ngu dốt chứ đối với thế giới Tây phương và nhất là đối với giới trí thức hiểu biết, chính Ca-Tô Rô-maGiáo mới là một đống những sai lầm: sai lầm từ Thánh Kinh cho tới các tín lý Ca Tô, sai lầm từ nền Thần học Ki Tô Giáo cho đến những giáo lý của giáo hội Ca Tô, sai lầm từ đạo đức của các giáo hoàng xuống tới các linh mục v..v...Điều này chúng ta có thể chứng minh rất dễ dàng.

Thật vậy, chân lý của Ki Tô Giáo là gì, nếu không phải là những niềm tin vào một Giê-su đã chết đi ba ngày rồi sống lại, bay lên trời, và quyền năng “cứu rỗi” của Giê-su trong ngày phán xét cuối cùng? Nhưng những niềm tin đó, ngày nay, đã trở thành những điều mê tín của một thiểu số trên thế giới vẫn còn sống trong bóng tối của sự đần độn tâm linh, không theo kịp sự tiến bộ trí thức của nhân loại, do đó không biết rằng những niềm tin này đã bị đa số trên thế giới, từ giáo hoàng cho đến các giới trí thức trong chính các giáo hội Ki Tô Giáo, vứt bỏ, vì chúng không còn một giá trị nào trước những bằng chứng trong khoa học về vũ trụ, về nguồn gốc con người, về sự bất khả hiện hữu của thiên đường và hỏa ngục v..v.. mà không ai ở trong cũng như ở ngoài Ki Tô Giáo có thể bác bỏ được.

Sau đây là vài đoạn trong Bản Tin số 10 (Bulletin No 10, pp. 25-27) của Vatican:

“Trong những xứ Phật Giáo, để khoác bộ áo văn hóa bản địa, giáo hội có thể và phải lấy những điều hay trong truyền thống Phật giáo và biến đổi chúng, cho chúng một ý nghĩa của Ki Tô Giáo để có thể áp dụng chúng vào đời sống của những tín đồ của Ki-Tô.”

(In the Buddhist countries, in order to make its own cultural garnment, the Church can and must take on the good elements of the Buddhist tradition and transform them giving them a Christian meaning so as to adapt them to the life of the followers of Christ.)

Lấy cái hay của người khác để dùng cho mình là điều ai cũng nên làm.Nhưng dùng kỹ xảo biến đổi nó đi và nhận là của mình thì đó là trò ăn cắp ma giáo, bất lương trí thức, và chỉ có một tôn giáo như Ca-Tô Rô-maGiáo mới có thể làm như vậy trong suốt chiều dài lịch sửcủa tôn giáo này.Một thí dụ điển hình khác của trò bất lương ma giáo này nằm trong Bản Tin số 10 trên

“Toàn thể Phật Giáo đặt căn bản trên Tứ Diệu Đế: Khổ, Nguồn gốc của Khổ, Diệt Khổ và Thoát Khổ (Khổ,Tập, Diệt, Đạo). Tại sao chúng ta không thể cũng truyền bá Phúc âm của Ki-Tô thâu tóm trong bốn chân lý trên? Sự khổ chân thật của con người là tội. Giê-su đến để giải thoát con người khỏi khổ –tội.

(The whole of Buddhism is based on the four thuths: sorrow, the cause of sorrow, the destruction of sorrow and liberation from sorrow. Why could not the spreading of the Gospel of Christ be summed up also in these four truths? The true sorrow of Man is sin. Jesus came to liberate Man from sorrow-sin.)

Chúng ta thấy ngay thủ đoạn xảo trá và bất lương của Ca-Tô Rô-MaGiáo trong đoạn trên:xuyên tạc ý nghĩa của Tứ Diệu Đế, nghĩa là bốn chân lý chân thật của Phật Giáo, và biến đổi chúng thành ra hai điều mê tín hoang đường cho người Ca Tô.Bốn chân lý cao thượng của Phật Giáo có tính phổ quát mà mọi người chúng ta có thể chiêm nghiệm hàng ngày.Quan niệm về “Khổ” trong Phật Giáo không dính dáng gì đến cái gọi là “Tội” của Ki Tô Giáo, nhất lại là cái tội tổ tông hoang đường của Ki Tô Giáo mà một Giê-su hoang đường đã chuộc tội một cách hoang đường, trèo lên cây thập giá để cho người ta đóng đinh.Còn nếu tội là tội thế gian như giáo hoàng loạn luân, linh mục hiếp dâm, nữ tu hành hạ trẻ em v..v.. trong lịch sử Ca-Tô Rô-maGiáo thì nếu Giê-su đến để giải thoát, nếu một người chết cách đây đã 2000 năm thực sự có thể giải thoát những tội đó cho những người sống, cho tín đồ phạm những tội đó, thì ai muốn tin cứ việc tin. Riêng tôi, tôi không thể chấp nhận cái luận điệu quái gở, vô đạo đức đó.

Nhưng vấn đề ở đây không phải là những luận điệu thiếu văn hóa của Vatican như trên mà là thủ đoạn mượn, nói nôm na là ăn cắp, những điều hay trong các tôn giáo phi Ki Tô rồi biến đổi chúng thành của Ki Tô Giáo, một thủ đoạn không mấy lương thiện.Mặt khác, cùng trong Bản Tin số 7, trong một đoạn sau, trước tình hình tôn giáo hiện nay của thế giới, sự thay đổi trong sách lược truyền đạo được hoạch định như sau (7:15):

Giáo hội không còn sống trong thời của những tổ phụ lập giáo. Trong những ngày đó giáo hội sống trong sự nở rộ trẻ trung; giáo hội công khai chứng tỏ những hứa hẹn của tương lai và sẵn sàng nhanh chóng chinh phục thế giới. Tình hình ngày nay đã khác. Những tôn giáo phi-KiTô góp chung lại thì có nhiều tín đồ hơn. Đối với tuyệt đại đa số các tôn giáo đó, có vẻ như giáo hội không còn là một sức mạnh trong tương lai. Đó là tại sao chúng ta phải từ bỏ ý tưởng tấn công trực diện và thay thế bằng đối thoại, và tìm ra những giá trị nội tại và những điều quý báu của mỗi giáo lý...

Thay vì nghĩ về các tôn giáo khác như là một đống những sai lầm trong đó cũng có rải rác vài chân lý, chúng ta hãy nhìn trong các tôn giáo đó những công cụ đã giúp hàng triệu người tìm thấy Thiên Chúa và ngày nay vẫn còn tìm như vậy. Nếu chúng ta hiểu biết rõ hơn về phần vụ của những tôn giáo dân gian trong lịch sử tôn giáo thế giới thì điều này sẽ giúp chúng ta rất nhiều.

Từ đó, nhiệm vụ truyền giáo đang được phát triển trong tầm nhìn rộng rãi hơn. Nó không còn là cải đạo cá nhân mà là, nói cho đúng ra, cải biến chính những nền văn hóa tôn giáo khác.

(The Church is no longer living in the time of the Fathers. In those days she was in the bloom of youth; she showed openly the promises of the future and was ready swiftly to conquer the world. The situation is different today. The non-Christian religions taken together have more followers. To the great majority of these the Church does not appear to be the force of the future. That why we must give up the idea of a frontal attack and substitute that of dialogue, while seeking the intrinsic values and the religious treasures of every creed...

Far from thinking of them as a mass of errors in which some scattered truths have survived, we must rather see in them the instruments which have helped millions of men to find God and are doing still to-day. It will be a great help also if we have a better understanding of the part played by the pagan religions in the religious history of the world.

Since then, the missions are developing a wider perspective. It is no longer one of converting the individual but of converting the religious cultures themselves, so to speak. (7:15))

Huấn thị cho các giám mục địa phương ở trên đã nói lên mục đích truyền đạo hay cải đạo Á Châu của Vatican rõ ràng là biến cải những nền văn hóa phi Ki Tô chứ không phải chỉ cải đạo cá nhân. Đây chính là sách lược xâm lăng văn hóa và tôn giáo Á Châu của Vatican.Đối với Việt Nam, đây là một hiểm họa có thực nếu Vatican có thể thực hiện được mưu đồ bất chính của mình.Cho nên, người Việt Nam chúng ta, nếu còn lòng yêu nước, yêu quê hương, còn tinh thần dân tộc thì bổn phận của mọi công dân là phải ý thức được hiểm họa này và phải ra sức ngăn chận âm mưu cải đạo Á Châu của Vatican.

Vấn đề chính trong đối sách ngăn chận này là nhận thức được rằng, không có gì phải thiết tha với những lời ve vãn ngoại giao hay hứa hẹn của Vatican, và đừng bao giờ để cho Benedict XVI hay bất cứ một giáo hoàng nào khác đặt chân trên đất nước Việt Nam, dù Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã có thể ngỏ lời mời như đối với Giáo hoàng John Paul II trước đây, coi đó như là chuyện đã rồi (fait accompli).Hệ thống quyền lực của Vatican chỉ còn đối với đám con chiên ở dưới, chứ đối với quốc tế chẳng còn ảnh hưởng gì mấy, vì chẳng còn ai xa lạ gì với lịch sử tàn bạo đẫm máu của Ca-tô Rô-maGiáo, với những giáo lý đã không còn giá trị, với sự phá sản đạo đức trong giới chăn chiên v…v…, vốn là những nguyên nhân đã làm cho Ca-tô Rô-maGiáo suy thoái không phương cứu vãn ở Âu Châu và trên thế giới.

Việt Nam cần phải nhớ rằng trước đây ở Đức, và gần đây ở Úc, Benedict XVI đã lên tiếng lên án Cộng Sản, đã quàng khăn vàng ba sọc đỏ trên cổ, chứng tỏ lập trường của Giáo hoàng là như thế nào.Lại qua những vụ như Tòa Khâm Sứ và Ấp Thái Hà, Nguyễn Văn Lý và Ngô Quang Kiệt trong nước; còn ngoài nước thì thống lãnh các “lực lượng chống Cọng”, v..v… chắc hẳn Nhà Nước đã thấy rõ người Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam thuộc lớp người nào trong xã hội: nô lệ, hung hăng, cuồng tín nhất hạng, chỉ biết có Vatican và giáo luật của Vatican, chứ không cần biết đến dân tộc hay luật pháp quốc gia.

Hầu hết những tổ chức chống chính quyền ở trong nước cũng như ở hải ngoại đều do người Công giáo chủ động với những nhân vật như Paul Lê Công Định, TGM Ngô Quang Kiệt, LM Nguyễn Văn Lý, LM Phan Văn Lợi, LM Đinh Xuân Minh, LM Nguyễn Hữu Lễ và những Joseph, Phanxicô trên các diễn đàn điện tử ở hải ngoại v..v… và v…v…Cho nên, Nhà Nước chắc hẳn đã có những quyết định khôn ngoan về việc bang giao với Vatican và dĩ nhiên là không có một lý do hợp lý nào để cho Benedict XVI đặt chân trên đất nước Việt Nam. Trong nước, ai truy cập được vào các diễn đàn điện tử tiếng Việt ở hải ngoại, hẵn đều biết Linh mục Nguyễn Hữu Lễ là người đang tung ra một DVD “Sự Thật Về Hồ Chí Minh” [sic] với hi vọng có thể phá đổ thần tượng Hồ Chí Minh của người Việt Nam.Muốn biết đích thực những sự thật về Hồ Chí Minh, và một người như LM Lễ, thuộc một tổ chức tôn giáo tuyệt đối nô lệ Vatican, có thành tích mà lịch sử đã ghi rõ là phi dân tộc và phản bội dân tộc, hi vọng có thể phá đổ được thần tượng Hồ Chí Minh trong lòng đa số người dân Việt hay không, xin đọc bài nghiên cứu lịch sử về “Cụ Hồ” trên https://www.sachhiem.net/TCNls/TCNls04.php, qua những nhận định của một số trí thức Tây phương, hoặc bài Về Chuyện Đảo Ngược Danh Dự Ông Hồ Chí Minh [https://www.sachhiem.net/NMQ/NMQ20.php.] của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang.LM Lễ định phá đổ thần tượng Hồ Chí Minh bằng cách đưa ra vài chi tiết lặt vặt về đời tư của ông Hồ như: ông Hồ có vợ, hút thuốc lá nhiều, ngày sinh không rõ, bán đứng Cụ Phan Bội Châu (chuyện phịa), là tay sai của Nga Tàu (sic) v..v…, những chi tiết lặt vặt mà người dân thường không bao giờ quan tâm mà chỉ quan tâm đến những gì ông Hồ đã làm cho dân tộc Việt Nam trong hai cuộc chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.Cho nên mọi điều xuyên tạc, moi móc đời tư ông Hồ, hay những nhận định theo cảm tính cá nhân vềvai trò của ông Hồ trong lịch sử và trong lòng dân tộc Việt Nam đều không có một giá trị thuyết phục nào để có thể đánh đổ được những nhận định điển hình và sâu sắc của học giả Jules Archer trong cuốn Ho Chi Minh, trang 189-190, như sau:

Cộng Sản hay không, ông Hồ Chí Minh cũng sẽ đi vào lịch sử như là một người Việt Nam yêu nước vĩ đại, là một trong những khuôn mặt phi thường của thế giới trong thế kỷ này. Không vị kỷ, can đảm, hiến thân cho nền độc lập của Việt Nam bằng mọi giá, ông ta đã vật nước Pháp phải khụyu đầu gối và chiến đấu chống Hoa Kỳ, một thế lực mạnh nhất thế giới, đưa đến một thế bí quân sự… [Thế này mà vẫn có mấy đứa ngu ngơ nghiện đạo cho ông Hồ là “Việt gian bán nước” (sic), trong khi chính họ đang ở trong một tổ chức “Việt gian bán nước”, phi dân tộc và phản bội dân tộc]

Ông Hồ là sự thất vọng của những kẻ thù – Pháp, chế độ Sài gòn, và Mỹ - vì họ không thể nào làm cho người ta thù hận được ông. Ông ta được sự kính yêu của người trong Nam cũng như của những người ở ngoài Bắc…

Khi những trang sách về cuộc đời của ông được cân nhắc, và hòa bình sau cùng tái lập trên đất nước thê thảm của Việt Nam, ông Hồ Chí Minh sẽ vĩnh viễn được các nông dân đã từng yêu kính và đứng sau lưng ông coi như là một người Việt Nam vĩ đại nhất trong của lịch sử của họ - người “Bác” kính ngưỡng của nước ông.”

(Communist or not, Ho Chi Minh will probably go down in history as a great Vietnamese patriot who was one of the extraordinary world figures of this century. Selfless, courageous, dedicated to Vietnamese independence at all costs, he wrestled France to her knees and fought the United States, the world’s mightiest power, to a military stalemate…

Ho was the despair of all his enemies – the French, the Saigon regime, the Americans – because they were unable to muster hatred of him. He was held in as much affection in South Vietnam as among the people he led in the North…

When the books of his life are balanced, and peace is finally restored to the tragic land of Vietnam, Ho Chi Minh will always be known to the peasants who loved and followed him as the greatest Vietnamese in their history – the revere uncle of his country.)

Điều khó hiểu đối với tôi là trước những sự thật về một giáo hội Ca-Tô Rô-MaGiáo như vậy, và trước những huyền thoại về “cứu chuộc” và “cứu rỗi” của Giê-su đã trở thành những điều mê tín hoang đường, không còn chỗ đứng, ngay trong cái nôi của Ca-Tô Rô-MaGiáo trước đây là Âu Châu,vậy mà các tín đồ Ca-Tô Rô-MaGiáo ở Việt Nam vẫn còn tiếp tục cuồng tín một cách lạ thường, đích thực là một điều khó hiểu.Họ vẫn ra công chống phá Việt Nam bằng những luận điệu xuyên tạc lịch sử kèm theo những hô hào rất phi dân tộc, nhưng chẳng có ai theo, như “không mua hàng của Việt Nam, “không du lịch Việt Nam” v. v…. Để giúp họ có thêm kiến thức về thực chất cái đạo của họ, nay tôi xin vào đề.

► VÀO ĐỀ.

Bài dịch này là về một số lý do khiến cho người Âu Châu bỏ đạo hàng loạt và lơ là với Thiên Chúa Giáo đến độ Hội Đồng Giám Mục Âu Châu phải kêu lên là “Ngày nay Âu Châu sống như là không hề có Thiên Chúa” và Giáo hoàng Benedict XVI cũng phải than phiền là “Âu Châu sống như là không biết đến Thiên Chúa mà cũng chẳng cần đến sự cứu rỗi của Chúa Giê-su nữa.”

Có rất nhiều lý do khiến cho tín đồ bỏ đạo.Phần lớn là khi biết rõ bộ mặt thực, giả nhân giả nghĩa, đạo đức giả, của Ki Tô Giáo với những giáo lý hoang đường không phù hợp với kiến thức của con người trong thời đại ngày nay, và với lịch sử ô nhục đẫm máu của Ki Tô Giáo.Ở một số địa phương nghèo nàn và chậm tiến, số tín đồ Ki Tô Giáo có gia tăng nhưng không đáng kể.Đối với người Việt Nam thì trường hợp điển hình là Charlie Nguyễn, một người đạo gốc từ làng Ninh Cường, một làng theo đạo đầu tiên.Charlie Nguyễn đã chứng kiến những sự tàn bạo của Ca-Tô Rô-MaGiáo Việt Nam và những giáo lý có tính cách mê hoặc lừa dối của Công giáo cho nên ông ta đã xuất bản mấy cuốn sách trình bày những sự thật về Ca-Tô Rô-MaGiáo. Và những cuốn sách này đã thức tỉnh một số người không ít.

Trong bài “20 Reasons To Abandon Christianity”, Chaz Bufe nêu lên 20 lý do căn bản mà những người có đầu óc không thể cưỡng lại việc từ bỏ Ki-Tô giáo nói chung, Ca-tô Rô-maGiáo nói riêng, vì hạnh phúc cá nhân cũng như vì sự tiến bộ của xã hội [When considered in total, they lead to an irresistible conclusion: that Christianity must be abandoned, for the sake of both personal happiness and social progress.] Ông Bufe đã viết có rất nhiều lý do chứng tỏ Ki Tô Giáo rất khó ưa, xét trên quan điểm cá nhân và xã hội [many of the reasons that Christianity is undesirable from both a personal and a social point of view] để từ bỏ Ki Tô Giáo [nhất là đối với người Việt Nam đã chót vào trong đó. TCN], nhưng Chaz Bufe chỉ nêu lên 20 lý do đặc biệtđã gây nên sự nghèo khổ vàtính chất phá hại xã hội của Ki Tô Giáo [the purpose of 20 Reasons to Abandon Christianity is to list the most outstanding misery-producing and socially destructive qualities of Christianity in one place].Thật ra thì đối với tôi, chỉ cần một lý do cũng đủ để khiến cho tôi và những người có đầu óc trong thời đại ngày nay từ bỏ Ki-tô Giáo.Bài của Chaz Bufe là một bài phân tích khá dài trên mỗi lý do, có những phần thuộc lịch sử Ki-tô Giáo.Tác giả cố ý dùng từ “Abandon” nghĩa là “Từ Bỏ” và tác giả giải thích: “Cưỡng bách dẹp đi hay xóa bỏ một tín ngưỡng là không có đạo đức và vô hiệu quả, nếu Ki Tô Giáo biến mất trên thế gian là vì con người đã thức tỉnh, từ bỏ những niềm tin có tính cách đàn áp, hủy hoại, và chọn cuộc sống, bây giờ và ở đây” [If Christianity is ever to disappear, it will be because individual human beings wake up, abandon their destructive, repressive beliefs, and choose life, choose to be here now.]


Nhưng làm sao khiến cho con người thức tỉnh?Những công cuộc nghiên cứu của tôi và các trí thức Việt Nam khác về Ki Tô Giáo cũng không ngoài mục đích thức tỉnh những người còn đang u mê vì kém hiểu biết, nên bị lừa dối mà không tự biết. Trong bài này tôi chỉ dịch một số đoạn điển hình lượm lặt trong sự phân tích của tác giả về một số lý do để từ bỏ Ki Tô Giáo, được coi như một chủ đề.Quý đọc giả có thể đọc toàn bài trong nguồn dẫn ghi ở tựa dưới đây.

20 LÝ DO ĐỂ TỪ BỎ KI-TÔ GIÁO

By: Chaz Bufe

Nguồn: https://www.bibliotecapleyades.net/vatican/esp_vatican32.htm

Lý Do:

  1. Ki-tô Giáo đặt nền tảng trên sự sợ hãi
  2. Ki-tô Giáo kiếm mồi trên kẻ ngây thơ
  3. Ki-tô Giáo đặt nền tảng trên sự bất lương
  4. Ki-tô Giáo vô cùng vị kỷ
  5. Ki-tô Giáo nuôi dưỡng sự kiêu căng, một trạng thái tâm lý của dân được Chúa chọn
  6. Ki-tô Giáo nuôi dưỡng chủ nghĩa độc tài
  7. Ki-tô Giáo thật là độc ác
  8. Ki-tô Giáo chống tri thức, chống khoa học
  9. Ki-tô Giáo có một mối bận tâm không lành mạnh, bệnh hoạn về tình dục
  10. Ki-tô Giáo tạn nên sự khổ sở về tình dục
  11. Ki-tô Giáo có một quan điểm hết sức hẹp hòi, luật lệ về đạo đức
  12. Ki-tô Giáo khuyến khích chấp nhận những sự ác thật sự trong khi chú trọng về những sự ác tưởng tượng
  13. Ki-tô Giáo đánh giá thấp thế giới thiên nhiên
  14. Ki-tô Giáo là tổ chức dập theo khuôn hệ thống cấp bậc, độc tài
  15. Ki-tô Giáo chuẩn nhận chế độ nô lệ
  16. Ki-tô Giáo kỳ thị phái nữ
  17. Ki-tô Giáo sợ đồng giống luyến ái
  18. Cuốn Thánh Kinh không phải là một hướng dẫn đáng tin cậy về giáo lý của Giê-su
  19. Cuốn Thánh Kinh có đầy những mâu thuẫn
  20. Ki-tô Giáo mượn những huyền thoại và lễ tiết chính của mình từ các tôn giáo cổ xưa

1. Ki-tô Giáo đặt nền tảng trên sự sợ hãi

Trong khi ngày nay giới giáo sĩ ít hẹp hòi thường rao giảng về “Phúc âm của tình thương yêu” [Gospel ofLove], họ lại lờ đi không chịu nói tới toàn bộ giáo lý của Ki Tô Giáo, toàn bộ lịch sử của Ki Tô Giáo.Trong suốt thời gian Ki Tô Giáo có mặt trên trái đất, động cơ chỉ đạo của Ki-tô Giáo từng là – ngoài sự sợ hãi cái chết – còn có sự sợ hãi về quỷ Satan và sợ hãi về Hỏa ngục.Chúng ta hãy tưởng tượng những sự đe dọa như vậy có hiệu lực như thế nào trước khi khoa học và suy tư thuần lý nổi lên, những điều này đã tước đi phần lớn những năng lực gieo sự sợ hãi của những tên yêu quái [which have largely robbed these bogeys of their power to inspire terror].

Nhưng ngay cả ngày nay, sự hiện hữu của quỷ Satan và hỏa ngục vẫn là những giáo điều chủ yếu của hầu hết các hệ phái Ki-Tô, và nhiều nhà thuyết giáo bảo thủ vẫn công khai dùng biện pháp khủng bố các tín đồbằng những hình ảnh khủng khiếp, tàn ác về sự đau khổ của những người không tin sau khi chết.Biện pháp này không phải là một toan tính để thuyết phục qua lô-gíc và lý trí; không phải là một toan tính quyến rũ về bản chất tốt hơn của các cá nhân; mà là một toan tính để quất đàn chiên vào khuôn phép qua những sự đe dọa, qua sự khai thác phần thấp kém của bản chất con người – sự sợ hãi và hèn nhát [rather, it is an attempt to whip the flock into line through threats, through appeals to a base part of human nature—fear and cowardice.]

2. Ki-tô Giáo kiếm mồi trên kẻ ngây thơ

Nếu Ki Tô Giáo chỉ gieo rắc sự sợ hãi trên những con người đã trưởng thành thì cũng đã đủ tệ hại lắm rồi, nhưng những người Ki-Tô thường xuyên khủng bố những đứa trẻ không có ai giúp đỡ bằng những mô tả rùng rợn (grisly depictions)về những sự đau đớn khủng khiếp kéo dài vô tận mà chúng phải chịu nếu chúng không mgoan đạo.Ki tô giáo đã làm u ám những năm còn nhỏ của thế hệ này sang thế hệ khác những đứa trẻ, và chúng đã sống trong sự sợ hãi bị chết trong khi phạm tội trọng (tội trọng theo quan điểm của giáo hội, thí dụ như không đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật) với kết quả là bị đau khổ vĩnh viễn.

Những đứa trẻ này tin cậy vào những người lớn, và chúng không có khả năng để phân tích những gì mà chúng nghe; chúng chỉ là những nạn nhân không có sự giúp đỡ, và thật là khôi hài (ironically), vì khi lớn lên,chúng lại đầu độc thế hệ kế tiếp cùng một cách mà trước chúng đã là nạn nhân.Gần 2000 năm Ki-tô giáo khủng bố những đứa trẻ là một trong những tội ác lớn nhất của Ki Tô Giáo [The nearly 2000 years of Christian terrorizing of children ranks as one of its greatest crimes.] Và tội ác này còn tiếp tục ngày nay.[Điều này không sai, vì những đứa trẻ bị bố mẹ bắt đi lễ nhà thờ thường nghe những người giảng đạo nói về hỏa ngục, và những cuốn viết về những cảnh khủng khiếp của những kẻ vô tín trong ngày tận thế của Tim Lahaye lạ thay lại là những cuốn bán chạy nhất. TCN]

3. Ki-tô Giáo đặt nền tảng trên sự bất lương

Ki Tô Giáo, phải nhờ đến sự sợ hãi và hèn nhát của con người, là một sự thú nhận rằng bằng chứng chống đỡ cho những niềm tin Ki Tô chẳng có gì hấp dẫn (far from compelling).Nếu bằng chứng này chứng tỏ là chân lý Ki Tô rõ ràng cho bất cứ ai muốn tìm hiểu, những người Ki Tô – kể cả những người viết Phúc Âm – không cần phải dùng đến thủ đoạn rẻ tiền là dùng đe dọa gây sợ hãi để kéo con người vào niềm tin.Rằng các nhà truyền giáo Ki Tô thường phải dùng đến thủ đoạn này thay vì rao giảng một niềm tin chân thật, cộng với đô-la và sự tuân phục của tín đồ (plus the dollars and obedience that go with it), là thêm một cáo trạng về sự bất lương căn bản của Ki Tô Giáo [is an additional indictment of the basic dishonesty of Christianity.]

Mức độ bất lương trong Ki Tô Giáo có thể đo được qua một trong những luận cứ phổ thông về niềm tin vào God là “trò may rủi của Pascal” (Pascal’s wager).Trò may rủi này cho rằng tin vào God thì an toàn hơn là không tin, vì God có thể có thật, và nếu như vậy thì God sẽ cứu những người tin, và đầy đọa những người không tin sau khi chết xuống hỏa ngục. [Cứu lên đâu, và đầy đọa xuống đâu, trong khi giáo hoàng John Paul II đã khẳng định là không làm gì có thiên đường trên những tầng mây mà cũng chẳng làm gì có hỏa ngục dưới lòng đất. Thế mà ngày nay chúng ta vẫn thấy tín đồ Ki Tô Mít viện đến trò may rủi của Pascal vốn đã trở thành vô giá trị từ lâu. TCN].

Đây là sự khai thác sự hèn nhát của con người, tuyệt đối không liên quan gì đến sự tìm kiếm chân lý.Thay vì đó, nó kêu gọi con người từ bỏ sự lương thiện và giá trị trí thức, và cho rằng những lời trên đầu môi chót lưỡi (lip service) có thể thay thế lòng tin thực sự.

4. Ki-tô Giáo vô cùng vị kỷ

Lòng vị kỷ sâu đậm của Ki Tô Giáo thì liên hệ tới sự sợ hãi.Ngoài sự sợ hãi về Quỷ và Hỏa ngục, Ki Tô Giáo còn khai thác niềm sợ hãi cơ bản nhất của nhân loại: cái chết, sự tan rã của cái Ta..Có lẽ điều hấp dẫn mạnh mẽ nhất của Ki Tô Giáo là sự hứa hẹn một cuộc sống đời đời.Trong khi tuyệt đối không có một bằng chứng nào để hỗ trợ cho điều hứa hẹn này, hầu hết các tín đồ quá sợ hãi về cái chết cho nên đã bám vào hứa hẹn này, cho nó là thật, như những đứa trẻ sợ hãi (like frightened children).

Một biểu hiện khác của lòng vô cùng vị kỷ là tin rằng God quan tâm đến và trực tiếp can thiệp và đời sống của cá nhân.Nhiều tín đồ còn đi quá sự vị kỷ và thực sự tưởng tượng là Chúa có một kế hoạch đối với cá nhân họ, hay Chúa trực tiếp nói chuyện với họ, hay ngay cả ban cho họ những đặc ân.

Thomas Szasz: Khi anh nói với Chúa, đó là anh cầu nguyện.Khi Chúa nói chuyện với anh thì đó là anh mắc bệnh hoang tưởng (schizophrenia).Chúa có thể có những lý do của ông ta, nhưng có vẻ như ông ta chỉ dùng những kẻ loạn thần kinh (psychotics) để thi hành những lệnh lạc của ông ta.

5. Ki-tô Giáo nuôi dưỡng sự kiêu căng, một trạng thái tâm lý của dân được Chúa chọn

Thật là tự nhiên khi những người tin rằng họ có một mối quan hệ trực tiếp với đấng Toàn Năng cảm thấy mình cao cả hơn những người khác.Điều này thật là hiển nhiên, không cần phải nói thêm gì nữa.Nhưng người Ki Tô Giáo thường gọi mình là “Dân Chúa”, “Dân Được Chúa chọn”, “Được Chúa tuyển chọn”, là “những người Công Chính” v…v… và dán lên những người không tin những nhãn hiệu như “người ngoại đạo”, “người chống lại Thiên Chúa” và “Cọng Sản vô thần (làm như vô thần và Cọng sảnliên hệ mật thiết với nhau).Điều này tạo nên một sựchia cách nhân loại ra làm hai phe trong đó “Dân Chúa” cảm thấy cao cả hơn những người không phải là “dân Chúa”.

6. Ki-tô Giáo nuôi dưỡng chủ nghĩa độc tài

Vì những người Ki Tô Giáo cho rằng họ có một đức tin chân thật, có một cuốn sách là Lời Của Chúa, và trong nhiều trường hợp nhận được chỉ thị trực tiếp từ Chúa, cho nên họ không ngần ngại dùng vũlực để cưỡng ép con người phải tuân hành “Ý Chúa”, lẽ dĩ nhiên, đây chỉ là những gì họ diễn giải [Voltaire đã chẳng từng nói “Ý Chúa là ý của các linh mục hay sao?” TCN].Vì tin rằng họ đã nhận được các lệnh từ Thiên Chúa toàn năng, người có thể ném họ xuống hỏa ngục, nếu họ không vâng lời, không lạ gì họ rất năng nổ để xâm phạm vào những lãnh vực cá nhân của những người không tin.

Cho tới giữa thế kỷ 20, trong nước Mỹ cũng như trong các nước Ki-tô (đặc biệt là Ái Nhĩ Lan), các nhà thờ Ki-Tô làm áp lực trên các chính quyền để thông qua những đạo luật cấm bán những sản phẩm ngừa thai.Sự chống đối tự do ngôn luận (free speech) của Công giáo đã có từ nhiều thế kỷ trước, trong những vụ về Galileo Galilei và Giordano Bruno (bị thiêu sống)là những minh họa rõ ràng nhất. Có lẽ thí dụ nổi bật nhất về chủ trương kiểm duyệt, xâm phạm quyền tự do đọc sách của Ca-Tô Rô-MaGiáo là “Danh sách những cuốn sách cấm tín đồ đọc [thêm nhiều qua thời gian]” của Giáo hội Ca-Tô Rô-MaGiáo từ thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 20 mới được bãi bỏ, không phải vì Giáo hội nhận ra rằng đó là sự xâm phạm quyền tự do của con người, mà vì giáo hội không thể bắt buộc được nữa.[Ngày nay vẫn có những ông LM Mít khuyên con chiên đừng đọc sách này sách nọ, nhất là sách do Giao Điểm xuất bản]

Ngoài chủ trương chống tự do ngôn luận, Giáo hội còn đàn áp tự do tín ngưỡng (suppress freedom ofbelief).Sự chống đối tự do tín ngưỡng – và tự do cá nhân nói chung – kéo dài cho tới ngày nay [This Christian hatred of freedom of belief—and of individual freedom in general—extends to this day.]Ngay trên nước Mỹ, nhiều nơi vẫn còn có luật cấm những người vô thần được gọi làm trong bồi thẩm đoàn hay giữ những chức vụ trong chính quyền. Nếu tín ngưỡng hay hành động của các bạn không hợp với “luân lý, đạo đức” của Ki Tô Giáo, bạn hãy tin chắc rằng những người Ki Tô sẽ cảm thấy họ có quyền nhúng mũi vào đời tư của bạn [poking their noses (often in the form of state police agencies) into your private life.]

7. Ki Tô Giáo thật là độc ác

Qua suốt giòng lịch sử, sự độc ác đã là sắc thái nổi bật nhất của Ki Tô Giáo.Vì không có chỗ nào trong cuốn Thánh Kinh lên án sự tra tấn mà đôi khi còn đặt ra những hình phạt cực kỳ độc ác (như thiêu sống), cho nên không lạ gì các tín đồ Ki Tô Giáo không mấy quan tâm đến chuyện giáng lên những người khác những đối xử độc ác khủng khiếp. Trong thời đại của đỉnh cao quyền lực và ảnh hưởng của Ki Tô Giáo, hàng trăm ngàn “phù thủy” đã bị tra tấn cực kỳ tàn bạo rồi mang đi thiêu sống, dưới sự bảo trợ của các linh mục chuyên đi săn lùng phù thủy, và những tòa án xử dị giáo cũng dùng những phương pháp tàn bạo trên đối với những người bị kết án là lạc đạo.[Muốn biết thêm chi tiết về những phương pháp tàn bạo trên, xin đọc https://www.sachhiem.net/TCNtg/CGchinhsu/CGCS3.php (Lịch Sử 5 Núi Tội Ác Của Ca-Tô Rô-MaGiáo)]

Trong khi ngày nay chuyện tra tấn và tàn sát những người lạc đạo và phù thủy đã là những chuyện của quá khứ, nhưng Ki Tô Giáo vẫn còn độc ác một cách đáng kể.Một thí dụ gần đây là ở Nhà Thờ Báp-Tít ở Topeka, Kansas. Các thành viên của nhà thờ đã dàn hàng trước đám tang của những người bị bệnh AIDS và tấn công thô bạo những người đồng giống luyến ái, nâng cao những biểu ngữ viết: “Chúa ghét những kẻ đồng giống luyến ái” [God Hates Fags] và “tạ ơn Chúa đã giáng AIDS lên chúng” [Thank God for AIDS].

Nhưng chúng ta không nên lấy làm lạ là những hành động trên lại đến từ những tín đồ Ki Tô Giáo, vì những tín đồ của Công giáo La Mã đã dạy rằng, không những tra tấn là phải, mà người được cứu rỗi còn thích thú trước sự tra tấn những người khác [eternal torture is not only justified, but that the "saved" will enjoy seeing the torture of others.] Như Thánh Thomas Aquinas đã nói rõ:

“Để cho sự hoan hỉ của các thánh còn thích thú hơn nữa và để cho họ có thể dâng lên Thiên Chúa những lời tạ ơn phong phú hơn về sự tra tấn đó, họ hoàn toàn được phép nhìn ngắm những sự đau đớn của người bị kết án, đọa đầy.Các thánh sẽ hoan hỉ trong sự trừng phạt kẻ bị kết án, đọa đầy.

[As St. Thomas Aquinas put it: In order that the happiness of the saints may be more delightful and that they may give to God more copious thanks for it, they are permitted perfectly to behold the sufferings of the damned... The saints will rejoice in the punishment of the damned.]

Do đó, ảo cảnh về thiên đường của nhà thần học vĩ đại nhất của Ki Tô Giáo [Aquinas] là một cảnh tượng về sự thích thú trước sựtra tấn tàn ác triền miên.

8. Ki Tô Giáo chống trí thức và chống khoa học.

Trong hơn 1000 năm, Ki Tô Giáo chặn đứng sự phát triển khoa học và những suy nghĩ khoa học.Trong Ki Tô Giáo, từ thời Augustine đến thời kỳ Phục Hưng, những công cuộc nghiên cứu tìm hiểu về thế giới thiên nhiên chỉ được nằm trong những khảo cứu thần học – diễn giải Thánh Kinh, những dấu hiệu lấy từ trong đời sống của các thánh v.v…, không hề có sự quan sát và diễn giải những quá trình thiên nhiên, giáo hội cho đó là những tìm hiểu vô dụng, vì mọi kiến thức đều có trong cuốn Thánh Kinh.

Kết quả là như chúng ta đã biết: Kiến thức khoa học không tiến được chút nào trong hơn 1000 năm, kể từ khi Ca-Tô Rô-MaGiáo nổi lên vào thế kỷ 4 cho tới cuối thế kỷ 15, và quần chúng sống trong vũng bùn của sự dơ dáy thiếu vệ sinh và ngu dốt, sống trong sự sợ hãi một đấng siêu nhiên – tin vào những lời giải thích siêu nhiên cho những biến cố thiên nhiên thông thường nhất.Sự ngu dốt này đã đưa đến những kết quả thê thảm: nó làm cho quần chúng tin vào lời giải thích của giáo hội về những hiện tượng thiên nhiên như bệnh tật, bão tố là do phù thủy làm ra, và nhiều trăm ngàn phụ nữ đã phải trả giá cho sự ngu dốt đó bằng mạng sống của mình.

Khi sự nghiên cứu khoa học về thế giới thiên nhiên trở lại trong thời kỳ Phục Hưng – sau hơn 1000 năm gián đoạn – Ca-tô Rô-maGiáo đã làm đủ mọi cách để dẹp đi.Trường hợp của Copernicus và Galilei đặc biệt biểu thị chính sách này, vì khi Ca-tô Rô-maGiáo cấm thuyết của Copernicus (trái đất quay chung quanh mặt trời) và cấm Galilei không được dạy thuyết này, giáo hội không xét đến những bằng chứng của thuyết đó, vì thuyết đó mâu thuẫn với Thánh Kinh là cũng đủ để cho giáo hội cấm.Vì thuyết của Copernicus trái với những Lời Của Chúa, giáo hội Ca-tô cho rằng thuyết đó phải sai.Tin Lành cũng có quan điểm này. [Given that the Copernican theory directly contradicted the Word of God, the Catholic hierarchy reasoned that it must be false. Protestants shared this view].John Calvin (Tin Lành) hùng biện:“Ai là người dám liều lĩnh đặt thẩm quyền của Copernicus lên trên thẩm quyền của Chúa Thánh Thần"? [“Who will venture to place the authority of Copernicus above that of the Holy Spirit?]. Gần 500 năm trước, Martin Luther phán: “Lý trí là kẻ thù lớn nhất của đức tin” [Nearly 500 years ago Martin Luther, in his Table Talk, stated: “Reason is the greatest enemy that faith has.”]

14. Ki-tô Giáo là tổ chức dập theo khuôn hệ thống cấp bậc, độc tài

Ki Tô Giáo có lẽ là xí nghiệp có tổ chức quyền lực từ trên xuống dưới (top-down).Trong cái dạng đơn giản nhất, đó là một tổ chức có Chúa ở trên hết, những giáo hoàng“đầy tớ” (servants), rồi đến giới linh mục chăn chiên, sau hết là đại khối cùng khổ ở dưới cùng, với những bề trên ra lệnh, “con phải” thế nầy và “con không được” thế kia, với lời đe dọa đầy đọa vĩnh viễn[with those above issuing, in turn, thou-shalts and thou-shalt-nots backed by the threat of eternal damnation.]Ca-tô Rô-maGiáo có lẽ là thí dụ tột bậc về cấu trúc trên với đám giáo dân, nữ tu, linh mục, đức ông, giám mục, tổng giám mục, hồng y, và giáo hoàng, ban lệnh và tuân lệnh như trong quân đội.

Cách tổ chức này đã làm cho các tín đồ quen đi (accustom) – đặc biệt là những người đã bị thuần hóa và tham dự những nghi lễ từ khi còn nhỏ cho nên đã chấp nhận tổ chức độc tài đó như là tự nhiên, nếu không phải là dạng tổ chức duy nhất, và không thấy gì là sai lầm với lối tổ chức theo hệ thống quyền lực từ trên xuống dưới.

Trên đây là một số lý do chọn lọc điển hình để cho những người có đầu óc không cưỡng lại được phải từ bỏ Ki Tô Giáo. Tác giả Chaze Bufe còn viết trong đoạn kết:“Trong 20 lý do trên, dù các bạn bỏ đi một nửa, hay ngay cả ba phần tư, thì cũng còn đủ để các bạn không cưỡng lại được (irresistible) việc từ bỏ Ki Tô Giáo.”Để giúp kinh nghiệm cho Việt Nam, tôi muốn trình bày ở đây kinh nghiệm của Phật giáo Thái Lan trong cuốn “Ki Tô Giáo: Kế Hoạch Cải Đạo Á Châu”:

Năm 1984, tuy chưa tới 1% dân Thái theo Ki Tô Giáo nhưng chính quyền Thái đã cho phép Giáo hoàng John Paul II đến Thái Lan viếng thăm tín đồ của ông.Sau Công Đồng Vatican II, Ca-Tô Rô-MaGiáo mở chiến dịch truyền đạo ở Thái với nhiều thủ đoạn bất lương và bất chính.Trước tình hình như vậy, nhiều tổ chức Phật Giáo ở Thái Lan đã ra tuyên ngôn kèm theo bằng chứng, và viết thư phản đối gửi đến các chức sắc Ca Tô trong giáo hội Ca-Tô Rô-maGiáo tại Thái.Nhưng giáo hội Ca Tô tại đây ù lì, không có một biện pháp sửa sai nào.Cho nên, nhân dịp giáo hoàng sắp viếng thăm Thái Lan, nhiều tổ chức Phật giáo cũng như dân sự Thái Lan đã viết những bức thư ngỏ gửi giáo hoàng, trình bày và phản đối những hành động sai trái của Ca-Tô Rô-maGiáo tại Thái Lan. Điển hình là Tỳ Kheo Sathienpong Wannapok đã viết một bức thư ngỏ gửi John Paul II.Đọc kỹ bức thư, và nếu chúng ta hiểu về lịch sử và bản chất của Ca-Tô Rô-maGiáo, thì đây vừa là một cái tát vào mặt Giáo hoàng, vừa là một bài học về đạo đức tôn giáo cho giáo hoàng, tuy lời văn khiêm tốn và nhẹ nhàng. Nguyên văn bức thư như sau:

THƯ NGỎ GỬI GIÁO HOÀNG JOHN PAUL II

Ngày 10 tháng 5, 1984

Bangkok, Thái Lan

Thưa Ngài,

Đất nước này mà Ngài sẽ đến, quỳ xuống và hôn nó, là đất nước Phật Giáo, một đất nước mà nền độc lập của nó đã được những tổ tiên người Thái bảo vệ với mạng sống của mình, một đất nước chưa từng bị lấy làm thuộc địa.Ngay cả trong thời đại mà những thế lực thực dân Tây phương toan tính chiếm nó làm thuộc địa, quần chúng đã đoàn kết xung quanh Vua của họ và đã có thể bảo toàn được sự tự do của đất nước và Thái Lan đã không trở thành thuộc địa của những giống người hiếu chiến tự nhận là văn minh.

Đất nước này là đất nước của hòa bình và an sinh.Dưới ảnh hưởng của giáo lý Phật Giáo, đất nước này chưa từng biết đến một cuộc “chiến tranh tôn giáo” nào dưới bất cứ hình thức nào, chưa từng làm đổ một giọt máu để bảo toàn quốc giáo.Điều này không thể có với các tôn giáo khác.

Đức Phật đã truyền bá giáo lý của Ngài bằng những phương tiện hòa bình.Ngài dạy các đệ tử phải dùng thiện để thắng ác, thể hiện lòng từ bi đối với những người đang đau khổ trên thế giới và chỉ cho họ con đường chân thật để diệt khổ.

Mọi đệ tử của Phật, với lòng từ bi và không mong ước một ân thưởng nào, đều vững tin là nhiệm vụ của mình là mang ánh sáng đến cho con người,dạy họ con đường thoát khổ và đạt chân hạnh phúc, nghĩa là Niết Bàn.Huấn Thị cho các nhà truyền giáo tiến lên và cải đạo các quốc gia vào đức tin của mình chưa bao giờ là động cơ thúc đẩy các nhà truyền giáo Phật Giáo.

Chúng tôi, các Phật tử, vững tin là Phật Giáo thật thanh khiết.Phật giáo có đầy những lý lẽ thách đố những người có đầu óc.Phật giáo không cần đến tuyên truyền hay lùa bất cứ ai vào niềm tin của Phật giáo để tăng thêm số tín đồ như là một tôn giáo nào đó thường thèm khát tín đồ.

Vì những lý do này, người dân Thái mà đất nước này là của họ, đã bảo đảm tự do cho mọi tôn giáo và sự thuyết giảng giáo lý của tôn giáo.Sự tự do lớn lao này đã có từ triều đại của Đại Đế Narai, khi mà các thừa sai đầu tiên đến Thái trong sự bao che của triều đình.

Khi Giê-su Ki Tô dạy các đệ tử “Nếu ai tát các con má này thì hãy đưa nốt má kia ra”, ông ta đã cổ vũ sự sử dụng phương tiện hòa bình.Lẽ dĩ nhiên điều này phải được áp dụng trong sự truyền bá đạo của Ngài.

Thật là đáng tiếc, ở đây, những tín đồ của Giê-su Ki-Tô, bằng những hành vi bất xứng, đã luôn luôn phản bội lời dạy tuyệt tác trên.Họ đã xảo quyệt nhận vơ những niềm tin, cách hành đạo, và lễ tiết của Phật Giáo là những niềm tin và hành đạo của Ki Tô Giáo.Họ đã cố ý và trắng trợn xuyên tạc những nguyên lý của Phật Pháp và chê bai Tam Bảo bằng cách nhận vơ là Tứ Diệu Đế và Lý Duyên Khởi của Đức Phật là được Thiên Chúa của họ mạc khải cho, do đó Đức Phật chỉ là một nhà tiên tri hay nô lệ của Thiên Chúa, được huấn thị để sửa soạn những người dân Á Đông vào Ki Tô Giáo hay sửa soạn con đường để cho con người theo Giê-su.

Tôi không nghĩ là hành động vô đạo đức này lại bắt nguồn từ chính sách Đối Thoại và Truyền Giáo của Công Đồng Vatican II vì nó không được thân thiện cho sự sống chung hòa bình giữa các tôn giáo.Tôi hiểu rằng Ngài không biết đến cũng như không muốn tình trạng này xảy ra.

Cùng sống với nhau như là bạn hay để có hòa bình thực sự trên thế giới, cần phải có sự lương thiện và thành thực hỗ tương, chứ không phải là đạo đức giả.

Đất nước hòa bình này không muốn bất cứ ai, bất kể họ là người nào, miệng thì nói hòa bình nhưng những hành động thì lại làm nhơ bẩn dấu vết của nụ hôn trên đó

Sathienpong Wannapok

Open Letter to Pope John Paul II

Bangkok, Thailand

10 May, 1984

Your Holiness,

This land which Your Holiness will kneel down and kiss on your arrival is a Buddhist land, a land whose independence our Thai ancestors have defended with their lives, a land which has never been colonized. Even during the time when the Western colonialists sought to take her as their possession, the people centred about their King were able to preserve her freedom and she did not become a colony of those war-thirsty races who called themselves civilized.

This land is a land of peace and well-being. Under the influence of the ancient Buddhist teaching she never known a “religious war” in any form, has never spilled a drop of blood to preserve the national religion. The same cannot be said to other religions.

The Lord Buddha spread his teaching by peaceful means. He taught his disciples to overcome evil by good, to show mercy and kindness to the suffering citizens of the world and he tried to show them the true way to relieve suffering.

Every disciple of the Buddha, with loving kindness and without hope of reward, holds it to be his duty to bring light to people, to teach the way to end suffering and achieve true happiness or Nirvana. The injunction of the teachers of other religions to go forth and convert the nations of the world to their faith never motivated the teachers of Buddhism.

We, Buddhists, firmly believe that Buddhism is pure. It is full of reasons which are challenging to people with common sense. It does not need propaganda or luring anybody to believe in it in order to increase the number of followers as practised in certain religion which is craving for followers.

For these reasons, the Thai people to whom this land belongs have given the greatest freedom to all religions and to the teaching of religion. This great freedom has endured since the reign of King Narai the Great when the firsts missionaries came under royal protection.

When Jesus Christ taught his disciples “If anyone strikes on the right cheek, turn to him the other also”. he was exhorting the use of peaceful means. Surely this must apply to the propagation of your religion.

It is regrettable that, here, followers of Jesus Christ by improper conduct have continually betrayed this excellent teaching. They have artfully claimed the beliefs, practices and ceremonies of Buddhism as Christian beliefs and practices. They have clearly and intentionally distorted the principles of the Dhamma and denigrated the Triple Gem by falsely claiming that Lord Buddha’s Four Noble Truths and the Dependent Origination were revealed by the Christian God of whom the Lord Buddha was merely a prophet or slave who had been instructed to prepare the peoples of the Orient for Christianity or to prepare the way for Jesus who was to follow.

I would not like to think that this immoral action stems from the Dialogue and Mission policy of the Vatican Council II because it is inimical to the peaceful co-existence of religions. I understand that Your Holiness is neither aware of nor desires this state of affairs.

To live together as friends or to have true peace in the world, there must be mutual honesty and sincerity, not hypocrisy.

This land of peace does not want anyone, whoever he be, whose mouth talks of peace but whose actions are otherwise to sully the mark of the kiss.

Sathienpong Wannapok

Qua tài liệu trên của Phật Giáo Thái Lan, chúng ta có thể rút ra những kinh nghiệm gì?

Đối với người Việt Nam, chúng ta cần phải ý thức được rằng chiêu bài “đối thoại” hay “liên tôn” của Ca-Tô Rô-MaGiáo chỉ là những bình phong chiêu dụ những người ngoại đạo hay Phật tử nhẹ dạ, ngây thơ, kém hiểu biết, hám danh, lao đầu vào cái bẫy của Ca-Tô Rô-MaGiáo mà không biết đến những âm mưu của họ trong chính sách xâm lăng văn hóa và tôn giáo Á Châu, cũng như không biết rằng mục đích chính của Ca-Tô Rô-MaGiáo không phải là “đối thoại” hay “liên tôn” mà chỉ là những chiến thuật giai đoạn nhằm mục đích xâm lăng và thủ tiêu văn hóa Việt Nam nói chung, văn hóa Phật Giáo nói riêng.Biết vậy, cho nên người Việt Nam, nhất là các Phật tử Việt Nam, không nên lơi là, không chịu tìm hiểu kỹ các vấn đề, áp dụng hạnh từ bi một cách thiếu sáng suốt, không dám dấn thân vào mặt trận văn hóa để giải hoặc Ki Tô Giáo, và để mặc cho Ca-Tô Rô-MaGiáo tự tung tự tác trong sách lược cải đạo Á Châu.

by Chaz Bufe

https://www.bibliotecapleyades.net/vatican/esp_vatican32.htm

Reasons

1. Christianity is based on fear

2. Christianity preys on the innocent

3. Christianity is based on dishonesty

4. Christianity is extremely egocentric

5. Christianity breeds arrogance, a chosen-people mentality

6. Christianity breeds authoritarianism

7. Christianity is cruel

8. Christianity is anti-intellectual, anti-scientific

9. Christianity has a morbid, unhealthy preoccupation with sex

10. Christianity produces sexual misery

11. Christianity has an exceedingly narrow, legalistic view of morality

12. Christianity encourages acceptance of real evils while focusing on imaginary evils

13. Christianity depreciates the natural world

14. Christianity models hierarchical, authoritarian organization

15. Christianity sanctions slavery

16. Christianity is misogynistic

17. Christianity is homophobic

18. The Bible is not a reliable guide to Christ's teachings

19. The Bible is riddled with contradictions

20. Christianity borrowed its central myths and ceremonies from other ancient religions

This pamphlet briefly looks at many of the reasons that Christianity is undesirable from both a personal and a social point of view. All of the matters discussed here have been dealt with elsewhere at greater length, but that’s beside the point: the purpose of 20 Reasons to Abandon Christianity is to list the most outstanding misery-producing and socially destructive qualities of Christianity in one place. When considered in toto, they lead to an irresistible conclusion:

that Christianity must be abandoned, for the sake of both personal happiness and social progress.

As regards the title, "abandon"—rather than "suppress" or "do away with"—was chosen deliberately. Attempts to coercively suppress beliefs are not only ethically wrong, but in the long run they are often ineffective—as the recent resurgence of religion in the former Soviet Union demonstrates.

If Christianity is ever to disappear, it will be because individual human beings wake up, abandon their destructive, repressive beliefs, and choose life, choose to be here now.

. . . . . . . . . . .

(the complete text: https://www.bibliotecapleyades.net/vatican/esp_vatican32.htm)