 |
03 tháng 2, 2008
|
Sự thực tôi không biết phải bắt đầu cám ơn Tổng Giám Mục
Ngô Quang Kiệt như thế nào, vì có rất nhiều điều phải cám ơn ông. Trong một bài
viết trước đây, tôi đã dùng vài lời không nhã nhặn, cho rằng hành động xách động
giáo dân của ông đến thắp nến cầu nguyện nơi tòa khâm sứ cũ, không phải là cầu
nguyện mà là đập phá và mang tượng bà Maria và cây giá chữ thập đến cắm đại
trong khu vực tòa khâm sứ, là một hành động vô cùng vụng về nếu không muốn nói
là ngu xuẩn. Nghĩ đi nghĩ lại, tôi thấy đó là những lời nói quá đáng, vậy tôi
xin thành tâm sám hối và có đôi lời tạ lỗi cùng ông.
Không những tạ lỗi mà tôi còn phải cám ơn ông rất
nhiều, vì nhìn vào mặt tích cực, qua biến cố vừa qua ở tòa khâm sứ, tôi cảm thấy
có bổn phận phải cám ơn ông về những điều sau đây:
Thứ nhất, tôi xin cám ơn ông vì ông đã giúp cho nhân
dân Việt Nam thức tỉnh, bớt thụ động. Điều này phản ánh qua sự việc là, trước
vụ tòa khâm sứ, một làn sóng phản ứng của người Việt trên đã nổi lên trên khắp
thế giới. Và tuyệt đại đa số những phản ứng này đều chống đối việc làm của tòa
Tổng Giám Mục. Những phản ứng này không chỉ có ở các nước ngoài mà còn ở trong
nước suốt từ Bắc vào Nam, trên báo chí, trên các diễn đàn truyền thông, và nhất
là của những hội đoàn, dân chúng quanh khu vực tòa khâm sứ.
Thứ nhì, tôi xin cám ơn ông vì ông đã giúp cho nhân
dân Việt Nam nhớ lại hay biết đến lịch sử về Chùa Báo Thiên, về nguồn gốc và
những khía cạnh lịch sử pháp lý liên quan đến tòa khâm sứ. Nay người dân đã biết
rõ, Nhà Thờ Lớn Hà Nội mà trong khuôn viên có tòa khâm sứ nguyên là Chùa Báo
Thiên của Phật Giáo đã bị thực dân Pháp toa rập với Công giáo Việt Nam cướp đi,
phá hủy và xây nhà thờ trên đó. Ngày nay những bằng chứng về sự kiện này là
những bằng chứng bất khả phủ bác. Không kể nhiều tài liệu về Chùa Báo Thiên đã
xuất hiện trên báo chí và các diễn đàn truyền thông điện tử, tài liệu lịch sử về
Chùa Báo Thiên của ông Lê Quang Vịnh, nguyên Trưởng Ban Tôn Giáo Chính Phủ, là
những tài liệu không ai có thể nghi ngờ tính chất xác thực của nó.
Thứ ba, tôi xin cám ơn ông vì ông đã ra lệnh cho giáo
dân phải gỡ bỏ tượng bà Maria và cây thập giá ra khỏi khuôn viên tòa khâm sứ mà
trước đó ít này, giáo dân của ông đã phá sập cổng sắt, ùa vào ngang nhiên bất
chấp pháp luật dựng lên những thứ không thể thích hợp ở nơi đó. Chúng tôi hiểu
rằng không phải tự ý ông muốn như thế, bởi vì tuy chính phủ đã tỏ rất nhiều
thiện chí trước vụ làm càn này, nhưng tòa Tổng Giám Mục vẫn không chịu hợp tác.
Nhưng chỉ với vài lời ra lệnh của Hồng Y Bertone ở Vatican thì ông đã không có
cách nào chống lại như đã chống chính phủ Việt Nam, và phải dẹp màn cầu nguyện,
cắm thập giá, dựng tượng, dựng lều v..v.. một cách không kèn không trống. Chúng
tôi hiểu rằng là dân Chúa thì phải nghe lời của Chúa, hay nói đúng hơn, nghe lời
của những người tự nhận là “cũng như Chúa”, chứ không thể nghe lời của chính
phủ của một đất nước mà mình đang sống trên đó. Vì sự kiện này mà ông đã giúp
cho người dân Việt Nam đánh giá đúng mức người Công Giáo trong lòng dân tộc Việt
Nam.
Và thứ tư, tôi xin cám ơn ông vì ông đã tạo cơ
hội cho người dân Việt Nam để họ nhớ lại hay biết đến lịch sử của Công Giáo La
Mã ở Việt Nam. Ông nên tin rằng, vì vụ việc tòa khâm sứ do ông phát động, lịch
sử của Công Giáo La Mã ở Việt Nam từ ngày đầu đến ngày cuối sẽ được phổ biến
rộng rãi trên khắp đất nước với những tài liệu bất khả phủ bác. Trong tình thế
này, người dân sẽ không còn e dè vì sợ mang tiếng là chia rẽ tôn giáo nữa, nên
những sự thật lịch sử về Công Giáo La Mã ở Việt Nam cũng như hoàn vũ sẽ được
phơi bày, và Giáo hội Công Giáo La Mã ở Việt Nam sẽ không có cách nào còn có thể
ngăn chận việc truyền bá những sự thật này như trước nửa. Ông đã giúp cho sự mở
mang dân trí và sự tiến bộ trí thức của người dân Việt Nam về lịch sử Công giáo
một bước dài.
Sau đây, vì vẫn coi ông Tổng Giám Mục là người Việt
Nam, tôi muốn chia xẻ cùng ông vài lời tâm huyết.
Có thể vì ở trong một hệ thống tôn giáo toàn trị
không có nhiều tính chất Việt Nam cho nên ông không hiểu rõ về truyền thống văn
hóa Việt Nam cũng như tâm lý người dân Việt Nam. Lịch sử Việt Nam đã chứng tỏ
rằng người Việt Nam rất yêu nước, và đặt lòng yêu nước trên bất cứ một giá trị
nào khác. Với niềm tin tôn giáo của quý ông, quý ông có thể cho rằng “thà mất
nước chứ chẳng thà mất Chúa”, nhưng đối với tuyệt đại đa số người dân, tôi tin
rằng không có ai nghĩ như vậy. Vì đối với người dân Việt Nam, đây là mảnh đất
mà tổ tiên, cha ông của họ đã tốn biết bao xương máu và nước mắt để giữ gìn, xây
dựng, và là mảnh đất mà đời đời các dòng họ Việt Nam đã và sẽ sống trên đó. Và
lịch sử đã chứng tỏ người Việt Nam đã bảo vệ đất nước của họ với bất cứ giá nào.
Đây là những ý niệm đã ăn sâu vào đầu óc người dân Việt Nam, không có cách gì và
không ai có thể bứng nó ra khỏi đầu óc của con người Việt Nam nói chung.
Lòng yêu nước của người Việt Nam dính liền với sự
không chấp nhận bất cứ hành động nào phương hại đến quyền lợi chung của đất
nước. Mặt khác, ý thức tôn giáo của người Việt Nam rất khoáng đạt: chấp nhận
mọi tôn giáo nhưng phân biệt rõ ràng giữa tôn giáo và quốc gia. Về tôn giáo thì
ai muốn theo tôn giáo nào thì theo, miễn là đừng có toan tính xâm lấn các tôn
giáo khác. Nhưng về tinh thần quốc gia thì người Việt Nam không chấp nhận bất
cứ một sự độc tôn tôn giáo nào, và nhất là không chấp nhận tinh thần nô lệ ngoại
bang dưới bất cứ hình thức nào. Việt Nam có thể có những ảnh hưởng từ các nền
văn hóa khác du nhập vào, nhưng tuyệt đối không thể chấp nhận chỉ thị từ một
ngoại bang. Và nếu có một tổ chức nào, đoàn thể nào, nhận chỉ thị của ngoại
bang, làm việc cho ngoại bang, thì người dân Việt Nam nói chung sẽ không bao giờ
chấp nhận, và trước sau gì thì những tổ chức đó, đoàn thể đó cũng phải tự đào
thải, nếu không chịu thay đổi để sống với tinh thần dân tộc. Đây là những chân
lý lịch sử ngàn đời không bao giờ thay đổi.
Sau cùng tôi có một vấn đề xin đặt để ông Tổng Giám
Mục suy nghĩ.
Trong thời đô hộ của Pháp, Công Giáo được đủ mọi đặc
quyền đặc lợi. Trong những thập niên trước 1930, và có thể nói đến trước 1945,
Việt Nam có thể nói là một khoảng đất trống để cho Công giáo truyền đạo và bành
trướng. Phật giáo suy yếu vì nhiều lý do dễ hiểu dù có phong trào chấn hưng
Phật Giáo trong thập niên 1930. Ở miền Nam thì Cao Đài và Hòa Hảo lại phát
triển. Điều này chứng tỏ trong cuộc sống, người dân cần có một giá trị tâm linh
nào đó. Nhưng dù được độc quyền truyền đạo, và trong 9 năm cầm quyền của Ngô
Đình Diệm ở miền Nam mà chúng ta đã biết vị thế của Công giáo trong xã hội là
như thế nào, và người Công giáo đã làm những gì để phát triển đạo, tỷ lệ trên
dân số của người Công giáo vẫn không tăng được, luôn luôn chỉ ở trong vòng từ
5-7 %. Tại sao vậy? Đó có phải là điều đáng để ông Tổng Giám Mục suy nghĩ
không? Tôi cũng mong ông Tổng Giám Mục suy nghĩ đến thực trạng hiện nay của
giáo hội Công giáo hoàn vũ trên thế giới, nhất là ở Âu Châu, và uy tín thực sự
của Giáo hoàng Benedict XVI ngày nay trong cộng đồng thế giới và ngay cả đối với
các giáo dân trong các nước văn minh tân tiến.
Sau hết, nhân dịp tết Mậu Tý, tôi xin chân thành kính
chúc ông Tổng Giám Mục trong năm mới được nhiều sức khỏe để dẫn dắt đàn chiên
của ông trên chánh đạo.
Các bài về tôn giáo cùng tác giả
Những lá thư ngỏ
Gửi Quý vị Tu sĩ Ca-tô và giáo dân người Việt (Nguyễn Mạnh Quang)
Letter To Pope John Paul II (Nguyễn Mạnh Quang)
Thư Cám Ơn (Charlie Nguyễn)
Thư KMTD - Hiền tài hay Việt gian ? (Nguyễn Mạnh Quang)
Thư Ngỏ gửi Cám Ơn TGM (Trần Chung Ngọc)
Thư Ngỏ Gửi Giáo Hoàng John Paul II (Nguyễn Mạnh Quang)
Thư Ngỏ Gửi TGM Ngô Quang Kiệt (Nguyễn Mạnh Quang)
Thư Thắc Mắc của HS KMTD (Nguyễn Mạnh Quang)