ĐÂY !! CHÚA GIÊ-SU CỦA

NHỮNG NGƯỜI THEO ĐẠO GIÊ-SU

Trần Chung Ngọc

bản in ¿ Xem mục lục ngày 04 tháng 3, 2009

VÀI LỜI KẾT VỀ HAI BỐ CON GIÊ-SU TRONG CUỐN BIBLE:

 

ÔNG BỐ: Alias “Thượng Đế”, “Thiên Chúa”, “Đấng Sáng Tạo”, “Chúa Cha”, “Đấng Toàn Năng” v..v…

Richard Dawkins: Thiên Chúa trong Cựu Ước là nhân vật xấu xa đáng ghét nhất trong mọi chuyện giả tưởng: ghen tuông đố kỵ và hãnh diện vì thế; một kẻ nhỏ nhen lặt vặt, bất công, có tính đồng bóng tự cho là có quyền năng và bất khoan dung; một kẻ hay trả thù; một kẻ khát máu diệt dân tộc khác; một kẻ ghét phái nữ, sợ đồng giống luyến ái, kỳ thị chủng tộc, giết hại trẻ con, chủ trương diệt chủng, dạy cha mẹ giết con cái, độc hại như bệnh dịch, có bệnh tâm thần hoang tưởng về quyền lực, của cải, và toàn năng [megalomaniacal], thích thú trong sự đau đớn và những trò tàn ác, bạo dâm [sadomasochistic], là kẻ hiếp đáp ác ôn thất thường.

Tất cả những thuộc tính trên của Ông Bố đều đã được chứng minh qua những trích dẫn từ Cựu Ước. Xin các độc giả kiểm chứng lại.

ÔNG CON: Alias “Chúa Trời”, “Chúa Cứu Thế”, “Ngôi Hai Thiên Chúa”, “Ông Hoàng Của Hòa Bình”, “Ánh Sáng Của Nhân Loại” v..v…

Giám Mục John Shelby Spong: "Có nhiều bằng chứng trong Thánh Kinh chứng tỏ Giê-su ở Nazareth là con người thiển cận, đầy thù hận, và ngay cả đạo đức giả"

Jim Walker : Có nhiều đoạn trong các Phúc Âm trong Tân Ước, Giê-su được mô tả như là một con người đầy hận thù, xấu xa, bất khoan dung, và đạo đức giả.

Tất cả những thuộc tính trên của Ông Con đều đã được chứng minh qua những trích dẫn từ Tân Ước. Xin các độc giả kiểm chứng lại.

Ngoài ra chúng ta cũng còn biết:

Linh Mục James Kavanaugh: Huyền thoại “cứu rỗi” thuộc thời sơ khai miêu tả một người cha lấy cái chết của chính con mình để bớt đi cơn giận dữ. Đó là một chuyện ác độc không thể tưởng tượng được…

Học Giả Ki-Tô Russell Shorto: Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.

Giáo Hoàng John Paul II: "Không làm gì có Thiên đường ở trên các tầng mây."

Matthew 15: 24: Chúa Giê-su phán: “Ta được phái xuống đây chỉ để cứu những con chiên lạc Do Thái mà thôi.” [I was not sent except to the lost sheep of the house of Israel]

Matthew 1: 21: Lời thiên sứ nói với Joseph trong giấc mộng: “Và bà ta (Mary) sẽ sinh ra một đức con trai, ngươi sẽ đặt tên nó là Giê-su, vì nó sẽ cứu dân của nó [dân Do Thái] ra khỏi tội lỗi [And she will bring forth a Son, you shall call His name Jesus, for He will save His people from sins]

Luke 1: 32-33: Thiên sứ nói với Mary: Và Thiên Chúa sẽ cho hắn (Giê-su) ngai của cha hắn là David. Và Hắn sẽ trị vì ngôi nhà của Jacob mãi mãi và vương quốc của hắn sẽ tồn tại mãi mãi. [And the Lord God will give Him the throne of His father david. And He will reign over the house of Jacob forever, and of His kingdom there will be no end]

Và Thánh Paul khẳng định, theo lời mạc khải của Thiên Chúa: Hebrew 13: 8: “Giê-su Ki Tô luôn luôn như vậy, ngày hôm qua, ngày hôm nay và cho tới mãi mãi.” (Jesus Christ is the same yesterday, today, and forever). Điều này có nghĩa là Giê-su không bao giờ thay đổi, bỏ ý định cứu dân Do Thái để đi cứu các dân tộc khác trên thế giới, nhất là Việt Nam, mà ông ta không hề biết.

Chúng ta cần ghi nhận một điều: những kết quả nghiên cứu như trên về Giê-su trong lãnh vực học thuật đều là của các bậc trí thức có lương tâm, có chức vụ, trong các giáo hội Ki Tô, hoặc các học giả trong các xã hội Ki Tô Giáo, không phải của người ngoại đạo, cho nên chúng ta khó có thể nghi ngờ thành ý và sự lương thiện của họ trong lãnh vực học thuật. Và những câu trích dẫn từ trong cuốn Thánh Kinh bất cứ ai cũng có thể kiểm chứng tính cách xác thực của chúng. Cho nên, chúng ta cần phải hiểu đây chỉ là những công cuộc nghiên cứu thuần túy trí thức trong lãnh vực học thuật nằm khai sáng sự hiểu biết của người dân chứ không phải là chủ trương đối nghịch tôn giáo hay chống Chúa hay chống đạo như một số người thường quy kết một cách vô trách nhiệm.

Từ những kết quả nghiên cứu sơ lược như trên về hai cha con Giê-su, những kết quả không ra ngoài những điều viết trong cuốn Thánh Kinh gồm Cựu Ước và Tân Ước, tôi không khỏi không có một thắc mắc: “Tại sao con người vẫn còn tin vào một Thiên Chúa và một Giê-su với những thuộc tính tệ hại như vậy, và những người không phải là dân Do Thái tin vào hai bố con ông Giê-su là vì cái gì.?” Đối với tôi, thắc mắc là khả năng suy tư quý báu nhất mà Thượng đế, dù Thượng đế chỉ là sản phẩm tưởng tượng của người Do Thái, ban cho con người có đầu óc, kể cả sự thắc mắc về chính Thượng đế. Tôi đã đặt câu hỏi này từ lâu, nhưng số tôi không được may mắn, vì cho tới ngày nay, vẫn không có một người nào giảng giải cho tôi biết là họ theo đạo Giê-su là vì cái gì? Tôi xin khẳng định một điều: Tôi không chống hay phản đối bất cứ ai theo đạo Giê-su. Tôi đã viết cả trăm bài nghiên cứu về nhiều khía cạnh của Ki Tô Giáo nói chung, Công giáo nói riêng. Nhưng chưa bao giờ tôi khuyến khích hay hô hào ai bỏ đạo hay bỏ đức tin của họ. Tôi chỉ đặt vấn đề và sẵn sàng hoan hỉ chấp nhận mọi phê bình phân tích đứng đắn trên những điều tôi viết. Tôi sẽ không thảo luận hay trả lời với bất cứ ai nếu phê bình của họ không thuộc loại phân tích những điểm tôi viết và phản bác với lý luận và tài liệu. Cảm tính phe phái cá nhân phản ánh trên những luận điệu chụp mũ hay dùng những danh từ hạ cấp để mạ lỵ đối phương đối với tôi là vô giá trị, không thuộc lãnh vực học thuật hay thảo luận trí thức, do đó tôi sẽ không tự hạ mình để đối đáp với những luận điệu phi trí thức của bất cứ ai.

Tôi biết có những người, kể cả một số trí thức Công giáo, phát dị ứng đối với những bài tôi viết về Công giáo. Bởi vì khả năng suy tư trong đầu óc họ đã bị tê liệt bởi sách lược nhồi sọ và dọa dẫm của Công giáo từ khi họ còn nhỏ. Có vài người lên tiếng phê bình nhưng thật ra chẳng phê bình gì hết. Họ chỉ có thể nói là tôi xuyên tạc, đánh phá Công giáo, đọc Thánh Kinh mà không hiểu v..v.. nhưng không đưa ra bất cứ bằng chứng là tôi đã xuyên tạc đánh phá Công giáo ở chỗ nào, cũng không vạch ra là tôi phải hiểu Thánh Kinh ra sao, và kết luận của họ bao giờ cũng là một cái mũ thân Cộng hay chống đạo Thiên Chúa.

Tôi không chống, không ngăn cản, niềm tin của bất cứ ai. Nhưng tôi cảm thấy tôi có nhiệm vụ nghiên cứu Ki Tô Giáo để trình bày với đầy đủ tài liệu một vấn đề có ảnh hưởng đến tương lai của cả dân tộc, đó là thực chất của Ki Tô Giáo, và Ki Tô Giáo đã dạy con người những điều huyền hoặc phi lý trí, phản khoa học v..v.. mà thời đại thông tin điện tử ngày nay không thể chấp nhận được.Tôi cũng muốn vạch cho mọi người thấy rằng, những gì mà Công giáo hay Tin Lành dạy cho tín đồ về Thiên Chúa Sáng tạo, về Chúa Giê-su, về Giáo Hội Công giáo hoàn vũ, về Hội Thánh Tin Lành, hoàn toàn không đúng với những hiểu biết của nhân loại ngày nay về vũ trụ, nhân sinh, và hoàn toàn không phù hợp với nội dung cuốn Thánh Kinh gồm có Cựu Ước và Tân Ước. Giới lãnh đạo Ki Tô Giáo cũng đã biết như vậy nhưng họ vẫn muốn giữ tín đồ trong bóng tối để duy trì trong đầu óc họ một niềm tin sai lầm. Đó là điều đáng nói, và đáng trách. Do đó, mở mang dân trí, để cho dân chúng biết rõ những sự thật về Ki Tô Giáo là bổn phận của mọi công dân hiểu biết, không phải của riêng ai. Đây là điều mà rất nhiều trí thức Tây Phương đã làm đối với quần chúng Tây phương. Những nghiên cứu sâu rộng của họ về mọi khía cạnh của Ki Tô Giáo, và được xuất bản trong những quốc gia mà Ki Tô Giáo là tôn giáo chính mà không có bất cứ một sự chia rẽ hay xẩy ra một sự xung đột nào. Không lẽ người Việt Nam chúng ta lại cứ muốn giữ người dân trong vòng thiếu hiểu biết mà chúng ta biết chắc là, một sự thiếu hiểu biết về Ki Tô Giáo có thể đưa đến những hậu quả khó lường như lịch sử đã chứng minh. Nền đạo lý Thiên-La Đắc Lộ đã di hại cho người dân Việt Nam không ít, nó tạo nên một lớp người vì mê mẩn một cái bánh vẽ trên trời cho nên không quan tâm và không coi trọng tổ quốc. Nó cũng tạo nên một tôn giáo hoàn toàn lệ thuộc ngoại bang, dù nấp sau bình phong tự do tín ngưỡng, trái với truyền thống yêu nước và độc lập của người Việt. Cho nên, để mở mang dân trí góp phần xây dựng quốc gia, chúng ta cần phải có tinh thần vô úy, đưa ra những sự thực về Ki Tô Giáo nói chung, Công giáo nói riêng để cho người dân tự mình suy nghĩ, ngõ hầu có thể tự chọn cho mình một con đường tâm linh thích hợp với văn hóa truyền thống của dân tộc. Tôi nghĩ rằng, đây chính là mong ước của đa số người dân Việt.

Để kết luận, tôi muốn nói đến một nhận định của Giám mục John Shelby Spong trong cuốn Một Ki Tô Giáo Mới Cho Một Thế Giới Mới (A New Christianity For A new World), xuất bản năm 2001. Giám Mục Spong liệt kê ra 5 tín điều căn bản của Ki Tô Giáo như sau:

- Thánh Kinh là những lời mạc khải của Thiên Chúa.

- Tư cách thần linh của Giê-su vì sinh ra từ một Nữ Trinh.

- Cái chết của Giê-su là để chuộc tội cho nân loại, và máu của Giê-su là năng lực cứu rỗi (saving power of his blood).

- Thân xác Giê-su sống lại. Ngôi mộ trống là một sự thật cũng như chuyện Giê-su hiện ra sau khi chết.

- Giê-su sẽ trở lại để phán xét nhân loại.

Và Giám mục Spong đưa ra nhận định như sau:

Ngày nay, tôi thấy những tín lý căn bản này mà chúng ta thường hiểu theo truyền thống, không những chỉ là ngây ngô mà còn có thể phải dứt khoát loại bỏ. Trong thế hệ của chúng ta, không một tín điều nào ở trên được các học giả Ki Tô danh tiếng xác nhận.

(Today I find each of these fundamentals, as traditionally understood, to be not only naïve, but eminently rejectable. Nor would any of them be supported in our generation by reputable Christian scholars)

 

VẬY THÌ, NGƯỜI VIỆT NAM THEO ĐẠO GIÊ-SU LÀ VÌ CÁI GÌ ??

Vì Tự Do Tín Ngưỡng ??

 

-- HẾT --

 


Các bài về tôn giáo cùng tác giả

Trang Trần Chung Ngọc