Việt Nam Có Độc Lập Tự Do Từ Chính Quyền Trần Trọng Kim Hay Không? Nguyễn Mạnh Quang https://sachhiem.net/NMQ/PCD/NMQ053chuthich.php Tham khảo: Sau khi đọc xong mỗi chú thích, xin bấm vào con số đầu câu để trở về bài viết. (1) Phạm Cao Dương, “Nhân dịp đầu năm Ất Mùi - 2015, một chút lịch sử gửi tuổi trẻ Việt Nam: Lẽ Ra Ngay Từ Năm 1945 Dân Tộc Ta Đã Có Dân Chủ - Tự Do Rồi.” Ngày 22/1/2015, Nguồn: (https://www.diendantheky.net/2015/ ). (2) Quang Toàn & Nguyễn Hoài, Những Hoạt Động Của Bọn Phản Động Đội Lốt Thiên Chúa Giáo Trong Thời Kháng Chến 1945-1954 (Hà Nội: Nhà Xuát Bản Khoa Học, 1964), tr 21. (3) “Nếu chính phủ Nhật còn tiếp tục ngoan cố, không chấp nhận điều kiện của Đồng Minh (trong tối hậu thư gửi cho chính phủ Đông Kinh ngày 26/7/1945) thì họ chỉ có thể hy vọng thấy một trận mưa tai họa từ trên trời giáng xuống mà người ta chưa bao giờ thấy ở trên trái đất này.” Nguyễn Mạnh Quang, Đệ Nhị Thế Chiến Và Chiến Tranh Lạnh (Tacoma: WA: Tacoma Public Schools, 1994), tr. 154 (4) Phạm Hồng Tung, Nội Các Trần Trọng Kim– Bản Chất, Vai Trò và Vị Trí Lịch Sử (Hà Nôi: Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, 2009), tr 274-275. (5)Hoàng Trọng Miên, Cựu Hoàng Bảo Đại, (Thanh Hóa: Nhà Xuất Bản Thanh Hóa, 2009), tr 136. (6) Phạm Hồng Trung, Sđd., tr 191-192. (7) Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử Khảo Luận – Cuốn 4 (Paris: Nam Á, 2002), tr. 1962-1964. (8) Phạm Hồng Tung, Sđd., tr. 354. (9) https://maxreading.com/sach-hay/nhan-vat-lich-su-viet-nam/ (10) .” (https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93ng_Kh%C3%A1nh). (11)Thi Vũ, Dung Nhan Cựu Hoàng, nguồn: (https://www.gio-o.com/ThiVu/ThiVuDungNhanCuuHoang.htm). (12) Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), tr. 299. : “Mọi tự điển trên thế giới đều có chung một định nghĩa về danh từ Jesuit (tu sĩ dòng Tên) là: người ngụy biện, giả nhân giả nghĩa, kẻ xảo trá phản phúc. Ngoài ra, trong tác phẩm "German Thesaurus" xuất bản năm 1954, tác giả Đức Dornseif đã viết: "Jesuit contains a long list of synonyms, including: two faced, false, insidious, dissembling perfidious, mendacious, sanctimonious, dishonarable, incincere, dishonest, untruthful..." (Danh từ Jesuit - tu sĩ dòng Tên - bao gồm một danh sách dài của những tiếng đồng nghĩa: hai mặt phản trắc, gian trá, gieo rắc độc hại, gây chia rẽ, lừa lọc, nói dối, thương xót giả tạo, không biết trọng danh dự, thiếu thành thật, bất lương, chẳng bao giờ nói thật...) Người Pháp có câu cách ngôn rất hay: "Khi nào có hai tu sĩ dòng Tên đi với nhau, luôn luôn tạo thành ba thằng quỉ sứ" (Where two Jesuits come together, the devil always makes three).” (13) Trần Quốc Hoàn, IS, Tòa Án Dị Giáo, Thập Tự Chinh Le Pigeon d’ Obama et Le Cod d’Hollande …” (https://sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=6280) và (https://sachhiem.net/THOISU_CT/ChuTr/TranQHoan01.php) (14) Hoàng Ngọc Thành, Công Và Tội Của CT Hồ Chí Minh Và Đảng Cộng Sản Việt Nam 1945-2006 (San Jose, CA Nghĩa Phú, 2009), tr. 179-180. (15) Phạm Cao Dương, Nạn Đói Tháng Ba Năm Ast Dậu. Tết Ất Mùi 2015. Nguồn: https://www.facebook.com/ttim.ttim.52/posts/1578436679036975 (16) Nguồn: Hiệp Ước Latêranô – Bách Khóa Toàn Thư mờ Wikipedia -https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p_%C6%B0%E1%BB%9Bc_Lat%C3%AAran%C3%B4). (17) Hoàng Hôn Nhuận Sắc, Ăn Ốc Nói Mò (Costa Mesa, CA: VietBooks Xuất Ban, 1998), tr 219. (18) Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí (Houston, TX: Văn Hóa, 1997), tr 262-263. (19) Phạm Hồng Tung, Sđd., , tr. 165-166. (20) Phạm Hồng Tung, Sđd., tr. 169-170. (21) Phạm Hồng Tung, Sđd., tr. 177-178. (22) Phạm Hồng Tung, Sđd., tr. 178-180. (23) Charlie Nguyễn, Công Giáo Huyền Thoại Và Tội Ác (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), trang 25-26. (24) Bernard B. Fall, Street Without Joy (Mechanicsburg, PA: Stackpole Books, 1989), P.26. Nguyên văn: "On August 13, 1945, the ICP met at the village of Tan Trao, in the province of Tuyen Quang. According to Truong Chinh: " .. the ICP met in a National Congress decreed the general uprising and put into place the Vietnamese democratic republic regime.... The National Congress began at very moment when the order of general insurrection had been given. Thus, its session was rapidly closed... In the course of this history making Congress, the ICP proposed a clear-cut program: guide the rebels so as to disarm the Japanese before the arrival of the Allies in Indochina; to take over the power that was on the hands of the Japanese and their puppets, and to reiceive, as the authority in control of the country, the Allied Forces coming demobilize the Japanese. (25) Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam Máu Lửa (Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1989), tr. 44. (26) Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh…, Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam (Hà Nội: Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2002), tr. 68-70. “Giữa lúc phong trào đang sục sôi khí thế cách mạng, nạn đói đã diễn ra nghiêm trọng ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Đảng đề ra khẩu hiệu: “Phá kho thóc của Nhật, giải quyết nạn đói”, đã thổi bùng ngọn lửa cách mạng đưa hàng triệu quần chúng vào cao trào khởi nghĩa, đánh đổ chính quyền đế quốc tay sai. Ngày 15/4/1945, Hội Nghị Quân Sự Bắc Kỳ do Ban Thường Vụ Trung Ương triệu tập đã họp ở Hiệp Hòa (Bắc Giang) “đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả nhiệm vụ cần kíp khác”. Hội nghị quyết định thống nhất Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân với Cứu Quốc Quân thành Việt Nam Giải Phóng Quân. Ngày 16/4/1945, Tổng Bộ Việt Minh ra chỉ thị tổ chức Ủy Ban Dân Tộc Giải Phóng các cấp, chuẩn bị thành lập Ủy Ban Dân Tộc Giải Phóng Việt Nam, tức Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời. Đầu tháng 5, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ để chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước. Theo chỉ thị của Người, ngày 4/6/1945, khu giải phóng bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên… ra đời, trở thành căn cứ địa của cả nước. Trong tháng 5 và tháng 6/1945, các cuộc khởi nghĩa từng phần bùng nổ liên tục, hàng loạt chiến khu mới ra đời. Tại đây, các chính quyền nhân dân đã tồn tại song song với chính quyền tay sai của Nhật. Cao trào kháng Nhật cứu nước bùng lên mạnh mẽ góp phần vào thắng lợi chung của Liên Xô và Đồng Minh trong sự nghiệp chống chủ nghĩa phát xít. Ngày 9/5/1945, Đức ký văn bản đầu hàng Liên Xô và Đồng Minh không điều kiện. Ngày 9/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật, trong vòng một tuần lễ đã đánh tan đội quân Quan Đông, buộc Nhật phải xin đầu hàng vào ngày 13/8/1945. Một trang sử mới đã mở ra đối với các dân tộc bị áp bức, vùng lên giành độc lập. 3.- Tổng Khởi Nghĩa Tháng Tám 1945: Từ ngày 13 đến ngày 15/8/1945. Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào khẳng định: điều kiện tổng khởi nghĩa đã chín muồi. Đảng phải lãnh đạo toàn dân nổi dậy giành chính quyền cả nước trước khi quân Đồng Minh kéo vào Đông Dương. Việc khởi nghĩa tiến hành theo nguyên tắc tập trung, thống nhất, kịp thời. Ngày 16/8/1945, tại Tân Trào, Đại Hội Quốc Dân khai mạc, gồm hơn 60 đại biểu Bắc, Trung, Nam tham dự. Đại hội nhiệt liệt hoan nghênh chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của Việt Minh: quyết định thành lập Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc, do Hồ Chí Minh (tên mới của đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ 1942) làm chủ tịch. Đại hội quy định quốc kỳ, quốc ca của nước Việt Nam mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, 25 triệu đồng bào ta đã nhất tề vùng dậy “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Sức mạnh như triều dâng thác đồ, cuốn sạch lũ cướp nước và bán nước, tiến hành tổng khởi nghĩa oanh liệt, giải phóng toàn bộ đất nước. Từ 14/8/1945, cuộc khởi nghĩa lần lượt nổ ra trong cả nước, thắng lợi quyết định ở Hà Nội (19/8), Huế (23/8), Sàigòn (25/8/). Vua Bảo Đại thoái vị. Chính quyền về tay nhân dân ở hầu hết các địa phương trong cả nước. Chế độ phong kiến hàng ngàn năm và chế độ thực dân gần 80 năm đã chấm dứt. Ngày 2/9/1945, tại Quảng Trường Ba Đình, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới về nền độc lập dân tộc và sự ra đời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.” (27) Nghiêm Kế Tổ, Sđd., tr 47-49. Sự kiện này được sách Việt Nam Máu Lửa ghi lại với nguyên văn như sau: “Ngày 25 tháng 8. Không khí bang bạc buồn tanh muôn thuở của đế đô đã chứng kiến cuộc bể dâu tại Ngọ Môn Đài. Vị Hoàng Đế cuối cùng của triều Nguyễn cũng như của dân tộc Việt Nam nghiêm trang trao Bửu Kiếm và Ngọc Tỷ, biểu hiệu Ngai Vàng, cho đại diện Cách Mạng Nguyễn Lương Bằng đại diện Tổng Bộ, Trần Huy Liệu Phó Chủ Tịch Ủy Ban Giải Phóng Lâm Thời và Cù Huy Cận ủy viên. Đồng thời, Ngài tiếp nhận dấu hiệu Công Dân Thứ Nhất của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Lá cờ đỏ rực màu máu lửa. thấp thoáng ánh sao từ từ được kéo lên Ngọ Môn Đài thay thế cho lá cờ vàng nho nhã quẻ ly. “Trước sự hoan hỷ chất phác của quốc dân, Vua Bảo Đại ban bố một tờ Chiếu. Chiếu rằng: Hạnh phúc của dân Việt Nam! Độc Lập của nước Việt Nam! Muốn đạt được mục đích ấy, Trẫm đã tuyên bố sẵn sàng hy sinh hết thảy, và muốn rằng sự hy sinh của Trẫm phải lợi ích cho Tổ Quốc. Xét tới sự đoàn kết toàn thể quốc dân trong lúc này là điều tối cần thiết, Trẫm đã tuyên bố ngày 22 tháng 8 vừa rồi trong giờ nghiêm trọng của lịch sư quốc gia: đoàn kết là sống, chia rẽ là chết. Nay thấy nhiệt vọng dân chủ của quốc dân Bắc Bộ lên cao, nếu Trẫm cứ yên vị đợi một Quốc Hội thì e rằng khó tránh được sự Nam Bắc tương tàn, đã thống khổ cho quốc dân lại thuận lợi cho người ngoài lợi dụng. Mặc dầu Trẫm đau đớn nghĩ đến công lao Liệt Thánh đã vào sinh ra tử gần 400 năm để mở mang non sông đất nước từ Thuận Hóa tới Hà Tiên. Mặc dầu Trẫm buồn rầu nghĩ tới 20 năm qua Trẫm ở trong cái cảnh không thể thi hành được việc gì đáng kể cho nước nhà như lòng Trẫm muốn, Trẫm cũng quả quyết thoái vị nhường quyền điều khiển quốc dân cho Chính Phủ Dân Chủ Cộng Hòa. Sau khi thoái vị, Trẫm chỉ mong ước có ba điều: 1.- Đối với Tôn Miếu và Lăng Tẩm của Liệt Thánh, chính phủ mới nên giữ gìn cho có trọng thể. 2.- Đối với các đảng phái đã từng tranh đấu cho nền Độc Lập Quốc Gia nhưng không đi sát với phong trào dân chúng, Trẫm mong Chính Phủ mới ôn hòa mật thiết đối xử để những phần tử ấy cũng có thể góp sức kiến thiết quốc gia và để tỏ ra rằng chính thể mới xây đăp trên sự đoàn kết của toàn thể quốc dân. 3.-Trẫm mong tất cả các đảng phái, các giai tầng xã hội, các người trong hoàng tộc nên hợp nhất ủng hộ triệt để Chính Phủ Dân Chủ để giữ vững nền Độc Lập của nước nhà. Riêng Trẫm trong 20 năm ngai vàng bệ ngọc, đã biết bao lần ngậm đăng nuốt cay. Từ nay, Trẫm lấy làm vui được làm dân một nước Độc Lập, quyết không để ai lợi dụng danh nghĩa của Trẫm hay danh nghĩa của Hoàng Gia mà lung lạc quốc dân nữa. Việt Nam Độc Lập muôn năm! Dân Chủ Cộng Hòa muônn năm! Khâm thử: BẢO ĐẠI (28) Thi Vũ, Tài Liệu Đã Dẫn (29) Hoàng Trọng Miên, Đệ Nhất Phu Nhân – Tập I (Los Alamitos, CA: Nhà Xuất Bản Việt Nam, 1989), tr. 428. (30) Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 (Tập A: 1939-1946) (Houston, TX: Văn Hóa, 1997), tr 295. (31) The Encyclopedia Britannica Micropedia Vol. IV p. 1023. Nguyên văn: “A competent administrator whose extreme repression of Protestants within his kingdom helped drive his country to civil war.” (32) Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 4 (Paris: Nam Á, 2002), tr. 2076. (33) Bernard B. Fall, The Two Viet Nams (New York: Frederick A. Praeger, 1964), pp. 63-64. Nguyên văn: “As for the Chinese occupation forces under Lu Han, who later defected to Chinese Communists, they were, on the contrary, enormous. They were composed of the 60th, 62nd, 93rd armies, reinforced by the 23rd 39th, and 93rd divisions, comprising some more than 152,000 men and it took them almost six weeks to cover 100 miles from border to Hanoi, like a sawrm of locusts, they slowly pilfered their way through the countryside. In the process, they not only gave the Viet Minh’s sufficient time to gain control over much of Viet Nam, but they also revived the century old Vietnamese hatreds for all things. Chinese and thus thoroughly discredited the Vietnamese natrionalists who had hoped to be able to use Chinese support in their forthcoming struggle against Ho Chi Minh.” (34) Võ Nguyên Giáp, Những Năm Tháng Không Thể Nào Quên (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 2001, tr 32. (35) Nguyễn Văn Châu, Ngô Đình Diệm: Nỗ Lực Hòa Bình Dang Dở (Nguyễn Vy Khanh dịch). Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1989, trang 213-214. (36) Lê Hữu Dản, Sự Thật – Đặc San Đinh Sửu 1997 (Fremont, CA: TXB, 1997), tr.26. (37) Trần Tam Tỉnh, Thập Giá Và Lưỡi Gươm (TP Hồ Chí Minh: Nhà Xuât Bản Trẻ, 1978), tr 126-127. (38) Nguyễn Đắc Xuân, “Phan Văn Giáo - Người Đứng Đầu Miền Trung Trong Thời Bảo Đại Là Quốc Trưởng”, Trang nhà “Gác Thọ Lộc – Người Cầm Bút Xứ Huế” (https://gactholoc.net/c15/t15-337/phan-van-giao-nguoi-dung-dau-mien-trung-thoi-cuu-hoang-bao-dai-lam-quoc-truong.html) : “Phan Văn Giáo là người thân cận nhất của Quốc Trưởng Bảo Đại từ ngày ông rời Hồng Kông về đóng đô ở Đà Lạt. Dược-sĩ Phan biết rõ tính “ham chơi” của Cựu Hoàng Quốc Trưởng. Trong hoàn cảnh Hoàng Hậu Nam Phương còn ở bên Pháp, bà “thứ phi” Bùi Mộng Điệp còn ở Hà Nội, chưa vô kịp. Dược-sĩ Phan liền đem người em gái của cô tình nhân của mình là Lê Phi Ánh “tiến dâng” cho Bảo Đại. Cô Phi Ánh trắng trẻo, cao ráo, mắt sáng, người đẹp nhất trong bốn cô Phi (Phi Lệ, Phi Hồng, Phi Hoa và Phi Ánh) con gái của Lê Quang Thừa (Ông Sáu) xuất thân danh gia vọng tộc ở Huế. Đang lúc “cô đơn”, gặp được Phi Ánh, Bảo Đại phải lòng ngay… Bảo Đại đã tặng cho Phi Ánh một món tiền lớn và xuất tiền mua cho cô một biệt thự gần ga Đà Lạt để ở.” …… “Đối với người dân Huế, nhắc đến Dược-sĩ Thủ Hiến Phan Văn Giáo, họ nhớ đến hai việc. Một là Phan Văn Giáo tổ chức Việt Binh Đoàn chống lại du kích chiến của Việt Minh rất ác liệt, hai là Dược - sĩ Thủ Hiến Phan Van Giáo rất mê nữ sinh đẹp của xứ Huế. Mỗi lần ông đến thăm trường Đồng Khánh, thấy nữ sinh nào đẹp ông liền để ý và cho người mời lên Phủ Thủ Hiến (nay là Khách Sạn Résidence tại số 5 Lê Lợi Huế) cho ông gặp. Nhiều hiệu trường, giám thị trường Đồng Khánh sợ lắm, nhưng không dám trái lệnh ông. Theo dư luận, có nhiều nữ sinh đã bước qua thời con gái trong Phủ Thủ Hiến của họ Phan. Cũng có nữ sinh sau khi thất thân với ông, ông vận động sang Pháp và trở thành nhà thơ nổi tiếng. Cũng theo dư luận, tác giả bài thơ được Phạm Duy phổ nhạc “kiếp nào có yêu nhau” là một trong những tình nhân miễn cưỡng của Dược sĩ Phan Văn Giáo.” (39) Hoàng Trọng Miên, Cựu Hoàng Bảo Đại (Thanh Hóa, Việt Nam: Nhà Xuất Bản Thanh Hóa, 2008), tr. 92. (40) Bernard B. Fall, Hell In A Very Small Place – The Siege Of Dien Bien Phu (Cambridge, MA: Da Capo Press, 1985), p. 47. [“The Vietnamese troops who were to receive their baptism of fire in the beachhead either gave a poor account themselves or settles down to looting. The Vietnamese civil administrators who began to pour into the newly liberated areas were, if anything, worse than the military units.” (41) Lý Chánh Trung, Những Ngày Buồn Nôn (Sàigòn: Đối Diện,1972), tr 137-138. Trang Lịch Sử |