Phát Diệm: Chủ Nghĩa Dân Tộc, Tôn Giáo, Và

Nét Nhận Dạng Trong Chiến Tranh Pháp-Việt Minh

Ronald H. Spector

Người Dịch: Trần Thanh Lưu

http://sachhiem.net/SACHNGOAI/snT/TThL5.php

30-Dec-2013

Nguồn:

“Phat Diem: Nationalism, Religion, and Identity in the Franco-Viet Minh War”

Tạp Chí Nghiên Cứu Về Chiến Tranh Lạnh. (Journal of Cold War Studies) Summer 2013, Vol. 15, No. 3, Pages 34-46
Posted Online October 7, 2013.
(doi:10.1162/JCWS_a_00369)
http://www.mitpressjournals.org/doi/abs/ 10.1162/JCWS_a_00369
© 2013 by the President and Fellows of Harvard College and the Massachusetts Institute of Technology

Ronald H. Spector là một giáo sư sử học và bang giao quốc tế tại Đại Học George Washington.

... Kinh nghiệm của Phát Diệm làm rõ giá trị về bản chất của "Chiến Tranh của Pháp” ở Đông Dương và về cuộc chiến tranh chống nổi dậy và cuộc nội chiến nói chung. Như Nguyễn Liên-Hằng quan sát, các cuộc chiến tranh ở Việt Nam, từ lâu thường được nghĩ theo lối trắng đen - thực dân chống với quân nổi dậy, người Cộng sản chống với người chống Cộng, Bắc chống với Nam - có thể được hiểu tốt hơn về sắc thái khác nhau của đa màu.

Trong cuốn tiểu thuyết “The Quiet American – Người Mỹ Trầm Lặng” của Graham Greene, có lẽ là cuốn tiểu thuyết tiếng Anh về Việt Nam được đọc rộng rãi nhất, nhà báo Anh Thomas Fowler đã đến hiện trường của một cuộc chiến giữa người Pháp và Việt Minh ở thị trấn Phát Diệm nằm rìa phía nam của đồng bằng sông Hồng khoảng 120 dặm về phía đông nam Hà Nội.


Khu nhà thờ Phát Diệm

Ông mô tả quang cảnh:

Tôi đã biết rõ Phát Diệm nhiều ngày trước những cuộc tấn công - một con đường phố hẹp và dài của những quầy hàng bằng gỗ, cắt ngang mỗi gần trăm mét bởi một con kênh, một nhà thờ và một cây cầu. Về đêm nó chỉ thắp sáng bằng nến hoặc đèn dầu nhỏ… và ngày hay đêm đường phố luôn chật chội và ồn ào. Trong lối sống thời trung cổ kỳ lạ của nó, dưới bóng phủ và bảo vệ của Giám mục Hoàng tử (LND: ám chỉ thời Trung cổ ở Âu châu), nó là thị trấn năng động nhất trong nước và bây giờ nó đã chết. Đống đổ nát và thủy tinh vỡ và mùi sơn cháy và vữa và lòng đường dài trống vắng đến ngút mắt.(1)

Các cuộc đụng độ tại Phát Diệm là một phần của cuộc tấn công quy mô lớn của Việt Minh vào tháng 5, tháng 6 năm 1951 tại khu vực sông Đáy, nhắm đến các thị trấn Nam Định, Ninh Bình, Phát Diệm, và Phủ Lý. Chiến tranh kéo dài từ cuối tháng 5 đến giữa tháng 6, khi các lực lượng Việt Minh, bị thiếu vũ khí, và bị cắt đứt khỏi đường tiếp tế đã phải rút lui. Tuy nhiên, bằng cách cầm chân quân phòng vệ của Pháp và quân tiếp viện của họ trong bốn thị trấn trọng điểm, các đơn vị tấn công của Việt Minh đã làm các lực lượng Việt Minh khác có thể xâm nhập vào các vùng khác của đồng bằng, thu tóm các vụ thu hoạch lúa, và tìm kiếm những tuyển mộ mới.(2)

Thương vong của cả hai bên đều nặng nề, mặc dù các con số chính xác không được biết rõ. Pháp tuyên bố rằng phía Việt Minh thiệt hại khoảng 9.000 người. Thương vong phía Pháp bao gồm con trai của Tướng Delattre de Tassigny, vị chỉ huy trưởng và Toàn quyền Đông Dương. Ngày nay, nhiều nghĩa trang quân sự chạy dọc theo Quốc lộ 1 đi qua vùng đồng bằng sông Đáy. Bài viết này gơi ý cho thấy rằng việc liên kết (với Pháp) hay vai trò quân sự quan trọng của Phát Diệm không làm cho thành phố đáng được chú ý. Thay vào đó, Phát Diệm được biết đến rõ một cách bất thường, bản chất thật sự của Chiến Tranh Lạnh ở Châu Á trong thập kỷ từ khi Nhật đầu hàng vào năm 1945 cho đến Hội nghị Geneva năm 1954. Với nhiều người thì cụm từ "chiến tranh lạnh" có nghĩa là cuộc tranh giành mở rộng ảnh hưởng giữa Liên Xô và Hoa Kỳ trên toàn Châu Âu từ khoảng 1947-1989. Viết về giai đoạn này, nhà sử học John Lewis Gaddis đã sử dụng cụm từ "nền hòa bình lâu dài” (the long peace) để mô tả thời kỳ này với sự tiếp tục kình địch và thỉnh thoảng khủng hoảng nhưng không thực sự xảy ra cuộc đụng độ quân sự nào, một cụm từ sớm được chọn và sử dụng bởi nhiều người viết khác.(3)

Khoảng cùng thời gian "nền hòa bình lâu dài" của Gaddis đã được phổ biến trong giới kinh viện, Thiếu tá  I. S. Gibb, một quân nhân chuyên nghiệp người Anh đang hoàn thành cuốn hồi ký cá nhân của mình về nghĩa vụ quân sự ở các địa phương khác nhau của châu Á. Hồi tưởng về "Bốn mươi năm kể từ khi lần đầu tiên tôi bước lên bờ ở Bombay vào năm 1945," Gibb xúc động nhận xét, "Từ đó đến bây giờ nào là giao tranh, nào là nổi dậy, nào là các cuộc chiến tranh Pakistan chống lại Ấn Độ, Ấn Độ chống lại Trung Quốc, Bắc Triều Tiên chống lại Nam Triều Tiên, Pháp chống lại Việt Minh, báo động ở Malaysia, đối đầu ở Borneo, cuộc cách mạng ở Trung Quốc, Bắc Việt Nam chống lại Nam Việt Nam."(4) Trong mười năm sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới II ước tính đã có 2.500.000 người đã thiệt mạng trong cuộc xung đột vũ trang ở Trung Quốc, khoảng 2.000.000 ở Triều Tiên, và khoảng 400.000 ở Đông Dương. Cùng lúc hàng chục ngàn người chết trong các cuộc chiến tranh ở Malaysia, Indonesia, và Philippines.

Như vậy ở châu Á Chiến Tranh Lạnh không hẳn là một thời điểm của "nền hòa bình lâu dài." Nó cũng chẳng nhất thiết là chuyện chủ nghĩa cộng sản, vũ khí hạt nhân, chủ nghĩa tư bản, bao vây, hoặc dân chủ. Nói rằng đó là chuyện "giải thực" (decolonization) có vẻ chính xác hơn, nhưng những xung đột "hậu thuộc địa" không chỉ đơn thuần là đấu tranh cho quyền tự quyết và độc lập. Như Frederick Cooper đã quan sát, các nhà sử học về giải thực thường không nhận ra rằng "các nhóm khác nhau giữa các dân thuộc địa có thể mang lịch sử và lợi ích riêng của họ tham gia một cuộc đụng độ phức tạp với một cường quốc thuộc địa."(5)

Trong nhiều nước châu Á, việc Nhật Bản chiếm đóng và hậu quả kéo theo sự kết thúc hoặc suy yếu của chế độ thực dân làm bung ra những lực lượng chính trị và ý thức hệ mới và làm sống lại của các cuộc tranh cãi và mục tiêu cũ. Chính quyền các cấp đã trở nên suy yếu, và các đối thủ mới tranh giành chính quyền xuất hiện. Ranh giới cũ và sự ràng buộc của cộng đồng bắt đầu biến mất. Sự khác biệt vùng miền, chủng tộc, tôn giáo đã được mài dũa sắc nhọn hơn.

Do đó các cuộc chiến tranh hậu thuộc địa ở châu Á, mặc dù thường được Mỹ xem là cuộc đấu tranh giữa các lực lượng Cộng sản và không cộng sản hoặc giữa thực dân và phong trào độc lập, hầu như luôn luôn có rất nhiều khía cạnh của cuộc nội chiến, cướp bóc, và tôn giáo, dân tộc, hoặc xung đột vùng miền. Điều này rõ ràng nhất ở Trung Quốc và Triều Tiên, nhưng nó cũng là hiển nhiên ở Indonesia, nơi người Java, Sumatra, Amboin, Trung Quốc, và người lai Âu-Á chiến đấu cho cả hai, theo và chống lại Republik (nền Cộng Hòa), và tại Malaysia, nơi mà các "tình trạng khẩn cấp" đặt ra vấn đề về tương lai của dân Malaya gồm ba sắc dân chính cũng như cuộc đấu tranh chống quân nổi dậy Cộng sản.(6)

Như nhà nhân chủng học Heonik Kwan đã nhận xét, "Ở những nơi Chiến Tranh Lạnh đã được tiến hành như một cuộc nội chiến hoặc dưới  các hình thức phân nhánh cực đoan và bạo lực của các lực lượng xã hội… cuộc xung đột lưỡng cực phát triển không chỉ theo ý định của các siêu cường mà còn trên cơ sở của cơ cấu đặc biệt từng hiện hữu tại địa phương và các điều kiện và kỳ vọng bình thường."(7)

Trong nhiều cách thì Phát Diệm là một mô hình thu nhỏ của các giòng chồng chéo của chủ nghĩa khu vực, chủ nghĩa quốc gia, và tôn giáo. Vào năm 1945 đó là một khu vực rặc Ca-tô giáo trong một nước Việt Nam đa số phi Ki-tô. Giám mục của nó, Cha chánh nhất Thaddeus Lê Hữu Từ, hành xử không chỉ là lãnh đạo tinh thần mà là một nhà cai trị thế tục gần như tuyệt đối.(8) Giáo phận Phát Diệm bao gồm hầu hết các tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa. Giáo dân Ca-tô chiếm khoảng 25 phần trăm tổng dân số, nhưng nhiều làng mạc và các huyện gần 100 phần trăm người Ca-tô giáo.

Một nhà báo Pháp mô tả

Phát Diệm và giáo phận kế cận Bùi Chu là một miền phong kiến, một lãnh địa của giáo hội nhân danh Chúa. Cảnh quan rặc nhà dòng. Mỗi quảng trường chính trên địa bàn có một nhà thờ rộng lớn trấn áp và vượt trên tất cả mọi thứ…. Mỗi khu vực với ngôi nhà thờ nằm ở chính giữa là một họ đạo; quản hạt là là một lãnh chúa và giáo dân là nông nô của ông ta. Vì lợi ích cho thể xác và linh hồn của đám nông dân, họ đã được thống trị bởi một đội quân nhỏ của các tu sĩ người Á châu với khuôn mặt béo tốt và áo chùng láng bóng; chưa kể đến một đám nữ tu người An Nam.(9)

Nhiều nơi thuộc lãnh địa của Từ người ta chỉ có thể đến được bằng đường thủy, và ông giám mục di chuyển khắp khu vực trong một chiếc thuyền phất phới lá cờ tiêu chuẩn của giáo hoàng (Vatican) màu vàng và trắng, và điều khiển bởi một đám trai trẻ vặm vở, mang trên vai huy hiệu riêng của Lê Hữu Từ, một con rồng Tàu cuộn xung quanh một cây kèn."(10)

Lê Hữu Từ là người Việt Nam thứ tư được thụ phong giám mục, thành phẩm của một nỗ lực bắt đầu bởi Giáo Hoàng Bê-nê-đích XV và Piô XI vào những năm 1920 để thành lập một "hàng giáo phẩm bản địa," ngay cả ở cấp cao nhất , trong khu vực bên ngoài châu Âu.

Việc truyền chức cho bốn tu sĩ đã được giáo dân Ca-tô Việt Nam nhiệt liệt coi trọng. Ca-tô giáo ở Việt Nam đã thường xuyên phải chịu đựng điều sĩ nhục của việc liên hệ với một tôn giáo bị Pháp áp đặt. Vì thế việc xuất hiện một hệ thống phân cấp của giáo hội Việt Nam có thể được xem như là một bước tiến lớn hướng tới việc thành lập một giáo hội quốc gia độc lập thoát khỏi bất kỳ sự liên kết nào với chủ nghĩ thực dân.(11)

Trong những năm 1920 và 1930 rất nhiều giám mục "bản địa" khác đã được thụ phong ở Trung Quốc và các phần khác của thế giới thuộc địa. Tuy nhiên, Giám Mục Từ và láng giềng của mình, Đức Cha Phạm Ngọc Chi, Giám mục Bùi Chu, là giáo sĩ duy nhất bên ngoài Vatican có quân đội riêng của họ.

Phát Diệm 1950 - Giám mục Lê Hữu Từ và GM Phạm Ngọc Chi
Phát Diệm 1950 - Giám mục Lê Hữu Từ và GM Phạm Ngọc Chi. ảnh http://www.flickr.com/

Một phóng viên của tạp chí Time đã viết rằng quân đội của Từ có 1.700 người, một số có doanh trại trong khuôn viên nhà thờ. Họ được chỉ huy bởi "Thiếu tá” Ngô Cao Tùng, một cựu chiến binh của quân đội Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch, và được trang bị với khoảng một chục xe jeep và xe tải quân sự. Lực lượng của Từ còn gồm khoảng 6.000 dân quân kém vũ trang. Liền kề khu tập thể của các tu sĩ là một "nhà máy nhỏ chế tạo lựu đạn, bom cối và súng phóng lựu."(12)

Phóng viên tờ Time mô tả Giám mục Từ là "một cá tính đáng chú ý… một người đàn ông quyến rũ và thu hút đáng kể."(13) Đồ đệ của giám mục mô tả ông là một người ủng hộ chủ nghĩa xã hội Ca-tô giáo biểu thị bởi "công lý, lẽ phải, nhân ái và khoan dung."(14) Nhà báo Pháp Lucien Bodard thì cung cấp một đánh giá ít thuận lợi hơn, báo cáo rằng vì Từ thuộc về một tu viện dòng Trappist (lối tu theo dòng Bê-nê-đích) tại làng Châu Sơn,

ông đã ép các tu sĩ của ông hành xác đến chết và ông hành hạ mình bằng tự quất roi vọt. Tại Phát Diệm Lê Hữu Từ là một pháp quan xử dị giáo, ép cải đạo – cho một đức tin không có tình yêu và không có lòng nhân đạo, ngoại trừ một kỷ luật tàn nhẫn. . . . Ông là một nhà tiên tri theo kiểu Cựu Ước. So với ông thì Đức ông Chi (SH- Phạm Ngọc Chi)… có vẻ hiền lành như bột. Nhưng trên thực tế ông ta cũng khá độc tài theo một tính cách khôn ngoan, kín đáo.(15)

Tuy nhiên , chẳng cần biết nhiệt tình tôn giáo của ông lớn đến đâu, và sự khẳng định của ông rằng chủ nghĩa cộng sản "xung đột trực tiếp với các giá trị tinh thần của giáo hội," ông cũng là một kẻ theo chủ nghĩa quốc gia mạnh mẽ và một đối thủ của sự thống trị của Pháp tại Đông Dương.(16) Một quan sát viên người Pháp mô tả ông là "linh hồn của sự đối kháng với Pháp" trong các nhà lãnh đạo Ca-tô giáo tại Việt Nam. (17) Là cha bề trên của tu viện dòng Trappist trong Thế chiến II, ông đã hợp tác với cán bộ Việt Minh và có khi còn giấu họ trong tu viện khỏi tay người Nhật và Pháp (LND: theo đúng chủ trương của Vatican và Mỹ trong thời kỳ chống phe trục). Như Charles Keith cho thấy, Từ đại ​​diện "bộ mặt của một Giáo Hội Ca-tô Việt Nam nhìn xa hơn việc truyền giáo của mình và quá khứ thuộc địa để hướng tới một tương lai của một nước Việt Nam độc lập."(18)

Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng, Từ và ba Giám mục Ca-tô khác của Việt Nam ở Đông Dương, đáp ứng lời yêu cầu của giới lãnh đạo Việt Minh, công bố một lá thư đến Giáo hoàng, kêu gọi Vatican và tất cả các cộng đồng Ca-tô hỗ trợ nền độc lập của Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam mới thành lập.(19) Trong tháng mười năm 1945, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, và các nhà lãnh đạo khác của Chính phủ Việt Minh tham dự lễ thụ phong giám mục của Từ ở Phát Diệm, và Từ được bổ nhiệm làm "cố vấn tối cao" cho Chủ tịch nước. Hồ có vẻ đã mặc nhiên công nhận "sự tự trị" của Phát Diệm và quyền của giám mục có lực lượng dân quân của mình.(20)

Không bên nào đặc biệt thoải mái với sự sắp xếp này. Việt Minh tiến hành tổ chức các chi bộ và các ủy ban xã trong lãnh địa của giám mục, trong đó có một nhóm mặt trận Ca-tô kết hợp giáo dân vào kháng chiến. Giám Mục Từ đáp lại bằng Liên Đoàn Công Giáo, như là một phương tiện cho tổ chức cộng đồng Ca-tô.(21) Đồng thời, giáo phận tăng cường nỗ lực để trang bị cho lực lượng dân quân của mình với vũ khí hiện đại. Làm cho vấn đề thêm phức tạp, vào năm 1946, Phát Diệm đã bắt đầu thu hút số lượng đáng kể phe phái quốc gia chống Việt Minh như Đồng Minh Hội và Quốc Dân Đảng Việt Nam. Tại Hà Nội và các nơi khác những đảng này đã tham gia vào một cuộc đấu tranh mất dần quyền lực với Việt Minh và chính phủ Cộng hòa Dân chủ Việt Nam mới thành lập của ông Hồ. Trong các địa bàn của Phát Diệm họ tổ chức các cuộc tấn công cán bộ Việt Minh, và trong một ngôi làng hơn 100 người ủng hộ Việt Minh đã bị sát hại.

Những cuộc tấn công này trùng với hồi kết thúc sự chiếm đóng miền Bắc Việt Nam của quân Trung Quốc vào mùa xuân năm 1946 và thỏa thuận của Hồ cho phép một sự trở lại bình yên của người Pháp lên phía bắc để đổi lấy sự công nhận chính phủ của ông là "một quốc gia tự do trong Liên hiệp Pháp" và hứa hẹn các cuộc đàm phán về sau. Một khi thoát khỏi sự can thiệp của Trung Quốc và mối đe dọa tức thì của người Pháp, Việt Minh đã trả đũa nhanh chóng chống lại đối thủ của họ trong Phát Diệm. Ba làng, nơi đã diễn ra các cuộc hành quân "thanh trừng cộng sản" đã bị tấn công bởi quân đội Việt Minh. Một vài tuần sau đó Giám Mục Từ đã bị nhắm bắn, nhưng không bị thương, bởi một người Việt Nam mà giáo dân của giám mục nhận ra là nhân viên an ninh của Việt Minh.(22)

Bấy giờ ông Hồ phải đối mặt với một cuộc chiến tranh sắp xảy ra với Pháp ở phía bắc, cố gắng hàn gắn với giám mục và công khai khẳng định lại sự ủng hộ cho tự do tôn giáo. Giám Mục Từ, muốn thêm thời gian để trang bị vũ khí cho lực lượng dân quân của mình, bề ngoài chấp nhận lời đề nghị của ông Hồ.

Sự bùng nổ của cuộc chiến tranh toàn diện giữa Pháp và Việt Minh trong Tháng 12 năm 1946 đã gia tăng vấn đề cho Phát Diệm. Máy bay Pháp xuất hiện trên vùng trời Phát Diệm và ném bom ngôi chợ chính và tòa giám mục, gây ra một số người chết và bị thương. Giám Mục Từ đã công khai lên án "hành động vô nhân đạo này của sự tàn bạo" và tái khẳng định "chính sách trung lập của mình giữa Pháp và Việt Minh và kêu gọi họ tôn trọng sự tự trị của Phát Diệm." Nhưng tại Hà Nội đại diện của giám mục lại bắt đầu các cuộc nói chuyện bí mật với các nhân viên tình báo của Pháp.(23)

Kết quả của những cuộc đàm phán, Cha Minh, đại diện bán chính thức của giám mục với quân đội Pháp, nhận được chấp thuận cho phép Phát Diệm mua vũ khí ở miền nam Trung Quốc, vẫn còn được nắm giữ bởi quân của Tưởng Giới Thạch, và vận chuyển vũ khí qua Hà Nội. Trong tháng 12 năm 1947 mười hai chiếc thuyền khởi hành từ Phát Diệm đến một ngôi làng gần biên giới Trung Quốc, và vũ khí được bốc lên. Trên hành trình trở về những chiếc thuyền bị chặn bởi tàu đánh cá vũ trang của Việt Minh ngoài khơi bờ biển của tỉnh Thái Bình. Một tàu chiến của Pháp đã can thiệp, và tất cả các tàu thuyền Việt Minh đã bị tiêu diệt, cho phép đoàn thuyền của Từ đến Phát Diệm.(24)

Lo ngại về sự gần gũi ngày càng tăng của Từ đối với người Pháp, Hồ thực hiện thêm một nỗ lực để hàn gắn, gửi Cha Trúc, một thành viên của Quốc Hội đến nói chuyện với giám mục. Trong khi đó, Pháp đã bắt đầu có một sự quan tâm mạnh mẽ hơn đến Phát Diệm như một đồng minh khả thể trong chiến dịch của họ để "bình định" khu vực đồng bằng sông Hồng. Tướng Marcel Carpentier, tổng tư lệnh Đông Dương, thắc mắc liệu Việt Minh sẽ tiếp tục tôn trọng lâu dài tính trung lập chính trị của giáo phận và đề nghị "một hành động riêng của chúng ta cuối cùng sẽ không chỉ giải phóng chống Cộng mà còn vì lợi ích về vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân."(25)

Vào tháng Ba năm 1949, hơn một năm sau các cuộc thảo luận, tương nhượng, và kình cãi, chính phủ Pháp đạt được thỏa thuận với Bảo Đại, cựu hoàng đế của Việt Nam, và ký kết Hiệp định Elysée thành lập một quốc gia Việt Nam "độc lập" trong Liên hiệp Pháp. Thực quyền và sự tự chủ của chính phủ mới của Bảo Đại đã bị hạn chế đáng kể, và ít người tại Việt Nam hoặc trong cộng đồng quốc tế nhận thấy nhà nước mới của Việt Nam là một quốc gia độc lập. Tuy nhiên, Pháp đã thấy nó như là một đối thủ có tiềm năng cạnh tranh với Việt Minh trong nước Việt Nam và là biểu tượng cho chính sách tiến bộ của họ đối với Đông Dương.

Trong các làng do Việt Minh kiểm soát xung quanh Phát Diệm, đảng Cộng sản tổ chức các cuộc biểu tình chống lại chế độ Bảo Đại. Mai Phương, một thiếu niên từ một làng gần Phát Diệm tham dự một cuộc biểu tình rầm rộ trong một ngôi chợ lớn. Một sân khấu rộng trưng bày một hình ảnh khổng lồ của Hồ với một lá cờ đỏ làm nền. Phía trên cao một đống rơm gần sân khấu là một hình nộm lớn. Sau khi hát quốc ca và lắng nghe các bài phát biểu bốc lửa ngắt quãng bởi tiếng hô

"Đả đảo Kẻ phản bội!"

"Đả đảo Bảo Đại!"

"Đả đảo Kẻ phản bội!"

Một người đàn ông đã nhảy lên đống rơm đấm vào mặt của hình nộm như thể nó là kẻ thù thực sự. Anh ta đấm nó liên hồi. Điều này tạo ra tiếng vang vọng náo động trong đám đông. Người dân đổ xô về phía người nộm…  Những người leo lên được (đống rơm) bắt đầu đá nó và đấm nó thật mạnh và nhanh như họ có thể… Các cú đấm và đá đi kèm với những tiếng reo hò "Đả đảo Bảo Đại!"(26)

Chẳng bao lâu sau, đại diện của chính phủ Bảo Đại đã bắt đầu tiếp xúc Giám mục Từ.(27) Tại Hà Nội, Đại úy Trần Văn Đôn, một sĩ quan Việt Nam trong quân đội Thực dân Pháp và là một vị tướng trong tương lai của miền Nam Việt Nam trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, tiếp cận Cha Minh với lời hứa hỗ trợ tài chính của Pháp cho một tờ báo của giáo phận Phát Diệm trong khi Giám mục Từ sẽ đồng ý hỗ trợ Bảo Đại.(28) Giám mục Từ có rất ít niềm tin vào Bảo Đại nhưng có thể nhìn thấy chỉ dấu gia tăng rằng người Pháp đang chuẩn bị một sự chiếm đóng quân sự toàn khu vực Phát Diệm. Từ cũng nghi ngờ rằng Việt Minh sẽ sớm sẵn sàng hành động chống lại ông ta.

Cuối cùng, ông chọn người Pháp. Trong tháng 10 năm 1949 một tiểu đoàn lính nhảy dù người Việt từ các lực lượng thực dân Pháp chỉ huy bởi Đại úy Nguyễn Văn Vỹ được thả xuống giữa Phát Diệm gần nhà thờ. Từ đã từng có các cuộc đàm phán bí mật với Vỹ, nhưng giám mục vẫn miễn cưỡng từ bỏ "tính trung lập" của mình nên không công khai chào đón người Pháp."Do đó, lực lượng dân quân Ca-tô đã giàn hàng sẳn sàng chiến đấu sau một con kênh," Bodard báo cáo rằng "sau khi họ đã hét lên ‘Coi chừng’, họ đã bắn một vài phát qua con kênh theo hướng những kẻ xâm nhập. Khi những kẻ xâm nhập trả đũa bằng một hoặc hai loạt đạn chỉ thiên, Đức cha Lê Hữu-Từ bị bắt buộc thừa nhận thất bại và phải ký một hiệp ước đình chiến."(29)

Chẳng ngạc nhiên, Việt Minh đã không ấn tượng gì với loại phòng thủ này của Phát Diệm tự trị. Họ tuyên bố rằng "tên phản bội Lê Hữu Từ" đã cẩn thận chuẩn bị vùng đáp cho lính nhảy dù thuộc địa và rằng ông ta đã có kế hoạch để cho lực lượng Pháp bí mật thả xuống các khu nghĩa địa (như vậy là làm hoen ố các lăng mộ tổ tiên).(30) Trong một chỉ thị giới lãnh đạo Việt Minh cảnh báo rằng đối tượng của người Pháp "tấn công" Phát Diệm là để kích hoạt một nửa triệu giáo dân Ca-tô trong khu vực tổ chức lực lượng bù nhìn để chống lại kháng chiến.(31)

Kết luận của Việt Minh đã chứng tỏ chính xác phần lớn. Không cần biết giám mục Từ miễn cưỡng quyết định như thế nào giữa sự liên tục chán ghét người Pháp và khinh bỉ Bảo Đại của mình, Giám Mục "Nhà nước" Từ bây giờ đã cam kết mình với cuộc chiến đứng về phía Pháp." Điều này đưa đến việc gần một phần năm dân số miền Bắc đối kháng tổ chức to lớn của Việt Minh", Bodard nhớ lại.

Trong toàn bộ đồng bằng mọi cộng đồng Ki-tô giáo lập quân đội riêng, dân quân tự vệ của mình và biến làng xóm thành một pháo đài dưới quyền của tu sĩ. Trong thời gian ấy tôi thường xuyên nghe các sĩ quan Pháp bảo, "Đám giáo dân Ca-tô này là lũ lợn tồi tàn, thậm chí còn tệ hơn những người Việt khác - không một mánh lới nào mà bọn họ không dùng với chúng tôi. Nhưng với họ khi khủng hoảng đến, khi người Việt tấn công, thì bạn có thể hoàn toàn dựa vào giáo dân Ca-tô - đó là lòng kiên định của cuộc thánh chiến."(32)

Đến thời điểm này, sự cam kết của Từ với Bảo Đại và Pháp tác động rất ít đến tình trạng giẫm chân tại chỗ của vùng đồng bằng. Khắp vùng Ca-tô, các giám mục vẫn kiểm soát, thu thuế - cũng như nhận trợ cấp của Pháp - và trang bị vũ khí và huấn luyện lực lượng dân quân của họ. Tư lệnh quân đội Pháp đã được lệnh không can thiệp vào “các vấn đề thuần túy Việt Nam." Phần lớn các viên chức tỉnh được các giám mục đề cử. Đồng thời các giám mục vẫn duy trì một số liên lạc với Việt Minh, và giáo phận đã trở thành một tuyến đường chính tải hàng hóa buôn lậu như muối và dược phẩm vào các khu vực do Việt Minh kiểm soát ở các tỉnh Thanh Hóa và Vinh.(33)

Tuy nhiên, tình trạng giao dịch thuận lợi của các giám mục sắp bị thay đổi triệt để bởi cuộc chiến mở rộng lớn hơn. Vào mùa thu năm 1949 lực lượng của Quân đội Giải phóng nhân dân chiến thắng (PLA) Mao Trạch Đông kéo đến biên giới của Đông Dương. Tính đến thời điểm này, Việt Minh đã nhận được ít viện trợ ngoài hỗ trợ tình cảm nhiệt tình cường điệu và một ít tiền từ các đồng chí cách mạng ở Trung Quốc. Ngay cả mọi liên lạc viễn thông tin cậy còn không thể duy trì được.(34)

Đến bây giờ, Việt Minh đã không còn đơn độc nữa. Tháng 1 năm 1950 Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) chính thức công nhận chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Hồ. Liên Xô cũng đã làm thế hai tuần sau. Hồ đến thăm Moscow vào đầu tháng Hai và đàm đạo với cả Stalin lẫn Mao cũng đã đến thăm thủ đô của Liên Xô.

Mao hứa rằng Trung Quốc sẽ cung cấp "sự hỗ trợ quân sự cần thiết cho Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống Pháp."(35) Để đào tạo quân sự, viện trợ, và tư vấn cho các lực lượng của Hồ, Trung Quốc đã thành lập một ủy ban chủ trì bởi Tướng Chu Đệ (Zhu De), tổng tư lệnh quân đội Trung Quốc và là thành viên của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Bắt đầu từ tháng 4 năm 1950, những yêu cầu cho các hạng mục quân sự đặc biệt và tiếp liệu được bộ chỉ huy của Hồ bắt đầu gởi đến Bắc Kinh. Từ tháng Tư đến tháng Chín năm 1950 Trung Quốc cung cấp cho Việt Minh hơn 14.000 vũ khí nhỏ, 1.700 súng tiểu liên, 150 súng cối, 300 bệ phóng tên lửa, khoảng 60 cổ pháo với kích thước khác nhau, và một số lượng lớn đạn dược, đồng phục, dược phẩm, các thiết bị thông tin liên lạc, và các tiếp liệu khác.(36) Kết quả là, du kích Việt Minh đã được trang bị tốt như hầu hết các đơn vị bộ binh Pháp với súng trường, lựu đạn, súng máy, súng cối nhẹ, và bệ phóng tên lửa.(37) Đồng thời, Ủy ban của Chu Đệ tổ chức và gửi đến Việt Nam một Nhóm cố vấn quân sự Trung Quốc để cung cấp đào tạo và tư vấn cho Việt Minh. Một số lượng lớn binh lính Việt Minh vượt qua biên giới để được hướng dẫn tại các trường và các trại huấn luyện ở miền nam Trung Quốc được tổ chức bởi Quân đoàn thứ 4, quân đội Trung Quốc.(38) Đến mùa thu năm 1950, quân đội Việt Minh, bây giờ gọi là Quân đội nhân dân Việt Nam (PAVN), được tổ chức thành sư đoàn, một trung đoàn công binh, và ba trung đoàn pháo.(39)

Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người chỉ huy PAVN, liền cấp tốc triển khai quân đội mới của mình chống lại lực lượng thực dân Pháp tự mãn và thiếu chuẩn bị. Mục tiêu của tướng Giáp là dẹp các vị trí của Pháp gần Biên giới Trung Quốc, tạo cơ hội cho các chỉ huy của mình có kinh nghiệm chiến đấu giá trị và phá hủy những rào cản cuối cùng để trực tiếp nhận hỗ trợ hậu cần từ Trung Quốc. Ngày 18 tháng 9, lực lượng Việt Minh hỗ trợ bởi pháo binh và súng cối đột ngột tấn công cứ điểm của Pháp tại Đông Khê dọc theo quốc lộ Bốn, song song với biên giới Trung Quốc ở phía bắc và phía đông của Hà Nội. Các đồn Pháp đã bị hạ trong vòng 48 giờ, và gần như tất cả các quân phòng vệ đã bị giết hoặc bị bắt. Một vài ngày sau đó một lực lượng Pháp gần 4.500 người đã gần như hoàn toàn bị tiêu diệt trong một loạt các cuộc phục kích xung quanh thị trấn Cao Bằng. Từng chốt cô lập của Pháp dọc theo biên giới rơi vào tay Việt Minh hay bị bỏ hoang trong hoảng loạn. Pháp mất khoảng 6.000 người và hơn 10.000 vũ khí nhỏ, súng cối, và súng máy.(40) Phái bộ Mỹ tại Sài Gòn cho biết biên giới giữa Trung Quốc và Đông Dương "không còn tồn tại."(41)

Đến cuối năm 1950, Việt Minh và các cố vấn Trung Quốc của họ đã sẵn sàng bắt đầu một loạt các cuộc tấn công mới để nắm giữ toàn bộ đồng bằng sông Hồng. Trong khi ấy người Pháp đã bổ nhiệm một tổng tư lệnh mới cho Đông Dương, Tướng Jean de Lattre de Tassigny, người cũng giữ chức Toàn quyền, để kết hợp quyền lực cả chính trị lẫn quân sự.

De Lattre, có lẻ là người lãnh đạo chiến tranh tốt nhất trong quân đội Pháp, đã đến Hà Nội vào tháng Mười Hai năm 1950, tức khắc hủy bỏ tất cả các kế hoạch sơ tán gia đình người Pháp ra khỏi thủ đô, và đưa vợ mình vào ở trong dinh Toàn quyền. Ông đã đến thăm tất cả các vùng hành quân, sa thải thẳng tay những kẻ bất tài và chủ bại và tuyên bố rằng sẽ không có cuộc tháo lui nào nữa.

Như Việt Minh, các lực lượng thực dân Pháp cũng đã có một ông bạn mới vào mùa xuân năm 1950 khi Hoa Kỳ công nhận Bảo Đại và "Liên Bang Đông Dương."(42) Ngay cả trước khi de Lattre đến nhậm chức,  Washington đã bắt đầu cung cấp viện trợ quân sự quy ​​mô lớn cho các lực lượng Pháp ở Việt Nam, bao gồm cả vũ khí nhỏ hiện đại hơn, máy bay chiến đấu, máy bay vận tải, máy bay ném bom nhẹ, pháo 105 mm, và napalm.(43) Khi Việt Minh mở cuộc tấn công mới quanh thị trấn Vĩnh Yên ở phía nam sông Hồng khoảng 40 dặm về phía tây bắc của Hà Nội vào giữa tháng Năm 1951, họ đã chịu nhiều thiệt hại. Mặc dù các cuộc tấn công quyết tâm, người Pháp vẫn có thể giữ được các vị trí chủ chốt, được hỗ trợ bởi các cuộc không kích nặng sử dụng vật liệu nổ cao và bom napalm.

Tướng Giáp đã cố gắng một lần nữa hai tháng sau đó với một cuộc tấn công thứ hai nhắm đến các thị trấn ven biển Mạo Khê, khoảng 30 km về phía đông bắc của thành phố Hải Phòng. Mặc dù gần như bị áp đảo 3-1, Pháp vẫn đẩy lùi được cuộc tấn công. Thiệt hại tên cả hai bên đều nặng nề. Tại Vĩnh Yên, ưu thế của Pháp về không quân và pháo binh dành một lợi thế quyết định.

Nỗ lực thứ ba của Việt Minh, tháng Năm và tháng Sáu, là chiến dịch sông Đáy. Bất chấp cảnh báo từ tình báo Pháp, cuộc tấn công của Việt Minh bắt đầu từ ngày 28 tháng 5 năm 1951, vẫn đến như là một bất ngờ hoàn toàn cho các chỉ huy địa phương.  (Sau đó, họ phàn nàn rằng Giám Mục Từ đã lừa họ với các báo cáo rằng mọi sự đều tốt đẹp.) Tại thị trấn Ninh Bình một tiểu đoàn Pháp bị tràn ngập, và một số đồn bót do lực lượng dân quân Ca-tô nắm đã rơi vào tay của một trung đoàn thuộc Sư Đoàn 308 PAVN. Các đơn vị Việt Minh khác di chuyển đến Phủ Lý, cắt đứt đường chính và vây quanh thị trấn.

Sư đoàn 320 của PAVN, đã vượt qua sông Đáy thành công mà không bị phát hiện bởi quân Pháp, tấn công Phát Diệm. Các đơn vị dân quân Ca-tô kiên quyết chống lại theo một số người kể, không hữu hiệu theo lời các người khác, nhưng các lực lượng được trang bị tốt của Việt Minh chỉ có thể bị chận đứng bởi các lực lượng thực dân Pháp. Bộ chỉ huy của Pháp tại Hà Nội đã đáp ứng nhanh chóng, gửi quân tiếp viện. Tất cả các thông tin liên lạc đường bộ đã bị cắt đứt, nhưng người Pháp đã thả hai tiểu đoàn nhảy dù được hỗ trợ bởi một phi đội máy bay ném bom. Các đơn vị tấn công đường sông của Pháp, được gọi là Dinassauts và bao gồm những phân đội bộ binh, đổ bộ từ các tàu đổ bộ thời Đệ Nhị Thế Chiến để đưa thêm quân và cắt các tuyến đường tiếp tế Việt Minh qua sông Đáy.(44)

Mặc dù Pháp thẩm định kết quả là một thắng lợi, tác động của các trận đánh sông Đáy trên người dân Phát Diệm thì thực thảm khốc. Ngoài việc vật chất bị phá hủy và tử vong từ chiến đấu, nhiều cư dân đã bị bọn lính Pháp ngược đãi tàn nhẫn, những kẻ đã đến để "cứu” giáo phận. Phái viên công sứ Anh tại Sài Gòn báo cáo nhiều trường hợp "tàn ác, cướp bóc, hảm hiếp và đồi bại" do lính thực dân Pháp thực hiện ở Phát Diệm. Có nhiều khiếu nại là những người lính thậm chí còn đánh cắp các chén thánh từ một số các nhà thờ và nhà nguyện. Ít nhất có một sĩ quan Pháp đã bị bắt vì hành vi sai trái.

Tùy viên quân sự Anh quan sát thấy rằng "đây là do đám lính bị mệt mỏi và liên tục bị phục kích và, hơn nữa thường là lính gốc (tây đen) Morocco hoặc Senegal vv, những bọn người nổi tiếng về những loại cư xử tàn ác này. Nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy thiệt hại nghiêm trọng đối với chính nghĩa của Liên hiệp Pháp."(45) Một nhà ngoại giao Anh xác nhận rằng "Bây giờ đã có nhiều cảm tình cho Việt Minh hơn bất cứ lúc nào kể từ khi Giám mục đã quyết định đứng về phía Bảo Đại."(46)

Đối với người Pháp, “hai ngày chiến đấu đã đủ để làm tiêu tan ảo ảnh về quyền lực cát cứ ​​và tính trung lập của các giám mục." Những tiền đồn Ca-tô đã sụp đổ ngay cả trước khi Việt Minh tấn công, và chỉ có sự can thiệp nhanh chóng của quân đội thực dân Pháp đã "chận đứng sự sụp đổ của mặt trận phía tây Phát Diệm." (47) De Lattre đổ lỗi cho các giám mục về các thông tin tình báo không chính xác đã góp phần vào sự thiếu chuẩn bị của Pháp và, nghiêm trọng hơn, cho cái chết của con trai của ông ta trong trận đánh dữ dội.(48)

Bộ Tư Lệnh Tối Cao của Pháp thông báo các giám mục rằng lính thực dân Pháp trong tương lai sẽ đóng quân trên lãnh địa của họ và rằng các lực lượng dân quân vô tích sự sẽ bị giải tán. Những người khác sẽ được tổ chức lại và đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Pháp. Các quan chức thực dân Pháp cũng sẽ giữ một số chức năng của chính phủ dân sự của giáo phận.(49)

Với sự thất bại của Pháp trong năm 1954 (LND: sau đại bại ở trận Điện Biên Phủ), giáo dân Ca-tô Phát Diệm chạy theo các giám mục của họ trong cuộc di cư dài về phía nam, ở đấy, như một cộng đồng còn nguyên vẹn, họ đã được tái định cư ở những gì sẽ sớm trở thành Việt Nam Cộng Hòa. Theo kẻ viết tiểu sử ngưỡng mộ ông ta, Giám Mục Từ cố gắng không dính vào chính trị. "Tuy nhiên mỗi lần ông nhận thấy bất kỳ sai lầm của chính phủ Tổng thống Diệm…  ông vào Dinh Tổng thống và nói sự thật để có thể giúp đỡ Tổng thống Diệm giữ đúng vai trò của mình như người lãnh đạo nhân dân."(50) Theo cùng nguồn tin này, Giám Mục Lê (Hữu Từ) cho rằng khuôn mẫu về phòng vệ địa phương của Phát Diệm là nguồn cảm hứng cho chương trình ấp chiến lược của miền Nam Việt Nam. (LND: chứ chẳng phải do sự cố vấn của Robert Thompson, thủ lãnh của Phái Bộ Cố Vấn Anh tại Nam VN - the British Advisory Mission to South Vietnam (BRIAM) vào năm 1961, do kinh nghiệm chống phản loạn tại Malaysia như bộ máy tuyên truyền của tây phương thường rêu rao) Giám mục đã vô cùng đau khổ trước vụ lật đổ Diệm năm 1963. Ông ta nhìn thấy rất ít cơ hội cho sự thành công của các cuộc hành quân chống nổi dậy của Mỹ ở Việt Nam và bắt đầu xem xét một cuộc sơ tán thứ hai của giáo dân Ca-tô Việt Nam, lúc này để đến Úc châu.(51) Ông qua đời vào năm 1967.

Kinh nghiệm của Phát Diệm làm rõ giá trị về bản chất của "Chiến Tranh của Pháp” ở Đông Dương và về cuộc chiến tranh chống nổi dậy và cuộc nội chiến nói chung. Như Nguyễn Liên-Hằng quan sát, các cuộc chiến tranh ở Việt Nam, từ lâu thường được nghĩ theo lối trắng đen - thực dân chống với quân nổi dậy, người Cộng sản chống với người chống Cộng, Bắc chống với Nam - có thể được hiểu tốt hơn về sắc thái khác nhau của đa màu. Trong trường hợp sự tham gia gần đây của Mỹ ở Afghanistan và Iraq, nhiều lời dài dòng đã được nói đến nhu cầu cần có "những  đồng minh đáng tin cậy" cho cuộc chống nổi dậy thành công. Trường hợp của Phát Diệm cho thấy việc tìm kiếm các đồng minh đáng tin cậy luôn luôn là một quá trình hai chiều. Quan trọng hơn, nó vạch rõ sự mơ hồ và phức tạp trong việc tìm kiếm này và to lớn dường nào các hình phạt cho những sự lựa chọn sai lầm hoặc không may mắn.

_______________

Bản PDF ---►

Tham Chiếu:

1. Graham Greene, The Quiet American (New York: Penguin, 2004), pp. 38–39.

2. Yves Gras, Histoire de la Guerre d’Indochine (Paris: Plon, 1979), pp. 226–228; and Edgar O’Ballance, The Indo-China War, 1945–1954 (London: Faber and Faber, 1964), pp. 136–139. Journal of Cold War Studies Vol. 15, No. 3, Summer 2013, pp. 34–46, doi:10.1162/JCWS_a_00369

© 2013 by the President and Fellows of Harvard College and the Massachusetts Institute of Technology

3. John Lewis Gaddis, The Long Peace: Inquiries into the History of the Cold War (New York: Oxford University Press, 1987).

4. Major I. S. Gibb, “A Walk in the Forrest,” unpub. ms., p. 129, in Imperial War Museum.

5. Frederick Cooper, “The Dialectics of Decolonization: Nationalism and Labor Movements in Postwar French Africa,” in Frederick Cooper and Ann Laura Stoler, eds., Tensions of Empire: Colonial Cultures in a Bourgeois World (Berkeley: University of California Press, 1997), p. 436.

6. For three recent works that share this view, see Stein Tonnesson, “National Divisions in Indochina’s Decolonization,” in Prasenjit Duara, ed., Decolonization: Perspectives from Now and Then (New York: Routledge, 2004), pp. 253–277; Shawn McHale, “Understanding the Fanatic Mind: The Viet Minh and Race Hatred in the First Indochina War,” Journal of Vietnam Studies, Vol. 4, No. 3 (Fall 2009), pp. 98–138; and Heonik Kwan, The Other Cold War (New York: Columbia University Press, 2010).

7. Kwan, The Other Cold War, p. 18.

8. Peter Hansen observes, “clerical leadership in many northern Catholic [parishes] sometimes took on aspects of an all-encompassing theocracy.” See Peter Hansen, “Bac Di Cu: Catholic Refugees from the North of Vietnam and Their Role in the Southern Republic, 1954–1959,” Journal of Vietnam Studies, Vol. 4, No.3 (Fall 2009), p. 178.

9. Lucien Bodard, The Quicksand War (Boston: Little Brown, 1967), p. 211.

10. Eric Gibbs, “Battle of Indo-China: Arms and the Bishop,” Time, 8 January 1951.

11. Charles Keith, “Annam Uplifted: The First Vietnamese Catholic Bishops and the Birth of a National Church,” Journal of Vietnamese Studies, Vol. 3, No. 2 (Summer 2008), pp. 143–145.

12. Gibbs, “Battle of Indo-China.”

13. Ibid.

14. Tam [Vu Van Cuong], Vietnam’s War, 1940–1975: The Causes of French and American Failures in Vietnam (Lawrenceville, VA: Brunswick Publishing, 1983), p. 112. Cuong was secretary and administrative assistant to Bishop Tu.

15. Bodard, Quicksand War, pp. 211–212.

16. Tam, Vietnam’s War, p. 115.

17. Quoted in Keith, “Annam Uplifted,” p. 159.

18. Ibid., p. 159.

19. Ibid., p. 128.

20. Gen. Marcel Carpentier to Ministre de la France Outre-Mer, 29 October 1949, Château de Vincennes, Paris, in Service Historique de l’Armée de Terre (SHAT), 10H170, Dossier 1; Bodard, Quicksand War, p. 212; and Tam, Vietnam’s War, p. 118.

21. Keith, “Annam Uplifted,” p. 159; Pham Van Bong, “Ngon lua khang chien” [Guard our people and ªght the enemy], in Tap ky khang chien chong thuc dan Phap xam luoc [Flames of the resistance war: Memoirs of the anti-French resistance war] (Hanoi: Party History Studies, 1978), pp. 113–116; and Tam, Vietnam’s War, p. 132.

22. Tam, Vietnam’s War, p. 126.

23. Ibid., pp. 129, 131.

24. Ibid., pp. 132–133.

25. Carpentier to Ministre de la Défense National et Ministre de la France Outre-mer, 10 October 1949, in SHAT, 10H170, Dossier 1.

26. Mai Phuong, Behind the Bamboo Hedges (Los Angeles: Nguoi Dan 1996), pp. 68–69.

27. Tam, Vietnam’s War, pp. 134–135.

28. Ibid.

29. Bodard, The Quicksand War, p. 211.

30. Pham Van Bong, “Ngon lua khang chien,” p. 113.

31. Bulletin de Renseignements: Directive du gouvernement Viet Minh au sujet de la Politique Catholique apres de l’offensif Phat Diem, n.d. [1949], in SHAT, 10H170, Dossier 3.

32. Bodard, The Quicksand War, p. 215.

33. Ibid., p. 215; and Gras, Guerre de l’Indochine, pp. 135–136.

34. Chen Jian, Mao’s China and the Cold War (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 2001), pp. 119–120.

35. Ibid., p. 122.

36. History Compiling Group for the Chinese Military Advisory Group, Zhongguo junshi guwentuan
yue kangfa douzheng shishi [A factual account of the participation of the Chinese military advisers in
assisting Vietnam and resisting France] (Beijing: People’s Liberation Army Press, 1996), ch. 2, p. 44;
and Memorandum, “Arms Supply to Viet Minh,” Incl. to JCS 1992/22, 11 September 1950, in National Archives and Records Administration (NARA), College Park, MD, Record Group (RG) 319, G-3 091 File. The U.S. and Chinese ªgures differ but are generally close.

37. Bodard, The Quicksand War, p. 245.

38. Chen, Mao’s China, pp. 123–124.

39. History Compiling Group, Zhuonggo junshi, p. 33.

40. O’Balance, The Indochina War, p. 118.

41. Minister at Saigon (Heath) to State, 17 October 1950, in NARA, RG 59, Subject Numeric Files, POL 27-14, Box 163.

42. The most recent and comprehensive account of these decisions is Mark Atwood Lawrence, Assuming the Burden: Europe and the American Commitment toWar in Vietnam (Berkeley: University of California Press, 2005).

43. On the details of the military assistance program, see Ronald Spector, Advice and Support:The Early Years of the U.S. Army in Vietnam (New York: Free Press 1985), chs. 6–7.

44. Gras, Guerre de l’Indochine, pp. 227–229; and O’Balance, Indochina War, pp. 136–137.

45. Brit. Legation Saigon (M. G. L. Joy) to Foreign Ofªce (J. D. Murray), 12 January 1952, in The National Archives of the United Kingdom, FO371/1010/78.

46. Ibid.; and Report by Cyril Whitworth, 3 January 1952.

47. Gras, Guerre de l’Indochine, p. 231.

48. Ibid.; and Bodard, The Quicksand War, p. 214.

49. Gras, Guerre de l’Indochine, pp. 231–132.

50. Tam, Vietnam’s War, p. 282.

51. Ibid.

 

 


Trang Chính Trị Xã Hội