Lại Vẫn Là "Công Giáo" Tôi Đọc: Nguồn Gốc Và Ý Nghĩa Của Chữ ''Công Giáo'' Trần Chung Ngọc | ||
Tôi không chống, không ngăn cản, niềm tin của bất cứ ai. Nhưng tôi cảm thấy tôi có nhiệm vụ nghiên cứu Ki Tô Giáo để trình bày với đầy đủ tài liệu một vấn đề có ảnh hưởng đến tương lai của cả dân tộc, đó là thực chất của Ki Tô Giáo, và Ki Tô Giáo đã dạy con người những điều huyền hoặc phi lý trí, phản khoa học v..v.. mà thời đại thông tin điện tử ngày nay không thể chấp nhận được. Tôi cũng muốn vạch cho mọi người thấy rằng, những gì mà Ca-tô giáo hay Tin Lành dạy cho tín đồ về Thiên Chúa Sáng tạo, về Chúa Giê-su, về Giáo Hội Ca-tô hoàn vũ, về Hội Thánh Tin Lành, hoàn toàn không đúng với những hiểu biết của nhân loại ngày nay về vũ trụ, nhân sinh, và hoàn toàn không phù hợp với nội dung cuốn Thánh Kinh gồm có Cựu Ước và Tân Ước. Giới lãnh đạo Ki Tô Giáo cũng đã biết như vậy nhưng họ vẫn muốn giữ tín đồ trong bóng tối để duy trì trong đầu óc họ một niềm tin sai lầm. Đó là điều đáng nói, và đáng trách. (TCN)
- “Mọi Sự Đều Có Nguyên Nhân“, Nhưng Nguyên
Nhân Của Gót Là Gì? Có vẻ như những người Ca-tô Rô-ma Việt Nam không dùng danh xưng “Công Giáo“ thì họ ăn không ngon, ngủ không yên, và sống không yên ổn với Chúa. Cho nên họ cứ cố bám vào danh xưng “Công giáo“ dù họ biết rõ danh xưng đó chẳng có nghĩa gì, không thể dịch từ “Catholic“. Trước đây tôi vẫn dùng từ “Công giáo” một cách thoải mái, viết hai cuốn sách “Công Giáo Chính Sử“ và “Đức Tin Công Giáo“ dù tôi chẳng cảm thấy nó chẳng Công chút nào. Người ngoại đạo dùng từ “Công Giáo“ nhưng biết rõ đó chỉ là “Tư Giáo“, một tôn giáo riêng của những người Việt Nam theo đạo Giê-su. Không hiểu vì lẽ gì mà những người Ca-tô Rô-ma Việt Nam lại cảm thấy khó chịu nếu người ngoại đạo không gọi dạo của họ là “Công giáo“ và họ cho rằng như vậy là xúc phạm đến danh xưng thiêng liêng của đạo Ca-tô Rô-ma, một danh xưng mới chỉ xuất hiện từ năm 1954 trong khi Ca-tô Rô-ma giáo đã xâm nhập Việt Nam từ 1533. Cho nên từ trên xuống dưới, họ cố ngụy biện để duy trì danh xưng “Công giáo“ mà không cần biết đến cái lịch sử của tôn giáo này, bất kể nó được gọi dưới danh xưng nào. Dùng từ “Công Giáo“ không làm cho “Công giáo“ Việt Nam trở thành “đạo công cộng“ trong xã hội Việt Nam, cũng như Giáo hội CG không trở thành thánh thiện hay tốt đẹp trong lịch sử loài người. Người Ca-tô Việt Nam muốn gọi “Roman Catholicism” là gì thì gọi, nhưng họ không bao giờ có thể xóa bỏ được hình ảnh của Giáo hội Ca-tô Rô-ma là một giáo hội tàn bạo đẫm máu nhất thế gian, là một tổ chức thế tục buôn thần bán thánh nấp sau bộ mặt tôn giáo, và nếu muốn nói về một đạo giáo thì đó chẳng qua chỉ là một tà đạo, một đạo chích và một đạo bịp, như tôi đã chứng minh trước đây [Xin đọc: https://www.sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=5038 ] Do đó, người Ca-tô muốn gọi đạo của họ là gì là quyền của họ, không phải là chuyện đáng bàn, và chúng ta, những người ngoại đạo, không có bổn phận phải gọi theo như họ muốn. Chuyện mà tôi muốn bàn ở đây là bài NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA CHỮ ''CÔNG GIÁO'' của Đa Minh Phan Văn Phước. Bài viết này không phải để phê bình từ “Công giáo“ mà là phê bình những điều mê sảng, tin nhảm tin nhí của Phan Văn Phước, những điều rất lạc đề không liên can gì Nguồn Gốc và Ý Nghĩa của từ “Công giáo“. Thực ra thì đọc suốt bài chúng ta không thấy chỗ nào ông Phước nói rõ về Nguồn Gốc và Ý Nghĩa của chữ “Công Giáo“, trái lại ông ta viết loanh quanh ra ngoài đề rất nhiều và mục đích chỉ là trình bày những gì mà ông ta tin chứ không hiểu, và nhất là theo sách lược của “đạo chích“, hi vọng có thể đánh đồng quan niệm về Ông Trời của người Việt với Chúa của ông ta. Vậy chúng ta hãy bắt đầu. “Mọi Sự Đều Có Nguyên Nhân“, Nhưng Nguyên Nhân Của Gót Là Gì? Mở đầu Phan Văn Phước viết: Theo thiển ý người viết, phải làm sáng tỏ ''nguồn gốc'' của chữ ''Công Giáo'' trước khi giải thích ''ý nghĩa'' của nó bởi vì giải thích ''suông'' mà chẳng đưa ra ''nguyên do'': lý do, duyên cố, do lai, tức là ''căn cơ, cội nguồn'' của chữ này thì giải thích cho lắm cũng bằng không! ''Mọi sự đều có nguyên nhân!'' Mệnh đề khẳng định này là một trong bảy nguyên tắc căn bản của lý trí con người. Blaise Pascal nói: ''Con người là cây sậy biết tư duy.'' Descartes bảo: ''Tôi tư duy, vậy là tôi hiện hữu.'' (Cogito, ergo sum. - Je pense, donc je suis. - I think, therefore I am.) Tôi hiện hữu có giới hạn nên tôi biết rằng có Đấng Vô Hạn, tức là Đấng Hằng Hữu hay là Đấng Tự Hữu. Đấng ấy không phải là ''sự của mọi sự'', mà là ''Tác Giả, Nguyên Lý, Nguồn Gốc'' của mọi loài hữu hình và vô hình. Ngài là Ông Trời mà người đời đề cập đến trong thơ-văn, cuộc sống như sau: ''Ơn trời mưa nắng phải thì - Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu; Lạy trời mưa xuống! Lấy nước tôi uống! Lấy ruộng tôi cầy! Lấy đầy bát cơm! Hãy tự giúp mình thì Trời sẽ giúp cho. Ai cho không bằng trời cho. Trời sinh* voi, sinh cỏ. Trời ơi, cứu con với! SOS: Save our souls - Xin cứu linh hồn chúng con.'' (*Nature: (được sinh ra) là ''tự nhiên'', tức là ''thiên nhiên''!) Thử hỏi, đoạn trên có liên hệ gì tới nguồn gốc của chữ “Công Giáo“. Tôi xin đặt một câu hỏi: Làm sao ông Phan Văn Phước biết là có Đấng Vô Hạn, tức là Đấng Hằng Hữu hay là Đấng Tự Hữu? Tự nhiên ông biết hay ông được Giáo hội bảo ông phải biết như vậy mà không cần chứng minh cái ông biết nó như thế nào. Nếu ông biết thì ông phải nói ra được là Đấng ấy vô hạn, hằng hữu hay tự hữu như thế nào, có từ bao giờ, từ đâu mà ra, và bây giờ ở đâu. Vì là một “Đấng“ nên mặt mũi Đấng ấy ra sao? Trước khi ông nói bất cứ điều gì về Đấng hằng hữu thì ông phải thiết lập hay chứng minh là Đấng đó hiện hữu. Nếu không thì Đấng đó chỉ là một cái gì ông tin là có nhưng tự cho là mình biết trong khi ông chẳng biết đó là cái gì. Và tất cả những gì ông nói về Đấng ấy chỉ là đoán mò theo sự tưởng tượng của ông mà thôi. Vì vậy trên thế gian có nhiều quan niệm khác nhau về Đấng Tự Hữu, alias Gót của Ki Tô Giáo. Thật ra thì ông Phan Văn Phước chỉ nhắc lại một luận cứ cũ kỹ đã lỗi thời để chứng minh là có Gót, Gót của ông ta. Các nhà thần học Ki Tô Giáo khi xưa mê mẩn vì Gót của họ nên tìm ra lý lẽ để chứng minh là Gót của họ có thật. Đó là luận cứ về một “Prime mover” của Aristotle và sau đó Thomas Aquinas đưa ra vào thế kỷ 13 luận cứ Nguyên Nhân Đầu Tiên (First Cause) hay luận cứ Vũ trụ (Cosmology argument). Trước hết, khoa học đã cho rằng không phải tất cả mọi thứ hiện hữu đều phải có một nguyên nhân. Đó là lý thuyết về “trạng thái – không” (The zero-state theory). Thomas Aquinas cho rằng Gót của Ki Tô Giáo (The Christian God), một cái gì vô hình, không thể mô tả được, không ai biết được, và không ai hiểu được (invisible, ineffable, unknowable, incomprehensible), theo giáo lý Công giáo, chính là nguyên nhân đầu tiên mà không cần đến nguyên nhân.. Nhưng đây là một lý luận thuộc loại “ad hoc”, nghĩa là “tiền hậu bất nhất” (inconsistency) [Gót không có nguyên nhân, trái với định đề “Mọi sự đều có nguyên nhân”] và “thiên kiến” (prejudice) [cưỡng đặt Gót của mình vào làm nguyên nhân đầu tiên]. Nhưng chủ đích của ông Phan Văn Phước là viết lăng nhăng về những điều mê tín của ông ta và rập theo những lý luận xảo quyệt để truyền đạo của LM Trần Cao Tường, LM Cao Phương Kỷ, hòng đánh đồng“Chúa Trời“ của ông ta với Ông Trời của Việt Nam. Trước mánh lới truyền đạo bất lương này cho những người thấp kém trong xã hội Việt Nam trong khi tín đồ Ca-tô Rô-ma Giáo bỏ đạo hàng loạt ở Âu Châu và nhiều nơi trên thế giới, một trí thức Ca-tô đạo gốc, Cựu Thẩm Phán Bùi Văn Chấn, alias Charlie Nguyễn, đã viết bài Quan niệm “Ông Trời” của người Việt, trong đó ông ta đã chứng minh là quan niệm về “Ông Trời” của người Việt tuyệt đối không có gì cũng giống như quan niệm về Chúa Trời của Ca-tô Rô-ma Giáo [Xin đọc "Quan niệm “Ông Trời” của người Việt": https://www.sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=276] Ca-tô Rô-ma Giáo đã nổi tiếng là “đạo chích“, chuyên đi ăn cắp những thứ trong các nền văn hóa khác rồi nhập nhằng biến đổi chúng thành của mình. Charlie Nguyễn viết: Ông Trời trong tâm thức của người Việt nam luôn luôn chân chất hồn nhiên và rất hiền hòa, hòan tòan trái ngược với Thiên Chúa trong Kinh thánh Cựu ước là một ác thần hay đúng hơn là một ác quỷ. Khi thấy người dân Việt nam hay nói đến Trời, các mục sư Tin lành và các tu sĩ Công giáo mừng khấp khởi như bắt được vàng. Các vị này đã hết sức trổ tài hùng biện để chứng minh rằng: Mỗi khi người Việt nam kêu “Trời ơi!” chính là lúc họ kêu cứu một đấng Thiên Chúa đang làm chủ trên vòm trời xanh! Họ trí trá ca ngợi cái kho tàng bốn ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt nam có một giá trị cao quí nhất là niềm tin vào ông Trời. Các mục sư Tin lành và các linh mục Công giáo truyền đạo ra sức gò ép ý niệm Ông Trời Việt nam vào ý niệm Thiên Chúa của đạo Kitô. Đây là một thủ đoạn gian trá nhằm vào mục đích xiềng xích trí tuệ chất phác của người dân quê Việt nam vào những cái khung cứng ngắc của niềm tin giả tạo vào Thiên Chúa của họ. Luận cứ “Mọi sự đều có nguyên nhân“ đã bị các học giả bác bỏ từ lâu rồi. Vì, nếu ''Mọi sự đều có nguyên nhân“ và Mệnh đề khẳng định này là một trong bảy nguyên tắc căn bản của lý trí con người, thì lý trí con người cho rằng cái gọi là Đấng Tự Hữu mà không cần đến nguyên nhân là một mâu thuẫn không thể giải quyết nồi. Đối với những người tin mà không suy nghĩ thì đó không phải là vấn đề, vì họ có thể tin bất cứ điều gì, dù vô lý hay nhảm nhí tới đâu. Nhưng đối với những người có lý trí thì đây là vấn đề cần phải giải quyết. Thật vậy, nếu chúng ta chấp nhận là có một cái gì tự hữu thì tại sao cái đó phải là Đấng Tự Hữu của Ki Tô Giáo mà không thể là một cái gì khác, thí dụ như “Thái Cực“ của Lão Giáo, hay theo khoa học, đơn giản hơn chỉ là một Dị Điểm (singularity), nguồn gốc của vũ trụ và sự sống của chúng ta trên thế giới ngày nay, hay phức tạp hơn, vũ trụ chỉ là “tổng số toàn phần của các “năng lượng - không”” (sum total of zero energy). Các danh từ “Đấng“ hay “Ngài“ thường để nói về con người, cho nên những danh xưng như “Đấng Hằng Hữu“, “Đấng Tự Hữu“, “Đấng Vô Hạn“ hay “Ngài là Ông Trời“ đều hoàn toàn vô nghĩa. Người Ca-tô toàn viết lên những điều mê sảng, viết mà không hiểu mình viết cái gì. Thật ra, Đấng tự hữu mà Phan Văn Phước muốn nói đến chỉ là Gót của Ki Tô Giáo, một trong số hàng trăm Gót trên thế giới. Và Gót trong Ki Tô Giáo chỉ là một vị Thần của dân tộc Do Thái cổ xưa. Mặt khác, người Ca-Tô hiểu rằng Trời là trụ xứ của Gót như được mô tả trong Thánh Kinh, nghĩa là ở trên các tầng mây một chút, vì vậy họ thường ngẩng mặt cầu nguyện "Lạy Cha chúng tôi ở trên Trời". Cũng vì vậy mà họ hi vọng là đến ngày phán xét họ được lên một cái "nhà ở trên trời", nơi Chúa ngự, mà họ gọi là "Thiên đường", đường tiếng Hán có nghĩa là cái nhà. Quan niệm Trời như được mô tả trong Thánh Kinh như là một cái vòm cứng chứa nước trên đó đã tan vỡ ra thành từng mảng trước những khám phá của khoa học về vũ trụ. Khi con người bắt đầu ý thức được rằng, qua những khám phá của Copernicus và Galileo, chẳng có vòm Trời nào để cho "Chúa Trời" ngự trên đó mà phán xét, thưởng phạt con người, thì những nhà bảo vệ tín lý Ki Tô Giáo bèn thay đổi chỗ ở của "Chúa Trời", sửa lại là "Chúa Trời" không ở "trên đó" (up there) mà ở "ngoài đó" (out there), hàm ý ở khắp mọi nơi, hi vọng sự thay đổi này sẽ làm cho con người tin vào "Chúa Trời" hơn. “Trên đó” là quan niệm về một “Ông già ở trên trời” (An old man in the sky), còn “ngoài đó” là quan niệm về một “Gót của các nhà thần học theo truyền thống” (the God of the traditional theologians). Quan niệm “Gót ở ngoài đó” là do Thomas Aquinas đặt ra trong thế kỷ 13. Quan niệm này thịnh hành trong Ca-tô Rô-ma giáo cho tới thế kỷ 20 và gieo niềm sợ hãi không ít cho tín đồ vì làm gì cũng sợ Gót biết, cho nên có chuyện một “sơ” luôn luôn tắm với quần áo vì sợ Chúa nhìn thấy chỗ kín của mình mà mang tội với Chúa. Mea Culpa. Nhưng, với một vũ trụ được cả thế giới, kể cả Tòa Thánh Vatican, công nhận là vô biên, thiên hà Andromeda gần giải ngân hà của chúng ta nhất cũng cách xa chúng ta khoảng 2 triệu năm ánh sáng, và vũ trụ gồm cả tỷ thiên hà như vậy, có thiên hà cách xa chúng ta cả 13 tỷ năm ánh sáng, mỗi năm ánh sáng là một khoảng cách vào khoảng 9460800000000 cây số (9 ngàn 4 trăm 60 tỷ 8 trăm triệu), thì "Chúa Trời" ngự ở đâu? Cả "trên đó" và "ngoài đó" đều không có ý nghĩa. Do đó Giám mục Anh Giáo John Robinson đã coi những quan niệm về một Gót ở trên đó hay ở ngoài đó đều phải bỏ, vì nó không còn thích ứng hay liên hệ gì tới những nhu cầu của con người hiện đại ngày nay (Bishop John Robinson believes that the God “up there” as “the old man in the sky” and the God “out there” as “the God of the traditional theologians” become irrelevant to the needs of modern people). Chưa kể là thay đổi từ "trên đó" thành "ngoài đó" hàm ý bác bỏ một điều tin trong Kinh Tin Kính: "Sau khi chết Chúa Con sống lại đeo hỏa tiễn bay lên trời ngự bên hữu Chúa Cha". Thực ra, như được viết rõ trong cuốn Thánh Kinh, Gót của Ki Tô Giáo chỉ là Gót của dân tộc Do Thái, tuyệt đối không có liên quan gì đến các dân tộc khác trên thế giới. Ki Tô Giáo, bành trướng ở Âu Châu bằng bạo tàn, cưỡng bách v..v.. và sau đó bành trướng trên thế giới song song với chính sách thực dân của Tây phương có ưu thế về vũ khí, cho nên đã reo rắc vào đầu óc của những người vốn không có đầu óc, niềm tin là Gót của người Do Thái chính là Gót của cả nhân loại, dựa theo huyền thoại “Sáng Thế” trong Cựu Ước và cho Gót là “Cha chung của nhân loại”. (SH -Bức hình thiên văn trên đây mô phỏng kích thước tương đối của vũ trụ, cho ta thấy thái dương hệ của chúng ta (You are here) chỉ là một chấm nhỏ nằm trong dãy Ngân Hà, và dãi Ngân hà cũng chỉ là một chấm nhỏ của vũ trụ mà khoa học ngày nay có thể hiểu được.) Ảnh https://www.curtismenning.com/ZeroEnergyCalc.htm Nhưng khoa học tiến tới đâu thì "Chúa Trời" lui tới đó, và hiện nay "Chúa Trời" đã bị đẩy ra khỏi "vòm Trời" tưởng tượng của những người viết Thánh Kinh. Những khoảng trống trong khoa học (gaps) mà người ta thường nhét Gót vào trong đó càng ngày càng thu hẹp trước những khám phá của khoa học để lấp những khoảng trống và ngày nay Gót chỉ còn nương tựa vào ảo tưởng (The God Delusion) trong những đầu óc nhỏ hẹp của những người có đầu mà không có óc. Phan Văn Phước viết trong đoạn sau đây là “Thiên Chúa là Đấng ''phi thời gian, phi không gian'', điều này có nghĩa là Thiên Chúa nằm ngoài vũ trụ rộng 13.7 tỷ năm ánh sáng của chúng ta, vì quan niệm về thời gian và không gian là quan niệm của con người chỉ có sau vụ nổ Big Bang. Một Thiên Chúa không nằm trong quan niệm về thời gian và không gian của con người thì đó chỉ là một cái gì vô hình (invisible), không ai biết được (unknowable), không ai hiểu được (incomprehensible), 3 trong 23 thuộc tính mà Ca-tô Rô-ma Giáo mô tả Gót của họ. Ca-tô Rô-ma Giáo dạy về Gót của họ như vậy, nhưng con người lại cứ hay nói mê sảng về Gót như Gót thế này, Gót thế nọ, Gót toàn năng, toàn trí, toàn nhân, Gót là Tình Yêu v...v.. Toàn là những lời đoán mò. Thời buổi này mà Phan Văn Phước còn tin vào chuyện Gót của ông ta làm việc trong sáu ngày để sáng tạo ra mọi loài hữu hình và vô hình, và ngụy biện một cách mê sảng về công cuộc sáng tạo của Gót như sau: Chữ ''Chúa Nhật, Chủ Nhật'' là ngày mà ai cũng mong chờ để nghỉ ngơi vì, theo Sách Khởi Nguyên, vào ngày này, Thiên Chúa ngưng công việc Ngài làm. (Ngài ''làm việc'' trong sáu ngày là cách ''ấn định'' thời gian cho phù hợp theo suy nghĩ hữu hạn của con người. Thiên Chúa là Đấng ''phi thời gian, phi không gian'' vì Ngài là Tác Giả của chúng.). Toàn là những điều tin nhảm tin nhí một cách mù quáng và cũng chẳng ăn nhằm gì tới ý nghĩa hay nguồn gốc của chữ “Công giáo“. Thứ nhất, theo luật của Gót thì ai làm việc ngày Sa-bát phải xử tội chết, vì đó là ngày, theo Phan Văn Phước, Gót ngưng công việc Ngài làm, nên ai cũng phải ngừng theo, Nhưng ngày nay đâu có ai theo cái luật này cùng bao nhiêu luật ác ôn khác của Gót đâu, và cũng chẳng có ai mong chờ ngày chủ nhật để nghỉ ngơi mà để làm việc nhà hay du hí, chơi thể thao, không kể những người phải đi làm ngày chủ nhật. Điều này chứng tỏ Gót của Ki Tô Giáo, nếu có cái gọi là Gót mà không ai biết (unknowable), vô hình (invisible), không ai hiểu được (incomprehensible), chẳng có quyền năng gì đối với con người. Thế nào là ''ấn định'' thời gian cho phù hợp theo suy nghĩ hữu hạn của con người, tại sao ông không viết thẳng ra là “ngày của Gót khi sáng tạo không phải là ngày thế gian“ như một số người ngụy biện để mê hoặc tín đồ là chuyện Sáng Thế có thể tin được. Họ ngụy biện vì Thánh Kinh viết rõ là ngày của Thiên Chúa là ngày 24 giờ, có buổi chiều và buổi sáng. Có ban ngày và ban đêm là tùy thuộc vị trí tương đối của mặt trời đối một vùng nào đó trên trái đất. Nhưng vấn đề là đến ngày thứ tư Gót mới “sáng tạo“ ra mặt trời và mặt trăng trong cùng một ngày, cách đây khoảng 6000 năm, không hề biết là mặt trời đã có trước đây cả 5 tỷ năm, rồi 500 triệu năm sau trái đất nguyên thủy mới từ đó văng ra, và rồi mặt trăng là vệ tinh của trái đất. Thánh Kinh viết láo, phi khoa học như vậy, thế mà những kẻ ngu đạo cuồng tín còn cứ cố ngụy biện nọ kia để biện minh cho những điều láo lếu trong Thánh Kinh. Chúng ta hãy đọc Sáng Thế 1: 3-6: “Rồi Gót nói (ai ở đó mà nghe Gót nói, Thánh Kinh viết khi nào và Thiên Chúa Sáng Tạo khi nào) Hãy có ánh sáng và liền có ánh sáng. Và Gót nhìn thấy ánh sáng, thật là tốt; và Gót chia ánh sáng ra từ bóng tối. Gót gọi ánh sáng là ngày, và bóng tối là đêm. Vậy buổi chiều tối và buổi sáng là ngày thứ nhất“. [KJV Genesis 1: 3-6: Then God said, “Let there be light“; and there was light. And God saw the light, that it was good; and God divided the light from the darkness. God called the light Day, and the darkness He called Night. So the evening and the morning were the first day.] Thánh Kinh tiếng Việt dịch gian “divided“ là “phân biệt“, và buổi chiều và buổi sáng là “ngày và đêm qua đi“ một cách mơ hồ để tùy tiện diễn giải về ngày và đêm của Gót. Hiển nhiên là những người viết Cựu Ước cách đây khoảng 4500 năm không hề có ý niệm gì về những điều phản khoa học trong trình tự sáng tạo của Thiên Chúa, trước sau lẫn lộn. Bóng tối là không có ánh sáng chứ không thể chia ánh sáng ra từ bóng tối được. Mặt khác, ánh sáng chưa chắc đã là ngày, và bóng tối chưa chắc đã là đêm. Có thể Gót đã nghĩ trước đến cái công tắc điện. Vào một phòng tối mò, đó là đêm, bật công tắc điện liền có ánh sáng và đó là ngày, theo định nghĩa về ánh sáng và bóng tối của Thiên Chúa. Hơn nữa hai chương Sáng Thế 1 và 2 hoàn toàn khác nhau và cùng là lời mạc khải của Gót cả. Giải quyết làm sao đây, thôi thì cứ nhắm mắt mà tin, tin nhảm tin nhí cũng có ai đánh thuế đâu mà sợ. Nếu Phan Văn Phước tin rằng Đấng ấy là ''Tác Giả, Nguyên Lý, Nguồn Gốc'' của mọi loài hữu hình và vô hình thì chúng ta hãy thử nhìn vào thế giới mà chúng ta đang sống, khoan nói đến cả vũ trụ. Chúng ta hãy bỏ qua những luật của Gót, trong đó có rất nhiều luật ác ôn mà Giê-su khẳng định ông ta sinh ra đời để hoàn thành, mà ngày nay chẳng có ai tuân hành, kể cả những người Ki-tô Giáo, nhất là luật nghỉ ngày Sa-bát mà chỉ nhìn vào những vật sáng tạo của Gót. Chúng ta thấy gì? Có gì tốt đẹp ở đây mà ca tụng? Hãy bỏ qua vũ trụ rộng lớn khoảng 13.7 tỷ năm ánh sáng mà nhiều khoa học gia đã tìm hiểu, chỉ nhìn vào trái đất mà chúng ta đang sống trên đó, chúng ta có thể đánh giá một cách khá chính xác những thứ mà Gót cho là rất tốt đẹp, nhất là loài người, được Gót tin là sẽ tái tạo đạo đức sau cơn Hồng Thủy. Trước hết, trên trái đất có những sa mạc nóng như thiêu đốt, những miền băng giá lạnh buốt, những rừng rú đầy ác thú và chướng khí, những vùng sình lầy đầy cá sấu v..v.. mà không có ai có thể sống một cách tự nhiên, thoải mái trong các vùng đó. Rồi thì có những con ác thú, rắn rết, bọ cạp, ruồi muỗi, và hàng triệu loại sâu bọ khác nhau. Mục đích sáng tạo ra một thế giới như vậy để làm gì, hiển nhiên không phải là để giúp con người mà là hại con người. Có gì hay ho trong công trình sáng tạo dỏm này mà phải ca ngợi.? Thứ đến, thiên tai đầy rẫy: cháy rừng, núi lửa, động đất, bão tố, cuồng phong, sóng thần, hạn hán, lụt lội, nạn đói v..v.. Rồi thì biết bao chứng bệnh hiểm nghèo điển hình là bệnh hủi, ung thư, AIDS v..v.. và sau cùng, có những đứa bé sinh ra là quái thai, mù, điếc, bị những khuyết tật, dị tật bẩm sinh v..v.. Tất cả những sự “xấu” như trên đã tàn phá không ít đời sống của con người, tác phẩm ưng ý nhất của Thượng đế. Phan Văn Phước hãy đọc nhận định sau đây của James A. Haught và nói cho chúng tôi biết có thực sự là ông đã biết về Đấng Hằng Hữu, tác giả của mọi thứ trên đời không. Qua luận lý, chúng ta có thể thấy quan niệm của giáo hội về một Gót ở trên trời với lòng “quá thương yêu thế gian” không đứng vững. Nếu có một đấng thần linh sáng tạo ra mọi thứ hiện hữu thì ông ta đã làm ra ung thư vú cho phái nữ, bệnh hoại huyết cho trẻ con, bệnh cùi, bệnh AIDS, bệnh mất trí nhớ (Alzheimer), và hội chứng Down (khuyết tật tinh thần). Ông ta ra lệnh cho những con cáo cắn xé nát những con thỏ ra từng mảnh, những con báo giết những hươu nai. Không có một con người nào độc ác đến độ hoạch định những sự khủng khiếp như vậy. Nếu một đấng siêu nhiên làm như vậy, ông ta là một con quỷ, không phải là một người cha nhất mực nhân từ. [Haught, James A., 2000 Years of Disbelief: Famous People with the Courage to Doubt, p. 324: Through logic, you can see that the church concept of an all-loving heavenly creator doesn't hold water. If a divine Maker fashioned everything that exists, he designed breast cancer for women, childhood leukemia, leprosy, AIDs, Alzheimer's disease, and Down's syndrome. He madated foxes to rip rabbits apart and cheetahs to slaughter fawns. No human would be cruel enough to plan such horrors. If a supernatural being did so, he's a monster, not an all-merciful father.] Những người như Phan Văn Phước đã bị nhồi sọ, hoặc do truyền thống gia đình từ đời trước sang đời sau, cho nên tin vào một Đấng Tự Hữu trong khi thực ra cũng chẳng biết Đấng Tự Hữu là cái quái gì. Bề trên bảo có Đấng Tự Hữu thì tin là có Đấng Tự Hữu chứ đâu có dùng đầu óc để mà suy nghĩ về Đấng Tự Hữu là như thế nào. Cho nên Đấng Tự Hữu chỉ có ở trong đầu những người tin mà không hiểu, tin mà không biết. Do đó, Tiến sĩ Madalyn O’Hair, chủ tịch hội những người không tin God ở Mỹ, có đưa ra một nhận định: “Thật ra, đây là những gì mà người Ki-tô Giáo làm: chẳng thờ phụng cái gì cả. Một vật không ai nhìn thấy, không ai biết, không ai nghe thấy, không đáp ứng được gì (những lời cầu nguyện) mà các người gọi là Gót và cầu khẩn hàng ngày mà không hề có một đáp ứng nào. Chẳng có cái gì cả - nhưng các người thờ phụng cái đó. Chẳng có gì nghe được các người – nhưng các người vẫn nói lên những tiếng nói truyền thông với cái đó. Chẳng có gì đáp ứng – nhưng các người vẫn nghe thấy một thông điệp nào đó trong hư không. Chẳng có gì đã từng xảy ra – nhưng các người vẫn lý luận rằng có một cái gì đó xảy ra ở đâu đó, có thể ở trong trái tim của con người. Đây là một canh bạc kỳ dị mà các người chơi.” (In fact, this is what the Christian does: worships nothing. An unseen, unknown, unhearing, unresponding entity which you call god is supplicated by you daily with no response. Nothing is there – but you worship it. Nothing hears you – but you address communication to it. Nothing responds – but you hear some message in the void. Nothing ever happens – but you rationalize that “something” occur somewhere, perhaps in one’s heart. It is an incredible game that you play.) Đây cũng chính là những bức xúc mà bà THÁNH Teresa đã thú nhận trong một bức thư gửi cho một “bề trên” mới được phổ biến gần đây [cầu nguyện không có đáp ứng, tìm không thấy v..v…]. Đừng có nói là bà Teresa không đủ đức tin. Thật ra, những người Ki-tô không chỉ thờ phụng một ông Gót không ai nhìn thấy, không ai biết, không ai nghe thấy, không đáp ứng được gì, mà còn thờ phụng một ông Gót đã có những hành động khủng khiếp đối với nhân loại, những hành động mà trong thế giới văn minh tiến bộ ngày nay không ai có thể chấp nhận. Đây là Đấng Tự Hữu của Phan Văn Phước ở trong Thánh Kinh: Không cần phải bàn cãi gì nữa, Gót trong Cựu Ước là nhân vật xấu xa đáng ghét nhất trong mọi chuyện giả tưởng: ghen tuông đố kỵ và hãnh diện vì thế; một kẻ nhỏ nhen lặt vặt, bất công, có tính đồng bóng tự cho là có quyền năng và bất khoan dung; một kẻ hay trả thù; một kẻ khát máu diệt dân tộc khác; một kẻ ghét phái nữ, sợ đồng giống luyến ái, kỳ thị chủng tộc, giết hại trẻ con, chủ trương diệt chủng, dạy cha mẹ giết con cái, độc hại như bệnh dịch, có bệnh tâm thần hoang tưởng về quyền lực, của cải, và toàn năng [megalomaniacal], thích thú trong sự đau đớn và những trò tàn ác, bạo dâm [sadomasochistic], là kẻ hiếp đáp ác ôn thất thường. [Richard Dawkins, “The God Delusion”, p.51: The God of the Old Testament is arguably the most unpleasant character in all fiction: jealous and proud of it; a petty, unjust, unforgiving control-freak; a vindictive, bloodthirsty ethnic cleanser; a misogynistic, homophobic, racist, infanticidal, genocidal, filicidal, pestilential, megalomaniacal, sadomasochistic, capriciously malevolent bully.] Linh mục dòng Tên G.H. Joyce cũng đã đặt vấn đề trong cuốn Principles of Natural Theology như sau: Sự hiện hữu của những sự “xấu, ác” trong thế giới muôn đời cũng vẫn là vấn nạn lớn nhất trong những vấn nạn mà đầu óc con người gặp phải khi suy tư về Gót và sự liên hệ của ông ta đối với thế giới. Nếu thật sự là ông ta “toàn thiện” và “toàn năng”, làm sao lại có những sự “xấu” ở chỗ nào trên cái thế giới mà ông ta đã tạo ra? Khi nào thì những sự “xấu” tới? Tại sao chúng có mặt ở đây? Nếu ông ta “toàn thiện”, tại sao ông ta để cho chúng xảy ra? Nếu “toàn năng” tại sao ông ta không giải thoát chúng ta khỏi những sự “xấu, ác”? Trong cấp vật chất cũng như tinh thần, có vẻ như sự sáng tạo đã thất bại trầm trọng khiến chúng ta khó có thể hiểu được là làm sao mà tất cả là từ Gót mà ra? (Peter A. Angeles, p. 204: The existence of evil in the world must at all times be the greatest of all problems which the mind encounters when it reflects on God and His relation to the world. If He is, indeed, all-good and all-powerful, how has evil any place in the world which He has made? Whence came it? Why is it here? If He is all-good why did He allow it to arise? If all-powerful why does He not deliver us from the burden? Alike in the physical and moral order creation seems so grievously marred that we find it hard to understand how it can derive in its entirely from God?) Đọc Phan Văn Phước chúng ta thấy thời buổi này mà ông ta còn tin vào những điều không thể tin được trong Thánh Kinh. Mục đích của ông ta cũng chỉ muốn đánh đồng Ông Trời của Việt Nam với Gót của Ca-tô Rô-ma Giáo. Nhưng những lý luận của ông ta cho thấy ông ta chẳng hiểu gì về Gót, mà cũng chẳng hiểu gì về Ông Trời của người Việt Nam. Xảo thuật của ông ta là trong mỗi đoạn ông ta viết lăng nhăng về những câu người Việt thường nói về ông Trời, rồi gài vào đó một câu lạc lõng trong Thánh Kinh chẳng có liên hệ gì đến những quan niệm về ông Trời của người Việt Nam, phản ánh đức tin nhảm nhí của ông ta. Thí dụ, Phan Văn Phước viết: Nhưng cũng có người tỏ bày tâm sự mà dám than van: ''Trời sao, Trời ở không cân? Kẻ ăn không hết, người mần / lần không ra!'' Ngược lại, cũng có người tin vào luật ''nhân-quả'' trên cõi tạm này: ''Ở hiền thì Trời chúc phúc! Ở ác thì Trời phạt!'' Xét cho cùng, suy nghĩ này lại phù hợp với ''Hiến Chương Nước Trời về sau'' trong Kinh Thánh (Phước thật tám mối): ''Thứ sáu: Ai giữ lòng sạch sẽ ấy là phước thật, vì chưng sẽ đặng thấy mặt Đức Chúa Trời vậy.'' Cũng vẫn lại lạc đề. Tại sao lại không dám than van trách Trời. Trời ở đây chỉ là cái nghiệp của con người. Đố ông Phước dám than van trách Gót của ông là bất công, hay dám lên án Gót là ác ôn tàn bạo như đã viết rõ trong Thánh Kinh. Tại sao lại là cõi tạm. Người Ca-tô được dạy để coi cuộc đời này là tạm bợ, và hàng ngày cầu nguyện: "Xin Chúa làm cho tôi khinh dễ sự đời là chốn muông chim cầm thú, xin làm cho tôi đặng về quê thật hiệp làm một cùng vua David." (Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm, trg. 73: Trích dẫn từ Kinh Nhựt Khóa của Công Giáo), vua của người Do Thái, trong khi họ chẳng biết David thực sự là con người như thế nào vì họ không bao giờ đọc Thánh Kinh. Tại sao họ lại cầu nguyện để về quê thật (sic) hiệp làm một cùng vua David vì David chẳng qua chỉ là một tên tướng cướp, chuyên dẫn thuộc hạ đi bắt địa người giàu, sau lên làm vua thì gian dâm vô độ, mưu giết thuộc hạ để cướp vợ. Họ được bề trên dạy cầu nguyện như vậy thì cứ nhắm mắt mà cầu vì chính bề trên của họ cũng lại mù mờ như họ, được bề trên của họ dạy sao thì làm vậy. Thật là tội nghiệp, quá mê muội đi. Nhưng tôi muốn hỏi ông Phước: - Được thấy mặt Đức Chúa Trời để làm gì, mặt mũi ông ta như thế nào mà cần thấy. Hơn nữa, thật ra Đức Chúa Trời có đáng để con người gặp mặt không? Nếu gặp mặt một Đức Chúa Trời mà bản chất chỉ là một con quỷ ác ôn như James A. Haugh nhận định ở trên (he is a monster) và có tới 16 thuộc tính như Richard Dawkins nêu ở trên thì thà đừng gặp còn hơn. Bởi vì lòng sạch sẽ sẽ trở thành nhơ bẩn nếu gặp ông ta và tiêm nhiễm những tính nết của ông ta. Người đời thường mong muốn được tiếp cận với Thánh nhân để học hỏi những điều hay, đạo đức chứ có ai muốn đến gần một ác quỷ tàn bạo. Chỉ có những người có đức tin mù quáng mới tin một ác quỷ là một thần linh thánh thiện. Mặt khác, nếu ông Phước đọc cả Phước Thật Tám Mối thì ông phải biết là Nước Trời, trên đó có thể thấy mặt Gót, chỉ để cho những kẻ “yếu kém tinh thần” (poor in spirit), hay đang than khóc (those who mourn). Phan Văn Phước viết: Còn Cụ Nguyễn Du thì cho rằng Ông Trời rất công bằng: ''Ngẫm hay muôn sự tại trời - Trời kia đã bắt làm người có thân – Bắt phong trần phải phong trần – Cho thanh cao mới được phần thanh cao – Có đâu thiên vị người nào – Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai''! Vậy thì, theo Cụ, phải chăng đó là ''Công Đạo''? Cụ Trần Tế Xương buồn đời, làm thơ trào phúng: ''Bắc thang lên hỏi ông trời nhẽ – Trêu ghẹo người ta thế nữa thôi?'' Hàn Mặc Tử thì biết được chữ tình do đâu: ''...Như đón từ xa một ý thơ – Ai hãy làm thinh, chớ nói nhiều – Để nghe dưới đáy nước hồ reo – Để nghe tơ liễu rung trong gió – Và để xem Trời giải nghĩa yêu!'' như Lời Thánh Vịnh, 27,10: ''Dù cha-mẹ bỏ tôi, Chúa vẫn tiếp rước tôi.'', như Thánh Hiền dạy: ''Thiên nhân tương dữ.'' (Trời và người giao hảo.) Cũng vẫn lại lạc đề, chẳng dính líu gì đến “Công Giáo”. Phan Văn Phước gài câu Thánh Vịnh vào đây để làm gì? Câu Thánh Vịnh phản ánh sự mê muội của đức tin, tất cả đều trông cậy vào Chúa, và chẳng liên hệ gì đến những phần trên, trong đó có điều gì giống Thánh Vịnh hay không. Nhưng Thánh Vịnh là gì? Lẽ dĩ nhiên ông Phước không biết rõ, chỉ trích ra một câu mà ông tin vào Chúa. Thánh vịnh là những bài than vãn xin xỏ Chúa cùng ca tụng Chúa của David, như trên đã nói, một tên tướng cướp sau lên làm vua thì gian dâm vô độ, mưu giết thuộc hạ để cướp vợ. Theo tác giả Judith Hayes trong cuốn “The Happy Heretic”, trang 131, thì “Thánh Vịnh là một bài kêu van dài với những lời rên rỉ, cằn nhằn, vò đầu bứt tai, loạn thần kinh. Có 150 bài, bài nào cũng buồn chán như bài nào. “Chúa ơi, đừng bỏ tôi, hãy nghe tôi than khóc, hãy thương xót tôi, xin đừng quên tôi, đừng quay mặt đi đối với tôi v..v… liên miên bất tận (This one long, whining, grousing, hand-wringing, neurotic harangue. There are 150 chapters, each as depressing as the next. “O Lord, rebuke me not” and Hear me cry, show me mercy, forget me not, don’t turn away from me…and so on…It never stops) Đọc Thánh Vịnh chúng ta thấy phần lớn đều như vậy cả. Ngay câu Thánh vịnh ông Phước dẫn ở trên cũng chứng tỏ là ông ta loạn thần kinh rồi. Vì có loạn thần kinh mới mơ tưởng một điều không bao giờ có thể thực hiện được. Hơn nữa ông Phan Văn Phước dịch bậy, Psalm 27: 10 như sau: “When my father and mother forsake me, Then the Lord will take care of me”. “Take care” không phải là “tiếp rước” mà chỉ là sẽ săn sóc như bố mẹ. Ông Phước thử nói với bố mẹ hãy bỏ rơi ông, đừng ngó ngàng gì tới ông nữa, xem Chúa có tiếp rước ông không, và tiếp rước đi đâu. Đây là một thí nghiệm rất dễ làm. Còn nhiều chỗ ông Phước dịch sai Thánh Kinh nữa, thí dụ như “fulfill” ông ta dịch là “trọn hảo” trong khi nghĩa của fulfill là thực hiện hay hoàn thành. Giê-su nói là ông ta xuống trần để thực hiện hay hoàn thành những luật ác ôn của cha ông ta, một chấm một nét cũng không thể thay đổi. Thánh Kinh tiếng Việt cũng dịch fulfill láo như ông Phước là kiện toàn. Cả hai đều có ý quảng cáo cho Giê-su là sẽ làm cho luật của cha cho tốt đẹp hơn. Đó là sự gian xảo của những người Ki Tô Việt Nam cố ý dịch sai Thánh Kinh. Chúng ta hãy đọc tiếp Phan Văn Phước: Khắp năm châu, ''thiên'' hạ đều ngẫm nghĩ về thành công hay thất bại của mình là do ở ''thiên'' thượng như sau: ''Mưu sự tại nhân; thành sự tại thiên. - Tính việc tại người; nên việc ở trời.'' Vẫn chưa thấy dính líu gì đến “Công giáo“. Thiên hạ là những ai ở đây. Thành công hay thất bại tùy thuộc sự cố gắng của con người, tùy thuộc hoàn cảnh may mắn hay tính toán sai lầm. Ông Phước lấy câu của Tây phương khi xưa, trong thời mà mọi người ở Âu Châu được nhồi vào đầu là cái gì cũng do Chúa định: “L’homme propose, Dieu dispose“ nhưng lại không biết đến câu của Á Đông “Xưa nay nhân định thắng Thiên cũng nhiều“, có nghĩa là con người nhiều khi có thể không đếm xỉa gì đến (override) những gì Trời, hay Chúa của ông Phước, định. Nước Cha Trị Đến: Một Jerusalem Mới Chúng ta hãy đọc đoạn sau của Phan Văn Phước trong đó ông ta lại gài vào một câu của Giáo hoàng Biển Đức làm như đó là chân lý mà không biết rằng đó chỉ là một câu bịp của Giáo hoàng đối với các tín đồ không có mấy đầu óc và không biết gì về lịch sử Do Thái: Phải chăng quý Thầy, quý Sư Cô, quý Ông Bà và Anh-Chị-Em Phật Tử cũng quan niệm rằng Đức Phật là ''Vĩ Nhân, Đại Thánh'', là ''Thiên Bửu Bối'' mà Trời ban qua Thân-Sinh của Ngài Thích Ca? Giáo Hoàng Biển-Đức dạy thêm thế này: ''Nước Cha trị đến cũng là khi mọi Tôn Giáo đều nhìn nhận có Đấng Tối Cao...!'' Cũng vẫn chưa có gì nói về ý nghĩa và nguồn gốc chữ “Công giáo“. Trước hết, Đức Phật còn hơn là một vĩ nhân hay Đại Thánh, vì một trong 10 danh hiệu người đời tôn vinh đức Phật là “Thiên Nhân Sư“, nghĩa là bậc Thầy của các Thiên Chúa và người. Giáo Hoàng Biển Đức bịp những con chiên như Phan Văn Phước, vì Nước Cha Trị Đến được dịch từ “The coming of Kingdom of God“ Nhưng nguyên nghĩa của The coming of Kingdom of God chỉ là mong ước của người Do Thái, và Nước Cha Trị đến có nghĩa là sự khôi phục lại vương quốc Do Thái với một ông Vua David mới (The coming signified the restoration of the Jewish Kingdom under a new David). Theo Giám Mục James A. Pike trong cuốn Một Thời Để Cho Sự Ngay Thẳng Của Ki Tô Giáo [A Time For Christian Candor], trang 109:
[Jesus’ world-view was that of His time. The concept of the Kingdom of God which He stressed was that introduced into Judaism in the fifth century B.C., under Zoroastrian influence] Điều này có nghĩa là, quan niệm về một “Nước Cha Trị" không phải là của Giê-su mà là Giê-su chỉ lập lại một quan niệm cổ xưa của dân tộc Do Thái, một dân tộc có quá nhiều bất hạnh trong suốt giòng lịch sử cho nên luôn luôn khát vọng một quốc gia độc lập, tràn đầy sữa và mật như các Rabbi Do Thái đã từng hứa hẹn với dân Do Thái như vậy để an ủi những bất hạnh dân Do Thái đang gánh chịu, và dạy họ rằng hãy giữ vững niềm tin vào Gót của họ thì một ngày nào đó Gót sẽ đoái thương và cho họ được hưởng một cuộc sống trong “Nước Cha Trị’ dưới sự cai quản của chính Gót của họ. Đây là một niềm tin nguyên thủy, đặc thù của dân tộc Do Thái, không liên quan gì đến bất cứ dân tộc nào khác. Nhưng khi Ki Tô Giáo bành trướng trên thế giới thì họ đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về một “Nước Cha Trị” chung cho mọi người, nhưng không ngoài điều kiện là phải tin vào Gót và phải làm theo ý Gót, thực sự chỉ là ý của giáo hội, vì chẳng có ai biết được ý Gót là như thế nào. Người Do Thái đang ở trong vòng nô lệ của chính quyền La Mã, cho nên họ hi vọng có một đấng cứu tinh dân tộc họ, làm cho Do Thái trở lại hùng mạnh như trong thời Vua David, và quan niệm về một Kingdom of God chẳng qua chỉ là một Jerusalem mới, trong đó tràn đầy sữa, mật, và ở dưới quyền cai quản trực tiếp của Gót (Cha trị). Giê-su là người Do Thái nên cũng tin như vậy và trong ba năm lang thang truyền đạo mê tín thường khuyên người dân hãy thống hối vì “Nước Cha Trị Đến“ sắp tới (The kingdom of God is at hand). Sở dĩ như vậy vì các thầy tu Do Thái giảng rằng, vì Do Thái tội lỗi nên Gót bắt chịu cảnh nô lệ La Mã, nếu ăn năn thống hối thì Gót sẽ thương xót và khôi phục lại vương quốc của Gót ở Jerusalem. Học giả Hermann Samuel Reimarus đã nhận định: Tất cả những điều rao giảng của Giê-su có thể nhận ra rõ ràng. Chúng nằm trong hai câu có ý nghĩa y hệt nhau: “Hãy thống hối, và tin vào Phúc Âm” hoặc, ở một nơi khác “Hãy thống hối, vì Nước Trời sắp tới” (What belongs to the preaching of Jesus is clearly recognized. It is contained in two phrases of identical meaning, “Repent, and believe the Gospel,” or, as it is put elsewhere, “Repent, for the Kingdom of Heaven is at hand”). Nước Cha trị đến chỉ là cái bánh vẽ trên trời, theo Mục sư Ernie Bringas = A-pie-in-the-sky, cho nên không bao giờ có thể có vì không làm gì có chuyện mọi Tôn Giáo đều nhìn nhận có Đấng Tối Cao , nhất là Đấng Tối Cao này lại là Gót của Ki Tô Giáo. Thánh Kinh không có chỗ nào nói đến mọi tôn giáo, cho nên Biển Đức cũng ăn nói hàm hồ về một ảo tưởng của ông ta. Thực ra trong Thánh Kinh có nói đến mọi quốc gia chứ không phải là mọi tôn giáo, và mọi quốc gia trong Thánh Kinh chẳng qua chỉ là những nước trong miền Trung Đông, hay đúng hơn chỉ là 12 bộ lạc Do Thái, không có cả dân Gentiles ở đó. Giáo hội Ca-tô thường diễn giải lắt léo Thánh Kinh để cho phù hợp với sách lược bành trướng của Giáo hội trên thế giới. Ngày nay, cả Âu Châu và nhiều nơi trên thế giới đã loại Đấng Tối Cao ra khỏi đầu óc con người, ít ra là đối với giới hiểu biết, chỉ những kẻ còn tiếp tục u mê mới giữ Đấng Tối Cao trong đầu. Ông Phước không nghe Giáo hoàng Biển Đức của ông than hay sao: Theo những tin tức trên báo chí trên thế giới và cả trên tờ thông tin chính thức của Vatican, tờ L’Osservatore Romano, vào những ngày 27, 28 tháng 7, 2005, thì Benedict XVI đã lên tiếng phàn nàn như sau: “Những tôn giáo chủ đạo ở Tây Phương [Ki Tô Giáo] có vẻ đang chết dần vì các xã hội càng ngày càng trở nên thế tục và không còn cần đến Thiên Chúa nữa. [ROME (Reuters, July 27, 2005) - Mainstream churches in the West appear to be dying as societies that are increasingly secular see less need for God, Pope Benedict said in comments published on Wednesday.] Cũng theo tin hãng Reuters ở Rome thì trong tờ báo hàng ngày L’osservatore Romano của Vatican, Giáo hoàng Benedict XVI đã phải đau lòng mà chấp nhận một sự thực: “Thật là khác lạ trong thế giới Tây Phương, một thế giới mệt nhọc với chính văn hoá của mình, một thế giới mà con người càng ngày càng tỏ ra không cần đến Gót, mà cũng chẳng cần gì đến Giêsu nữa. Những Giáo Hội gọi là 'truyền thống' xem ra như đang chết dần.” [It is different in the Western world, a world which is tired of its own culture, a world which is at the point where there’s no longer evidence for a need of God, even less of Christ," he told a meeting of clergy in the Italian Alps. "The so-called traditional churches look like they are dying," he said, according to a text published by Vatican daily L’osservatore Romano.] Còn nữa, trong một hội nghị đặc biệt vào năm 1999, các giám mục Âu Châu tuyên bố rằng các dân tộc trong toàn lục địa Âu Châu đã quyết định sống “như là Gót không hề hiện hữu” (nghĩa là sống như là “vô thần”) [At a special synod in 1999, the bishops of Europe declared that the peoples of the entire continent had decided to live “as though God did not exist”.] Những sự kiện trên chứng tỏ rằng niềm tin vào một “Đấng Tối Cao Vô Hình” của ông Phan Văn Phước nó lạc hậu và lỗi thời đến độ nào, trong khi các bề trên của ông ta ngay ở trong Vatican cũng đã nhận ra sự suy thoái thê thảm của Ca-tô Rô-ma Giáo, cho nên vẫn u mê quảng cáo cho một “Đấng Tối Cao..” Tại sao vậy? Điều này chứng tỏ các tín đồ Ca-tô Việt Nam đúng như nhận định của Robert G. Ingersoll cách đây hơn một thế kỷ (1870): “Tại sao Ca-tô Giáo sống dai, vì đám quần chúng tín đồ thì ngu muội, và những linh mục thì xảo quyệt” [Robert G. Ingersoll, in 1870: Why Catholicism dies hard, because the people are stupid, and the priests are cunning]. Hơn một thế kỷ sau, S.T. Joshi cũng đưa ra một nhận định tương tự: “Câu hỏi chính không phải là tại sao tôn giáo (tác giả muốn nói đến Do Thái Giáo, Hồi Giáo và Ki Tô Giáo) không chết đi mà là tại sao nó còn tiếp tục tồn tại trước hàng núi những bằng chứng trái ngược [với những gì viết trong Thánh Kinh và những gì các tôn giáo trên rao truyền]. Đối với tôi, câu trả lời có thể thâu tóm trong một câu thẳng thắn: quần chúng tín đồ thì ngu muội” [S.T. Joshi, God’s Defenders: What They Believe and Why They Are Wrong, Prometheus Books, New York, 2003, p. 12: The dominant question thus becomes not why religion has not died away but why it continues to persist in the face of monumental evidence to the contrary. To my mind, the answer can be summed up in one straightforward sentence: People are stupid.] Ông Phan Văn Phước Giảng Tiếng Latin Chúng ta thấy, ông Phan Văn Phước không làm gì hơn là cố gắng quảng cáo cho những sự mê muội của ông ta. Tôi chẳng muốn bàn thêm về chuyện ông ta ngụy biện cho từ “Công Giáo“ như sau: Tóm lại, chữ ''Công Giáo'' dịch sát nghĩa của chữ ''Catholique'' (3), gốc Hy-lạp là ''katholikos'', đồng nghĩa với ''universel: phổ biến, phổ thông, cho mọi người, cho toàn thế giới'' như chủ nghĩa ''Đại Đồng: Tứ Hải Giai Huynh-Đệ! Universalisme!'' Tiếp đầu ngữ ''uni'' có nghĩa là ''một''; chữ ''versel'' do gốc Latinh ''versus'' (4) là quá khứ phân từ của động từ ''vertere'' có nghĩa là ''quay quanh''. Như vậy, chữ ''universel'' có nghĩa rõ ràng là ''quay về một mối'' chính là Ông Trời theo quan niệm của dân gian như đã trình bày. Việc làm của người đời, dù tốt hay xấu, được khen, bị chê, cũng gọi là ''công, công cộng, đại đồng'', huống chi là Giáo Hội do Chúa lập nên để đem tình thương của Ngài đến cho đồng loại! Chữ ''Công Giáo'', nếu hiểu theo cách khác, còn có nghĩa là ''Đạo Công Bằng'' vì không có ''Công Bằng, Công Lý'' là không phải ''Bác Ái''! Đây là một kiểu ngụy biện méo mó, và càng ngụy biện vì mê muội càng tỏ ra cái dốt của mình. Khoan nói đến chuyện “universel“ chẳng có nghĩa nào là “Công“, chúng ta có thể thấy rõ sự mâu thuẫn trong hai khẳng định của ông Phước: ''universel: phổ biến, phổ thông, cho mọi người, cho toàn thế giới'' và chữ ''universel'' có nghĩa rõ ràng là ''quay về một mối''. Vì dốt và mê mẩn về Chúa nên ông Phan Văn Phước diễn giải láo “versus“ là “quay quanh“ hay “quay về một mối“, một mối của ông Phước chính là Chúa của ông ấy. Nhưng versus có nghĩa là “đối với“ theo nghĩa chống đối (against, theo tự điển, contre theo tiếng Pháp). Thí dụ, Tôn Giáo Đối Với Khoa Học (Religion Versus [thường viết tắt là Vs.] Science). “Uni“ có nghĩa là “một“, và “versel“ có nghĩa là chống đối với một, cho nên “universel“ mới có nghĩa là phổ quát. Hiểu biết méo mó như Phan Văn Phước mà đòi đi truyền đạo. Ông chỉ có thể truyền những điều lắt léo này cho đám con chiên ngu ngơ mà thôi. Công giáo là ''Đạo Công Bằng'' là ''Bác Ái''? Ông có mơ ngủ không vậy. Công giáo đã giết bao nhiêu người ngoại đạo? Tại sao Giáo hoàng John Paul II cùng bộ tham mưu của ông ta phải xưng thú 7 núi tội ác của Công giáo đối với nhân loại. Thật là tội nghiệp, những tín đồ Ca-tô như ông Phan Văn Phước đều thuộc loạn thần kinh cả. Sau đây chúng ta hãy đi vào vài đoạn truyền đạo thuộc thời Trung Cổ của ông Phan Văn Phước về những điều mê tín trong Ca-tô Rô-ma Giáo mà chính Vatican đã từ bỏ nhưng vẫn duy trì trong sách lược truyền đạo mê hoặc tín đồ. Thiên Chúa đã hứa ban Ơn Cứu Chuộc cho loài người sau khi tổ tông của loài người, Adam và Eva, sa ngã... Chúa Giê-su xuống thế sau khi Đức Phật sinh ra là điều quá hiển nhiên như nhiều người vẫn nói: ''Phật Thích Ca sinh ra trước Chúa!'' Nhưng tôi xin thêm chữ ''Cứu Thế'' sau chữ ''Chúa'' vì Ngài xuống thế (sinh ra làm người) sau Đức Phật, vì ''hứa'' và ''thực hiện lời hứa'' là hai thời điểm xa nhau! LỜI là Giê-su vì Ngài đã phán dạy cho người Do Thái biết Ngài là Đấng Hằng Hữu, lại còn khẳng định như sau: "Trước khi có Abraham thì đã có Ta!" Đạo Thờ Chúa Trời bắt đầu từ khi có con người, chứ không phải cách đây chỉ hơn hai ngàn năm mà thôi! Chúa Giê-su không hủy bỏ Đạo này như Lời Ngài Phán: ''Đừng tưởng rằng Ta đến để phá Lề Luật, nhưng mà để làm cho Lề Luật nên trọn hảo.'' Chúa Giê-su lập nên Giáo Hội với mục đích là mời mọi người vào trong đó là ''Đàn Chiên cùng một Chủ Chăn'' như Lời Ngài phán: ''Vậy các con hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, thanh tẩy họ nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần...'' (Mathêô 28,19) Qua đoạn trên chúng ta thấy Phan Văn Phước, ngoài sự mê sảng về những luận điệu thần học của Ki Tô Giáo về Giê-su, còn diễn giải Thánh Kinh rất lắt léo. Ngoài ra chúng ta còn thấy, Phan Văn Phước, cũng như nhiều tín đố Ca-tô khác, có vẻ như chỉ nghiền ngẫm những gì mình tin chứ không hề biết gì đến thế giới bên ngoài hay ngay cả những diễn biến đức tin Ca-tô trong nội bộ Ca-tô Rô-ma Giáo và ngay cả ở Vatican. Chứng minh? Trước hết, tại sao những tín đồ Ca-tô như Phan Văn Phước lại không biết là cả hai Giáo hoàng John Paul II và Benedict XVI đều đã công nhận thuyết Big Bang là nguồn gốc của vũ trụ và thuyết Tiến Hóa là nguồn gốc của loài người. Giáo hoàng John Paul II nói với các khoa học gia, trong đó có Stephen Hawking, được mời đến Vatican để dạy cho các bề trên trong giáo hội về vũ trụ học, “Cứ tự nhiên nghiên cứu về những gì xẩy ra sau Big Bang” và vớt vát mặt mũi cho Gót của ông ta bằng một câu vô nghĩa: “Nhưng đừng tìm hiểu những gì xẩy ra ngay lúc Big Bang vì đó là tác phẩm của Gót”. Còn Benedict thì phán “Gót (God) tạo ra Big Bang, không phải khoa học. Đầu óc, ý nghĩ của Gót là ở đàng sau những lý thuyết khoa học phức tạp như là Big Bang,” Toàn là những lời ngu đạo nghiện đạo chứ không phải là hiểu biết về khoa học Big Bang là hiện tượng nổ bùng của một dị điểm (singularity) vô cùng đặc, vô cùng nóng, nguồn gốc của vũ trụ ngày nay, và đã xảy ra cách đây khoảng 13.7 tỷ năm chứ không phải là chỉ có từ 6000-10000 năm do sự “sáng tạo” (sic) của Gót của Ki Tô Giáo như được viết trong Kinh Thánh, được coi như những lời không thể sai lầm của Gót. Sau Big Bang khoảng 8 tỷ năm mới có mặt trời và sau đó, cách đây khoảng 4.5 tỷ năm mới có trái đất là một hành tinh quay xung quanh mặt trời, rồi sau đó mới có mặt trăng là một vệ tinh của trái đất. Vậy điều mà ông Phan Văn Phước viết ở trên: Thiên Chúa đã hứa ban Ơn Cứu Chuộc cho loài người sau khi tổ tông của loài người, Adam và Eva, sa ngã...chỉ là những niềm tin mù quáng vào chuyện sáng thế và tôi tổ tông mà thiên hạ đã vứt bỏ ra khỏi đầu óc con người từ lâu, kể cả Giáo hoàng của ông Phước. Thật vậy, Giáo hoàng John Paul II đã nhận định từ năm 1996: Thân xác con người có thể không phải là sự sáng tạo tức thời của Gót, mà là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần... Những kiến thức mới nhất dẫn đến việc phải chấp nhận Thuyết Tiến Hóa hơn chỉ là một giả thuyết. (The human body may not have been the immediate creation of God, but is the product of a gradual process of evolution...Fresh knowledge leads to recognition of the theory of evolution as more than just a hypothesis). https://www.nytimes.com/1996/10/25/world/pope-bolsters-church-s-support-for-scientific-view-of-evolution.html Và còn nữa, tháng 7, 1999, Giáo Hoàng John Paul II, trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, đã phải thú nhận là "không làm gì có thiên đường trên các tầng mây" (Heaven is not a physical place above the clouds) và “Hỏa ngục không phải là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế" (Hell is not a punishment imposed externally by God). Công nhận thuyết Big Bang, thuyết Tiến Hóa, phủ nhận sự hiện hữu của một thiên đường trên trời, nghĩa là không có chỗ nào để cho ông Phan Văn Phước được Chúa “tiếp rước” hay “thấy mặt Đức Chúa Trời”, và một hỏa ngục trong lòng đất, nghĩa là không có chỗ nào để những người không tin Chúa bị đầy xuống để cho ngọn lửa vĩnh hằng thiêu đốt, trên thực tế giáo hoàng đã phủ nhận tất cả thuyết sáng tạo, tội tổ tông, vai trò cứu rỗi và luận phạt của Chúa, một sự hứa hẹn thuộc một đời sau do đó không ai có thể kiểm chứng, và một sự đe dọa cùng loại, hoang đường, nhưng giáo hội vẫn tiếp tục dùng cho tới ngày nay để nhốt tín đồ vào trong vòng mê tín. Đa số tín đồ Ca-Tô không biết đến những thú nhận của Vatican như trên. Những thuộc hạ xảo quyệt của giáo hoàng giải thích: che dấu sự thực là điều cần thiết để giữ đức tin của tín đồ, để cho niềm tin của họ khỏi bị chao đảo. Người ngoài giáo hội thì cho đó là hành động bất lương trí thức (intellectual dishonesty), vì giáo hội đã biết là không làm gì có tội tổ tông, không làm gì có thiên đường hay hỏa ngục, mà vẫn dụ tín đồ bằng cái bánh vẽ cứu rỗi, và hù dọa họ bằng một hỏa ngục giả tưởng. Bởi vậy cho nên Mục sư Ernie Bringas mới gọi cái bánh “cứu rỗi” này là “một cái bánh vẽ trên trời” (A-pie-in-the-sky). Tôi tự hỏi, có bao nhiêu tín đồ Ki-tô, Ca-tô Rô-ma giáo cũng như Tin Lành, biết đến những thay đổi trong nội bộ các giáo hội Ki-tô về căn bản tín ngưỡng trong Ki-tô Giáo, biết đến những sự kiện lịch sử này, và biết đến những quan niệm sai lầm bắt nguồn từ Kinh Thánh? Tôi nghĩ đa số tín đồ Ca-tô Việt Nam, kể cả các bậc trí thức, chưa bao giờ nghe đến những lời tuyên bố trước thế giới của giáo hoàng John Paul II, hoặc có nghe đến nhưng vì “đức tin” thâm căn cố rễ đã ăn sâu trong đầu, nên Giáo hoàng nói thì mặc Giáo hoàng, ta tin thì cứ tin. Tôi cũng nghĩ tuyệt đại đa số tín đồ Ki-tô chưa từng đọc đến Kinh Thánh và lẽ dĩ nhiên không có một kiến thức nào, dù là tối thiểu, về những tiến bộ của khoa học và đầu óc con người trên thế giới. Và lẽ dĩ nhiên, các tín đồ cũng chưa bao giờ được nghe các linh mục, mục sư cho biết những điều này trong nhà thờ, dù có thể chính họ cũng đã biết nhưng vẫn dấu kín trước đám tín đồ thấp kém ở dưới để giữ đức tin của tín đồ không bị chao đảo. Ông Phan Văn Phước còn gian xảo viết bậy là Đạo Thờ Chúa Trời bắt đầu từ khi có con người, chứ không phải cách đây chỉ hơn hai ngàn năm mà thôi! Chúa Giê-su không hủy bỏ Đạo này như Lời Ngài Phán: ''Đừng tưởng rằng Ta đến để phá Lề Luật, nhưng mà để làm cho Lề Luật nên trọn hảo.'' Câu Giê-su nói là trong Matthew 5: 17-18, chẳng liên quan gì đến cái đạo thờ Chúa Trời ông Phước bịa ra và diễn giải láo từ một câu trong Tân Ước: Các ngươi đừng tưởng ta đến để phá luật [của Cha ta] hoặc các lời tiên tri [trong Cựu Ước]; ta đến không phải để phá, mà để thực hiện. Vì ta nói thật cùng các ngươi, cho đến khi trời đất không còn nữa, một chấm một nét cũng không được ra ngoài luật cho đến khi tất cả đều được thực hiện. [Do not think that I came to destroy the Law or the Prophets. I did not come to destroy but to fulfill. For assuredly, I say to you, till heaven and earth pass away, one jot or one tittle will be by no means pass from the law till all is fulfilled] Những luật của Cha Giê-su trong Cựu Ước là những luật như thế nào? Có bao nhiêu tín đồ Ki Tô Giáo biết rằng trong Cựu Ước, Cha của Giê-su ta đã nhiều lần ra lệnh hay đích thân giết người tập thể (mass killing) vô số người vô tội: đàn ông, đàn bà, trẻ con, [con số lên đến hàng nhiều triệu] và hủy diệt nhà cửa, thị trấn, và các tôn giáo khác [How many Christians know that in the Old Testament, there are many examples of their God ordering or personally murdered innocent men, women, and children, along with the destruction of buildings, cities, and other religions?]. Đọc Cựu Ước chúng ta thấy Cha của Giê-su đã ra nhiều luật rất buồn cười và quái gở. Thí dụ như trong trại lính, quân sĩ đi cầu phải chôn phân vì “Ngài” không muốn nhìn thấy hay hít hà những đống phân đó khi Ngài đi dạo trong trại. Ngài chưa bao giờ tưởng tượng được là con người lại tiến bộ đến độ phát minh ra cái cầu tiêu máy, giật đến xòe một cái là xong chuyện. Ngài cũng còn kỳ thị nam nữ một cách quái gở như về phụ nữ sinh xong bao nhiêu ngày sau thì sạch, sinh con trai thì 7 ngày và phải thanh tẩy trong 33 ngày tiếp theo trước khi được bước vào nhà thờ, nhưng sinh con gái thì là 14 ngày và phải thanh tẩy trong 66 ngày v… v…. 66 ngày không được buớc vào nhà thờ thì mấy ông linh mục và mục sư hơi phiền, vì cái rỏ đưa ra để hứng tiền thiếu mất một phần. Nhưng cũng may là chẳng có ai buồn theo những luật này của Cha Giê-su mà Giê-su khẳng định không được thay đổi một chấm, một nét cho đến ngày tận thế. Sau đây là vài luật điển hình của cha Giê-su mà Giê-su phải thực hiện: Luật đầu tiên của Cha Giê-su trong 10 điều răn trong Cựu Ước, là “Ngươi không được thờ thần nào khác ngoài ta”. Và để củng cố cái luật này, Cha của Giê-su còn ra lệnh trong Phục truyền 13: 6-10: Nếu anh em ngươi, con trai hay con gái ngươi, vợ ngươi hay bạn ngươi, khuyến dụ ngươi đi thờ các thần khác, thần của các nước lân bang hay xa xôi.., thì ngươi phải giết nó đi, trước hết là đích thân tay ngươi phải ném đá để cho nó chết, rồi sau mới đến tay của dân chúng. [Nếu luật này cũng được áp dụng đối với các tôn giáo khác thì mọi nhà truyền giáo Ki Tô, từ Alexandre de Rhodes cho tới Puginier v..v…, và các nhà truyền đạo Tin Lành trên thế giới đều phải bị ném đá cho chết đi hay là cho lên ghế điện thời nay. Nhưng mừng cho các nhà truyền giáo Ki Tô, chẳng có đạo nào ở Á Đông lại ác ôn như đạo Thiên Chúa. Vì thế nên đạo Thiên Chúa mới có thể xâm nhập vô sự vào các quốc gia khác, và các thừa sai mới có thể huyễn hoặc đầu óc người dân ngu bằng những chuyện hoang đường phi lý. Điều này chứng tỏ các tôn giáo ở Á Đông vượt xa Thiên Chúa Giáo về đạo đức tôn giáo.] Sau đây là một luật ác ôn khác của Gót Cha mà Gót con phải thực hiện: Deuteronomy 12: 2-3: Phàm nơi nào những dân tộc, mà các người sẽ tước quyền, đã thờ các thần của chúng nó, hoặc trên núi cao, hoặc trên đồi, hoặc dưới bóng cây xanh, thì các ngươi phải phải hủy sạch đi. Và các ngươi phải phá hủy bàn thờ của chúng, triệt hạ những cây trụ thiêng liêng của chúng, và thiêu những pho tượng gỗ của chúng; các ngươi phải chặt những hình tượng đã được khắc lên của các thần và xóa bỏ tên các thần ở nơi đó. (You shall utterly destroy all the places where the nations which you shall dispossess served their gods, on the high mountains and on the hills and under every green tree. And you shall destroy their altars, break their sacred pillars, and burn their wooden images with fire; you shall cut down the carved images of their gods and destroy their names from that place) Lịch sử Ca-tô Giáo ở Việt Nam cho thấy khi xưa, trong thời thực dân Pháp xâm chiếm nước nhà, những đoàn giáo dân dựa thế Pháp đi phá hủy các đền đài miếu mạo của dân gian và của Phật Giáo cũng chỉ vì được dạy phải tuân theo những luật ác ôn này của Gót. Sự mê tín vì ngu dốt của tín đồ Ca-tô Giáo ở Việt Nam đã tác hại trên xã hôi như thế nào, và ngày nay họ vẫng tiếp tục mê tín trong những màn cầu nguyện hiệp thông với búa, kìm và xà beng mà chẳng đạt được kết quả nào. Dù vậy họ vẫn không tỉnh ngộ và tiếp tục sống trong cảnh ngu dốt, cuồng tín tôn giáo. Đây chính là một hiểm họa cho đất nước về lâu về dài. Lịch sử Việt Nam cận đại cho thấy các tín đồ Công Giáo cũng đã phần nào theo những luật ác ôn này. Thật vậy, trong cuốn The Vietnam Response to French Intervention, 1862-1874 của Mark W. McLeod, chúng ta có thể đọc được những đoạn sau đây: Trang 45: khi nghe tin thành Saigon thất thủ, những tín đồ Công giáo Việt Nam ở miền Nam đã lợi dụng tình thế để khủng bố người "lương" hay "tốt" (nghĩa là, người phi- Công giáo) và đi làm "tay sai và mật thám cho Tây Dương " Trang 114: Sự phân tích những hành động này cho thấy, trong những cuộc tấn công vào những cứ điểm của chính quyền Việt Nam, quân đội Pháp đã nhận được một mức độ hỗ trợ rất đáng kể từ những thừa sai và những tín đồ Công giáo Việt Nam. Hơn nữa, những phương pháp mà các sĩ quan Pháp và những cộng tác viên Công giáo dùng tuyệt đối không thể coi là có đạo đức cao theo những tiêu chuẩn đương thời của ngay chính họ, vì những phái bộ truyền giáo Công giáo đã dùng sức lao động (của tín đồ Công giáo bản xứ; TCN), tài nguyên, và tin tức tình báo, đổi lấy hậu thuẫn của Pháp để thực hiện sự tàn sát liên miên người "lương", mạo phạm những công trình xây dựng của Phật Giáo, thiêu hủy những làng mạc phi- Công giáo, và cướp bóc những thành phố của nhà Vua. Sự cộng tác với chủ nghĩa đế quốc Pháp của những tín đồ Gia Tô thường không được các sử gia nhận biết đầy đủ, nhưng đó chính là một yếu tố đáng kể góp phần thắng lợi cho Pháp ở Bắc Kỳ." Và thêm một luật nữa của Cha Giê-su ban cho Saul: I Samuel 15:3: Bây giờ hãy tấn công Amalek, và hủy sạch tất cả mọi thứ mà chúng có, và giết sạch đừng chừa một ai. Hãy giết cả đàn ông, đàn bà, trẻ nít và trẻ sơ sinh, trâu cừu, lạc đà và lừa. (Now go and attack Amalek, and utterly destroy all that they have, and do not spare them. But kill both man and woman, infant and nursing child, ox and sheep, camel and donkey.) Chẳng trách là con cái Chúa đã từng áp dụng luật lệ này khắp nơi bất cứ khi nào có thể, và Giê-su đã chẳng khẳng định là ông ta sinh ra ở thế gian để thực hiện các luật của Cha ông ta hay sao.. Nhưng ngày nay, trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại nên các giáo hội Ki Tô không còn có thể áp dụng những luật lệ ác ôn, tàn bạo, bất nhân của Thiên Chúa nữa. Ngày nay, con người muốn thờ thần nào thì thờ, muốn theo tôn giáo nào thì theo, ngoại trừ ở một số địa phương lạc hậu chậm tiến, và chính Gót cũng bất lực trước sự kiện này. Giáo Hội Ca-tô Rô-ma Do Chúa Lập Nên ? Ông Phan Văn Phước tin vào những lời lừa bịp của Giáo hội là Chúa thành lập Giáo Hội trao quyền cho Phê-rô và các Giáo hoàng đều là những người kế vị Phê-rô, nắm trong tay cái chìa khóa mở của thiên đường, và các Linh mục đều là Chúa Thứ Hai, có quyền hơn Chúa, vì trong “bí tích” xưng tội, các linh mục phán: “Cha tha tội cho con” chứ không phải là Chúa tha tội cho con. Tất cả chỉ là để tạo quyền lực cho giới chăn chiên, từ Chủ Chăn trở xuống, ngự trị trên đám con chiên mê muội. Ông Phước viết: Chúa Giê-su lập nên Giáo Hội với mục đích là mời mọi người vào trong đó là ''Đàn Chiên cùng một Chủ Chăn'' như Lời Ngài phán: ''Vậy các con hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, thanh tẩy họ nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần...'' (Mathêô 28,19) Viết như trên ông Phan Văn Phước tự chứng tỏ là ông ta không hề đọc kỹ Thánh Kinh và ông ta theo sách lược truyền đạo của Giáo hội, trích dẫn vụn vặt một câu chọn lựa trong Thánh Kinh để mê hoặc tín đồ, Nếu đã để tâm nghiên cứu về câu trên như nhiều học giả đã làm thì chúng ta thấy câu trên hoàn toàn mâu thuẫn với những gì Giê-su nói trong Tân ước và tin tưởng là ngày tận thế đã gần kề. Phần sau là để giải hoặc ông Phan Văn Phước nếu ông ta có đủ can đảm để chấp nhận sự thật. Nhưng tôi không mấy hi vọng vì kinh nghiệm cho thấy đầu óc những người Ca-tô Việt Nam thuộc loại hết thuốc chữa, họ chấp chặt tin vào những gì họ được nhồi vào đầu bất kể những điều đó vô lý tới đâu. Đó là “đức tin” trong Ca-tô Rô-ma Giáo mà các bề trên dạy đám con chiên ở dưới. Sau đây là phần phân tích vấn đề. Giáo hội Ca-Tô Rô-ma dạy tín đồ rằng: “Giáo hội Ca-Tô của họ là do Chúa Giê-su thành lập, truyền lại cho Tông Đồ Phê-Rô làm Giáo Hoàng, và rồi các Giáo Hoàng kế tiếp là những người kế vị Phê-rô, là đại diện của Chúa (Vicars of Christ) trên trần v..v…” Giáo hội dựa vào một câu trong Tân ước, Matthew 16: 18-19: “…Ngươi là Phê-rô, và trên phiến đá này ta sẽ xây dựng giáo hội của ta, dầu các cửa hỏa ngục cũng không chống lại được, Ta sẽ giao cho ngươi những chìa khóa nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất, thì cũng cầm buộc trên trời, còn sự gì con tháo cởi dưới đất thì cũng tháo cởi trên trời…” (… you are Peter, and on this rock I will build my church, and the gates of Hades shall not prevail against it. And I will give you the keys of the kingdom of heaven, and whatever you bind on earth will be bound in heaven, and whatever you loose on earth will be losed in heaven.) để tự đóng vai trò thừa kế Giê-su trong giáo hội do chính Giê-su lập ra. Gần đây, trong bức thư gửi các tín đồ Ca-Tô ở Trung Quốc, Giáo Hoàng Benedict XVI cũng khẳng định vai trò này như sau: “Tôi, trong tư cách Người Kế Vị Thánh Phêrô và là Mục Tử toàn thể Hội Thánh”. Nhưng sự thật có phải như vậy không? Sự thật là, ngày nay các học giả nghiên cứu Thánh Kinh đều cho rằng giáo điều Chúa Giê-su thành lập giáo hội, Phê-rô làm giáo hoàng đầu tiên, và các giáo hoàng tiếp theo đều là kế vị của Phê-rô v..v.. như trên chỉ là những luận điệu thần học ngụy tạo của Giáo hội, và Giáo Hoàng cũng như các “bề trên” trong Giáo hội đã dùng nó để nhốt các tín đồ, vốn không bao giờ đọc Thánh Kinh, vào một ngục tù tâm linh, vì cái bánh vẽ trên trời nên các tín đồ phải tin tất cả những gì giáo hội nói và được dạy phải tuyệt đối tuân phục các “bề trên” của họ, và các “bề trên” của họ cũng phải tuyệt đối tuân phục đại diện của Chúa trên trần, nghĩa là giáo hoàng. Hãy “quên mình trong vâng phục”, đó là lời dạy căn bản trong Ca Tô Giáo Rô-ma, và điều ngụy tạo trên để tạo thành cấu trúc quyền lực của giáo hội. Thật vậy, đối với các học giả nghiên cứu Thánh Kinh và đối với giới trí thức ở trong cũng như ở ngoài giáo hội thì câu trên ở trong Tân Ước rõ ràng là được thêm thắt sau này với mục đích thiết lập quyền lực tinh thần cũng như quyền lợi vật chất của giới lãnh đạo Ca-Tô trước đám đông tín đồ thấp kém ở dưới. Nghiên cứu kỹ Thánh Kinh, các chuyên gia đã vạch ra rằng câu trên hoàn toàn mâu thuẫn với nhiều đoạn trong Thánh Kinh, với tư tưởng của Giê-su, và nhất là không thích hợp với tư cách của Phê-rô. Chứng minh? Đọc Thánh kinh, chúng ta thấy rõ là Giê-su trong Tân Ước tin rằng mình sẽ trở lại trần gian trong một tương lai rất gần, ngay trong thời điểm mà một số người theo Giê-su còn sông. Thí dụ những đoạn sau đây đều được trích từ Thánh Kinh: Cựu Ước Và Tân Ước, Hội Quốc Tế xuất bản, 1994; và cuốn Holy Bible: The New King James Version, American Bible Society, New York, 1982: Matthew 16: 27-28: “Ta (Con của Người: Giê-su) sẽ trở lại với các thiên sứ trong vinh quang của Cha ta để thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm. Ta cho các ngươi biết: một vài người đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi nhìn thấy Con của Người (Giê-su) vào trong nước trời của hắn”. (For the Son of Man will come in the glory of His Father with His angels, and then He will reward each according to his works. Assuredly, I say to you, there are some standing here who shall not taste death till they see the Son of Man coming in his kingdom.) Matthew 24:34: “Ta quả quyết, thời đại này chưa chấm dứt, các biến cố ấy đã xảy ra rồi” (Assuredly, I say to you, this generation will by no means pass away till all these things are fulfilled) Mark 9: 1: Chúa bảo các môn đệ: “Ta cho các ngươi biết, một vài người đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi nhìn thấy nước trời thiết lập với uy quyền vĩ đại” (And He said to them, “Assuredly, I say to you that there are some standing here who will not taste death till they see the kingdom of God present with power.”) Mark 13:30: “Ta quả quyết, thế hệ này chưa qua đi thì các biến cố đó (các biến cố xung quanh ngày tận thế và sự trở lại của Giê-su. TCN) đã xảy ra rồi”. (Assuredly, I say to you, this generation will by no means pass away till all these things take place.) Luke 21: 27, 32: “Bấy giờ nhân loại sẽ thấy ta giáng xuống trong mây trời với vinh quang và uy quyền tuyệt đối.. Ta quả quyết: thế hệ này chưa qua, các biến cố ấy đã xảy ra rồi”. (Then they will see the Son of Man coming in a cloud with power and great glory.. Assuredly, I say to you, this generation will by no means pass away till all these things are fulfilled.) John 14: 3: “Ta đi chuẩn bị chỗ ở cho các ngươi. Khi chuẩn bị xong, ta sẽ trở lại đón các ngươi về với ta để các ngươi ở cùng ta mãi mãi.” (And if I go and prepare a place for you, I will come again and receive you to myself; that where I am, there you may be also). Qua những đoạn trích dẫn ở trên từ Tân Ước, chúng ta hãy tự hỏi: Giê-su thành lập giáo hội và trao chức vụ giáo hoàng chăn dắt tín đồ cho Phê-rô để làm gì khi mà ông ta tin rằng ngày tận thế gần kề, ngay trong thời của ông, khi một số môn đồ của ông còn sống? Không những Giê-su tin như vậy, mà còn truyền cho các Tông Đồ đi rao giảng về một “Nước trời” sắp đến, như được viết rõ trong Tân Ước. Nhưng không phải chỉ có các học giả mới nhận ra sự phi lý trong câu chuyện về Phê-rô, mà chính những nhà Thần học nổi danh trong giáo hội Ca-Tô cũng phải thừa nhận rằng thuyết Chúa thành lập giáo hội và trao quyền cho Phê-rô chỉ là ngụy tạo. Hans Kung, Giáo sư Thần học tại trường đại học nổi tiếng Tubingen ở Đức, cũng viết như sau: Con người Giê-su lịch sử, tin chắc rằng ngày tận thế phải xảy ra ngay khi ông còn đang sống. Và vì sự sắp tới của Nước Trời này, không còn nghi ngờ gì nữa là ông ta không muốn lập ra một cộng đồng đặc biệt khác với nước Do Thái, với giáo lý, nghi thức thờ cúng, định chế, cơ quan chỉ đạo riêng của Do Thái. Tất cả những điều trên có nghĩa là khi còn sống Giê-su không bao giờ sáng lập một giáo hội nào. Ông ta không hề có ý tưởng thành lập và tổ chức một hoạt động tôn giáo đại qui mô như được tạo ra về sau. [Một tôn giáo như Ca-Tô Giáo Rô-ma ngày nay]. (Kung, Hans, Christ Sein (1976), p.338-339: The historical Jesus.. counted on the world’s coming to an end in his own lifetime. And for this coming of God’s kingdom he doubtless did not want to found a special community distinct from Israel, with its own creed, its own cult, its own constitution, its own office…All this means that in his own lifetime Jesus never found any church. He had no idea of founding and organizing a large-scale religious operation that would have to be created…) Và Uta Ranke-Heinemann, nữ Giáo sư Thần học đầu tiên trong Giáo hội Ca-Tô, cũng viết: Giáo hội đã biến Giê-su thành một dụng cụ tuyên truyền. Vì lý do này mà chúng ta tin vào mọi điều biện minh cho sự thành lập một giáo hội như được thêm thắt vào những lời Giê-su nói bởi những tác giả các phúc âm. Sự thêm thắt này gồm có điều Giê-su ca tụng Phê-rô như một phiến đá làm nền tảng để Giê-su xây dựng giáo hội của ông ta (Matt. 16:18), vì Giê-su không bao giờ có ý thành lập một giáo hội… Ở đây, không phải là Giê-su nói, mà là giáo hội ban khai muốn tạo cho mình một địa vị lãnh đạo và một khuôn mặt quyền lực vì sự tăng trưởng của cấu trúc lãnh đạo theo cấp bậc. Trong chương 21, chương ngụy tạo trong phúc âm John – nghĩa là chương được thêm vào phúc âm chính sau này – ý tưởng về một vai phó đã được phát triển rõ ràng. Phê-rô trở thành kẻ chăn đàn chiên của Giê-su. Như là đại diện của Giê-su, người chăn chiên thực sự lúc đầu, hắn thay thế Giê-su trong nhiệm vụ này. Ngay sau đó, giáo hội nghĩ rằng điều quan trọng không phải là con người Phê-rô. Giáo hội quyết định rằng chức vụ của Phê-rô là nền tảng của Giáo hội, do chính Giê-su thiết lập vĩnh viễn. Với quan niệm này chúng ta có những giáo hoàng là kế thừa Phê-rô và là phụ tá của Giê-su, và chế độ giáo hoàng là nền tảng của giáo hội. (Uta Ranke-Heinemann, Putting Away Childish Things, Harper-Collins., San Francisco, 1995, p. 217: The Church has turned Jesus into its propagandist. For this reason we take everything that presupposes or dicusses or promotes the existence of a Church as interpolation by the authors of the Gospels into Jesus’ original sayings. That includes Jesus’ hailing Peter as the rock on which he will build his church (Matt. 16:18), since Jesus never meant to found a church… It’s not Jesus who’s speaking here; it’s the early church, which was interested in having such a leadership position and authority figure because of its growing hierarchical structure. In the inauthentic chapter 21 of John – that is, in a later addition to the actual gospel – the idea of a deputy is already clearly developed. Peter becomes the shepherd of the flock of Christ. He takes over the functions of Jesus, the former and actual shepherd, as his representative. Shortly afterward, the Church began to think that the important thing was not the person of Peter. The Church decided that the office Peter held was the bedrock foundation of the Church, and that Jesus established it permanently. With this concept we have the popes as Peter’s successors and Christ’s deputies, and the papacy as the foundation of the Church.) Một nhận định chính xác về thực chất Giáo hội Ca-Tô Rô-Ma là của Linh Mục Joseph McCabe. Linh mục Joseph McCabe là một học giả nổi tiếng về bộ sử 8 cuốn: A Complete Outline of History. Bộ sử này được dùng trong các đại học Mỹ trong nhiều thập niên. Nhưng nổi tiếng hơn cả là một bộ sách Thế Lực Đen Quốc Tế “The Black International” (Chỉ Ca Tô Giáo Rô-ma) gồm gần 20 cuốn sách mỏng, viết về mọi mặt của Ca Tô Giáo Rô-ma , trong đó tác phẩm dài nhất và đầy đủ về cấu trúc của chế độ Giáo hoàng, thực chất giới Linh Mục, học thuật Ca-tô (Catholic Scholarship), các lễ tiết, bí tích mê tín trong Ca-Tô Rô-ma Giáo v..v.. là cuốn Sự Thật Về Giáo Hội Ca-Tô Rô-ma (The Truth About The Catholic Church, Girard, KS; Haldeman Julius, 1942). Cuốn sách này gồm có hai phần: Phần đầu nói về Lịch sử Giáo Hội Rô-ma (The History Of The Roman Church), và Phần hai nói về Giáo Hội Ngày Nay (The Church Today). Ngay chương đầu, Linh mục Joseph McCabe viết:
“Trong tất cả những chuyện giả tưởng vẫn còn được ẩn núp dưới cái dù dột nát “Chân lý Ca Tô Giáo”, truyền thuyết về chế độ giáo hoàng được thành lập bởi Chúa và hệ thống giáo hoàng thật đúng là lì lợm và có tính cách lãng mạn nhất. Chẳng có quyền lực thần thánh nào, mà chỉ là một chuỗi những ngụy tạo và cưỡng bách, những lừa đảo tôn giáo và tham vọng ngỗ ngược, phạm phải trong một thời đại cực kỳ ngu si, đã dựng lên quyền lực của giáo hoàng, hệ thống giáo sĩ và tín ngưỡng. Từ “Giáo hội” chẳng có nghĩa gì trong thời của Giê-su và Phê-rô. Không có từ đó trong tiếng Aramic. Giê-su đã phải nói là “Giáo đường” [nơi tụ tập cầu nguyện của người Do Thái], và ông ta ghét những Giáo đường.” (Of all the fictions which still shelter from the storm of modern criticism under the leaky umbrella of “Catholic Truth”, the legend of the divine foundation of the Papacy and the Papal system is quite the boldest and most romantic. No divine force, but a pitifully human series of forgeries and coercions, of pious frauds and truculent ambitions, perpetrated in an age of deep ignorance, built up the Papal power, hierarchy and creed… The word “church” had no meaning at all in the days of Christ and Peter. There was no such word in Aramaic. Christ would have had to say “synagogue”; and he hated synagogues.) Ngoài ra, chúng ta cũng nên biết, Hội Nghiên Cứu Về Giê-su (The Jesus Seminar) gồm nhiều học giả thuộc mọi hệ phái Ki-tô, sau nhiều năm nghiên cứu, cũng đưa ra cùng một kết luận, nghĩa là, Giê-su không hề có ý định thành lập giáo hội cũng như không hề ủy quyền cho Phê-rô xây dựng giáo hội. Tất cả chỉ là những điều giáo hội Ca Tô bịa đặt để tạo quyền lực cho giáo hội mà thôi. Cũng vì những bằng chứng không thể chối cãi được ở ngay trong Thánh Kinh mà khi được hỏi rằng: “Giê-su có ý định thành lập một tôn giáo mới, tôn giáo mà ngày nay chúng ta gọi là Ki Tô Giáo, hay ít nhất là tạo ra một giáo hội Ki Tô tách biệt (ra khỏi Do Thái giáo. TCN) không?”(Did Jesus intend to found a new religion, the one we now call Christianity, or at least create a separate Christian church?), Linh mục John Dominic Crossan đã trả lời: “Câu trả lời cho câu hỏi đó là một chữ “KHÔNG” quyết định” (The answer to that is an emphatic NO). Từ những bằng chứng nghiên cứu Thánh Kinh của các học giả trong thế giới Tây Phương và của cả những nhà Thần học nổi danh trong Ca-Tô Rô-ma Giáo, chúng ta thấy rõ sự ngụy tạo ra tín điều “Chúa chọn Phê-rô là người thừa kế” chẳng qua chỉ là mánh mưu của Giáo hội Ca-Tô để tạo quyền lực trên đám tín đồ đầu óc yếu kém, cả tin, và không bao giờ đọc hay không đủ khả năng đọc Thánh Kinh . Lịch sử đã chứng tỏ Giáo hội Ca-Tô triệt để khai thác sự ngu dốt của quần chúng và cho đến ngày nay, vẫn duy trì sách lược giam giữ tín đồ trong sự ngu dốt, trong một ngục tù tâm linh, không dám cho tín đồ biết về những sự thực về Kinh Thánh cũng như về Ca-Tô Giáo, tuy rằng những sự thật này đã được phổ biến rộng rãi trên thế giới. Từ những kết quả nghiên cứu trên chúng ta không khỏi không thắc mắc: “Tại sao Giáo Hội Ca Tô Rô-ma tại Việt Nam phải lệ thuộc Vatican để đi vào con đường phản bội dân tộc như trong quá khứ?”. Chúa Giê-su không hề có trong một giáo hội ngụy tạo là Giáo hội Ca-Tô Rô-ma. Chúng tôi hi vọng có ai đó trong Giáo Hội có thể giải đáp cho chúng tôi thắc mắc này. Đây không phải là vấn đề thuộc nội bộ Giáo Hội Ca Tô Rô-ma tại Việt Nam, mà còn là một vấn đề liên hệ đến mọi khía cạnh của đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Tôn giáo là một bộ phận của quốc gia, nằm trong luật pháp quốc gia, không thể đứng ngoài hay đứng trên quốc gia với lý do tự do tôn giáo hay tự do tín ngưỡng, nhất là khi cái căn bản tín ngưỡng này lại được xây dựng trên một nền tảng không thực. Nhiệm Vụ Truyền Đạo Của Ca-tô Giáo Trên Thế Giới Ông Phan Văn Phước viết, Giê-su phán: ''Vậy các con hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, thanh tẩy họ nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần...''. Đây là câu trong Matthew 28: 19, 20, mà Giáo hội cho là lời của Giê-su dạy các môn đồ để viện cớ thi hành sách lược truyền đạo bằng bạo lực và cưỡng bách trên khắp thế giới. “Hãy đi đến mọi quốc gia để làm cho họ thành tín đồ của ta, làm lễ rửa tội họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, dạy cho họ biết phải vâng giữ mọi điều răn ta dạy các ngươi; và ta sẽ ở với các ngươi cho đến ngày tận cùng của thời đại” (Go therefore and make disciples of all the nations, baptizing them in the name of the Father and of the Son and of the Holy Spirit, teaching them to observe all things that I have commanded you; and lo, I am with you always, even to the end of the age.) Trước hết, chúng ta nên biết rằng câu trên trong Tân Ước không phải là câu Giê-su nói khi còn sống mà là khi đã chết rồi, và theo nền Thần học Ca-Tô, thì ông đã sống lại sau ba ngày ba đêm, nhưng thực ra chỉ có hơn một ngày và 2 đêm: từ 3 giờ chiều thứ Sáu đến sáng sớm Chủ Nhật và hiện ra trước các tông đồ, ra lệnh cho họ đi khắp thế giới truyền đạo, nếu chúng ta có thể tin được chuyện “sống lại” đầy tính cách hoang đường này. Ngày nay, ngoài đám tín đồ thấp kém, không còn ai, ở trong cũng như ở ngoài giáo hội, tin vào chuyện “sống lại” của một xác chết. Thứ đến, tất cả các chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh ngày nay đã cho rằng câu mà giáo hội đặt vào miệng Giê-su sau khi ông ta đã nằm yên dưới mồ là do chính giáo hội thêm thắt vào Tân Ước sau này để thực hiện âm mưu bành trướng đạo với mục đích chính yếu là tạo quyền lực trên đám dân ngu dốt và vơ vét của cải thế gian. Chúng ta chỉ cần nhìn vào tâm cảnh nô lệ Vatican của các tín đồ và tài sản của giáo hội trên khắp thế giới là thấy ngay nhận định như trên của các học giả không phải là vô căn cứ. Nguyên tiền bồi thường cho các nạn nhân tình dục của các Linh mục alias “Chúa thứ hai” đã lên tới 3 tỷ đô-la. Mặt khác lời dạy ở trên khi Giê-su đã chết hoàn toàn mâu thuẫn với những lời ông dạy tông đồ đi truyền đạo khi ông ta còn sống. Như trên chúng ta đã thấy, Tân Ước viết rõ rằng Giê-su tin rằng ngày tận thế sắp tới, và ông ta sẽ trở lại trần ngay trong thời đại của ông, khi một số người theo ông vẫn còn sống, vậy bảo các tông đồ đi truyền đạo trên thế giới để làm gì? Trong Thánh Kinh có nhiều điều trái ngược hẳn với tinh thần của câu giáo hội ngụy tạo, đặt vào miệng Giê-su khi ông ta đã chết. Nhưng các tín đồ, phần lớn ngu ngơ đâu có biết gì, Giáo hội dạy sao thì cứ tin như vậy, không thắc mắc, vì thắc mắc là nghi ngờ Chúa, là có tội phải xuống hỏa ngục, vì Giáo hoàng và các bề trên đều là đại diện của Chúa trên trần hay là Chúa thứ hai. Tín đồ Ki Tô Giáo nói chung tin rằng Thánh Kinh là những lời mạc khải không thể sai lầm của Gót, Gót Cha cũng như Gót Con. Thánh Kinh viết rằng trái đất phẳng và dẹt, đứng yên một chỗ, ở trên có một vòm trời bằng đồng thau v..v.. Vậy, ngay cả Gót Cha cũng không biết là quả đất tròn và cho đến thế kỷ thứ 4, Thánh Augustine, bậc Thánh của Ca-Tô Giáo được coi là ông tổ của nền Thần học về Đức Tin Ca-Tô, có trí tuệ siêu việt v..v.. cũng còn không quan niệm nổi một trái đất có hình cầu qua lời phát biểu: “Không thể nào có chuyện có người ở phía bên kia của trái đất, vì Thánh Kinh không ghi lại bất cứ một giống người nào như vậy trong các hậu duệ của Adam” (It is impossible there should be inhabitants on the opposite side of the earth, since no such race is recorded by Scripture among the descendants of Adam). Vậy, trước đó gần 400 năm, Gót Con (Giê-su) bảo các tông đồ đi đến “mọi quốc gia” thì đó là những quốc gia nào? Hiển nhiên đó không phải là những quốc gia ở phía bên kia của một trái đất hình cầu, mà chỉ là những quốc gia giới hạn trong tầm nhìn của Giê-su, nghĩa là không ra ngoài những quốc gia trong miền Trung Đông. Do đó Benedict đã nói bậy khi đổi các quốc gia đó thành “mọi tôn giáo”. Điều này thật là rõ ràng khi chúng ta đọc nhận định sau đây của giáo sư thần học Uta Ranke-Heinemann: Giê-su không hề có ý định thành lập một “giáo hội”, nhất lại là một “giáo hội phổ quát” trên khắp thế giới. Về một thí dụ chân thực về quan điểm của Giê-su, chúng ta hãy xét đoạn văn trong Thánh Kinh, Matthew 10: 5-6, nội dung đối ngược hẳn với nhiệm vụ truyền giáo trên thế giới: Mười hai tông đồ Giê-su phái đi để truyền đạo với lời dặn dò: “Không được đi đến nơi nào có dân Gentiles, và không được vào thành phố nào của dân Samaritan, mà chỉ đi đến những con dân Do Thái bị lạc” (nghĩa là chỉ đi rao truyền đạo Giê-su trong dân Do Thái mà thôi. Và câu tiếp theo trong Thánh Kinh, Matthew 10:7 là “Trong khi đi hãy rao truyền tin Nước Trời đã gần đến rồi”. Hai đoạn khác là trong Matthew 15:24: “Ta được phái xuống trần chỉ để cứu đàn chiên Do Thái bị lạc mà thôi”, và Matthew 10: 23: “Ta bảo đảm với các ngươi, các ngươi chưa đi hết các thành phố của Do Thái thì Con của Người (nghĩa là Ta: Giê-su) đã đến rồi”. Chính Giê-su – và ngày nay mọi nhà thần học đều biết vậy – tin rằng Nước Chúa sắp tới. Điều này đối ngược với nhiệm vụ truyền bá đạo một cách đại qui mô trên thế giới. [Uta Ranke-Heinemann, Ibid., p. 215: Jesus has no intention of founding a “church” and certainly not a “church universal.” For an authentic example of Jesus’ view, consider Matt 10:5-6, which expresses the exact opposite of a universal commission: “These twelve Jesus sent out, charging them, “Go nowhere among the Gentiles, and enter no town of the Samaritans, but go rather to the lost sheep of the house of Israel.” Two further authentic passages are Matt 15:24, “I was sent only to the lost sheep of the house of Israel,” and Matt. 10:23, “You will not have gone through all the towns of Israel, before the Son of Man comes.” …Jesus himself – and all theologians have by now acknowleged this – believed that the Kingdom of God would be coming soon. But that is the opposite of a world mission in the grand style.] Chúng ta cũng đã biết, trong Tân Ước, cả 4 Phúc Âm: Matthew 16: 27-28, 24:34; Mark 9:1, 13:30; Luke 21:27, 32; và John 14:3, đều viết rõ là Giê-su tin rằng Ngày Tận Thế đã sắp tới, và ông ta sẽ trở lại ngay khi một số tông đồ của ông còn sống, vậy ông ta không có lý do gì để mà sau khi chết lại nhỏm giậy truyền cho các tông đồ phải đi truyền đạo của ông ta trên khắp thế giới, tới nay đã 2000 năm rồi. Cho nên, sự bành trướng trên thế giới của đạo Giê-su chẳng qua chỉ là sự bành trướng của những tổ chức tôn giáo thế tục, buôn thần bán thánh, dùng nhân vật Giê-su để huyễn hoặc đầu óc của con người, tạo thế lực và của cải vật chất như lịch sử đã chứng tỏ. Giáo hội lừa dối tín đồ, dạy họ phải đi truyền đạo, một nhiệm vụ cao quý để loan báo Tin Mừng của Chúa, hứa hẹn với họ một cái bánh vẽ trên trời, và tín đồ, vì không đọc Thánh Kinh, và vì một niềm tin không cần biết không cần hiểu, nên nhắm mắt đi truyền đạo với tất cả những thủ đoạn bất lương mà lịch sử đã ghi rõ, mà không hề biết rằng đó chỉ là sách lược bành trướng của giáo hội trên thế giới, trái ngược hẳn với những gì Giê-su nói trong Thánh Kinh. Ông Phan Văn Phước thuộc loại tin mà không cần biết không cần hiểu, nên nhắm mắt đi truyền đạo, thực ra chẳng phải là đạo mà chỉ là một mớ những điều mê tín huyền hoặc, với tất cả những thủ đoạn gian xảo bất lương như dịch láo hay xuyên tạc Thánh Kinh như tôi chứng minh ở trên. Ông Phước mê mẩn vì Chúa mà không hề biết Chúa là người như thế nào nên viết huênh hoang là: Nhưng tôi xin thêm chữ ''Cứu Thế'' sau chữ ''Chúa'' vì Ngài xuống thế (sinh ra làm người)... Ông không biết rằng vai trò“Cứu Thế“ và „“Cứu Rỗi“ của Giê-su đã bị Vatican bỏ đi từ lâu trước thế giới chỉ còn duy trì chúng để mê hoặc đám con chiên thấp kém không có đầu óc. Không những thế , chúng ta hãy đọc vài tài liệu về những vai trò này của Giê-su do một số vị lãnh đạo Ki-tô Giáo nhận định. Trước hết là Giám Mục John Shelby Spong, Giám mục ở Newark, bang New Jersey, Hoa Kỳ, đã viết một bài nhan đề “Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ” (Jesus As Rescuer: An Image That Has To Go) trong chương 6, cuốn “Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Hay Chết” (Why Christianity Must Change or Die), xuất bản năm 1998, từ trang 83 đến trang 99 [Xin đọc: https://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN37.php ]. Giám mục Spong viết: Đôi khi, cái cây chết cần phải đào xới lên và vứt bỏ nó đi để lấy chỗ cho cây mới có cơ hội mọc lên. Đối với câu chuyện về Giê-su, hành động trên (đào xới lên và vứt bỏ) thật là tối cần thiết và cấp bách (vital and urgent). Không có bất cứ một hình ảnh nào dùng để giải thích về nhân vật Giê-su đáng được tồn tại. Hình ảnh hiển nhiên nhất để loại bỏ trong đầu óc tôi có lẽ cũng là cái hình ảnh cổ xưa nhất về mọi diễn giải về Giê-su. Đó là cái hình ảnh của Giê-su như là “đấng thần linh cứu thế” (the divine rescuer). Tại sao một Giám mục lại đề nghị phải dẹp bỏ vai trò “cứu thế” trong Ki Tô Giáo? Bởi vì, huyền thoại này được xây dựng từ huyền thoại “sáng thế” trong Cựu Ước, nhưng với kiến thức của nhân loại ngày nay về vũ trụ, nhân sinh, và ngay cả Vatican cũng phải chấp nhận thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ và thuyết Tiến Hóa về nguồn gốc con người, thì đọc chương “Sáng Thế” trong Thánh Kinh về con người do Gót tạo ra từ đất sét và con người cần đến sự “chuộc tội” và “cứu rỗi” của một anh Do Thái Giê-su qua huyền thoại Adam và Eve với “tội tổ tông”, không một người trí thức nào mà không phì cười vì những chuyện hoang đường, mâu thuẫn, phản khoa học, phi lý trí v..v.. trong đó. Điều lạ là ngày nay vẫn còn những người như Phan Văn Phước mang những chuyện tào lao như vậy ra để mà hi vọng truyền đạo. Ngoài ra, Linh Mục James Kavanaugh cũng viết một bài nhan đề Huyền Thoại Cứu Rỗi (The Salvation Myth) [Xin đọc: https://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN36.php] trong cuốn “Một Linh Mục Hiện Đại Nhìn Vào Cái Giáo Hội Đã Lỗi Thời Của Mình” (A Modern Priest Looks At His Outdated Church). Linh mục Kavanaugh nhận định: Huyền thoại “cứu rỗi” trong Tân Ước chỉ là một cách diễn đạt. Đó là một huyền thoại của thời bán khai, bản chất củ nó giống như những huyền thoại của các dân tộc bán khai ở khắp nơi, nhưng nó hoang đường và ác độc hơn hầu hết các huyền thoại khác (But it is more unbelievable and more cruel than most myths). Chúng ta thấy, một khi mà vai trò cứu thế của Giê-su đã bị dẹp bỏ, và quyền năng “cứu rỗi” của Giê-su chỉ là một ảo tưởng, thì từ Ki-tô (Christ) trở thành vô nghĩa. Người Do Thái không chấp nhận Giê-su là Messiah của họ, vậy không làm gì có cái gọi là Christ (Ki-tô). Cho nên, danh xưng Ki-tô Giáo không thích hợp vì không còn nghĩa của Christ, nghĩa là một Messiah, một vị cứu tinh của dân tộc Do Thái, khoan nói đến một đấng cứu thế (divine rescuer) cho cả nhân loại. Vậy mà ông Phan Văn Phước lại muốn thên hai chữ “Cứu Thế” vào cho Chúa của ông ta. Rõ ràng là người Ca-tô vẫn còn mê, chưa tỉnh. Tôi vẫn không hiểu là các tín đồ Ca-tô hi vọng ở cái gì trong Ca-tô Rô-ma Giáo. Đọc Tân Ước, chúng ta thấy là Giê-Su sẽ chỉ cứu dân Do Thái ra khỏi tội lỗi (Matthew 1: 21: for He will save His people from their sins) và sẽ ngự trị trên dân Do Thái đời đời mà thôi (Luke 1: 33: And He will reign over the house of Jacob for ever). Ngoài ra chúng ta cũng còn thấy là Giê-su rất ghét những người không phải là Do Thái (Matthew 15: 21-28). Và Thánh Paul khẳng định, theo lời mạc khải của Thiên Chúa: Hebrew 13: 8: "Giê-su Ki Tô luôn luôn như vậy, ngày hôm qua, ngày hôm nay và cho tới mãi mãi.” (Jesus Christ is the same yesterday, today, and forever). Điều này có nghĩa là nhiệm vụ xuống trần của Giê-su, nếu có thật, cũng chỉ là để cứu chuộc người Do Thái mà thôi v.. v.., và thái độ bộc lộ ghét người phi-Do Thái của Giê-su, không bao giờ thay đổi. Vậy thì những sắc dân phi – Do Thái, trong đó có Việt Nam, mong cái gì ở Giê-su? Tôi không hiểu các trí thức theo Ca-Tô Rô-ma Giáo ở Việt Nam có biết đến những điều này hay không. Cho nên tôi thật thương hại những người không phải là dân Do Thái mà cứ sống trong ảo vọng, mơ tưởng rằng sẽ được Giê-Su cứu rỗi và cho mình một cuộc sống đời đời trên một Thiên Đường mù, như Giáo hoàng John Paul II đã bác bỏ, để thấy mặt Thiên Chúa, vậy không phải là mê tín hay cuồng tín thì là gì? Vấn nạn của các tín đồ Ca-tô Việt Nam là không chịu đọc kỹ Thánh Kinh. Họ chỉ biết lõm bõm vài câu họ được dạy để tin và ngu ngơ mang đi truyền đạo cho dân ngu cũng như mình. Các tín đồ Ca-Tô muốn ca tụng tôn giáo của họ như thế nào, hay muốn tôn vinh quyền năng của Gót Cha, Gót Con, Gót Ma (Holy Ghost), và Giáo hoàng thế nào thì tôn vinh, nhưng họ không bao giờ có thể xóa bỏ được những sự thực lịch sử về Ca Tô Giáo, những sự thực đã làm cho cả thế giới phải ghê sợ, và đã bị phanh phui đến mức độ giáo hội không thể làm gì khác là đưa giáo hoàng ra xưng tội cùng thế giới loài người về những tội ác của Giáo hội Ca Tô để xoa dịu dư luận thế giới. Những tội ác của Ca-Tô Giáo đối với nhân loại, qua lời xưng thú tội lỗi của giáo hoàng, sẽ ám ảnh lương tri của người Ca-Tô suốt đời, không phải vì họ phải chịu trách nhiệm về những việc làm của giáo hội trong quá khứ, mà vì dù muốn dù không, họ cũng thuộc một đoàn thể có một lịch sử quá đen tối, trái ngược với những lời tuyên truyền giả dối đã tạo thành niềm tin của họ. Từ nay, họ không còn có thể tự đề cao mà không ngượng miệng những điều họ được nhồi vào đầu óc từ khi còn nhỏ, ví dụ như Ca Tô Giáo là một tôn giáo thánh thiện, duy nhất thiên khải, văn minh, tiến bộ, công bằng, bác ái cao quý hơn tất cả các tôn giáo khác, hoặc như, người trong đạo là những người lành thiện, đạo đức hơn tất cả những người “ngoại đạo” v…v… Thế giới đã thấy rõ từ lâu, tất cả những lời tự tôn, tự ca tụng, tự tôn vinh v..v.. của Giáo hội Ca Tô chỉ là những lời tuyên truyền huênh hoang giả dối cho đám tín đồ thấp kém, trái hẳn với bản chất mê tín, hoang đường, thấp kém, tàn ác v..v.. của giáo hội Ca Tô. Vấn đề không phải là họ tin vào hai cha con Gót của người Do Thái, vì ai cũng có quyền tin vào một cái gì đó mà mình muốn tin, cũng như ai cũng có quyền tin vào một chú Cuội ngồi ở gốc cây đa trên cung Hằng, hay tin “con Cóc là cậu Chúa Trời”, “Thần cây đa”, “Thần bình vôi” v..v… Trong thế giới ngày nay, chúng ta thấy có cả trăm Gót khác nhau, vấn đề là tại sao chúng ta phải tin vào một Gót đặc biệt của Ki Tô Giáo. Bởi vậy Judith Hayes đã đặt câu hỏi: “Chúng ta tin cậy ở Gót, nhưng mà là Gót nào” (In God We trust, but which one?). Về bản chất, mọi Gót và mọi đối tượng tín ngưỡng đều như nhau, nếu chỉ là thuần túy đối tượng của một đức tin không cần biết, không cần hiểu. Vấn đề chính là tin như thế nào, và những hành động tôn giáo bắt nguồn từ đức tin của mình có thật sự làm sáng danh Gót mà mình tin hay không, hay ngược lại chỉ kéo Gót của mình xuống vòng ô nhục. Thảm thay, đây chính lại là điều các tín đồ Ki-tô thường làm, tưởng rằng để vinh danh Gót nhưng thực ra lại hạ thấp Gót của mình xuống hàng tệ mạt nhất trong nhân loại, qua những hành động tàn bạo, ác ôn nhất trong lịch sử nhân loại. Có phải là kỳ lạ không khi chúng ta tin vào Thần cây đa, Thần bình vôi v… v…, chúng ta không hề gây hại cho ai, trong khi tin vào Gót của Ki Tô Giáo thì lại gây ra bao thảm cảnh cho nhân loại. Vậy về phương diện xã hội, những niềm tin nào đã gây hại cho xã hội. Các tín đồ Ki-tô có bao giờ nghĩ đến điều này không? Thật vậy, trong cuốn Những Tân Khải Thị (The New Revelations, Atria Books, New York, 2002) Neale Donald Walsch đã viết, trang 62: “Hầu hết những sự giết chóc, thống trị, đàn áp, những sự kinh hoàng trên hành tinh của chúng ta đã được gây ra dưới lá phướn chiều hướng tư tưởng của tổ chức tôn giáo và nhân danh Gót. 200 năm của những cuộc Thánh chiến Ki-tô là một thí dụ điển hình, trong thời gian này, con người đã bị tàn sát nhân danh Giê-su Ki Tô.” [Most of the killing and most of the domination and most of the suppression and most of the terror on our planet has been carried out under the banner of organized religion and in the name of God. The 200 years of the Christian crusades are a prime example, during which people were slaughtered in the name of Christ.] Chúng tôi hiểu rằng người đời thường bám chặt vào niềm tin của mình, nhất là khi niềm tin này, do cha truyền con nối, đã được cấy vào trong đầu óc từ khi còn nhỏ, chưa đủ khả năng để phán đoán, suy luận, hoặc niềm tin đã được cấy vào để an ủi một người đang ở trong tình trạng khủng khoảng tinh thần hay vật chất, đầu óc bấn loạn… như các tân tòng Tin Lành. Điều chúng tôi muốn nêu lên ở đây là, ở trên đời, có một số người thường bám chặt vào những niềm tin của mình, dù tất cả những bằng chứng hiển nhiên đã chứng tỏ đó là những niềm tin sai lầm. Nói cách khác, số người đó thường có khuynh hướng đóng sập cửa vào mặt sự thật khi sự thật đích thân đến gõ cửa. Tại sao vậy? Vì họ thuộc loại người yếu kém về tinh thần, khó khăn về vật chất v.. v.., hoặc luôn luôn cần một cái phao thần linh để bám víu vào, buông ra sợ mình chết chìm; hoặc luôn luôn cần đến một cặp nạng thần linh để lê lết trên cuộc đời mà họ được tẩy não là tạm bợ, vô nghĩa, tội lỗi, đầy bất hạnh; hoặc đã bị cấy vào đầu óc từ khi còn nhỏ những sự mê tín mà khi đó họ chưa đủ khả năng trí tuệ để suy tư, hoặc mê mẩn về một cái bánh vẽ trên trời. Điều lạ đối với tôi là những người có thể coi như là trí thức trong Ki Tô Giáo, nghĩa là những người có đầu óc, có khả năng suy lý, có hiểu biết về lô-gíc, không giống như đám tín đồ thấp kém ít học ở dưới, nhưng tại sao họ vẫn còn có thể tin được những điều không thể tin được trước những bằng chứng tràn ngập đã chứng minh là những niềm tin đó không có căn bản, không dựa trên sự thật. Không những họ cố bám vào những niềm tin đã lỗi thời, họ còn đưa ra mọi lý luận, thường không phải là lý luận, để bác bỏ những sự thật trái với niềm tin của họ, và còn gian xảo trong những luận cứ để quảng cáo cho những niềm tin đã không cò chỗ đứng trong những xã hội tân tiến. Điều này chúng ta thấy rõ trong những bài viết hoặc sách đã xuất bản của những tín đồ Ki-tô, Ca-tô cũng như Tin Lành, điển hình là của một số linh mục, mục sư cũng như một số gọi là trí thức trong đạo Giê-su. Điển hình là bài viết của ông Phan Văn Phước ở trên.. Tôi có cảm tưởng là những tín đồ Ki-tô Giáo như ở trên là những người “nghiện đạo”, giống như nghiện thuốc phiện, không dứt bỏ được, không thể cai được, nhất là cái bệnh nghiện này lại do cha truyền con nối phụ với những lời lừa dối nhồi sọ của các bề trên, mà chính các bề trên cũng chẳng khác gì họ về vấn đề tín ngưỡng. Tôi nghĩ, xã hội của chúng ta ngày nay không còn chịu những cảnh man rợ của Ki-tô giáo cách đây trên 250 năm ở Âu Châu và Mỹ Châu. Ngày nay, nói năng chống Ki-tô giáo, hay đúng hơn, nói lên những sự thật về Ki-tô giáo, không còn là một điều cấm kỵ và phải chịu đựng những sự bạo hành của Ki-tô giáo như trước. Đối với giới trí thức, đây là một bổn phận của những con người hiểu biết để giải hoặc quần chúng, giữ cho xã hội được lành mạnh. Sự xuất hiện của hàng ngàn tác phẩm mà Ki-tô giáo và những tín đồ cuồng tín liệt vào loại “chống Ki-tô giáo” là một bằng chứng cụ thể nhất về sự tiến bộ trí thức của nhân loại. Tác giả những cuốn sách này, trong đó có những giới cao cấp trong Ki-tô giáo, những giáo sư đại học, học giả, chuyên gia về tôn giáo v..v.. là những người đã nhận lãnh trách nhiệm dẫn dắt quần chúng thoát ra khỏi những mê hoặc và xiềng xích trí tuệ cũng như vật chất của Ki-tô giáo. Sự hiện hữu của những tác phẩm này trong những xã hội Ki-tô mà không gây ra một sự bất hòa, hỗn loạn nào trong xã hội vì lý do tôn giáo là một bằng chứng khác về sự tiến bộ trí thức của nhân loại, ít ra là ở trong những xã hội văn minh tân tiến. Và có lý do gì để người Việt Nam không được phép tham gia vào chiều hướng tiến bộ chung của nhân loại. Sau cùng tôi muốn nói vài lời với người Ca-tô Việt Nam. Xin quý vị đừng cho là chúng tôi thù ghét gì người Ca-tô. Vì may mắn sống ở hải ngoại chúng tôi mới có cơ hội tìm hiểu về Ca-tô Rô-ma Giáo, tìm hiểu qua rất nhiều tài liệu viết bởi nhiều bậc lãnh đạo trong Ca-tô Rô-ma giáo, nhà thần học Ca-tô, và các học giả trí thức Tây phương, phần lớn là ở trong các giáo hội Ki-tô. Những vị này viết ra những tác phẩm nghiên cứu trí thức của họ không phải là để chống Ca-tô Rô-ma Giáo mà chỉ vì lương tâm trí thức đã thúc đẩy họ viết ra những sự thật về chính tôn giáo của họ. Chúng tôi dùng tài liệu của họ cũng không phải để chống đạo của quý vị, mà chúng tôi nhận thức được rằng, người Việt Nam cần phải biết rõ về một tôn giáo lớn ở Việt Nam, nhờ đó có thể đi tới sự thông cảm và hài hòa giữa các tôn giáo, và để làm nhẹ bớt những sự kiện lịch sử không mấy đẹp về phía Ca-tô Giáo ở Việt Nam trong quá khứ và kéo dài cho tới ngày nay. Không có quốc gia Việt Nam thì không có người Ca-tô Việt Nam. Quý vị là con dân Việt Nam, không phải là con dân của Chúa. 2/3 trên tổng số hơn 6 tỷ người trên thế giới không tin ở Gót của Ki Tô Giáo. Vậy bổn phận trên hết của người dân là phải đối với quốc gia dân tộc. Tổng Thống Mỹ Kennedy, tín đồ Ca-tô Rô-ma, cũng đã phải tuyên bố trước quốc dân là nhiệm vụ chính của ông ta là phục vụ nước Mỹ, không phải là Vatican, và Quốc hội Mỹ cũng như người dân Mỹ thường xuyên kiểm điểm đường lối chính trị của ông ta. Không thể vì niềm tin tôn giáo của mình mà từ bỏ quốc gia, phản bội dân tộc, điều mà người Ca-tô Việt Nam đã làm trong quá khứ, nhất là khi niềm tin đó thuộc loại không thể chứng thực vì những sự thật hiển nhiên đã được phơi bày. Đã đến lúc Ca-tô Rô-ma giáo ở Việt Nam cần phải sám hối về những hành động phản bội dân tộc của Ca-tô giáo trong quá khứ mà lịch sử đã ghi rõ và long trọng thề trước Chúa của Ca-tô giáo và trước bàn thờ Tổ Quốc là sẽ không tái phạm. Sự lệ thuộc và tuân phục Vatican là bức tường đá ngăn cách giữa Ca-tô Rô-ma giáo Việt Nam và dân tộc. Ca-tô Rô-ma giáo Việt Nam phải có can đảm phá đổ bức tường đó. Trên thế giới đã có nhiều quốc gia theo Ki-tô Giáo không chấp nhận quyền thống trị của Vatican. Đây là điều kiện tất yếu để Ca-tô giáo thực sự trở về với dân tộc như Ca-tô giáo đã từng tuyên truyền. Xin quý vị hãy nhìn sang Âu Châu, cái nôi của Ca-tô Rô-ma Giáo trước đây, quý vị sẽ thấy là người dân ở đây phần lớn đã thức tỉnh, không còn tin vào những điều không thể tin được như trước đây. Họ đã được giải thoát, giải thoát khỏi cái xiềng xích tâm linh mà giáo hội đã buộc vào cổ họ, vì họ đã biết sự thật. Và đúng như lời Chúa Giê-su đã phán: “Rồi các ngươi sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải thoát cho các ngươi”. Sự thật đó như thế nào? Sự thật đó là Giê-su chỉ là một người thường Do Thái như mọi người Do Thái khác, có khác chăng là ông ta sống với ảo tưởng mình là con của Gót. Thật vậy, Russell Shorto đã viết trong cuốn Sự Thật Của Phúc Âm (Gospel Truth) như sau: Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Ca-Tô bảo thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại… Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường. [Most important, the impact of the scientific perspective is having now that even scholars working under a conservative Catholic imprimatur agree that much of what we know of Jesus is myth… Scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of anger. So the only ones left in the dark are ordinary Christians.] Nếu chính Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng thì những người theo đạo Giê-su sống với một ảo tưởng vào một ảo tưởng khác cũng không phải là chuyện lạ. Chuyện lạ chính ở chỗ tại sao ngày nay còn có nhiều người sống với các ảo tưởng đó. Có lý do gì để họ tự giam mình trong bóng tối của tâm linh. Đầu óc của họ thuộc loại đặc biệt, có lẽ không nằm trong quá trình tiến hóa của nhân loại. Tôi không chống, không ngăn cản, niềm tin của bất cứ ai. Nhưng tôi cảm thấy tôi có nhiệm vụ nghiên cứu Ki Tô Giáo để trình bày với đầy đủ tài liệu một vấn đề có ảnh hưởng đến tương lai của cả dân tộc, đó là thực chất của Ki Tô Giáo, và Ki Tô Giáo đã dạy con người những điều huyền hoặc phi lý trí, phản khoa học v..v.. mà thời đại thông tin điện tử ngày nay không thể chấp nhận được. Tôi cũng muốn vạch cho mọi người thấy rằng, những gì mà Ca-tô giáo hay Tin Lành dạy cho tín đồ về Thiên Chúa Sáng tạo, về Chúa Giê-su, về Giáo Hội Ca-tô hoàn vũ, về Hội Thánh Tin Lành, hoàn toàn không đúng với những hiểu biết của nhân loại ngày nay về vũ trụ, nhân sinh, và hoàn toàn không phù hợp với nội dung cuốn Thánh Kinh gồm có Cựu Ước và Tân Ước. Giới lãnh đạo Ki Tô Giáo cũng đã biết như vậy nhưng họ vẫn muốn giữ tín đồ trong bóng tối để duy trì trong đầu óc họ một niềm tin sai lầm. Đó là điều đáng nói, và đáng trách. Do đó, mở mang dân trí, để cho dân chúng biết rõ những sự thật về Ki Tô Giáo là bổn phận của mọi công dân hiểu biết, không phải của riêng ai. Đây là điều mà rất nhiều trí thức Tây Phương đã làm đối với quần chúng Tây phương. Những nghiên cứu sâu rộng của họ về mọi khía cạnh của Ki Tô Giáo, và được xuất bản trong những quốc gia mà Ki Tô Giáo là tôn giáo chính mà không có bất cứ một sự chia rẽ hay xẩy ra một sự xung đột nào. Chúng tôi không làm gì hơn là theo gót giới trí thức Tây phương với mục đích mở mang dân trí. Nếu chúng tôi viết có gì sai, xin quý vị cứ lên tiếng phản bác, chúng tôi sẵn sàng đón nhận mọi phê bình nghiêm chỉnh trong lãnh vực học thuật trí thức. Đáng lẽ chính quý vị phải có bổn phận làm công việc nghiên cứu giải hoặc này để mở mang dân trí. Nhưng quý vị, không hiểu vì lý do gì, không bao giờ phản biện theo đúng tinh thần trên, cứ một mực lên án chúng tôi là chia rẽ tôn giáo, dùng những từ hạ cấp để mạ lỵ chúng tôi, và còn chụp mũ chúng tôi là tay sai của CS mà không đưa ra bất cứ bằng cớ nào. Không lẽ quý vị muốn giữ người dân Việt Nam trong vòng thiếu hiểu biết mà chúng ta biết chắc là, một sự thiếu hiểu biết về Ki Tô Giáo có thể đưa đến những hậu quả khó lường như lịch sử đã chứng minh. Quý vị sợ cái gì? Không ai có thể che dấu được sự thật mãi mãi. Khi xưa, Giáo hội Ca-tô dùng đủ mọi cách để ngăm chận sự hiểu biết của tín đồ, giam họ trong một tù ngục đen tối tâm linh, nhưng rồi do những tác phẩm nghiên cứu về Ca-tô Giáo của giới trí thức Tây phương ở ngay trong Giáo hội đã mở mắt người dân Tây phương, và kết quả như thế nào, Giáo hội đã hoàn toàn bất lực trước sự mở mang hiểu biết của người dân. Ở Việt Nam, nền đạo lý Thiên-La Đắc Lộ đã di hại cho người dân Việt Nam không ít, nó tạo nên một lớp người vì bị mê hoặc bởi những trò ma thuật trong Ca-tô Giáo như các bí tích, nước thánh v...v.... và vì mê mẩn một cái bánh vẽ trên trời cho nên không quan tâm và không coi trọng tổ quốc. Nó cũng tạo nên một tôn giáo hoàn toàn lệ thuộc ngoại bang, dù nấp sau bình phong tự do tín ngưỡng, trái với truyền thống yêu nước và độc lập của người Việt. Cho nên, để mở mang dân trí góp phần xây dựng
quốc gia, chúng ta cần phải có tinh thần vô úy, đưa ra những sự thực về Ki
Tô Giáo nói chung, Ca-tô giáo nói riêng để cho người dân tự mình suy nghĩ,
ngõ hầu có thể tự chọn cho mình một con đường tâm linh thích hợp với văn hóa
truyền thống của dân tộc. Tôi nghĩ rằng, đây chính là mong ước của đa số người
dân Việt. Trần Chung Ngọc Tháng 12, 2012
| ||
Trang Tôn Giáo |