CHƯƠNG 1 (tiếp theo)
Bóng che của Quá khứ
Tìm thấy mình trong một vũ trụ như đang cúi xuống để hủy
diệt mình, chúng ta nhanh chóng nhận ra rằng, cả trong vị trí của cá nhân lẫn xã
hội, thật là hữu ích để hiểu được những thế lực đang dàn trận ra trước chúng ta.
Và vì như vậy mà mỗi con người chúng ta trở nên khao khát đến những kiến thức
xác thực về thế gian. Ðiều này luôn luôn đặt ra các vấn nạn đặc biệt cho tôn
giáo, bởi vì mọi tôn giáo đều rao giảng những sự thật của các xác nhận không có
chứng cớ. Thực tế, mọi tôn giáo đang rao giảng những sự thực của các xác nhận mà
ngay cả không một chứng cứ nào có thể tưởng tượng ra được. Ðiều này đã
đặt một “sự đột biến” trong “bước đột biến của Kierkegaard" về đức tin.
Nếu đột nhiên tất cả mọi hiểu biết của chúng ta về thế gian bỗng biến mất thì sẽ
ra sao? Thử tưởng tượng sáu tỉ con người sáng mai thức dậy trong một tình trạng
cực kỳ dốt nát và hoang mang. Sách vở, máy điện toán vẫn còn đấy, nhưng chúng ta
không thể nối đầu thêm đuôi vào cái gì nữa. Chúng ta quên luôn đến cả cách chải
răng và lái xe. Thế thì cái hiểu biết nào là cái chúng ta cần nhất? À, chính các
công việc trồng lương thực và xây dựng một mái che trên đầu là những thứ chúng
ta muốn tìm lại trước nhất. Chúng ta cũng muốn học lại cách xử dụng và sửa chữa
các thứ máy móc của mình. Học nói, học viết cũng sẽ là một ưu tiên hàng đầu, vì
kỹ năng này cần thiết cho các công việc khác. Ðến khi nào trong quá trình tìm
lại nhân tính này sẽ cần phải biết đến việc chúa Jesus sinh ra đồng trinh hay
không? Hay là sự việc người có người đã sống lại hay chăng? Và chúng ta có sẽ
học lại những sự thật này, nếu như chúng thật sự là đúng? Bằng cách đọc
Kinh Thánh ư? Ði qua các kệ sách cũng chỉ mang lại các viên ngọc quen thuộc của
các di tích xưa- như “sự kiện” Isis, vị nữ thần của sinh sản, trưng diện bằng
một đôi sừng bò thật đẹp. Ðọc thêm nữa, thấy thần Thor mang một cái búa và thấy
các thú vật thiêng liêng là ngựa,chó và con rồng có cái lưỡi chia ba. Loài nào
là loài ta nên lên danh sách ưu tiên trong thế giới tái tạo của mình. Yaweh hay
Shiva? Và khi nào thì chúng ta muốn học lại rằng tính dục trước hôn nhân là tội
lỗi? Hoặc tội ngoại tình đáng bị ném đá cho chết? Hoặc là có phải linh hồn đi
vào hợp tử con người ngay lúc thụ thai? Và chúng ta sẽ nghĩ thế nào về những
người kỳ khôi kia đang bắt đầu tuyên bố rằng một trong các cuốn kinh sách vốn
được viết nên bởi chính đấng tạo hoá của chúng ta thì khác biệt với tất cả các
cuốn kinh sách khác?
Chắc chắn sẽ có rất nhiều sự thật tâm linh mà chúng ta muốn học lại - một khi
chúng ta đã yên ổn chuyện ăn, chuyện mặc – và đấy chính là những sự thật mà
chúng ta đã từng hiểu không trọn vẹn trong tình trạng hiện tại của mình. Chẳng
hạn như, làm thế nào để con người vượt qua được nỗi sợ hãi và nội tâm mình để
đơn giản thương yêu một kẻ khác? Giả như, ngay vào lúc ấy, một tiến trình chuyển
hóa nhân tính đã hiện hữu, và có một điều gì đáng để hiểu biết về sự việc ấy;
nói một cách khác, có những năng khiếu, hoặc trui rèn, hoặc sự am hiểu có tính
khái niệm, hoặc những kiêng cử phụ trợ nào đã cho phép một sự chuyển hóa đáng
tin cậy để một kẻ đáng sợ, đáng oán ghét, hay một kẻ bàng quang trở thành người
thân yêu. Nếu có, chúng ta nhất định phải biết đến các phương thức ấy. Thực cũng
có một số chương đoạn Kinh thánh hữu ích trong ý nghĩa này – nhưng cả khối lý
thuyết không thể kiểm chứng rõ ràng đã không có được một căn bản hợp lý nào để
có thể xử dụng lại. Kinh Koran và Kinh thánh có lẽ sẽ tự tìm được vị trí xứng
đáng của mình bên cạnh cuốn Sự biến dạng của Ovid và cuốn Tử thư của người Ai
cập.
Vấn đề ở chỗ là hầu hết những thứ mà chúng ta cho là thiêng liêng thì không còn
lý lẽ gì để mà linh thiêng nữa ngoài việc nó đã từng được tưởng là linh thiêng
trong quá khứ. Chắc chắn rằng, nếu như chúng ta có thể tái tạo lại thế
giới, thì việc thực hiện các tỗ chức cuộc sống của chúng ta chung quanh các
tuyên bố không thể nghiệm chứng của thời cổ đại – không nói gì đến sự giết chóc
và chết vì các tuyên bố ấy - có lẽ không thể nào minh định được. Cái gì hiện
nay đã ngăn chúng ta không nhận ra sự bất khả ấy?
Nhiều người nhận xét rằng tôn giáo, bằng cách cho nhân loại vay mượn một ý
nghĩa, cho phép các cộng đồng (tối thiểu là những cộng đồng hợp nhất dưới một
đức tin) được nối kết lại với nhau. Căn cứ vào lịch sử thì điều này quả là đúng,
và từ thành tích này mà tôn giáo đã được hưởng nhiều lòng tin cho cả các cuộc
chiến tranh xâm lăng như những ngày hội hè và tình yêu huynh đệ. Nhưng trong các
ảnh hưởng của tôn giáo trên một thế giới tân tiến - một thế giới đã hợp nhất ,
tối thiểu là có khả năng hợp nhất từ các nhu cầu về kinh tế, môi trường, chính
trị và khoa dịch tễ học – thì lý thuyết tôn giáo là một suy thoái nguy hiểm. Quá
khứ của chúng ta không phải là thiêng liêng bất khả xâm phạm vì là những việc
đã qua, và có nhiều điều ở đàng sau lưng mình mà chúng ta phải đấu tranh để
giữ chúng ở đàng sau lưng để có thể hy vọng rằng, chúng ta sẽ chẳng bao giờ có
thể quay lại với một lương tâm trong sạch: đặc quyền thần thánh của vua chúa,
phong kiến, hệ thống đẳng cấp, nô lệ, hành quyết chính trị, cưỡng ép thiến hoạn,
mổ xẻ sống, trò thả chó săn trêu gấu, đấu kiếm vì danh dự, đai trinh tiết, xủ
tội bằng thử thách (trial by ordeal), lao động trẻ con, tế sống người và thú
vật, ném đá kẻ ngoại đạo, ăn thịt người, luật thú dâm, các loại cấm kỵ về sự
tránh thụ thai, các thí nghiệm về bức xạ của con người- một danh sách gần như
bất tận, như thể đã được tăng trưởng đến vô tận, tỷ lệ của những lạm dụng quấy
nhiễu mà tôn giáo trực tiếp có trách nhiệm dường như vẫn còn chưa thuyên giảm.
Thực tế, hầu như mỗi sỉ nhục vừa nêu ra ở đây có thể góp thêm được hương vị chưa
chín mùi của chứng tích, cho một đức tin không thể bình phẩm trong một giáo lý
này hoặc giáo lý khác. Do đó, cái ý tưởng rằng đức tin tôn giáo, bằng cách này
hoặc cách khác, là một quy ước thiêng liêng của con người – thật là xuất sắc,
như chính bản thân nó, cả trong sự nghèo nàn về bằng chứng lẫn sự ngông cuồng
của các yêu sách – thì thực sự là một sự quái dị quá vĩ đại để có thể đánh giá
trong tất cả ánh hào quang chói lọi của chúng. Ðức tin tôn giáo tiêu biểu cho
một sự lạm dụng hết sức không thỏa hiệp về quyền lực tinh thần của chúng ta đến
nỗi nó đã tạo nên một thứ lập dị văn hoá ngoan cố - một quan điểm triệt tiêu
vượt ra ngoài cái giới hạn mà những bàn luận lý trí có thể minh chứng được. Mỗi
khi lén lút đưa vào các thế hệ, nó khiến chúng ta mất đi khả năng nhận thức được
bao nhiều phần của thế gian vốn bị nhường lại một cách vô ích cho một quá khứ
đen tối và tàn ác.
Gánh nặng của Thiên đàng
Thế giới chúng ta đang nhanh chóng đầu hàng các hoạt động của các quý ông, quý
bà đang sẵn sàng đánh đổi cả tương lai của bao sinh vật như chúng ta cho những
niềm tin lẽ ra đã không thể tồn tại được trong hệ thống giáo dục của bậc tiểu
học. Quá nhiều chúng ta vẫn phải chết vì những bí ẩn cổ đại vừa hoang đường vừa
kinh hoàng và sự liên hệ của chính chúng ta với những bí ẩn này, dù từ những
người ôn hòa hay cực đoan, đã cầm giữ chúng ta câm lặng trước dung mạo của những
phát triển cuối cùng có thể hủy diệt chính mình. Thật thế, ngày nay, tôn giáo là
căn nguyên sinh động của bạo lực như nó đã từng như thế trong bất cứ thời điểm
nào của quá khứ. Xung khắc đương thời ở Palestine (Giữa Do Thái giáo với Hồi
giáo), vùng Balkans (Giữa Chính thống giáo Serbians với Công giáo Croatian;
Chính thống giáo Serbians với Hồi giáo Bosnian và Hồi giáo Albanian), vùng bắc
Ái nhĩ Lan (Giữa Tin lành với Công giáo), vùng Kashmir (giữa Hồi giáo với Ấn độ
giáo), vùng Sudan (giữa Hồi giáo với Kitô giáo và vật linh giáo), ở Nigeria
(giữa Hồi giáo với Kitô giáo), ở Ethiopia và Eritera (giữa Hồi giáo với Kitô
giáo), ở Sri Lanka (giữa Phật giáo Sinhalese với Ấn giáo Tamil), ở Indonesia
(giữa Hồi giáo với người Kitô giáo Timorese), vùng Caucasus (giữa Chính thống
giáo Nga với Hồi giáo Chechen; giữa Hồi giáo người Azerbaijan với Công giáo và
Chính thống giáo Armenian) chỉ là một số trường hợp trong quan điểm này. Ở các
khu vực vừa kể, tôn giáo đã là nguyên nhân rõ ràng của hàng triệu cái chết trong
mười năm qua. Những biến cố này tấn công chúng ta như thể những thử nghiệm tâm
lý đang chạy cuồng loạn, bởi vì chính chúng vốn là như thế. Mang đến cho con
người các quan niệm phân rẽ, không thể dung hợp và không thể thử nghiệm được về
những gì xảy ra sau khi chết, để cưỡng bách con người phải sống chung với những
phương sách hạn hẹp. Kết quả đúng như chúng ta nhìn thấy: một vòng lập lại bất
tận của sát nhân và ngưng chiến. Nếu lịch sử từng hé lộ một sự thực tuyệt đối,
thì đó chính là sự thiếu hụt chứng tích thường chỉ mang lại sự tàn tệ nhất trong
chúng ta. Chỉ cần thêm vào cỗ máy đồng hồ hiểm độc này các vũ khí hủy diệt hàng
loạt, ta sẽ có ngay tấm biên nhận cho sự xụp đổ của nền văn minh.
Ta có thể nói gì về hiểm họa chiến tranh hạt nhân sắp bùng nổ giữa Ấn độ và
Pakistan nếu mối phân rẽ về niềm tin tôn giáo của họ phải được “tôn trọng”? Sẽ
chẳng có gì cho các nhà giáo sĩ bình phẩm ngoài chính sách ngoại giao nghèo nàn
của mỗi nước – Trong khi, sự thật là toàn bộ mối xung khắc đã sản sinh ra từ sự
ôm lấy các hoang dường một cách phi lý. Hơn triệu người đã chết từ cuộc liên
hoan của giết chóc vì đạo giáo dẫn đến sự phân chia ra Ấn độ và Pakistan. Hai
quốc gia từ đó đã chiến đấu ba cuộc chiến tranh, đau khổ vì máu đổ liên tục ở
các khu vực chung biên giới và hiện đang kẻ tám lạng người nửa cân trong ý muốn
tiêu diệt lẫn nhau bằng vũ khí hạt nhân chỉ vì họ bất đồng với nhau về “các sự
kiện ” mà mỗi chi tiết đều hoang đường như thể các cái tên những con tuần lộc
của ông già Noel. Và cuộc đàm luận của họ cứ như thể họ có khả năng tập hợp được
các nhiệt tình ở mức độ chết người cho các chủ đề này mà không cần chứng tích gì
cả. Mối xung khắc của họ chính thức là chỉ vì lãnh thổ, bởi vì các yêu sách
không tương thích của họ về vùng lãnh thổ Kashmir là hậu quả trực tiếp từ các
khác biệt tôn giáo của họ. Thật ra, lý do chính khiến Ấn độ và Pakistan trở
thành hai quốc gia riêng biệt là vì các niềm tin của Hồi giáo không thể hòa giải
với các niềm tin của Ấn độ giáo. Theo quan điểm của đạo Hồi, sẽ khó có thể tưởng
tượng được một phương cách xúc phạm đến Allah nào mà không bị vi phạm mỗi sáng
bởi một số phong tục Ấn độ giáo. “Lãnh thổ” mà những dân tộc này thực đang tranh
giành nhau thì không thể tìm thấy trên thế gian này. Ðến khi nào chúng ta mới
nhận ra rằng sự nhượng bộ chúng ta dành cho đức tintrong các bàn luận chính trị
của chúng ta đã ngăn chúng ta khỏi việc tiêu trừ, hay ngay cả việc chỉ nói lên,
cái cội nguồn phong phú của bạo lực trong lịch sử của chúng ta?
Các bà mẹ bị xiên từ những lưỡi gươm trong khi lũ con họ
đang nhìn theo. Các phụ nữ trẻ bị lột truồng, bị hãm hiếp giữa thanh thiên bạch
nhật, rồi …bị hỏa thiêu. Bụng một người phụ nữ có mang bị rạch toang, bào nhi
của bà bị dương lên trời băng mũi kiếm sau đó bị ném bỏ vào một trong những ngọn
lửa đang bùng cháy trên khắp thành phố.(8)
Ðấy không phải là một tường thuật của thời trung cổ cũng
không phải chuyện bịa đặt từ vùng Trung địa (Middle Earth) . Ðấy là thế giới của
chúng ta. Nguyên nhân của các hành vi này không phải là vì kinh tế, chủng
tộc hay lịch sử. Ðoạn văn trên mô tả một cảnh bạo lực nổ ra giữa Ấn độ giáo và
Hồi giáo ở Ấn độ vào mùa đông năm 2002. Cái khác biệt duy nhất giữa hai nhóm tôn
giáo này chứa đựng trong những gì họ tin về Thượng Ðế. Hơn một ngàn người đã
chết trong suốt một tháng nổi loạn - gần bằng một nửa nhân số đã chết trong cuộc
xung đột giữa Do Thái và người Palestine trong hơn một thập niên. Và đây chỉ là
những con số nhỏ, nếu như nhìn vào các khả năng của cuộc xung đột. Cuộc chiến
tranh hạch nhân giữa Ấn độ và Pakistan là khó tránh khỏi nếu như căn cứ vào
những gì mọi người Ấn và Pakistan tin về đời sống sau khi chết. Arundhati Roy đã
từng nói rằng sự quan tâm của Phương Tây đến tình hình này cũng chỉ giống như
việc những người da trắng theo chủ nghĩa đế quốc tin rằng "Không thể tin người
da đen với những trái bom” (9). Ðây là một sự kết án kỳ cục. Có người có thể cãi
rằng không có tập thể con người nào có thể tin được với những quả bom,
nhưng lờ đi vai trò gây mất ổn định mà tôn giáo đang có trách nhiệm trên vùng
tiểu lục địa là một sự tắc trách và không trung thực. Chúng ta chỉ có thể hy
vọng rằng các thế lực của thế tục và ý thức sẽ giữ được các tên lửa nằm yên trên
bệ phóng cho đến chừng nào những nguyên nhân sâu xa của các xung khắc này cuối
cùng được giải tỏa.
Trong khi tôi không có ý lựa riêng học thuyết của Hồi giáo ra để đặc biệt nói
xấu, thực sự, không còn nghi ngờ gì rằng, trong giai đoạn này của lịch sử, Hồi
giáo đang tiêu biểu cho một mối nguy hiểm kỳ lạ nhất cho tất cả chúng ta, dù là
người Hồi giáo hay không Hồi giáo cũng thế. Không cần phải nói, nhiều người Hồi
giáo có căn bản ý thức và khoan dung với tha nhân. Tuy nhiên, như chúng ta nhìn
thấy, các đức tính tân tiến này gần như không phải là sản phẩm từ đức tin của
họ. Trong chương 4, tôi sẽ tranh luận rằng chừng nào một người còn tuân thủ
học thuyết của Hồi giáo – có nghĩa là chừng nào người ấy còn thực sự tin
vào học thuyết ấy, y sẽ vẫn còn là một vấn nạn đối với chúng ta. Thật thế, ngày
càng rõ ràng hơn là các trách nhiệm từ đức tin của Hồi giáo thì tuyệt nhiên
không hạn chế vào các niềm tin của người Hồi giáo “cực đoan”. Phản ứng với biến
cố ngày 11 tháng 9 năm 2001 của thế giới Hồi giáo cho thấy không còn nghi ngờ gì
rằng có một số lượng đáng kể nhân loại của thế kỷ hai mươi mốt đã tin vào khả
năng của một cái chết tử đạo. Ðáp trả với sự kiện không chắc có thực này, chúng
ta đã tuyên một cuộc chiến tranh chống "chủ nghĩa khủng bố”. Ðiều này cũng giống
như tuyên chiến với sự “sát nhân”; và đó chính là một phạm trù sai lầm khiến che
dấu đi nguyên nhân thực của các vấn nạn của chúng ta. Chủ nghĩa khủng bố không
phải là nguồn gốc của bạo hành nhân loại, mà chỉ là một biến thái của nó. Nếu
Osama bin Laden là nguyên thủ một quốc gia, và Trung Tâm Thương mại quốc tế đã
bị dội xập bởi hỏa tiễn, thì thảm họa ngày 11 tháng Chín đúng là một hành động
gây chiến. Rõ ràng là chúng ta đã chống lại sự cám dỗ của việc tuyên chiến với
một cuộc “chiến tranh” trong hành động đáp trả với biến cố này.
Ðể nhìn thấy vấn đề của chúng ta với chính bản thân Hồi giáo, và không chỉ riêng
với “chính sách khủng bố”, chúng ta cần tự hỏi chính mình tại sao khủng
bố Hồi giáo lại hành động những việc như họ đã làm. Tại sao một kẻ bất mãn cá
nhân, trống rỗng hoặc bất bình thường về tâm lý như Osama bin Laden - một kẻ
không nghèo khổ, không thiếu học, không ảo tưởng, cũng không phải là một nạn
nhân hàng đầu của mối gây hấn Tây phương – lại đi hiến mình cho các mưu đồ chui
rúc trong hang hầm với ý định sát hại vô số đàn ông, đàn bà, trẻ con mà y chưa
từng gặp mặt? Câu trả lời cho câu hỏi này thật là rõ ràng- nếu như chỉ vì đã
từng được lập đi lập lại đến phát ngán bởi chính Bin Laden. Câu trả lời là những
người như bin Laden thực sự tin tưởng vào những gì họ nói rằng họ tin. Họ
tin vào cái chân lý nghĩa đen của kinh Koran. Tại sao mười chín con người thuộc
thành phần trung lưu, có ăn học tử tế lại dám đánh đổi mạng sống trên thế gian
này của mình cho cái đặc ân được giết hàng nghìn người láng giềng của chúng ta?
Bởi vì họ tin rằng hành động như thế sẽ giúp họ đi thẳng được đến cõi thiên
đàng. Rất hiếm khi có những hành vi của con người được giải thích một cách thỏa
đáng và đầy đủ như vậy. Tại sao chúng ta quá do dự để chấp nhận lời giải thích
này?
Như chúng ta đã nhìn thấy, thực là có một điều gì đấy mà hầu hết người Mỹ cùng
chia xẻ chung với Osama bin Laden, với mười chín kẻ không tặc và phần lớn thế
giới Hồi giáo. Chúng ta cũng ấp ủ cái ý tưởng có thể tin vào một số khẳng định
vĩ đại mà không hề cần đến chứng tín. Những hành động anh hùng vì cả tin ấy đã
không những được xem như chấp nhận được mà còn là một sự cứu rỗi khỏi tội lỗi,
thậm chí còn được xem là cần thiết. Ðấy chính là vấn nạn hết sức sâu sắc
và nguy hại hơn cả vấn đề chất độc anthrax tẩm trong thư tín. Sự nhượng bộ mà
chúng ta dành cho đức tin tôn giáo – cho cái ý tưởng rằng niềm tin có thể được
thần thánh hoá bởi cái gì khác hơn là chứng cứ - đã khiến chúng ta không thể
định rõ, không thể xướng danh, môt trong những nguyên nhân phổ biến nhất của sự
xung khắc trên thế giới của chúng ta.
Chủ nghĩa cực đoan Hồi Giáo
Vạch ra các chiều kích cực đoan thực sự của “Chủ nghĩa Cực đoan Hồi giáo” là một
việc quan trọng. Họ cực đoan trong đức tin của mình. Họ cực đoan trong
các hiến dâng của họ cho từng ý từng chữ nguyên văn của kinh Koran và sử thánh
(văn bản ghi chép lại các hành động và lời dạy của đấng tiên tri), và những thứ
này đã dẫn đạo họ trở nên cực đoan đến mức độ tin rằng nền văn hoá tân tiến và
thế tục không thể tương thích với sự lành mạnh của đạo đức và tâm linh. Chủ
nghĩa cực đoan Hồi giáo khẳng định rằng các văn hóa tây phương xuất khẩu ra các
nước khác đang lôi kéo vợ con họ khỏi Thượng đế. Họ cũng quan niệm sự không tin
đạo của chúng ta là một thứ tội lỗi trầm trọng đến mức đáng phải chết ở bất cứ
nơi nào sự bất tin đó cản ngăn đến sự truyền bá của Hồi giáo. Các mê say tạp
nhạp này không thể giảm nhẹ thành “sự oán ghét” trong tất cả các ý nghĩa thông
thường nhất. Hầu hết những người Hồi giáo cực đoan chưa từng đến nước Mỹ, hoăc
ngay cả nhìn, gặp một người Mỹ. Và họ ít bất mãn với chủ nghĩa đế quốc Tây
phương hơn là bất mãn các nơi khác trên toàn cầu (10). Ðúng ra, họ khốn khổ vì
nỗi sợ bị ô uế. Hơn thế nữa, họ cũng héo hon trong cảm giác bị “làm nhục”. Bị
làm nhục từ cái thực tế phải chứng kiến, chấp nhận những con người không tin
thần thánh, những con người tội lỗi, trở thành chủ nhân của mình khi nền văn
minh của họ bị lụi tàn. Cảm giác này cũng là sản phẩm từ chính tôn giáo của họ
mà ra. Người Hồi Giáo không chỉ cảm thấy sự lăng nhục của những người nghèo đang
bị cướp đoạt mất các cần yếu của sự sống. Họ còn cảm được nỗi nhục của một giống
dân (được) chọn lọc bị chinh phục bở những kẻ man rợ. Osama bin Laden chẳng muốn
gì cả. Thế thì, y thực muốn gì? Y chẳng hề kêu gọi việc chia xẻ thịnh vượng đồng
đều trên thế giới. Ngay cả việc đòi hỏi tư cách quốc gia cho người Palestine
cũng chỉ là ý tưởng chỉ đến sau khi đã hành động, vốn phát nguồn phần lớn từ tư
tưởng bài Do Thái cũng như từ bất kỳ tình cảm gắn bó nào y có được với người
Palestine (chẳng cần phải nói, loại tư tưởng bài Do Thái và tình cảm gắn bó với
người Palestine đấy cũng là sản phẩm của đức tin của y). Dường như y đã hành
động đa phần trên sự hiện hữu của những người không tin đạo (Lính Mỹ và người Do
Thái) trong thánh địa của Hồi giáo và trên sự tưởng tượng về một tham vọng đất
đai của chủ nghĩa phục quốc Do Thái trong y. Ðây là những bất mãn hoàn toàn có
tính lý thuyết. Nếu như mọi nguyên nhân chỉ vì y thù ghét chúng ta thì có lẽ đã
dể hiểu hơn nhiều cho mọi đàng.
Thật ra mà nói, thù hận là một thứ tình cảm hết sức đặc biệt của nhân tính,và
hiển nhiên là nhiều người Hồi giáo cực đoan cảm được lòng hận thù này. Nhưng ở
đây, đức tin vẫn là mẹ đẻ ra thù hận, như nó vốn là như thế ở bất kỳ nơi đâu mà
con người xác định cái đặc thù đạo đức trong phạm trù tôn giáo của mình. Cái
khác biệt nổi bật duy nhất giữa người Hồi giáo và người không Hồi giáo là ở chỗ
người không theo Hồi giáo không biểu lộ đức tin của mình vào đấng Allah, và
Mohammed là tiên tri của Người. Ðạo Hồi là một tôn giáo có tính truyền giáo:
không có vẻ gì là có một học thuyết cơ bản của sự kỳ thị chủng tộc, hoặc ngay cả
một thứ chủ nghĩa dân tộc, cổ cũ cho thế giới của các chiến sĩ Hồi giáo. Dĩ
nhiên những người Hồi giáo có thể vừa là kẻ kỳ thị chủng tộc vừa là kẻ theo chủ
nghĩa dân tộc nhưng có thể là tất cả nhưng chắc chắn rằng nếu Tây phương tiến
hành một cuộc cải đạo ồ ạt qua Hồi giáo- và, nếu cần thiết - chối bỏ luôn tất cả
đặc quyền của người Do thái trong vùng thánh địa – thì căn bản của mối “thù hận”
Hồi giáo chắc sẽ đơn giản biến mất. (11)
Hầu hết những người Hồi Giáo phạm tội ác đều triệt để với ước vọng lên thiên
đàng của mình. Một kẻ đánh bom tự sát người Palestine khi bị bắt đã diễn tả mình
bị “thúc đẩy” tấn công người Do Thái từ “tình yêu cho việc tử đạo”. Y nói thêm
rằng "Tôi không muốn trả thù ai cả, tôi chỉ muốn được làm người tử vì đạo”. Ông
Zaydan, người đáng lẽ tử vì đạo, thừa nhận những người Do Thái bắt giữ ông còn
“tốt lành hơn rất nhiều người Ả Rập”. Khi nói đến những khổ đau mà sự tử đạo của
ông có thể gây ra cho gia đình mình, ông nhắc người phỏng vấn rằng một người tử
vì đạo sẽ được chọn bảy mươi người theo mình lên thiên đàng. Chắc hẳn ông sẽ mời
gia đình mình lên cùng. (12)
NHƯ TÔI ÐÃ NÓI, con người của đức tin có khuynh hướng tranh cãi rằng không phải
bản thân đức tin mà chính bản chất hèn hạ tự nhiên của con người đã xúi dục các
bạo hành ấy. Nhưng tôi trả lời rõ ràng là một con người bình thường không thể bị
kích thích để thiêu sống một lão học giả thiên tài vì tội phỉ báng kinh Koran
(13), hay ăn mừng những cái chết vì bạo hành của các con mình, trừ khi họ tin
vào những điều không chắc có thực về bản chất của vũ trụ. Bởi lẽ hầu hết các tôn
giáo đều không mang lại một cơ chế giá trị để qua đó các niềm tin cốt lõi của họ
được thử thách và sửa chữa lại, mỗi thế hệ người mới tin theo bị cưỡng ép phải
kế tục mối thù cũ có tính bộ tộc và mê tín từ các tiền nhân. Nếu chúng ta muốn
đề cập đến tính thấp hèn của mình, sự sẵn lòng sống, giết người và chết vì các
giá trị của những xác nhận mà chúng ta không hề có chứng cứ thì đấy chính là một
trong những chủ đề đầu tiên để luận bàn.
Hầu hết những người ở vị trí lãnh đạo trên đất nước chúng ta sẽ tuyên bố rằng
không hề có mối liên hệ trực tiếp nào giữa đức tin của Hồi giáo và “chủ nghĩa
khủng bố”. Tuy vậy, rõ ràng là Hồi giáo thù ghét Tây phương từ ngay trong các
phạm trù đức tin của họ và rõ ràng là kinh Koran đòi hỏi đến mối thù ghét ấy.
Những người Hồi giáo “ôn hòa” đã tuyên bố ở mọi nơi là kinh Koran không hề yêu
cầu đòi hỏi sự thù ghét như thế và đạo Hồi là một “tôn giáo của hòa bình”. Nhưng
ta chỉ cần đọc chính từ kinh Koran để biết rằng những tuyên bố ấy thực là không
đúng:
Hỡi Tiên tri, hãy khai chiến với bọn không tin đạo, bọn
đạo đức giả, và cư xử khắc nghiệt với chúng nó. Ðịa ngục sẽ là nơi ở của chúng:
một nghiệp chướng xấu xa.
(Koran 9:73)
Hỡi những người tin đạo, hãy khai chiến với bọn chống đạo đang ở chung quanh
các ngươi. Hãy cứng rắn với chúng nó. Hãy hiểu rằng Thượng đế ở về phía người
thiện.
(Koran 9:123)
Những người Hồi giáo ngoan đạo không thể không khinh miệt
văn hóa của chúng ta, ở tầm mức thế tục, là một thứ văn hoá phản đạo, ở tầm mức
tôn giáo, là một loại khải huyền nửa vời (như kiểu Kitô giáo và Do thái giáo),
thấp kém trong mọi khía cạnh so với sự khải huyền của Hồi giáo. Cái thực tế mà
người Tây phương đang thụ hưởng được sự thịnh vượng vượt trội và một quyền lực
thế tục hơn bất kỳ quốc gia Hồi giáo nào bị những người Hồi giáo sùng tín xem
như là một sự éo le tai ác, và tình trạng này luôn có giá trị như một lời mời
rộng mở cho các thánh chiến của người Hồi giáo. Tới mức độ hễ là một người Hồi
giáo, nghĩa là tin rằng chỉ Hồi giáo mới hình thành được con đường duy nhất có
thể đứng vững được để đến với Thượng đế, tin rằng kinh Koran là phương cách toàn
hảo nhất để diễn đạt con đường đó - kẻ ấy sẽ cảm thấy xem khinh bất cứ người đàn
ông đàn bà nào dám nghi ngờ đến lẽ phải cho niềm tin như thế của mình. Hơn cả
thế, y còn cảm thấy rằng niềm hạnh phúc đời đời của con cái y đang ở trong gian
nguy chỉ vì sự hiện hữu của những kẻ không tin đạo kia trên thế gian. Nếu những
kẻ ấy chuẩn bị làm ra các chính sách luật lệ khiến y và con cái y phải tuân theo
thì cái năng lực tiềm tàng của bạo hành tác động bởi niềm tin của y có lẽ không
thể nguôi đi được. Ðây chính là nguyên nhân vì sao các lợi điểm kinh tế, giáo
dục, tự bản thân, là các phương thuốc không đủ để chữa trị các bạo hành tôn
giáo. Chả trách có nhiều người thuộc thành phần trung lưu, chính thống có ăn học
cũng sẵn sàng giết người và xả thân vì Thượng đế. Như Samuel Huntington (14) và
các học giả khác đã từng nhận xét, trào lưu bảo thủ tôn giáo trong các nước đang
phát triển, trên nguyên tắc không phải là phong trào của người nghèo và thiếu
học.
Ðể nhìn thấy vai trò của đức tin trong sự phát tán của bạo lực Hồi giáo, chúng
ta chỉ cần hỏi tại sao có quá nhiều người Hồi giáo khao khát muốn biến mình
thành bom nổ trong lúc này. Câu trả lời: bởi vì kinh Koran đã làm cho những hành
vi này trở nên một thứ cơ hội của sự nghiệp. Không có nơi nào trong lịch sử chủ
nghĩa thực dân Tây phương từng giải thích được hành vi này (dù chúng ta có thể
thừa nhận chắc chắn rằng giai đoạn lịch sử này đã ban cho chúng ta đáng kể để
chuộc lỗi cho hành vi ấy). Trừ đi niềm tin Hồi giáo trong các cuộc thánh chiến
và tử đạo, trừ đi các hành động vốn trở thành không thể hiểu được của những kẻ
đánh bom tự sát, cùng cảnh tượng vui mừng công khai luôn luôn theo sau những cái
chết ấy, thêm vào đấy các niềm tin lạ thường, người ta sẽ chỉ không khỏi ngạc
nhiên tại sao các vụ đánh bom tự sát lại không thể phát triển rộng rãi hơn. Bất
cứ ai từng bảo rằng học thuyết của Hồi giáo"không có gì liên quan đến chủ nghĩa
khủng bố” – và các làn sóng phát thanh của chúng ta tràn ngập những kẻ biện hộ
cho Hồi giáo để khẳng định thêm về điều ấy – thì đúng chỉ là một trò chơi chữ.
Những người tin đạo ở trong nhà, cách biệt hẳn với những
người phải chịu những ngăn trở nghiêm trọng – thì không được ngang hàng với
những kẻ dám chiến đấu vì lý tưởng của Thượng đế bằng chính của cải và nhân lực
của mình. Thượng đế đã ban cho những ai dám chiến đấu bằng tài sản, nhân mạng
mình một vị trí cao hơn những kẻ chỉ ngồi ở nhà. Thượng đế đã hứa tưởng tưởng
hậu hĩ; nhưng thật hậu hĩ hơn nhiều là sự biết ơn đến những ai đã dám chiến đấu
cho Người… Kẻ dám rời bỏ nơi ăn chốn ở của mình để chiến đấu vì Thượng đế và các
tùy tòng của Người và bị lấy đi bởi cái chết sẽ được tưởng thưởng bởi Thượng đế…
Bọn không tin đạo chính là kẻ thù lâu đời của các ngươi.
(Koran 4:95-101)
Trò tung hứng công khai với những bài báo về đức tin thường
sản xuất ra các phát biểu đại loại như: "Hồi giáo là một tôn giáo của hòa bình.
Ngay chính từ ngữ Islam vốn đã có nghĩa là hòa bình. Tự sát là
việc bị nghiêm cấm trong kinh Koran. Do đó, không hề có một căn cứ nào từ kinh
sách cho các hành động của những kẻ khủng bố”. Ðối với lời ba hoa xảo thuật ấy,
chúng ta chắc phải thêm rằng cụm từ “bom bẩn” cũng không hề xuất hiện bất cứ đâu
trong kinh Koran. Vâng, kinh Koran dường như có công bố điều gì khiến có thể
phân giải trở thành một điều cấm cho sự tự sát – “Ðừng tự tiêu hủy chính mình”
(4:29)- nhưng chính kinh Koran đã để lại quá nhiều kẽ hở rộng đủ cho một chiếc
Boeing 767 bay lọt qua:
Hãy để những kẻ đánh đổi mạng sống của thế gian này cho
đời sau, chiến đấu cho chính nghĩa của thượng đế; Chúng ta sẽ tưởng thưởng cho
bất cứ ai dám chiến đấu vì chính nghĩa của Thượng đế dù thắng lợi hay phải chết
đi…Chỉ người thực tin vào đạo chiến đấu vì chính nghĩa của Thượng đế, còn bọn
chống đạo chỉ chiến đấu cho quỷ dữ. Chiến đấu như thế nghĩa là chiến đấu chống
lại bọn bạn bè của quỷ Satan…Hãy xướng rằng "Vui thú trần gian chỉ là chuyện tầm
thường. Ðời sống sau này mới thực tốt đẹp hơn cho những ai muốn tránh xa quỷ
dữ…”
(Koran 4:74-78)
Khi những lời mời gọi cho tử đạo trên được soi nhìn dưới
ánh sáng của thực tại là đạo Islam không hề phân biệt giữa thẩm quyền dân sự và
tôn giáo (15), những khiếp đảm song sinh của lối giải thích Koran sát nghĩa nhảy
ra ngay trước mắt: Trong tầm mức nhà nước, khát vọng muốn Hồi giáo trở thành
thống trị trên thế giới dứt khoát có được Thượng đế tham dự ; trong mức độ cá
nhân, cái ảo tưởng tử đạo mang lại căn bản hợp lý cho sự quên mình đến tận cùng.
Như Bernard Lewis nhận xét, kể từ thời đại của nhà Tiên tri, đạo Hồi đã “liên
kết với sự xử dụng đến quyền lực quân sự và chính trị trong tâm tư và ký ức của
những người Hồi giáo” (16) Ảo tưởng của Hồi giáo đặc biệt đã chỉ đặc biệt không
may ở những nơi nào mà sự khoan dung và chia rẽ tôn giáo được quan tâm đến, bởi
vì tử đạo là phương cách duy nhất mà người Hồi giáo có thể đánh vòng qua khỏi
các kiện cáo đau đớn của Ngày Phán xét cuối cùng đang chờ tất cả chúng ta để đi
thẳng vào cõi thiên đàng. Thay vì phải chờ cả hàng trăm năm khiến mục nát trong
cát bụi rồi lại phải chờ đợi được sống lại để các thánh thần dữ tợn tra khảo, kẻ
tử đạo được thăng chuyển một cách trực tiếp đến Vườn cảnh của đấng Allah nơi có
một bầy trinh nữ mắt nâu đang chờ sẵn.
Bởi vì họ tin tuyệt đối vào vào từng lời từng chữ theo nghĩa đen bản chép các
phát biểu nguyên văn từ Thượng đế, các kinh bản như Koran và Kinh thánh phải
được đánh giá, và phê phán, cho bất cứ giải thích khả thi nào đến những
điều mà sự phiên giải này có thể chịu được - và đến những điều mà sự phiên giải
này sẽ bị khuất phục, với những các biến đổi nhấn mạnh và đọc thoáng khác nhau,
trên khắp thế giới của đạo giáo. Vấn đề không phải ở chỗ một số người Hồi giáo
bất cẩn không lưu ý đến một số hướng dẫn về tính không gây hấn có thể tìm thấy
trong kinh Koran, và từ đó dẫn họ đến những hành động kinh hoàng lên những người
không theo đạo, vấn đề chính ở chỗ là hầu hết người Hồi giáo tin kinh Koran là
lời thật nguyên văn của Thượng đế. Việc điều chỉnh cho phù hợp với thế
giới quan của Osama bin Laden là không vạch ra một dòng nào trong kinh Koran chỉ
trích việc tự sát, bởi vì lời khẳng định mơ hồ này được sắp đặt trong một bụi
cây của những chương đoạn khác vốn chỉ có thể đọc ra như một lời kêu gọi trực
tiếp đến cuộc chiến chống lại “bè lũ đồng đảng của Satan”. Câu đáp trả chính
đáng cho các bin Laden của thế gian là trừng phạt việc đọc những kinh bản này
của mọi người bằng cách tạo ra những yêu sách có chứng cớ tương tự về các vấn đề
tôn giáo mà chúng ta đã yêu sách với tất cả các tôn giáo khác. Nếu chúng ta
không tìm được phương cách của mình cho đến lúc tất cả chúng ta đều phải sẵn
lòng thừa nhận điều ấy, thì tối thiểu, chúng ta không biết chắc có phải
Thượng đế đã từng soạn ra một số kinh sách của chúng ta hay không, rồi chúng ta
chỉ cần đếm ngày dẫn chúng ta đến Trận chiến cuối cùng - bởi vì Thượng đế đã ban
cho chúng ta quá nhiều lý lẽ để giết hết người này đến kẻ khác hơn là chìa má
bên kia ra cho tha nhân.
Chúng ta sống trong một thời đại mà hầu như mọi người tin rằng chỉ những từ -
“Jesus”, “Allah”, “Ram” đã đủ nói đến sự khác biệt giữa thống khổ đời đời và
niềm hạnh phúc bất tận. Hãy suy nghĩ đến sự nguy hiểm ở đây,quả là không ngạc
nhiên khi nhiều người trong chúng ta đôi lúc thấy cần phải giết một kẻ khác bởi
họ đã dùng sai các từ ma lực, hoặc dùng đúng từ nhưng sai chỗ. Làm sao mà một
người nào có thể cả gan nghĩ mình biết rằng đấy chính là cách thức mà thế gian
này vận hành? Bởi vì đã được bảo như thế trong các sách thánh của chúng ta. Làm
sao chúng ta biết được rằng các sách thánh không bị sai? Bởi vì các chính bản
thân sách thánh đã dạy như thế. Những lỗ đen ngòm của nhận thức luận về các
thứ này đang vắt kiệt ánh sáng từ thế gian của chúng ta.
Dĩ nhiên, có nhiều phần trong các sách thánh ấy thông thái, đẹp đẽ và an ủi.
Nhưng các từ chữ về sự thông thái và giải khuây cũng nhan nhản trong các trang
sách của Shakespear, Virgil và Hormer nữa, và chưa có ai từng giết hại hàng ngàn
người không quen biết vì những gợi ý mà họ có thể tìm được trong những sách
thánh này. Niềm tin rằng một số kinh sách đã thực sự được viết bởi chính Thượng
đế (kẻ mà, vì những nguyên nhân khó có thể tìm hiểu được, đã trước tác dở hơn
Shakespear rất xa) đã khiến chúng ta bất lực trong việc chú tâm đến các cội
nguồn mạnh nhất của các xung khắc nhân loại, trong quá khứ cũng như hiện
tại.(17) Làm sao mà sự ngu xuẩn của ý niệm này không từng giờ từng phút bắt
chúng ta phải quỳ gối xuống đầu hàng? Có thể nói một cách chắc chắn ít người
trong chúng ta từng nghĩ rằng quá nhiều người đã có thể tin vào những sự việc
nếu như họ không thực sự tin vào những điều ấy? Hãy thử tưởng tượng trong
một thế giới mà nhiều thế hệ nhân loại đã đi đến chỗ tin rằng có một số phim
nhựa được Thượng đế tạo ra hoặc tin rằng một phần mềm đặc biệt nào đó đã được
giải mã từ chính Người. Hãy thử tưởng tượng đến một tương lai mà hàng triệu con
cháu hậu duệ của chúng ta giết nhau vì những lời giải thích cạnh tranh lẫn nhau
của Windows 98 hay Star Wars? Có thế có điều gì - bất kỳ điều gì - kỳ quặc hơn
thế được không? Thế mà, những điều này đã không hề kỳ khôi hơn chính cái thế
gian chúng ta đang hằng sống.
(còn tiếp)
-----------------------------
Chú thích:
(8) Theo C. G. Dugger, “Religious Riots Loom over Indian Politics” Thời báo Nữu
Ước 27 tháng bảy 2002. Cũng xin đọc P. Mishra, “The Other face of Fanaticism”,
tạp chí Thời báo Nữu Ước, tháng Hai 2004, trang 42-46.
(9) Theo A. Roy, War Talk (Cambridge, Mass.: South End Press, 2003), 1.
(10) Theo Lewis, Crisis of Islam, 57-58, các ghi chú, chúng ta đã gây ra quá
nhiều xáo trộn trong vùng trung tâm Châu phi, vùng Ðông Nam châu Á, và vùng nam
Phi. Những quốc gia Hồi giáo này vốn bị chiếm đóng bởi các lực lượng ngoại bang
(như Ai Cập) thì trong nhiều phương diện lại khá hơn nhiều so với các quốc gia
(như Saudi Arabia) không từng bị ngoại bang chiếm đóng. Lấy Saudi Arabia làm ví
dụ, bất chấp sự thịnh vượng của mình - vốn không có nguyên nhân nào hơn ngoài sự
ưu đãi của thiên nhiên - quốc gia này đã bị bỏ rơi sau các láng giềng mình trong
nhiều lãnh vực. Người Saudi chỉ có tám trường đại học để phục vụ 21 triệu dân
số, và mãi đến năm 1962 họ mới chấm dứt được nạn nô lệ. Trong tác phẩm Terror
and Liberalism của P. Berman (New York: W.W Norton, 2003), trang 16, cũng
chỉ cho thấy rằng hầu hết các xung khắc của chúng ta trong những năm gần đây đã
từng là những chiến đấu để tự vệ từ nhiều dân tộc Hồi giáo: Cuộc chiến tranh
vùng Vịnh đầu tiên là cuộc chiến tranh để tự vệ đối với Kuwait và Saudi Arabia,
và đã phải tiếp tục bằng cả một thập niên bảo vệ vùng trời cho dân Kurd người
Iraq ở phương bắc và dân Shia người Iraq ở phương nam; cuộc can thiệp vào
Somalia đã hình thành để giải cứu nạn đói kém ở đấy; và sự can thiệp của chúng
ta ở vùng Balkan là vì mục đích bảo vệ người Bosnia và Kosovar khỏi sự cướp phá
của người Kitô giáo Serb. Các hỗ trợ ban đầu của chúng ta cho quân thánh chiến
phiến loạn (Mujahideen) ở Afghanistan cũng nằm trong các ý nghĩa này. Như Berman
đã công bố “Trong tất cả lịch sử cận đại, không có một quốc gia nào từng chiến
đấu cật lực và kiên trì cho dân cư Hồi giáo như nước Hoa Kỳ”. Ðiều này thật
đúng. Thế nhưng thế giới quan của người Hồi giáo lại nhìn sự kiện này thường như
một sự bất mãn khác đối với chúng ta; lại thêm một nguồn gốc khác cho sự “khinh
miệt” Hồi Giáo.
(11) Dĩ nhiên, người Sunnis vẫn thù ghét người Shiites, nhưng đây cũng là một
biểu hiện đức tin của họ.
(12) Theo J. Bennet, “In Isareli Hospital, Bomber Tells of Trying to Kill
Israelis” Thời báo Nữu Ước ngày 8 tháng Sáu, 2002.
(13) “Năm 1994, tại một làng phía nam Islamabad, cảnh sát kết tội một bác sĩ vì
dám đốt cuốn kinh Koran thiêng liêng, một tội phỉ báng đáng bị xử tử hình. Trước
khi ông được đem ra tòa, một đám đông giận dữ đã kéo lê ông ra khỏi trạm cảnh
sát, đổ xăng vào ông và thiêu sống ông ta”. Theo J.A. Haught, Holly Hatred:
Religious Conflicts of the 90’s (Amherst, Mass.:Prometheous Books, 1995).
Trang 179.
(14) Theo S. P. Huntington, The Clash of Civilization and the Remaking of
World Order (New York: Simon and Schuster, 1996)
(15) Như nhiều nhà bình luận đã nhận xét, không hề có một câu tương đương trong
kinh Koran như câu “cái gì của Caesar hãy trả lại cho Caesar, và sự gì của Thiên
Chúa hãy trả về Thiên Chúa” như trong kinh Tân Ước. (Matt 22:21). Kết quả là,
hầu như không hề có một căn bản thuộc Hồi giáo cho sự phân biệt giữa quyền lực
của nhà thờ và nhà nước. Khỏi cần phải nói thêm, điều này quả là một vấn nạn
thực sự.
(16) Theo Lewis, Crisis of Islam, trang 20.
(17) Hãy thử nghĩ, cái gì sẽ lấp đầy các trang báo của chúng ta nếu như không có
các đối kháng giữa Do Thái với người Palestine, giữa người Ấn độ và người
Pakistan, giữa người Nga với người Chechens, giữa các lực lượng quân đội Hồi
giáo với các nước Tây phương v.v… Các vấn nạn giữa phương Tây với các quốc gia
như Trung Hoa và Bắc Triều Tiên vẫn còn đó, nhưng chúng cũng thường là các kết
quả của sự chấp nhận không phê phán một mớ những chủ thuyết khác nhau. Thí dụ
như dù những khác biệt giữa chúng ta và bắc Triều Tiên không phải là thuần tuý
tôn giáo, nhưng là hậu quả trực tiếp từ sự phát triển cực kỳ loạn trí của ý thức
hệ chính trị của bắc Triều Tiên, sự tôn thờ lãnh tụ một cách hèn hạ và sự thiếu
thông tin từ thế giới bên ngoài của họ. Bắc Triều Tiên hiện như một giáo phái có
trang bị vũ khí hạt nhân. Nếu như 29 triệu cư dân ở bắc Triều Tiên hiểu được
mình đang là một cái gì lạ thường giữa thế gian, có lẽ họ đã cư xử khác đi. Vấn
nạn của bắc Triều Tiên trên hết và trước hết chính là vấn nạn của những niềm tin
không hề được minh chứng (và không thể minh chứng) của những người bắc Triều
Tiên. Ðọc P. Gourevich, “Letter from Korea: Alone in the Dark”, New Yorker,
ngày 8 tháng 9, 2003, trang 55-75.
nguồn http://www.x-cafevn.org/node/2223