Lời Giới Thiệu của giaodiemonline.com:
Giáo sĩ dòng Tên Alexandre de Rhodes (1591-1660) là
một khuôn mặt truyền giáo lớn của Công giáo Pháp tại Đông Nam Á, và vì
vậy là khuôn mặt rất lớn của Công giáo Việt Nam. Khoảng năm 1619, ông
huy động được một tàu chiến của Pháp để đến xứ An Nam 6 tháng và bắt đầu
công việc “khai hóa” dân bản xứ “mọi rợ”, dẹp bỏ “tà thần”
(mà trong đó phải “chém ngã thằng Thích Ca”), thủ tiêu văn hóa
bản địa để rao giảng đạo Chúa.
Ngoài công tác truyền đạo, dĩ nhiên ông còn hai ý
đồ khác nữa, một đạo một đời: (i) Thứ nhất là mở rộng và củng cố vùng
ảnh hưởng của giáo hội Pháp trong cuộc tranh chấp giữa hai giáo hội Pháp
- Bồ Đào Nha, và (ii) Thứ nhì là gửi những thông tin chiến lược của xứ
An Nam về Paris để thúc đẩy triều đình Pháp xâm lăng và đô hộ Việt Nam.
Hai ý đồ nầy được ông chu toàn bằng cách khoác chiếc áo chùng thâm lên
để che dấu mũi súng cà nông bắn vào nước ta. Sau nầy, những “cha cố” như
Pigneau de Béhaine, Lambert, Huc, Puginier, Pellerin, Taberd, … và bọn
tay sai bản xứ phản bội tổ quốc đã triển khai ý đồ nầy và theo bước chân
của ông để tay súng tay thập ác đô hộ nước ta trong gần 100 năm trời mà
thôi.
Suốt cả thời kỳ đô hộ Pháp và kéo dài trên nửa nước
dưới chế độ giáo trị Ngô Đình Diệm, Alexandre de Rhodes được chính quyền
và giáo hội Công giáo Việt Nam vinh danh và ghi ơn như người sáng tạo ra
chữ “quốc ngữ”, xem Rhodes là danh nhân văn hóa nước ta. Những chính
quyền thực dân và phản dân tộc đó đã tự mình, hay cho phép, in tem, tạc
tượng, đặt tên đường, đặt tên trường, đặt tên cơ quan … tên gián điệp
ngoại bang đầu xỏ nầy để làm sáng danh y. Tuy nhiên, những văn bản phát
hiện trong 20 năm qua đã chứng tỏ một cách không chối cải được rằng
Rhodes chỉ cóp nhặt, tiếm dụng, và thêm thắt vào những công trình sáng
chế chữ Việt với mẫu tự Latinh của nhiều người khác trước đó, đặc biệt
của ba giáo sĩ Bồ Đào Nha là Francisco de Pina, Gaspa d’Amarel, và
Antonio Barbosa. Như vậy, thật sự là giáo sĩ Rhodes, cùng với một số
cọng sự viên, có đóng góp vào việc hình thành chử Việt Latinh hóa có
sẳn, nhưng dứt khoát Rhodes không phải là “cha đẻ”, người đầu tiên phát
minh ra văn tự nầy. Và cũng thật sự là chính tên gián điệp Rhodes, chứ
không phải ai khác, là một trong những nguyên ủy của “một trăm năm đô
hộ giặc Tây” sau nầy.
|
|
|
Alexandre de Rhodes, tên gián điệp Pháp đã chủ mưu tìm cách thủ tiêu văn hóa Việt Nam |
Catechismus (Phép giảng Tám ngày) là một trong những cuốn sách Rhodes viết để dạy cho con chiên Việt Nam phỉ báng lịch sử và văn hóa nước ta |
Tem thư trị giá 3 đồng, phát hành dưới thời chính quyền Ngô Đình Diệm để kỷ niệm “Sách Đắc Lộ, chữ nước ta”
|
Đó là chưa nói đến âm mưu thâm độc của Rhodes muốn
lợi dụng chính quyền bảo hộ đương thời để, trong hóa”, xóa tuyệt chữ Hán Nôm hầu bít lối tìm về nguồn gốc văn minh, căn
cước văn hóa đặc thù của dân tộc ta. Hôm nahỏ”
như Lào, Cambốt, Miến Điện, Sri Lanka, Tibet, hay “vừa” như Thái, Hàn,
Pakistan, Irak, Thổ
lớn như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, …
tất cả đều vẫn tồn tại và phát triển mà không mất văn tự gốc, và đặc
thù của tổ tiên họ để lại. Ta chỉ còn giống Phi Luật Tân và Mexico, hai
quốc gia cũng mất văn tự như nước ta, vì bị các cường quốc Công giáo Tây
phương dùng thập ác và lưỡi gươm xâm lăng và đô hộ.
Bài viết dưới đây của tác giả Trần Chung Ngọc, thông qua một vài đoạn
tiêu biểu trong cuốn “Hành Trình và Truyền Giáo” của Rhodes, nhằm
bình luận để lột trần vài khía cạnh về “con người” xảo quyệt và gian trá
của một vị đại công thần Pháp đã sáng lập ra Công giáo tại Việt Nam. –
pb/gdol
Lời Nói Đầu: “Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” là cụm từ Giáo sư Nguyễn
Mạnh Quang dùng để chỉ những ảnh hưởng tai hại của Thiên Chúa Giáo La
Mã (Thiên-La) mà giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc-Lộ) đã mang đến đầu
độc đầu óc lớp người dân thấp kém nhất trong xã hội Việt Nam: "Sự
tổng hợp của sách lược truyền đạo tàn bạo, cường quyền thắng công lý,
của giáo hội Công giáo và sự cuồng tín, gian manh, xuyên tạc, cùng cách
dùng ngôn từ hạ cấp của giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes)."
[Xin đọc Chương 15 trong cuốn Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa
Toàn Thư (1954-1963) của Giáo sư Quang] Di lụy của sách lược
đầu độc này còn kéo dài cho tới ngày nay, trải dài từ trong tòa thánh
Vatican đến xóm đạo Bolsa, các xóm đạo ở Việt Nam, Tòa Khâm Sứ ở Hà Nội,
và trên nhưng diễn đàn truyền thông điện tử như Tiếng Nói Giáo Dân hay
Vietcatholic v..v…
Chắc
có người cho rằng đây chỉ là những lời lẽ bôi nhọ, “chống đạo” vô căn
cứ. Không hẳn vậy, đọc cuốn Hành Trình Và Truyền Giáo của
Alexandre de Rhodes chúng ta thấy rõ ràng như vậy, và tôi sẽ chứng minh
khá đầy đủ trong một phần sau.
Số là, trong tháng 6, 2008,
chúng tôi và một số bạn bè rủ nhau đi một chuyến du lịch thăm một số
nước như Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Hi Lạp trên một du thuyền [cruise] của hãng
Carnival. Chiếc Carnival Freedom có 3200 khách và 1600 nhân viên phục
vụ. Trước khi xuống tàu ở cảng Civitavecchia, cách Rome khoảng một giờ
lái xe, tôi đi trước một tuần lễ ghé Paris và đi chơi vùng Normandie,
Touquet, Crotois, Rouen v..v.. Ở Paris tôi được một người thân
thẩy cho 2 cuốn của Alexandre de Rhodes mà tôi chưa có và không có ý
định đọc:
- Hành Trình Và
Truyền Giáo.
- Lịch Sử Đàng
Ngoài.
Du thuyền cặp bến ở
những cảng như Naples, Marmaris, Itzmir, Preareus, Istanbul, Livorno, và
Civitavecchia. Từ những nơi đây chúng tôi có thể đi thăm thêm các nơi
như Sorrento, Pompei, Olympia, Athens, Provence, Pisa và Rome.
Trong chuyến du
thuyền có 3 ngày tàu chạy trên biển không ghé đâu, nên tôi có thì giờ mở
cuốn Hành Trình Và Truyền Giáo đọc. Đây là bản dịch cuốn “Les
Divers Voyages et Missions du Père Alexandre de Rhodes, năm 1653”,
nguyên bản bằng tiếng Pháp ở phần sau, của Hồng Nhuệ, do Tủ sách Đại
Kết, Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo, TP Hồ Chí Minh xuất bản năm 1994.
Trong Lời Dịch
Giả, Hồng Nhuệ viết: “Chúng tôi để cho độc giả thưởng thức
nguyên văn của giáo sĩ với những cảm tưởng và nhận xét khi đọc bản này.
Chúng tôi thiết nghĩ ngưởi Việt Nam không thể dửng dưng trước
những gì có hệ (??) tới đất nước (trg. XII)” và “Chúng tôi
không viết nhiều. Cũng như khi nói về Hành Trình, thì ở mục Truyền
Giáo, chúng tôi để độc giả thưởng thức những trang sử liên quan đến
Giáo hội và đất nước Việt Nam” (trg. XIV)
Và câu kết của
Alexandre de Rhodes trong cuốn sách là: “Viết sách này để vinh danh
Thiên Chúa”
Vậy thì chúng ta hãy đi vào phần nào nội dung
của cuốn sách để xem chúng ta có thể “thưởng thức” (sic) nổi cái gì
trong đó không, và để xem trong đó Alexandre de Rhodes đã viết những gì
để “vinh danh Thiên Chúa” của ông ấy. Tuy nhiên, nếu phê bình đầy đủ
cuốn sách này thì tốn rất nhiều công và không đáng, vì chúng ta có thể
phê bình hầu như từng trang sách một. Do đó, tôi chỉ chọn một số đoạn
điển hình mà tôi nghĩ cũng đủ để chúng ta thấy thực chất sách lược
truyền giáo của Rhodes, đồng thời đưa ra vài nhận xét ngắn để chứng minh
những điều tôi nói ở trên không phải là nói ngoa.
۩
Trước
hết là vài nhận xét tổng quát. Phải nói rằng, ở thế kỷ 17 thì cuốn
Hành Trình và Truyền Giáo của Alexandre de Rhodes, lẽ dĩ nhiên không
phải viết để cho người Việt Nam đọc, cũng có một vài giá trị nào đó đối
với những người Tây Phương chưa biết Á Đông là gì, vì tác giả có nói đến
một số phong tục, địa lý, và sinh hoạt của người dân ở một số địa phương
mà tác giả đã đi qua trong cuộc hành trình truyền giáo của ông ta. Và
lẽ dĩ nhiên, người Tây Phương không thể biết là trong cuốn sách đó tác
giả đã nói đúng hay sai, thật hay láo. Đối với tôi thì:
- Về
lịch sử, Rhodes cũng chỉ biết lõm bõm.
- Về
sinh hoạt người dân thì cũng chỉ là những nhận xét phiến diện, hời hợt.
- Về
văn hóa địa phương thì Rhodes mù tịt.
- Và
đặc biệt về truyền giáo thì Rhodes có những mánh lới xảo quyệt dụ đạo
những người ngu, những điều này thể hiện ngay trong những từ ngữ mà
Rhodes dùng trong cuốn sách, trong những mánh lới này chúng ta thấy
những niềm tin nhảm nhí về ma quỉ, những phép lạ không thể tin được, và
những lý luận ẩu tả, phi lý và láo lếu.
Nhưng
đặc biệt nhất là Rhodes thường nói phét. Người Pháp có câu “À bon
parler ce qui vient de loin”, có nghĩa là “Người đi xa về thường hay nói
phét” và câu này áp dụng khá đúng cho Rhodes. Chúng ta đã biết là
Rhodes đã từng thổi phồng quá đáng số người mà ông ta dụ vào đạo được,
theo như một tài liệu nghiên cứu sau đây:
Yoshiharu Tsuboi viết trong cuốn
Catholicism et Sociétés Asiatiques, trg. 136, về "nghệ thuật" phóng
đại sự việc để lừa dối chính quyền Pháp cũng như Tòa Thánh Vatican của
Rhodes như sau:
"Vào
khoảng 1650, Alexandre de Rhodes tuyên bố rằng, người Việt Nam cải đạo
theo Ca Tô giáo với nhịp độ 15000 một năm, con số mà khoảng hai mươi năm
sau, những thừa sai Pháp cho rằng đã phóng đại, vì họ chỉ thấy có
độ 60000 thay vì 200000 tín đồ Ki Tô như các giáo sĩ dòng Tên đã tuyên
bố."
(Alexandre de Rhodes annonce, vers 1650, que les
Vietnamiens se convertissent au rythme de 15000 par an, chiffre que,
quelque vingt années plus tard, les missionaires francais jugeront
exagéré, ne comptant quant à eux qu'environ 60 000 chrétiens au lieu de
200 000 annoncés par les jésuites.)
Chúng ta cũng biết rằng, đến giữa thế kỷ 19, số giáo
dân Ca Tô mới chỉ là 450000 trên một dân số trên 10 triệu, nghĩa là
khoảng 4.5%, và dù trong chế độ đô hộ của thực dân Pháp gần 100 năm
trong đó Ca-tô giáo được tự do hoành hành, cộng với 9 năm cầm quyền của
Ngô Đình Diệm ở miền Nam, tỉ số giáo dân chưa bao giờ lên quá 7%.. Có
ai đặt vấn đề là tại sao Ca-Tô Giáo không thể phát triển ở Việt Nam được
hay không, dù Ca Tô Giáo đã dùng mọi thủ đoạn, phối hợp cường quyền với
mồi vật chất, để dụ người vào đạo
Trong cuốn Hành Trình và Truyền Giáo, chúng ta
thấy đầy rẫy những lời phóng đại và ba xạo của Rhodes về thành quả dụ
người vào đạo của ông ta. Mặt khác, nhìn một cách tổng quát, chúng ta
có thể thấy: 1) Rhodes có những tư tưởng chủ quan rất mù mờ; 2) Kiến
thức của Rhodes về chính đạo Ca-tô của ông ta thuộc loại cuồng tín của
thế kỷ 17, nghĩa là, theo định nghĩa của giáo sư Nguyễn Mạnh Quang, tổng
hợp của ngu dốt, kiêu căng và hợm hĩnh; và 3) Áp dụng sách lược truyền
giáo mê hoặc, bất lương và đạo đức giả: Mọi sự tốt lành xảy ra cho mình
thì là do ân sủng của Chúa, còn những bất hạnh xảy ra cho người khác thì
lờ đi không nói gì đến Chúa; tích cực xui dại khuyến khích ca tụng tín
đồ ngu ngơ mới theo đạo hãy tử vì đạo mà Rhodes gọi là “phúc tử đạo”,
không được chết vì Chúa là một ân hận lớn v..v.. Sau đây tôi sẽ
đi vào phần chứng minh từng điểm một, qua những đoạn trích dẫn điển hình
trong cuốn Hành trình và Truyền Giáo, với đôi lời bình luận ngắn,
để độc giả thấy rõ cái hại của sách lược truyền giáo bịp bợm, lừa dối,
gian manh của Alexandre de Rhodes. Tôi tuyệt đối không có nói chơi đâu,
xin mời độc giả đọc tiếp.
Trang 7: Trên cùng một chuyến tàu với những người Tin Lành,
Rhodes viết: “Chúng cứ bô bô đọc một cuốn sách ly giáo trong đó có
nhiều lời phạm tới các mầu nhiệm đạo Công giáo. Chúng muốn cho những
người nghe những sai lầm và thưởng thức (sic) những nọc độc của chúng.
Chúa để cho họ dẹp cuốn sách xấu ấy đi”.
TCN
bình luận: Tin Lành chỉ tin vào cuốn Kinh của Ki Tô Giáo
(Bible) cho nên không tin vào những điều nhảm nhí không có trong cuốn
Kinh mà Ca-Tô Giáo Rô-ma đã bịa đặt ra để mê hoặc đầu óc tín đồ thí dụ
như Maria đồng trinh vĩnh viễn hay Hồn xác bay lên trời v…v…, hoặc để
tạo quyền lực cho giới chăn chiên thí dụ như: giáo hoàng là đại diện của
Chúa trên trần, linh mục là Chúa thứ hai, hay các “bí tích” mà Rhodes
gọi là “mầu nhiệm Công giáo”. Vậy những nọc độc thực ra chính là các
“mầu nhiệm Công giáo” và những quyền năng tự tạo của giới chăn chiên.
Chúng ta không nên lấy làm lạ khi Rhodes bài bác Tin Lành, vì giới chăn
chiên Ca-tô có thể có những gì khác, chứ về đạo đức tôn giáo thì khá
thiếu vắng. Chúng ta đã biết trong lịch sử các giáo hoàng, có một số
không nhỏ là sát nhân, cuồng dâm, loạn dâm, loạn luân, mua quan bán tước
v..v.. Và trong thời hiện đại, giáo hoàng John Paul II đã từng gọi các
nhà truyền giáo Tin Lành ở Nam Mỹ là “Những con chó sói đói mồi”,
và Hồng Y Ratzinger, nay là giáo hoàng Benedict XVI, cũng đã từng phê
bình Phật Giáo bằng một câu có thể nói là rất vô giáo dục. Vậy đối với
Rhodes ở thế kỷ 17, Rhodes lên tiếng mạ lỵ Tin Lành, và trong cuốn
“Phép Giảng 8 Ngày” đã từng lên tiếng gọi Đức Phật, Đức Khổng Tử,
Lão Tử bằng những danh từ hạ cấp thì đâu có phải là chuyện lạ. Chuyện
lạ chính là ở chỗ cái tên Rhodes này vẫn được đặt cho một tên đường
phố ở Việt Nam, song song với những danh nhân liệt sĩ của Việt Nam.
Trang 12, 13: [Trên chuyến tàu biển đi đến Goa]: Trận bão
rất lớn, rất lâu, làm cho chúng tôi tưởng đã đến lúc về thiên đàng.
Sóng vỗ rất mạnh, dâng lên rất cao làm cho chúng tôi như chôn trong lòng
biển cả. Thế nhưng chúng tôi không mất niềm tin vào Chúa và mẹ hiển
vinh. Chúng tôi càng thêm lời cầu nguyện. Và nhờ khoan hồng của Chúa,
chúng tôi đã được toại nguyện sau 18 ngày trong bão táp: mây trước kia
dày đặc sáng nay đã tiêu tan, trời sáng hẳn, biển yên lặng, gió thuận
buồm xuôi. Tất cả cho chúng tôi thấy Chúa đã bắt sóng biển phải yên,
Người đã ra tay hoạt động… Nhưng khi biển đã yên, không còn làm cho
chúng tôi lo sợ thì lại có một thứ bệnh hay lây xảy ra làm cho chúng tôi
phải hết sức kiên trì và thi hành bác ái. Trong 5 tháng trời, Chúa cho
không có bệnh nguy hiểm nào, nhưng tới tháng thứ sáu thì [Chúa cho
nhưng Rhodes không nói. TCN] bắt đầu có một thứ bệnh dịch gọi là bệnh
phù scorbut, người Bồ gọi là bệnh loan da. Đây là thứ bệnh kỳ dị, làm
thối các phần thân thể, nhất là làm cho môi và miệng sưng trông rất ghê
gớm, rồi rơi lả tả xuống. Đó là do khí biển và nhất là vì ăn thịt muối
nhiều quá. Nhiều binh sĩ thủy thủ bị chứng này. Chúng tôi dùng hết mọi
thuốc thiêng liêng và thuốc vật chất chúng tôi có thể chữa chạy, trong
một ho àn cảnh thiếu thốn mọi sự, trừ lòng can đảm. Trong số những bệnh
nhân ấy, chỉ có 5 người bỏ mạng và bỏ mạng trong 5 ngày cuối cùng của
cuộc hành trình 6 tháng 5 ngày. Sự thiệt hại có thể lớn hơn, nhưng Chúa
đã đưa chúng tôi an toàn tới bến và chúng tôi quên hết lao khổ.
TCN
bình luận: Chúng tôi ở đây là gồm 6 tu sĩ dòng tên, 3 linh mục
và 3 thày triết học (lẽ dĩ nhiên không kể các binh sĩ và thủy thủ,
(trang 10). Vì chỉ có chúng tôi mới tưởng là đã đến lúc về thiên đàng
(mù). Chúa đã bắt sóng biển phải yên? Đây là một huyền thoại trong
Tân ước. Trong cuốn sách, Rhodes đã mượn nhiều huyền thoại trong
Cựu ước và Tân ước để bịa chuyện tô điểm cho cuộc hành trình của mình
nhưng với nhiều mâu thuẫn và phản ánh một tâm cảnh ích kỷ duy ngã.
Không có bệnh tật là vì Chúa không cho, nhưng khi xảy ra bệnh tật thì là
vì ăn uống chứ không phải đó là ý Chúa. Rõ ràng là, theo Rhodes,
những người sống sót an toàn tới bến là do ơn Chúa, nhưng 5 người bỏ
mạng thì là ơn ai, Rhodes không nói đến. Chúa đã bắt sóng biển phải
yên là muốn cho mọi người trên tàu không chết chìm vì sóng gió. Nhưng
rồi lại sinh ra bệnh kỳ dị [theo Rhodes thì tất cả mọi sự đều là do Chúa
định] khiến cho 5 người phải bỏ mạng. Chắc đây lại là một kiểu “mầu
nhiệm Công Giáo”. Trong Công Giáo, những gì mâu thuẫn, không giải
thích được, thì gọi là “mầu nhiệm Công Giáo”, nghĩa là những điều tín đồ
không hiểu cũng phải tin, không được thắc mắc, đánh đồng “mầu nhiệm Công
Giáo” với những sự ngu dốt của thế gian. Tôi nghĩ đến những
Tsunamis và bão lụt như Katrina, và vô số những thiên ta đã xẩy ra trên
thế gian, nhưng hình như Chúa thường vắng mặt, chắc vì không có Rhodes
cầu nguyện.
Trang 41: Điều làm cho chúng tôi phấn khởi ở Trung quốc là
đạo Ki Tô bắt đầu đâm rễ và tôi tin chỉ ít lâu sau, sẽ đuổi hết các
đạo dối ra khỏi nước này, nơi mà khi các tu sĩ dòng (Tên) chúng tôi
có đế 620 ngàn giáo dân, 30 cha làm việc, chia làm 17 trụ sở. Nhưng bây
giờ hơn lúc nào khác, có triển vọng là thấy khắp nước Tàu theo đạo
Ki-Tô.
Một trong những thần của họ là Khổng Tử. Có kẻ phao tin các tu sĩ
dòng Tên cho phép giáo hữu tân tòng tôn kính vị này. Xin phép cho tôi
được nói rằng họ hoàn toàn sai lầm.
TCN
bình luận: Theo Rhodes thì tất cả những đạo khác ở Trung Quốc
đều là đạo dối cả. Nhưng thay vì Ki Tô Giáo, theo niềm tin của
Rhodes, sẽ đuổi các đạo dối ra khỏi nước thì chính các đạo dối này lại
đuổi Ki Tô Giáo ra khỏi nước của họ. Thống kê mới nhất, Trung Quốc
ngày nay, với trên 1 tỷ 3 dân, mà chỉ có khoảng 4 phần ngàn [0.04%]
người theo Ki Tô Giáo và Trung Quốc không công nhận Vatican, không cho
phép Vatican tuyên bổ giám mục v..v… Vậy cái niềm tin của Rhodes chỉ là
một hoang tưởng, vì không biết rằng nền văn hóa Trung Quốc cao hơn nền
văn hóa Ki-tô gấp bội. Mặt khác, Rhodes ngu đến độ coi Khổng Tử là một
vị Thần, không biết rằng Đức Khổng Tử là bậc “Vạn Thế Sư”, dạy thiên hạ
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín v..v.., không phải là một vị thần như Thần
Ki-Tô, dạy con người phải làm nô lệ, tin mù quáng vào những điều nhảm
nhí.
Trang 45: Rhodes viết về một học viện Ca-Tô để “đào tạo hết
các thợ lành nghề đem ánh sáng Phúc Âm tới khắp miền phương Đông. Từ
đây đã có rất nhiều tử đạo đã làm lừng danh dòng chúng tôi: tôi gọi tỉnh
dòng này là tỉnh có phúc vì được vinh quang (tử đạo) đó. Chỉ một mình
nước Nhật đã có 97 vị bỏ mình làm chứng thánh danh Chúa Ki-Tô. Các ngài
đã lấy máu đào để gắn bó lòng trung thành đã hứa với Thày quý mến.”
TCN
bình luận: Ánh sáng Phúc Âm, do các thợ lành nghề bịp bợm như
Rhodes mang tới, trên thực tế đã làm cho một phần rất nhỏ phương Đông,
khoảng 2%, trở thành mù mịt, tăm tối. Cái mà Rhodes gọi là “phúc tử
đạo” chẳng qua chỉ là một cái bánh vẽ trên trời, đánh lừa đám dân cuồng
tín ngu dốt. Thật vậy, ngày nay chính giáo hoàng John Paul II đã lên
tiếng cùng thế giới, phủ nhận sự hiện hữu của một thiên đàng giả tưởng.
Ngày nay, chẳng còn ai tin vào cái gọi là “phúc tử đạo”, kể cả John Paul
II. Sau khi bị ám sát và được một nhóm bác sĩ cứu sống, ông ta đã đẩy
mạnh lòng sùng tín Đức Mẹ của giáo dân và tuyên bố những lời chẳng mấy
người có đầu óc phải phì cười vì xạo: “Một bàn tay bóp cò, một bàn
tay dẫn viên đạn” [ra khỏi chỗ phạm nên ông ta được cứu sống] (Une
main tire, une main guide la balle). Và ông ta đã đóng kịch, đến Fatima
để cảm tạ Đức Mẹ. Nhưng rồi ông ta chẳng tin vào “phúc tử đạo” mà cũng
chẳng tin vào quyền năng của Đức Mẹ, nên đã cho người làm ra cái
Popemobile có lồng kính chắn đạn để ông ta ngồi an toàn trong đó, đi
khắp nơi khích động các con chiên ngu ngơ “đừng sợ”.
Trang 51: Tôi là chứng nhân và tôi có thể nói: được phái
đến đây (đàng trong) tất cả 5 lần, tôi hằng chứng kiến phép lành Chúa
ban cho đất màu mỡ này, đúng như lời thánh vương David đã ca: Trời đổ
sương xuống và toàn trái đất sinh hoa kết trái.
TCN
bình luận: Dịch giả Hồng Nhuệ ghi chú câu trên của David là
Thánh Vịnh 85, 13, nhưng thánh vịnh 85, 13 tuyệt đối không phải là câu
này, có lẽ là Psalm 104, 13 thì đúng hơn. Mặt khác, trong bản tiếng
Pháp, Rhodes chỉ viết: David nói (parle David) nhưng dịch giả Hồng Nhuệ
lại thêm vào lời ca tụng David là thánh vương. Chúng ta thấy rõ hiệu
quả chính sách nhồi sọ của Ca-Tô Giáo Rô-ma đến độ một trí thức Ca-tô
như Hồng Nhuệ cũng không biết rằng David chằng qua chỉ là xuất thân từ
một tên tướng dưới trướng của Vua Saul, thường phải gảy đàn cho Vua
nghe, về sau bị Saul đuổi bắt vì ganh tị, nên chạy trốn đi làm tướng
cướp, sau được lên làm vua thì hoang dâm vô độ, mưu giết thuộc hạ để
cướp vợ v..v… như được viết rõ trong Cựu ước, cho nên vẫn ca tụng là
“thánh vương”. Rhodes chuyên viết vu vơ là Chúa ban phép lành này nọ,
nhưng không bao giờ nói rõ là phép lành đó như thế nào, và cũng không
cần biết là người dân ở địa phương đó có cần đến cái loại phép lành này
không.
Trang 53: Được thành công mỹ mãn, dĩ nhiên thù địch chính là
ma quỉ phản kháng. Một cơn hạn hán đã xảy đến làm cho mất hi vọng gặt
hái. Lương dân liền đổ tôi cho các phù thủy mới (các giáo sĩ)
lấy cớ dạy đường lên trời, nhưng phá phách cõi đất.
TCN
bình luận: Cơn hạn hán có phải là do Chúa làm cho xảy ra không,
nếu tất cả mọi sự trên thế gian đều là do ý định của Chúa? Lương dân
không có đổ tội mà chỉ nói lên một sự thật vì đường lên trời chỉ là
một hoang tưởng thần học cổ xưa mà ngày nay không còn giá trị gì, ít ra
là đối với những người hiểu biết, kể cả các bậc lãnh đạo trong Ca-Tô
Giáo, vì không còn ai tin vào huyền thoại về “tội tổ tông”, về huyền
thoại cứu chuộc và cứu rỗi linh hồn của Giê-su. Còn phá phách cõi
đất là một sự thực lịch sử, không chỉ đối với Việt nam mà còn đối với cả
thế giới, xét đến cái lịch sử ô nhục đẫm máu của Ca-tô Giáo Rô-ma.
Ca-Tô Giáo đi đến đâu là gây chia rẽ đến đấy, và ở Việt Nam, linh mục
Lương Kim Định đã phải thú nhận là Ca-Tô Giáo đã làm cho người dân Việt
Nam, vốn đang sống trong một khối hòa thuận, bị chia rẽ làm hai khối thù
nghịch Lương , Giáo..
Trang 54: Các tông đồ kiên trì giảng Phúc Âm, đưa vào lưới
rất nhiều cá (các tân tòng) đến nỗi không thể nào kéo lên được, nên đã
kêu gào trong thư gửi về bề trên ở Ma cao để xin phái các cha đến viện
trợ, dù có gửi tới hai chục thì vẫn còn những mẻ cá lớn lao và tốt đẹp
để săn sóc.
Vì
Nhật Bản vẫn thi hành chính sách bế quan tỏa cảng nên bề trên tin rằng
Chúa cho phép sự ác đó để mở cửa cho Đàng trong nhận Phúc Âm [do các
thừa sai được phái đến].
TCN
bình luận: Trong Ca-tô Giáo Rô-ma, các tín đồ bị coi như là
súc vật, con chiên để người ta dẫn dắt đi đâu thì đi đó, như hàng tôm cá
bị mắc lưới, như những cây lúa để cho người ta gặt hái. Thật vậy,
Rhodes viết: “Chúa cho trong mẻ thứ nhất này, ngay trước khi đặt chân
lên đất, có 2 người rất thông minh sa lưới và nhất quyết xin chịu
phép rửa tội” (trg. 69); “Trong 2 tháng trời, chúng tôi được
thong dong thu lúa đầy kho Thiên Chúa, rửa tội cho 200 người. Thật là
được mùa dư dật” (trg. 70). Ở trên cõi đời này, có người nào thông
minh mà chịu chui đầu vào lưới không? Nhưng Rhodes đã nói đúng: chịu
phép rửa tội chính là sa lưới Ca-tô. Thật là tội nghiệp cho những
người hoan hỉ với thân phận con chiên, con cá, lúa cỏ. Mặt khác chẳng
có ai quăng lưới đánh cá để săn sóc cá, mà chỉ để bán, để ăn, để làm mắm
v..v.. nghĩa là muốn làm gì thì cá vẫn chỉ là số phận của con cá.
Điều ngụy
biện láo lếu nhất là Rhodes quan niệm Chúa cho phép sự ác ở Nhật Bản
để các giáo sĩ đến Đàng Trong truyền đạo. Sự ác ở Nhật là như thế
nào? Nhật Bản ra tay tận diệt các thừa sai và các tín đồ Ca-Tô phản bội
quốc gia, đóng đinh họ trên cậy thập giá nhưng ngược đầu xuống đất ở bờ
biển để khi nước thủy triều dâng lên thì họ bị chết ngộp. Với những
biện pháp quyết liệt và tàn nhẫn đối với Ca Tô Giáo nói riêng và Ki Tô
Giáo nói chung, Nhật Bản đã giữ nước khỏi bị cái họa Ki Tô Giáo trong
suốt hơn 200 năm, trong thời gian này trên đất Nhật không hề có bóng
dáng của ngay cả một linh mục thừa sai và con chiên bản địa, đỡ hẳn mối
lo âu về một số tín đồ Ca Tô sẵn sàng theo lệnh các thừa sai Tây phương
phản quốc, cho tới khi Đô Đốc Perry của Mỹ dùng 10 tàu chiến tấn công và
uy hiếp Nhật phải mở cửa giao thương và cho truyền đạo lại vào năm
1854.
Sự thực
là, các giáo sĩ thừa sai Ca Tô, vì đã bị đuổi không còn có thể hành nghề
xúi dục và gián điệp ở Nhật Bản, như chúng ta đã biết, cho nên đã kéo
tới Việt Nam, lợi dụng tính hiền hòa và hiếu khách của dân tộc Việt Nam,
không phải để rao giảng tin mừng Phúc Âm, vì thật ra, theo nhận định của
học giả David Voas, tác giả cuốn “Cuốn Kinh mang đến họa âm: cuốn Tân
Ước” (The Bad News Bible: The New Testament) cũng như theo Giáo sư
Schwartz, người đã từng dạy Thánh Kinh trong 20 năm tại hai đại học lớn
ở Hoa Kỳ, trong Phúc Âm không có chân lý mà cũng không có tin mừng,
trái lại, các giáo sĩ thừa sai chỉ chỉ mang đến những tin xấu, những
chuyện hoang đường để đưa con người vào vòng nô lệ tâm linh, mê tín dị
đoan, tin vào một cái bánh vẽ huyền hoặc trên trời và trong một đời sau,
của một tôn giáo ngoại lai mà lịch sử nhơ nhớp của nó là một sự kiện
không ai có thể phủ nhận.
Trong
cuốn Câu Chuyện Việt Nam (The Story of Vietnam, trg. 28,) Hal
Dareff đã viết lên hoàn cảnh khác biệt giữa Nhật Bản và Việt Nam trong
thế kỷ 19 như sau:
"Đóng
cửa biên giới, họ (triều đình Gia Long. TCN) sẽ tránh được sự xâm
nhập của người ngoại quốc với những lối sống xa lạ của họ. Bất hạnh
thay, trong nước đã có những người ngoại quốc rồi - Các giáo sĩ thừa
sai." (By sealing off their borders, they would keep out the
foreigner and his alien ways. Unfortunately, there were already
foreigners in Vietnam - The Missionaries.)
Như vậy,
rõ rảng là các giáo sĩ thừa sai đã mang đến Việt Nam Họa Âm chứ
không phải là Phúc Âm. Từ cái Họa Âm này mà các tín đồ Ca-Tô Việt Nam
đã trở thành những người phản quốc, giúp cho sự xâm lăng của thực dân
Pháp thành công, qua sự thú nhận của giám mục Puginier. Điển hình là vụ
linh mục Trần Lục được Puginier ban phép lành, mang 5000 giáo dân giúp
quân đội Pháp hạ trung tâm kháng chiến Ba Đình của Đinh Công Tráng. Ai
phủ nhận những sự kiện này xin mời lên tiếng.
Trang 58: “Những người này (dịch thù của giáo dân) vu
cáo và làm cho chúa (Nguyễn) không tin giáo dân nữa. Trong những tội vu
khống, có tội này: “giáo dân không thờ kính tổ tiên, lại theo đạo man
di, vứt bỏ tâm tình đối với tổ tiên, những tâm tình trời đất đặt trong
lòng mọi người.”
TCN
bình luận: Có thật là lương dân vu khống không? Lệnh cấm thờ
kính tổ tiên là từ giáo hoàng ở Vatican, không phải là vu khống. Đối
với truyền thống văn hóa Việt Nam thì đạo nào cấm thờ cúng tổ tiên đích
thực đạo đó là man di, mọi rợ. Tới công đồng Vatican II, vào thập niên
1960, “Tòa Thánh” mới “cho phép” giáo dân được thờ cúng tổ tiên. Thờ
cúng tổ tiên mà phải chờ đến 430 năm sau, từ 1533 khi Ca-tô giáo bắt đầu
xâm nhập vào Việt Nam, khi Vatican “cho phép” mới được làm, cái tinh
thần nô lệ Vatican của giáo dân Việt Nam thật là hết chỗ nói. Nhưng dù
đã được cho phép mà giáo dân Ca-Tô vẫn còn bám chặt vào điều cấm cũ kỹ,
chẳng vậy mà những người ngu đạo như ông linh mục Trần Xuân Thời nào đó
vẫn gọi làm cỗ cúng là “làm chay cúng ruồi” [Xin đọc bài “Xưng Tội
Với Lịch Sử” của Giới Tử, Phụ Lục 8, trong cuốn “Tây Dương Gia Tô
Bí Lục”]. Cái di hại của nền đạo lý Thiên-La Đắc Lộ thật là rõ
rệt.
Sau
đây là vài đoạn cho thấy sự dối trá gian manh xảo quyệt của Alexandre de
Rhodes, phóng đại những điều mê tín hoang đường quá lố để lừa bịp giáo
dân.
Rhodes
viết: “Còn tôi (Rhodes), nhờ ơn Chúa, tôi không ưa phóng đại
và ghét gian dối đến ghê tởm” (trg.65) và “Vì đạo tôi giảng, tôi
buộc mình không được nói dối, trong bất cứ trường hợp nào” (trg.
67).
Bây
giờ chúng ta hãy đọc vài đoạn khác để xem Rhodes nói láo đến mức nào.
Trang 74: Với thánh giá Chúa, với nước phép, giáo dân tốt
lành đã thông thường đuổi ma quỉ, chữa các thứ bệnh tật. Chỉ cho
uống 4,5 giọt nước thánh mà chữa được người mù và cho 2 người chết sống
lại. Họ ra đi, cắm thánh giá ở đầu, ở giữa và cuối xóm. Họ đến
thăm bệnh nhân, đọc kinh và cho bệnh nhân uống vài giọt nước phép.
Không đầy 5 ngày đã chữa khỏi 272 người.
Trang 77: Họ rất quí trọng nước phép, cứ 5,6 ngày họ lại đến
lấy.. Họ cho bệnh nhân uống với những thành quả lạ lùng. Mỗi chủ
nhật, tôi buộc lòng phải làm phép với 5 vại lớn, để thỏa mãn lòng
sốt sắng của họ.
TCN
bình luận: Nước phép hay nước thánh là nước thường đã được ông
linh mục bi bô đọc vài câu tiếng La-Tinh để biến nó thành nước phép hay
nước thánh. Rhodes đã thông thạo môn thần học bịp bợm dân ngu, nhưng
chính ông ta cũng lại ngu không thể tả được mới viết lên được những đoạn
trên. Chỉ với 4,5 giọt nước phép là có thể chữa được người mù, người
chết sống lại, và chữa khỏi mọi bệnh tật. Nhưng mỗi chủ nhật ông ta
phải phù phép biến 5 vại nước lớn thành nước thánh hay nước phép để thỏa
mãn nhu cầu của giáo dân. Một vại lớn có bao nhiêu lít nước? Một
lít nước có bao nhiêu giọt nước. Nếu tính ra thì 5 vại nước phép đó
có thể chữa cho cả nước Pháp của ông ta khỏi mù, vì trong thế kỷ 17, cả
nước Pháp đang mù vì là toàn tòng Ca-Tô Giáo. Nhưng ngày nay, chẳng cần
đến nước phép hay nước thánh (holy water) gì đó mà Pháp cũng đã ra khỏi
cảnh mù rồi. Giáo dân Việt Nam dùng loại nước phép đó đã mù lại càng
mù thêm vì cái đạo lý Thiên-La Đắc-Lộ bịp bợm hoang đường quá lố lăng
chẳng có ai có thể tin được.. Hồng Nhuệ chắc tin nên mới dịch cuốn
sách này để cho chúng ta thưởng thức. Xin mời ông lên tiếng nhận xét về
mấy đoạn trên của Rhodes.
Chúng ta
hãy đọc tiếp vài chuyện rất hoang đường mà Rhodes kể như là những phép
lạ, do hiệu quả của nước thánh do tay Rhodes làm ra, hay của bí tích rửa
tội. Tôi sẽ không bình luận những đoạn này, chỉ để cho độc giả thưởng
thức thêm thôi, nếu có thể thưởng thức nổi.
Trang 75: Có một cậu thanh niên tên là Benoit, mẹ bị bệnh
chết. Do ơn Chúa thúc đẩy, cậu xin giáo dân tới chia buồn đọc kinh cầu
nguyện bên giường người chết, xác đã cứng lạnh và bất động từ 6 giờ đồng
hồ. Họ đến quì gối, Benoit đọc lớn Kinh Lạy Cha và Kinh Kính Mừng, rồi
rảy nước thánh lên mặt mẹ, tức thì bà mở mắt, không những bà sống mà còn
hoàn toàn khỏi bệnh. Bà chổi dậy rồi cùng quì xuống với mọi người đồng
thanh khen ngợi Chúa đã ban cho phép lạ rất hiển nhiên.
Trang 82: Tôi ở 3 tuần trong thuyền chiến, thời gian đủ để
cho 24 lính gác xin theo đạo, còn thuyền trưởng thì sau 15 ngày cũng xin
theo bởi vì thấy một phép lạ hiển nhiên. Số là có một trận bão lớn làm
nguy tới tính mạng. Chúng tôi liền rảy một chút nước phép xuống biển,
đọc Kinh Lạy Cha, tức thì sóng yên biển lặng.
Trang 97: Trong tỉnh Hà Lâm, tôi gặp một giáo dân đạo đức
tên là Emmanuel, ma quỉ thù ghét ông, đã xúi giục rất nhiều thù địch,
ngay cả họ hàng, làm cho ông không được yên, nhưng Thiên Chúa đứng về
phía ông. Người mạnh hơn mọi kẻ hành hạ ông [giống như Thiên Chúa
đứng về phía cậu bé David khi chiến đấu với người khổng lồ. TCN].
Một trong những nười hàng xóm cứ luôn luôn xỉ vả ông, sau khi hành hạ
ông suốt ngày, thì cuối cùng vào chiều tối ngày hôm đó, hắn bị Chúa phạt
chết bất thần.
Trang 104: Một thày lang tên là Emmanuel mắc bệnh hiểm
nghèo. Một ngày khia, khi giáo dân vây quanh giường, ông kiệt sức quá
làm cho người ta tưởng ông đã tắt thở. Sau mấy giờ ông lại hồi tỉnh,
ông nói Chúa đã cho ông thấy thiên đàng, nơi có nhiều sự tuyệt vời ông
không thể nào tả hết được [Giáo hoàng John Paul II đã phủ nhận sự
hiện hữu của một thiên đàng do hoang tưởng. TCN]
Trang 106, 107: Tôi muốn nói ở đây là việc giải thoát hai
người đàn bà bị quỉ ám nhờ phép rửa. Từ lâu cả hai bị ma quỉ hành hạ.
Người thứ nhất được khỏi ngay khi tôi làm phép trừ tà thần lần đầu tiên
để chuẩn bị phép rửa tội, như thể tên ngụy đã ra đi ngay khi nghe hoàng
tử hợp pháp sửa soạn ngự tới, còn người thứ hai thì phải vất vả hơn.
Trước khi làm phép bí tích, tôi tưởng phép trừ tà đủ hiệu quả như đối
với người thứ nhất, và tôi tiếp tục trong mấy ngày, thế nhưng quỉ vẫn
không núng. Thấy nó ngoan cố nên tôi đi vượt mức và cho bà phép rửa
tội, có chúa Thánh Thần hiện diện trong linh hồn, đuổi tên ngụy tặc ra
khỏi thân xác. Tôi kể lại việc đã thấy và không thể kể lại mà không ca
ngợi sức mạnh của phép bí tích vì vừa khi tôi đọc lời thành phép và đổ
nước trên đầu thì mặt bà biến sắc, mất vẻ thảm hại, điên cuồng và trở
nên bình thản làm cho mọi người phải kêu lên “phép lạ!”, “phép lạ!”.
Trang 118: Có một thanh niên con nhà gia giáo ở tỉnh Bao Ban
(??) bị bệnh gần chết. Cha mẹ rất thương con vì là con một, đã hết sức
chữa chạy và cậy các lương y cùng các phép phù thủy dị đoan. Nhưng sau
khi thấy không cứu được con thì đành chạy đến xin thuốc của giáo dân
Mathêu. Ông liền đi tới nhà anh với những liều thuốc thông thường: nước
phép và một ảnh thánh giá. Thấy bệnh nhân gần tắt thở nhưng ông không
thất vọng. Ông bắt đầu đọc Kinh Cầu Hồn rồi đọc Kinh Cứu Sống Thân Xác
và thấy anh hầu như sắp qua đời, ông làm phép rửa tội (Giáo dân có
quyền làm phép rửa tội??) cho anh. Tức thì bệnh nhân mở mắt và thấy
mình hoàn toàn khỏi bệnh và đứng dậy ngay.
Đó là vài
chuyện hoang đường Rhodes kể để cho những người ngu tin và dụ người ta
vào đạo. Nhưng vì chính Rhodes cũng lại ngu hơn ai hết, nên đã viết lên
một đoạn chứng tỏ sự lưu manh bịp bợm với màn nước phép của Rhodes.
Đoạn đó như sau:
Trang 143: Vào tháng 6 năm 1644 tôi bị một cơn sốt nặng và
tưởng không sao qua khỏi. Tôi cho mời lương y có tiếng tới. Ông
cho tôi uống thuốc ta, dặn cách xắc và uống. Tôi uống trong 2 ngày và
ngày thứ ba tôi hết sốt, sau đó ít lâu hoàn toàn bình phục.
TCN
bình luận: Rhodes đã lòi cái đuôi bịp bợm ra ở đây. Nước
phép của ông ở đâu sao không uống? Có thể ông ta không biết cách
chữa sốt. Cứ mang 5 vại nước phép ra đổ lên đầu thì may ra nước lạnh
sẽ làm hạ cơn sốt. Ông ta cũng chẳng thèm cầu nguyện Chúa nữa?
Chúa đã bắt sóng biển phải yên thì nhằm nhò gì một cơn sốt của một tông
đồ. Nhưng ông ta chỉ lừa bịp người khác để truyền giáo chứ ông ta
đâu có dại. Sốt thì ông ta mời lương y, và thuốc ta có hiệu quả hơn
nước phép hay nước thánh mà chính tay ông ta phù phép làm ra nhiều. Đó
là sự gian manh bịp bợm trong sách lược truyền giáo của Alexandre de
Rhodes. Mặt khác trong cuốn sách, có nhiều đoạn Rhodes ca tụng “phúc tử
đạo”, nhưng khi bị lùng bắt thì ông ta hết sức tìm cách trốn tránh, hay
bị bệnh rồi khỏi thì ông ta biện minh bằng lý luận xảo quyệt:
Trang 193: “Tôi đã quá táo bạo tưởng mình đáng được triều
thiên quí hóa, mặc dầu chưa xứng đáng” (được phúc tử đạo);
Trang 256: Chúa tìm cách ách tôi lại bằng một cơn bệnh
hiểm nghèo, làm tôi tưởng đến đại hành trình về thiên quốc; nhưng thực
ra tôi chưa xứng đáng.
Có lẽ
từng đó cũng đủ để cho cho chúng ta thấy rõ bộ mặt truyền giáo gian manh
của Alexandre de Rhodes: bịa đặt những chuyện hoang đường mà ngày nay
không ai có thể lập lại được những màn phép lạ của nước thánh, phóng đại
sự việc một cách quá lố lăng, dụ những người dân thấp kém vào con đường
mê tín. Nhưng có một chuyện tôi thấy cần phải nêu ở đây, đó là chuyện
về cái chết của André ở Phú yên, một trong 117 người được giáo hoàng
John Paul II phong thánh trước đây. Chúng ta hãy đọc Rhodes mô tả cuộc
hành hình André như thế nào và có thể thấy không có gì có thể hoang
đường hơn.
Trang 147, 148: Khi thấy tôi và sau khi người ta lên án
tử hình, thì thày Anrê hớn hở lạ lùng. Chúng không cho tôi ở
bên trong vòng lính, nhưng viên đội trưởng cho phép tôi vào đứng cạnh
thày. Một tên lính lấy giáo đâm thày từ phía lưng, thâu qua ngực chừng
hai bàn tay. Lúc đó thày Anrê nhìn tôi âu yếm như thể vĩnh biệt tôi..
Cùng tên lính rút giáo ra đâm lần thứ hai, rồi đâm lại lần nữa như thể
tìm trái tim thày. Nhưng người vô tội vẫn không nao núng, thật là kỳ
diệu. Sau cùng tên đao phủ thấy lưỡi giáo không làm cho thày lăn xuống
đất, liền lấy mã tấu chém cổ, nhưng vẫn chưa xong, phải thêm nhát nữa
làm đứt hẳn cổ, đầu rơi về bên tay phải chỉ còn vướng mảnh da. Nhưng
tôi nghe rất rõ lúc đầu rơi khỏi cổ thì tên thánh Chúa Giê-su không phải
từ nơi miệng thày thốt ra mà qua vết thương ở cổ và cùng lúc hồn bay về
trời thì xác lăn xuống đất. Ba ngày sau khi người mất, một vụ hỏa
tai đã xảy ra trong thành Anre6 bị hành hình. Nhà tù nơi giam người,
tất cả khu phố người đi qua và mấy đền tà thần đều bị thiêu hủy.
Nếu
người nào tin được những điều Rhodes viết ở trên, đầy mâu thuẫn và phi
lý, thì người đó đúng là một con chiên ngoan đạo Việt Nam.
Thay Lời Kết: Tôi vẫn thường thắc mắc, tại sao trong thời
buổi này mà tín đồ Ca-tô Việt Nam lại vẫn còn ngoan đạo nhất thế giới,
theo nghĩa tinh thần nô lệ Vatican cao nhất, khúm núm trước “bề trên”
nhất, cuồng tín nhất, mê tín nhất, chăm đi lễ nhà thờ nhất, chăm đi xưng
tội nhiều nhất, và chăm ăn bánh thánh nhiều nhất, khác hẳn với những tín
đồ Ca-tô trong thế giới văn minh Âu Mỹ. Nay đọc cuốn Hành Trình
Và Truyền Giáo của Alexandre de Rhodes tôi mới hiểu, đó là cái di
sản của nền đạo lý Thiên-La Đắc Lộ. Nền đạo lý Thiên-La Đắc Lộ đã
thấm sâu trong những ốc đảo Ca-tô ngu dốt (từ của Linh Mục Trần Tam
Tĩnh) như Bùi Chu, Phát Diệm, Vĩnh Sơn, Hố Nai, Gia Kiệm v..v.., từ đời
này sang đời khác, cha truyền con nối, và được các bề trên giam giữ
trong vòng mê hoặc tâm linh, cho nên ngoài việc cầu kinh mấy lần một
ngày, chăm đi lễ nhà thờ, hoàn toàn vâng phục bề trên v..v.. giáo dân
không còn biết gì đến thế giới bên ngoài đã tiến bộ như thế nào, và lẽ
dĩ nhiên cũng không biết đến thực chất đạo mình ra sao nữa.. Bởi vậy mà
ngày nay những bậc chăn chiên Việt Nam vẫn tiếp tục mê hoặc giáo dân
bằng những niềm tin vô căn cứ, đã lỗi thời, sản phẩm ngụy tạo của nền
Thần học Ca-tô. Thật vậy, trên diễn đàn
tiengnoigiaodan.net, Linh mục Ngô Tôn
Huấn vẫn tiếp tục dẫn giáo dân vào vòng nô lệ Vatican như sau:
Giáo Hội Công Giáo nhìn nhận và tuân
phục Đức Giáo Hoàng La Mã là vị Đại Diện (Vicar) duy nhất của
Chúa Ki tô trên trần thế và là người kế vị Thánh Phê rô trong nhiệm
vụ chăn dắt toàn thể Giáo Hội.
Và cũng trên tiengnoigiaodan.net, Linh mục
Vũ Đức ở Detroit vẫn tiếp tục giảng cho tín đồ:
“LINH MỤC là ai? Trả lời
một cách ngắn gọn và đầy đủ Ngài là CHÚA KITÔ THỨ HAI (Alter Christus)
như thế thưa Cha mới [vừa mới được phong linh mục]: từ nay Cha là Chúa
KITÔ.”
Và trên Vietcatholic, Đức Ông Nguyễn Quang Sách
vẫn còn mang cái gọi là Dứt Phép Thông Công hay Tuyệt Thông ra mà hù dọa
giáo dân, và có tên ngu đạo còn đòi tòa thánh phải dứt phép thông công
Hồng y Phạm Minh Mẫn vì ông ta đã phát biểu những điều không hợp ý họ,
không biết rằng trong thế giới tiến bộ Âu Mỹ, Linh Mục James
Kavanaugh đã vạch rõ bản chất và ý nghĩa hoang đường của Hình
Phạt Hù Dọa Tuyệt Thông Của Tòa Thánh, như sau:
Tôi thấy khó mà có thể tin được là trong thời đại kỹ thuật không gian
này mà một đoàn thể tôn giáo (Ca-Tô giáo Rô-ma. TCN)
lại có thể quá lỗi thời để tin rằng một hình phạt thuộc loại huyền
thoại như vậy vẫn còn có ý nghĩa gì đối với con người.
...Tuyệt
thông, trong nhiều thế kỷ, đã là vai trò của giới quyền lực đóng vai
Thượng đế . Đó là sự chối bỏ sự tự do suy tư của con người một
cách vô nhân đạo và phi-Ki-tô. Nhưng nhất là, nó đã là nỗ lực điên
cuồng của một quyền lực, vì quá lo sợ mất đi quyền lực của mình, nên
phải kiểm soát tín đồ thay vì hướng dẫn họ đi tới một tình yêu thương tự
do và trưởng thành.
Tuyệt thông toan tính biến sự thực chứng tôn giáo thành một trại huấn
luyện quân sự trong đó sĩ quan phụ trách nhào nặn lên những người máy
trung thành bằng cách làm chúng ngạt thở bởi giam hãm và sỉ nhục. Có
thể những phương pháp này có nghĩa trong việc huấn luyện con người để
chiến đấu ngoài mặt trận. Những phương pháp này thực là trẻ con và
bất lương khi xử lý với sự liên hệ của con người đối với Thượng đế;
nhưng thật không thể tin được là chúng vẫn còn tồn tại.
(I
found it hard to believe that in the age of space technology a religious
body could be so out of touch as to believe such a mythological penalty
could have any meaning left for man.
...Excommunication had for centuries been authority's way of playing
God. It was the inhuman and unchristian denial of man's freedom of
conscience. But most of all it had been a deeply frigtened authority's
frantic effort to dominate and control men and woman rather than to
direct them toward a free and mature love. Excommunication attempted to
turn the religious experience into a boot camp where the officer in
charge aspires to build loyal robots by smothering them with confinement
and indignity. Perhaps such methods might have had meaning in preparing
man for combat. They are only childish and dishonest in dealing with a
man or woman's relationship with God, but incredulously they still
exist.)
Đọc
cuốn Hành Trình Và Truyền Giáo, chúng ta thấy điều hiển nhiên là
Rhodes đã mang những chuyện trong cuốn Kinh của Ki Tô Giáo, Cựu Ước cũng
như Tân ước, để lòe bịp đám dân ngu dốt bằng những chuyện hoang đường
như Thiên Chúa mạnh hơn tất cả, Giê-su làm cho người mù sáng mắt, làm
cho người chết sống lại, làm yên sóng biển v..v.. chứ còn trên thực tế
không ai ở trên đời này có thể làm được những “phép lạ” như vậy.
Điều này đã được học giả Helen B. Lamb viết trong cuốn Ý Chí
Sống Còn Của Việt Nam [Vietnam's Will to Live] như sau:
Nhiều
bản báo cáo thời đó mô tả sự việc các thừa sai đã mang vào Việt Nam một
số lượng lớn Âu dược chữa bệnh cho dân chúng để "chiếm lòng họ."
(Linh mục de Courtaulin, trích trong tác phẩm của
Taboulet, trg. 42). Nhưng trong những hoạt động dụ người vào đạo,
các thừa sai Ca Tô đã khai thác sự sợ hãi và hi vọng của đám dân ngu dốt
và nhẹ dạ cả tin. Những kẻ tân tòng coi Ki Tô Giáo như là một hệ thống
ma thuật mới. Nước thánh Ca Tô được dùng với hi vọng có thể đuổi được
quỷ ám, cứu người chết sống lại, làm cho người mù sáng mắt trở lại
v...v..
[...Early
reports describe how a large quantity of Western medicines was brought
to Vietnam so that the missionaries could administer them "in order to
win the hearts of these peoples" (Father de Courtaulin, quoted in
Taboulet, p.42). But in their proselytizing activities many Catholic
missionaries exploited the fears and hopes of the ignorant and the
credulous. Christianity was regarded by those who adopted it as a new
system of magic. Catholic holy water was used, hopefully, to exorcise
devils, raise the dead, and restore sight to the blind...]
Tôi thực
tình không hiểu giá trị cuốn Hành Trình Và Truyền Giáo của
Alexandre de Rhodes là ở chỗ nào khiến cho Hồng Nhuệ phải mất công dịch
và được Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo TP Hồ Chí Minh phổ biến. Phải chăng
dịch giả Hồng Nhuệ muốn cho người dân Việt Nam biết những sự thật lịch
sử liên quan đến sách lược truyền giáo bịp bợm ở Việt Nam của những thừa
sai như Alexandre de Rhodes. Nếu như vậy thì những người dân Việt Nam
không đọc tiếng Pháp phải cám ơn ông Hồng Nhuệ vì đã giúp họ hiểu rõ bản
chất và thực chất sách lược truyền giáo của các thừa sai Ca-tô ở Việt
Nam, và từ đó họ có thể thấy được bản chất và thực chất của Ca-tô Giáo
Rô-ma.
Chắc có
người, kể cả bạn và thù, tuy rằng tôi không coi ai là kẻ thù, cho rằng
viết những bài về Ca-tô giáo, tôi đã gây chia rẽ tôn giáo hoặc đã bài
bác chống “Công giáo” quá khích. Một lần nữa, tôi cần phải nhắc lại lập
trường của tôi là “giải hoặc Ki Tô Giáo” bởi vì Ki Tô Giáo đã dạy con
người những điều huyền hoặc phi lý trí, phản khoa học v..v.. mà thời đại
thông tin điện tử ngày nay không thể chấp nhận được. Mở mang dân trí,
giải hoặc quần chúng, là bổn phận của mọi công dân hiểu biết, không phải
của riêng ai. Đây là điều mà rất nhiều trí thức Tây Phương đã làm đối
với quần chúng Tây phương, nghiên cứu, trình bày và phổ biến về mọi khía
cạnh của Ki Tô Giáo, trong những quốc gia mà Ki Tô Giáo là tôn giáo
chính mà không có bất cứ một sự chia rẽ hay xẩy ra một sự xung đột nào.
Không lẽ người Việt Nam chúng ta lại không thể làm những chuyện có ích
lợi cho quần chúng này, tôi không nghĩ ra một lý do nào. Về Ca-tô giáo
Rô-ma, tôi xin hỏi, với cái lịch sử bạo tàn đẫm máu của Giáo hội Ca-tô
Rô-ma, với nền đạo lý Thiên-La Đắc Lộ mà các thừa sai Ca Tô đã di hại
cho dân Việt Nam, thì chúng ta có nên chống hay không, có nên mở mang
dân trí để họ có thể thoát ra khỏi cái ngục tù tâm linh hay không? Tôi
không chống bằng gươm giáo, súng đạn, mà chống bằng sách vở nghiên cứu
của chính những người tiến bộ trong Ca-tô Giáo Rô-ma.
Người ta
có thể cho rằng, vấn đề tín ngưỡng và đức tin là vấn đề riêng tư, và đó
là một quyền căn bản của con người. Tuy nhiên, trong một quốc gia,
người ta không thể dựa vào tín ngưỡng và đức tin để có những hành động
phương hại đến xã hội và dân tộc. Mặt khác, không phải là cứ thuộc về
tín ngưỡng hay đức tin, mà một tôn giáo được miễn nhiễm, tự do muốn làm
gì thì làm, bởi vì từ đức tin con người sẽ có những hành động liên hệ
đến mọi vấn đề xã hội.
Michael Jordan đã viết rất đúng, trong cuốn Mary,
Weidenfeld and Nicolson, London, 2001, trang 304, về những tín lý và đức
tin trong Ca-tô Giáo Rô-ma, và nhận định này có thể áp dụng cho bất cứ
một đức tin nào về bất cứ một đối tượng nào:
Tuy nhiên đức tin cũng cần phải có một mức độ đạo đức nào đó ngoài
sự tin vào một nguyên lý trừu tượng. Đức tin cần được xây dựng trên sự
tín nhiệm và tin tưởng, sự trung thực của những hứa hẹn lương thiện
và thẳng thắn, nếu không thì đức tin đó có ích gì. Nếu đức tin
đặt căn bản trên những lời nói láo, dối trá, và những mánh khóe có tính
toán, thì nó trở thành không sao biện minh được và thực ra thì đó có thể
gọi là đức tin hay không? Nếu chúng ta vẫn còn là đàn chiên quá
ngu dốt và mê tín trong đó sự lừa dối về Mary đã bắt rễ và bóp méo để
trở thành một “chân lý không thể sai lầm”, chúng ta có thể tự bào chữa
là đã bị lùa vào trong đó. Nhưng ở bình minh của thế kỷ 21,
nhiều người chúng ta không thể tự cho phép là ngu dốt hay mê tín, và đức
tin bị che mắt của chúng ta phải mở rộng cho những phê bình nghiên cứu
đứng đắn. Điều này đặc biệt đúng khi chúng ta biết rằng có sự tin
mù quáng ở trong đó và cái hiểu của chúng ta về một Mary giả tưởng đã bị
kiểm soát bởi những người đã nhân danh tôn giáo, quyết định bảo vệ quyền
lợi và vị thế gia trưởng trong xã hội của mình.
Đức tin không đồng đều một cách phổ quát. Nhiều triệu tín đồ
Ca-tô, thí dụ như ở Nam Mỹ [có nên
cho thêm Việt Nam vào cái thí dụ này không], phần
lớn là ít học và đức tin của họ về Mary vẫn hầu như là đức tin mù quáng.
Cũng có những người thuộc lớp có học thức cao ở trong giáo hội
đã biết những mánh khóe lừa dối qui mô trong giáo hội nhưng vẫn chọn
giải pháp duy trì sự tồn tại của chúng..
Hiển nhiên là hệ thống quyền lực bảo thủ Ca-Tô
có lý do để nuôi dưỡng những huyền thoại về Mary và ủng hộ việc giữ
nguyên hiện trạng của sự sùng tín Mary của họ. Giáo hội Ca-tô Rô-ma
vẫn cương quyết duy trì tín lý về tội tổ tông gian lận lồng vào thế giới
bởi người đàn bà đầu tiên, và tồn tại qua “tai họa của Eve”.
Khi thời gian mãn, tôi tin rằng hình ảnh Mary, mẹ của Giê-su
Ki-tô, sẽ mờ đi. Chân dung của bà ta đã đem xuống cho chúng ta trên
những cánh của một huyền thoại lâu đời nhưng ngay cả cái huyền thoại hay
nhất trong các huyền thoại cũng phải mờ nhạt đi trong thời gian… Có
thể có vài chi tiết lịch sử đúng về bà ta nhưng hầu hết chỉ là một
chuyện hoang đường, một sự lừa dối thô thiển. Một phần là, chuyện
hoang đường và lừa dối thô thiển này tồn tại để đáp ứng những tham vọng
của một thiểu số.
[Yet faith also needs to involve some
measure of morality beyond belief in a pure abstract principle. It
needs to be built on trust and confidence, the fidelity of promises
given honestly and openly, otherwise there is no point in having it. If
faith is founded on lies, deceit and calculated manipulation, then it
becomes impossible to justify and there even a question mark against
whether it can reasonably be called faith. Were we still the largely
ignorant and superstitious flock in whom the Marian deception first took
root and in whom it became twisted into an “infallible truth”, we might
have an excuse for being taken in by it. But at the dawn of the
twenty-first century, many of us can no longer claim to be ignorant or
superstitious and our blinkered faith becomes open to more serious
criticism. This is particularly true when we know that bigotry is
involved and that our understanding of a fictious Mary has been
controlled by men with vested interests, determined to safeguard their
own patriarchal social position in the name of religion.
Faith is not universally practised at the same level. Millions of
Catholics, in South America for example, are largely uneducated and
their faith in Mary remains almost a blind one. There are also ranks of
highly educated men in the church who know the extent of the
manipulation and deceit and choose to perpetuate it…
The conservative male hierarchy of Roman Catholicism clearly has
reason to nurture the Marian myth and to support the status-quo in her
cult. The Roman Catholic Church remains firmly committed to the dogma
of original sin foisted on the world by the first woman, and
perpetuated through “the curse of Eve”…
In the fullness of time, I believe that the
image of Mary, the mother of Christ, will grow dim. Her portrait has
been carried down to us on the wings of an enduring myth but even the
best of myths tend to fade with the passage of time… She may be able to
claim some element of historical truth but she is mostly a fable, a
gross deception. In part, it has been perpetrated to suit the
self-seeking demands of the few.]
Vấn đề
của chúng ta ngày nay là, sau khi đọc cuốn Hành Trình Và Truyền Giáo
của Alexandre de Rhodes mà tôi vừa trích dẫn vài đoạn điển hình ở trên,
chúng ta cần phải đặt câu hỏi: Đức tin được tạo thành từ cái đạo lý
Thiên-La Đắc–Lộ có phải là một đức tin đặt căn bản trên những lời nói
láo, dối trá, và những mánh khóe có tính toán hay không? có thể biện
minh được hay không? và thực ra thì đó có thể gọi là đức tin hay không?
Tôi nghĩ câu trả lời đã thật rõ ràng.
Trần Chung Ngọc
Kính mời đọc thêm bài :
Alexandre de Rhôdes và Chữ Quốc Ngữ của tác giả Charlie Nguyễn
Các bài về lịch sử cùng tác giả
Ai Là Ác Nhân Nhất Thế Kỷ 20 ? (Trần Chung Ngọc sưu tầm)
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” (Trần Chung Ngọc)
Nguyễn Trường Tộ - Từ Huyền Thoại Đến Thực Chất (Trần Chung Ngọc)
Nhận Định Về DVD "Sự Thật Về Hồ Chí Minh" (Trần Chung Ngọc)
Thư mục để tham khảo (Trần Chung Ngọc)
Tôi Đọc Bài Của PCD Về ĐT Võ Nguyên Giáp (Trần Chung Ngọc)
Vài Nét Về Cụ Diệm (Trần Chung Ngọc)
Vài Nét Về Cụ Hồ -1 (Trần Chung Ngọc)
Vài Nét Về Cụ Hồ -2 (Trần Chung Ngọc)
Xét Lại Huyền Thoại Nguyễn Trường Tộ - Nhân Đọc... (Trần Chung Ngọc)
ĐIỆN BIÊN PHỦ, hay Đâu Là “Sự Thật Lịch Sử” Của Lữ Giang (Trần Chung Ngọc)