Những Vụ Án Lừng Danh Trong Tòa Án Vatican

Khổ Nạn Của Các Nhà Trí Thức Âu Châu Khi Nói Lên Sự Thật

Nguyễn Mạnh Quang

http://sachhiem.net/NMQ/NMQ029.php

03 tháng 2, 2010

LTS: Bài viết sau đây do tòa soạn sachhiem.net yêu cầu tác giả soạn để đáp lời một câu hỏi của độc giả về sự bách hại của Công Giáo La Mã đối với những khoa học gia Âu Châu. Đây là một trong những tiết mục mà Giáo sư Quang đã viết trước đây. Mặc dù bài viết sau đây chỉ kể ra 3 trường hợp (vụ án John Huss, vụ án Giordana Bruno, và vụ án Galileo Galilei), nhưng cũng đủ cho ta hình dung được Giáo Hội La Mã bách hại nhà khoa học như thế nào chỉ vì những tuyên bố trái với niềm tin hay lý thuyết về vũ trụ của Giáo Hội. Tuy là những chuyện thuộc về lịch sử, và có thể tìm đọc trong các thư viện của các quốc gia Âu châu cũng như Hoa kỳ, nhưng lại là những chuyện mà rất nhiều người, nhất là người Việt theo đạo Chúa chưa hề biết đến như những chuyện chưa từng có trên đời. Những ai chưa hề biết những chuyện này, chắc chắn bài viết sau đây sẽ đem lại nhiều ngạc nhiên và cảm xúc. Xin mời bạn đọc theo dõi (SH)


Cùng độc giả:

Chương sách này nằm trong sách Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 được in lần đầu tiên vào cuối năm 1988 và được nhà xuất bản Văn Hóa (Houston, Texas) tái bản vào giữa năm 2000. Tập  sách này nguyên gốc là bản thảo của tập sách mở đầu cho bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã và có tựa là đề Những Điều Kiện Cần Phải Có và Khổ Nạn của Người Viết Sử Chân Chính, nhưng nó lại được ông Giám Độc Nhà Xuất Bản Văn Hóa đề nghị đổi tên là Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963. Người viết  biên soạn tập sách này khi còn đang sưu tầm tài liệu vào đúng thời điểm cái gọi là Phong Trào Phục Hưng Tinh Thần Ngô Đình Diệm ở các tỉnh miền Tây tiểu Washington và những người đồng đạo với những thành phần của cái tổ chức quái đản này đang hung hãn chống đối và hăm dọa  đến cả đến sinh mạng của người viết. Lý do là vì trước đó không lâu, người viết đã nêu lên những việc làm sai lầm cùng những tội ác của chính quyền Ngô Đình Diệm (1954-1963) trong bài viết Tướng Nguyễn Chánh Thi Với Cuộc Chính Biến 11/11/1960 đăng trong cuốn Nhìn Lại Biến Cố 11/11/1960 (Houston, Texas: Văn Hóa, 1997).

Vạn sự khởi đầu nan. Người viết tin rằng tập sách này có rất nhiều thiếu sót về kỹ thuật viết cũng như về phương diện kê cứu tài liệu tham khảo. Ước mong độc giả lượng thứ cho những thiếu sót này.

Trân trọng,

Nguyễn Mạnh Quang

∷∷∷

 

Dưới đây là ba trường hợp của ba nhà trí thức nạn nhân của bạo quyền đạo phiệt Gia-tô ở Âu Châu trước thời Cách Mạng Pháp 1789. Sách sử đã nói rất nhiều về việc các nhà trí thức trước thời Cách Mạng 1789 bị khóa mồm, bịt miệng. Thời đó, những nơi nằm trong vòng kiềm chế của Giáo Hội La Mã, người dân không được phép nói lên sự thật về những việc làm bất chính, bất nhân và bất nghĩa của các thế lực đương quyền tay sai của Giáo Hội La Mã và cũng không được phép nói lên những tư tưởng hay ý kiến riêng của họ về một vấn đề gì nếu không được Giáo Hội La Mã cho phép. Ngay cả những phát minh mới của họ về một vấn đề gì cũng phải được Giáo Hội La Mã cho phép thì mới được công bố. Ngày nay, tại các nước dân chủ tự do như ở Tây Âu và Bắc Mỹ cũng như các quốc gia không nằm trong ảnh hưởng của Giáo Hội La Mã, những chuyện này đều được sách sử nói rất rõ và được phổ biến rộng rãi. Học sinh, sinh viên đều được khích lệ tìm đọc để ”ôn cố tri tân”. Nhưng ở Việt Nam, trước năm 1862, ít có người có đủ khả năng ngoại ngữ Anh hay Pháp để tìm đọc những tài liệu nói về những chuyện kinh thiên động địa này.

Từ năm 1862 cho đến ngày 1945, (toàn thể Việt Nam) và đến ngày 30-4-1975 (Miền Nam Việt Nam), nhân dân Việt Nam nằm dưới ách thống trị của Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm lược Pháp-Vatican và hai chế độ đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm và quân phiệt Gia-tô Nguyễn Văn Thiệu. Tất cả đều có bàn tay của Giáo Hội La Mã ở trong đó. Vì thế cho nên những tài liệu nói về những chuyện này bị cấm lưu hành. Câu chuyện bộ sách Lịch Sử Thế Giới của học giả Nguyễn Hiến Lê bị cấm lưu hành và tác giả bị sỉ vả, rồi lại bị mật vụ theo dõi là bằng chứng cho chúng ta thấy rõ điều này. Ngày nay, may mắn sống ở trong chế độ tự do dân chủ, chúng tôi cố gắng tìm đọc tài liệu nói về vấn để này hi lại thành các câu chuyện về 3 vụ án nêu lên trong chương sách này để cống hiến quý vị.

VỤ ÁN JOHN HUSS

ảnh http://www.exclassics.com/foxe/foxe096.gif

ảnh http://www.exclassics.com

Ông John Huss sinh vào khoảng năm 1372 hay 1373 trong một gia đình nông dân thuộc xứ Bohemia nằm trong lãnh thổ nước Tiệp Khắc ngày nay. Năm 13 tuổi ông mới bước vào học trường Elementary Latin school ở gần Prachatice. Năm năm sau, ông ghi danh vào học trường Đại Học Prague. Sau khi tốt nghiệp bậc cử nhân vào năm 1394, ông tiếp tục theo đuổi việc học. Năm 1396, ông hoàn thành xong chương trình cao học. Ngay sau đó, ông trở thành giáo sư chuyên dạy về luận thuyết Aristotle và chủ thuyết Duy-thực (Realist philosophy) của giáo-sư John Wycliffe (người Anh).

Năm 1402, ông được đề cử giữ chức vụ Khoa Trưởng Phân Khoa Triết Học. Cũng vào năm này, ông được thụ phong linh mục và được chỉ định làm giáo sĩ tại nhà thờ Bethlehem. Đại học Prague cũng là trung tâm của phong trào quốc gia đòi giảng dạy bằng tiếng Tiệp Khắc thay vì bằng tiếng La Tinh. Ông giảng dạy ở đây 12 năm và trở thành một lãnh tụ của phong trào cải cách và được rất nhiều người quí mến. Ông trở thành giáo sư cố vấn cho nhà quí tộc Zbynek Zajic trong vùng Hazmburk. Năm 1403, Zbynek được phong chức Tổng Giám Mục thành Prague. Sự kiện này giúp cho phong trào đòi cải cách của ông Huss trở thành mạnh mẽ hơn.

Bắt đầu từ đây, ông có nhiều thì giờ nghiền-ngẫm sâu-xa hơn về triết lý của triết gia John Wycliffe. Say mê với triết thuyết này, năm 1405, ông dịch xong tập ”Trialogus” của Wycliffe sang tiếng Tiệp Khắc. Năm 1405, ông cho xuất bản tác phẩm nổi tiếng với nhan đề là ”De Omi Sanguine Christ Glorificato”, trong đó ông kịch liệt chỉ trích hàng ngũ giáo phẩm đã gian tham tạo ra những điều thần bí (phép mầu). (He declaimed against forged miracles and ecclessiastical greed). Đồng thời, ông khuyên các tín hữu Kitô đừng nên cố gắng đi tìm dấu tích của Chúa, mà hãy tìm Chúa trong lòng bằng cách tìm học những lời của Chúa. Trong các bài thuyết giảng, ông công kích lề lối làm việc và lối sống của các ông giám mục, hồng y và giáo hoàng; ông kêu gọi Giáo-hội La-mã hãy cải tổ phương cách hành đạo.

Lúc bấy giờ là thời Đại Ly-giáo (Great Schism). Có tới ba ông Giáo Hoàng tranh nhau làm chủ tể Giáo-hội La-mã. Đó là Giáo-hoàng Gregory XII (1406-1415), Giáo-hoàng John XXIII (1410-1415), và Giáo-hoàng Alexander V (Peter Philarges) (1409-1415). Chứng kiến cảnh các ông giáo-hoàng và các phe phái trong hàng giáo phẩm đấm đá nhau, người dân lúc bấy giờ không khỏi hoài nghi về giáo quyền của giáo hội, một thứ quyền mà ông John Huss cho là do quỷ Satan phong cho.

Xứ Bohemia lúc bấy giờ nằm dưới quyền cai trị của vua Wenceslas. Nhà vua cũng có tư tưởng tương đối tiến bộ, và cùng với hoàng đế nước Pháp tìm cách làm trung gian để chấm dứt vụ tranh chấp quyền hành giữa ba ông cùng tự xưng là giáo hoàng vào lúc đó. Nhờ vậy mà nhiều lần ông Huss được đề cử vào Hội Đồng Giảng Đạo. Năm 1409, vua Wenceslas chuyển giao trường Đại Học Prague cho người Tiệp Khắc, ông vẫn tiếp tục làm giáo sư thuyết giảng tại trường này. Việc này gây nên bất hòa giữa chính quyền Bohemia với các giáo sư và sinh viên người Đức. Những người Đức này bất mãn, bỏ trường và lập ra trường Đại Học Leipzig. Đồng thời, họ gửi thư lên Giáo-hội La-mã tố cáo những bài thuyết giảng của ông Huss mang tính cách chống Giáo-hội. Họ vận động bọn tu sĩ cuồng tín gửi kiến nghị lên Toà Thánh La-mã đòi phải truy tố ông ra trước Tòa Án của Giáo-hội để xử ông về tội ”dị giáo” (còn gọi là ”tà giáo” hay ”tà đạo”).

Trước cảnh các phe phái tranh chấp giữa một bên là phe cấp tiến trong đó có Ông Huss và một bên là phe bảo thủ gồm có nhiều người trong giới tu sĩ và các ông giáo hoàng đang tranh giành nhau ngôi chủ tể Tòa Thánh La-mã, vua Wenceslas của xứ Bohemia yêu cầu giới tu sĩ và các sinh viên cùng giáo sư đại học hãy giữ vị thế trung lập vô tư, không nên nghiêng về phe nào. Nhưng giới tu sĩ và nhiều người trong giới đại học lại ủng hộ phe Giáo-hoàng Gregory XII. Chỉ có người dân Bohemia chịu ảnh của ông Huss mới đứng trung lập. Ngay khi ấy, nhà vua ban hành sắc luật trục xuất mấy ngàn người ngoại quốc, buộc họ phải đi khỏi kinh thành Prague ngay tức khắc.

Việc trục xuất này làm tăng thêm mối ác cảm của giới tu sĩ đối với ông Huss. Đồng thời, Giáo-hội La Mã tiến hành công việc điều tra và xử ông về tội thuyết giảng những bài giảng mang tính cách dị giáo với những luận văn kích động và bất kính đối với Giáo-hội: ”Kẻ chống Chúa có thể tìm thấy ở La-mã”. (Antichrist might be found in Rome). Từ đó, phát sinh ra điều mâu thuẫn giữa hai phe thày giảng chính thống và dân cuồng đạo.

Năm 1409, Giáo-hoàng Alexander V ra lệnh hủy bỏ mọi điều trong luận thuyết của triết gia Wycliffe. Các ông tổng giám mục cũng hùa nhau công khai ra lệnh đốt 200 bộ sách của Wycliffe. Ông Huss bị rút phép thông công. Phản ứng lại, nhân dân Bohemia nổi lên tranh đấu bảo vệ chính nghĩa của người anh hùng dân tộc của họ. Họ gửi kiến nghị phản đối lên Giáo-hoàng John XXIII. Nhờ vậy mà ông Huss vẫn được tiếp tục thuyết giảng tại nhà thờ Bethlehem cũng như ở Đại Học Prague. Cũng từ đó, có phong trào diễn thuyết công khai về luận thuyết dị giáo của triết gia Wycliffe. Đồng thời, nhà vua cùng hoàng hậu gửi thư lên Giáo-hội La-mã yêu cầu thủ tiêu án lệnh xử phạt và ngăn cấm của Giáo-hoàng Alexander V.

Tháng 3-1411, ông Huss và xứ Bohemia bị Tòa thánh rút phép thông công. Tuy nhiên, ông Huss vẫn tiếp tục giảng thuyết. Cuộc tranh đấu của phe cải cách chống lại sắc lệnh của Giáo-hội La Mã bùng nổ thành cuộc chiến tranh tôn giáo rộng lớn lan truyền ra ngoài xứ Bohemia khi Giáo-hoàng John XXIII ban hành sắc lệnh chống vua Ladislas của xứ Naples vì ông vua này là một trong những người trước kia đã ủng hộ Giáo-hoàng Gregory XII. (Trong cuộc tranh giành ngôi chủ tể tại Tòa thánh La-mã này, trước đó không bao lâu, Giáo-hoàng Gregory XII đã đánh đuổi Giáo-hoàng John XXIII ra khỏi thành La-mã.) Đứng trước tình thế khó khăn, tứ bề thọ địch, Giáo-hội La-mã của Giáo-hoàng John XXIII ban hành sắc lệnh long-trọng cam kết hứa rằng nếu ai theo lệnh của Giáo-hội La-mã thì sẽ được xá tội. Đồng thời, Giáo-hoàng John XXIII cũng ra lệnh bán giấy xá tội lấy tiền tài trợ cho chiến dịch chống lại Giáo-hoàng Gregory. (The Encyclopedia Britannica Vol. 9, page 65, Ed. 1980).

Nhiều người nghe theo lời hứa được xá tội, buông súng từ giã hàng ngũ cải cách. Nhiều tu sĩ, nhất là các ông giám mục và tổng giám mục trước kia đứng cùng một chiến tuyến với ông, giờ đây vì miếng mồi được xá tội trở thành bất nghĩa bỏ rơi ông. Nhiều dân đồng đạo của ông đã từng chen vai sát cánh bên ông, giờ đây cũng vì miếng mồi được tha tội, chạy theo các nhà tu hành bất nghĩa, bỏ rơi ông. Ông trở thành người chiến sĩ cô đơn trong cái thế chơ-vơ giữa rừng người thà làm chuyện bất nghĩa để được xá tội cho lên thiên đường của Giáo-hội La Mã còn hơn là giữ đạo con người cho trọn vẹn nghĩa thủy chung.

Đồng thời, lệnh rút phép thông công của ông Huss được triệt để thi hành và được phổ biến khắp mọi nơi mà ông có thể ẩn náu. Tháng 12 năm 1411, bị dồn vào thế cùng đường, ông phải từ giã thành Prague đi Kozihrdek, rồi lại bỏ Kozihrdek đi Krakowitz. Những khó khăn trên đường bôn tẩu và tình đời đen bạc cũng như bạo lực phát xuất từ ngay trong nơi thờ tự thiêng-liêng của Giáo Hội La Mã đã làm cho ông suy tư và đúc kết nên tác phẩm De Ecclessia, trong đó ông nêu lên những điều lầm lẫn sai quấy của Giáo-hội La Mã. Khốn nỗi như người Trung Hoa thường nói: ”Giang san dễ đổi, bản chất khó chừa”, những điều ông nêu lên trong De Ecclessia vẫn không làm cho Giáo-hội mở mắt nhìn để biết đâu là phải, biết đâu là trái. Trái lại, việc làm này còn làm cho Giáo Hội nổi trận lôi đình quyết tâm truy tố ông ra trước toà án của Giáo-hội chuyên xử những người bị cho là theo tà đạo.

Trong khi đó, vào năm 1411, vua Sigismund của xứ Hung-gia-lợi lại đựợc chọn kiêm nhiệm làm vua nuớc Đức, tức là Hoàng đế của đế quốc Thần Thánh La-mã (the emperor of the Holy Roman Empire) gồm nhiều tiểu quốc Đức trong đó có cả lãnh thổ Áo quốc và Hung-gia-lợi ngày nay. Vua Sisgimund buộc Giáo-hoàng John XXIII phải triệu tập Hội Đồng Giám Nghị tại Constance để tìm ra một phương cách giải quyết tình trạng đấm đá giành ngôi chủ tể trong Tòa Thánh La Mã giữa các ông giáo hoàng, và đẩy mạnh công cuộc đàn áp dân theo tà đạo. Đồng thời, vua Sigismund gửi một mật sứ đi mời ông Huss đến tham dự hội nghị. Dĩ nhiên là ông Huss không muốn nhận lời. Nhưng khi Giáo-hoàng (John XXIII) đe dọa vua Wencelas của xứ Bohemia nếu không tuân hành lệnh đưa ông Huss đi thì Giáo Hội sẽ ban hành lệnh cấm làm lễ ở toàn xứ Bohemia, ông vua cuồng đạo của xứ này ra lệnh cho ông Huss phải đi.

Ngày 3 tháng 11 năm 1413, vua Sigismund long trọng hứa bảo vệ an toàn cho ông Huss qua cơn nguy hiểm trong thời gian di chuyển và điều tra nếu ông bằng lòng đến La-mã trình diện Hội Đồng Giám Nghị (Council of Constance). Thế có nghĩa là ông chỉ được bảo đảm an ninh trên đường di chuyển, và nếu ông bị phán xét là phạm tội theo tà giáo thì phải trả ông về quê hương của ông là xứ Bohemia cho vua Wenceslas thi hành bản án. Trong khi đó thì một nhóm các nhà lãnh đạo trong Giáo-hội cũng long trọng cam kết bảo đảm cho ông được an toàn nếu ông đến trình diện Hội Đồng Giám Nghị để tự biện hộ cho chính ông. Tin tưởng vào những lời cam kết của nhà vua có lòng nhiệt thành vì đạo và các nhà tu hành của Giáo Hội La Mã, ông Huss bằng lòng đi Constance dự Hội Nghị.

Ngày 11 tháng 10 năm 1414, ông từ giã gia đình đi Constance. Mãi tới ngày 3-11-1414, khi tới Constance, ông mới nhận được giấy bảo đảm. Tại Constance, ông chỉ được tự do di chuyển ở trong giới hạn của thành phố. Chưa đầy một tháng sau, ông bị dụ vào dinh của Giáo-hoàng rồi bị tống giam vào ngục tối trong tu viện của Dòng-tu Dominican. Tại đây, những người thù ghét ông, đặc biệt là hai nhân vật Michael de Causis, người đại diện của giáo hoàng, và Stepan Pálec, đã thành công trong việc đưa ông ra tòa về tội theo dị giáo Wycliffe.

Hội nghị đề cử toàn những kẻ thù của ông vào làm phán quan xét xử và đưa ông ra thẩm vấn. Như vậy là bất hợp pháp vì theo như lời cam kết (của vua Sigismund và các nhà lãnh tụ tôn giáo) ông đến Constance phải được tự do và an toàn và không bị kết tội. Ông cũng đã được cam kết là ông sẽ có cơ hội để trình bày với toàn thể hội nghị về quan niệm của ông đối với tín ngưỡng.

Lúc đầu, các ông tòa (phán quan) hy vọng dựa vào 45 bài báo tóm lược các luận thuyết của triết gia Wycliffe để kết tội ông về tội tà giáo, nhưng lại bóp méo cho rằng tư tưởng đó là quan điểm của chính ông Huss. Ông bác bỏ hùng hồn lời tố cáo trên đây và ông đã thành công. Liền sau đó, Stepan Pálec đưa ra 42 bài báo và cho rằng lấy ra từ trong tác phẩm De eccclesia của ông (Huss) và thêm vào 20 bài báo khác.

Trong khi đó, hội nghị có khuynh hướng chống lại cả ba ông giáo hoàng; ngày 21-3-1415, Giáo-hoàng John XXIII trốn khỏi Constance hy vọng làm cho Hội Nghị không còn tính cách chính thống. Tuy nhiên, Hội Nghị tuyên bố rằng Hội Nghị nắm quyền tối hậu vượt lên trên toàn thể giáo hội kể cả các ông giáo hoàng, và Hội Nghị cũng sẽ được tổ chức lại. Việc xử ông Huss được trao cho một ủy ban mới do Hồng-y Pierre d'Ailly làm chủ tịch. Trước đó vào tháng Giêng, vua Sigismund đã hủy bỏ lời cam kết bảo đảm an toàn cho ông Huss được đưa ra thẩm vấn ở trước “Hội Nghị Tự Do” (free hearing) được ấn định vào ngày 5 tháng 6 năm 1415. Nhưng khi phiên xử bắt đầu khai diễn thì xẩy ra rối loạn, cho nên phải hoãn lại đến ngày 7 tháng 6.

Theo các nhân chứng từ thành Prague và thành phố Constance thì ông Huss bị tố cáo là đã phạm nhiều tội nặng (many serious offenses). Lại một lần nữa, ông cương quyết phủ nhận lời tố cáo về tàn dư tà thuyết của triết gia Wycliffe. Hồng-y d'Ailly yêu cầu ông Huss phải tuyên bố từ bỏ (abjure) - không nhận là của ông - những bài báo trên đây. Ông Huss khăng khăng nhấn mạnh rằng không bao giờ ông có ý niệm làm như vậy. Ông cho rằng nếu ông chối, không nhận các bài báo ấy của ông là ông mắc phải tội thề gian. Ông chỉ yêu cầu Hội Nghị hãy căn cứ vào Thánh Kinh mà tìm xem ông sai quấy ở chỗ nào. Điều này Hội Nghị lại từ chối.

Phiên xử cuối cùng diễn ra vào ngày 6 tháng 7 năm 1415 tại nhà thờ chánh tòa trước đại hội đồng giáo xứ của toàn thể Hội Nghị. Ba mươi bài viết chót - không có bài nào đúng như những bài viết của ông Huss - được đọc cho ông nghe. Ông Huss tuyên bố rằng những bài viết này đã bị làm sai lệch, khác hẳn với những bài viết của ông. Vì thế cho nên ông phải ”từ chối”, không tuân lệnh của Hội Nghị. Vì các bài viết này không phải của ông, cho nên ông phải chối. Ông đã cương quyết thà chịu chết chứ không nghe theo lời phán quyết bất nhân của Hội Đồng Giám Nghị. Cuối cùng, Hội Nghị tuyên bố rằng ông là người theo tà thuyết Wycliffe, truất bỏ chức linh mục của ông, bộ áo thày tu và trách vụ tu hành của ông cũng bị tước bỏ với lời chúc dữ theo đúng lễ nghi trao linh hồn ông cho quỷ. Ngay sau đó, người ta giải giao ông cho toán lính hành hình bằng cách trói chặt ông vào một cái cọc rồi thiêu sống ở ngoại ô thành phố Constance cùng ngày hôm đó. Ông vẫn lớn tiếng cầu kinh cho tới khi ngọn lửa hồng bất nhân của các nhà tu hành nhân danh Chúa đem Tin Mừng về lòng bác ái và tình thương thiêu sống và đốt ông cháy thành than trước sự chứng kiến của vua Sigismund và các viên chức trong Hội Đồng Giám Nghị.

Tội nghiệp cho ông! Là người có rất nhiều kinh nghiệm với những thủ đoạn gian manh xảo trá của Giáo Hội La Mã, mà ông lại không nhìn ra một mặt thật của cái tổ chức mà văn hào Voltaire gọi là “cái tôn giáo ác ôn” [Bùi Đức Sinh. Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo – Phần Nhì (Saigon, Chân Lý, 1972), trang 165] này. Biết được như vậy thì có lẽ ông đã không bị những người mặc áo thày tu nhân danh Giáo-hội La Mã đem cái đạo bác ái của Chúa Kitô đưa ông lên giàn hỏa thiêu làm sáng danh Chúa.

Tội nghiệp cho ông! Ông đã nhẹ dạ cả tin cho nên ông mới bị lừa gạt đưa lên giàn hỏa thiêu ngay trước mắt các nhà tu hành lãnh đạo tôn giáo trong Giáo-hội La-mã và vua Sigismund.

Đau đớn cho ông và mỉa mai nhất là những người này là những người đang ở trong các địa vị và phẩm trật với những quyền cao chức trọng ở ngoài đời cũng như ở trong giáo hội, những người đại diện cho đạo đức, công bằng, bác ái và nhân từ đã từng long trọng cam kết bảo đảm an toàn cho ông trước khi ông lên đường đi La-mã trình diện Hội Đồng Giám Nghị.

Ngọn lửa bất nhân của giáo hội bất nhân đã thiêu sống ông, làm hủy hoại mất đi cái thân xác của ông, đáng lẽ còn kéo dài được thêm vài ba chục năm nữa. Tuy nhiên, ”Tái ông thất mã”, ngọn lửa thiêu sống ông cũng là ngọn hải đăng có sức vạn năng soi sáng cho người đời nhìn thấy rõ bộ mặt thật cực kỳ ghê tởm của Giáo Hội La Mã và của những người mặc áo tu hành nhân danh đạo giáo đem ”tin mừng và đức tin của Chúa” đi rao giảng. Ngọn lửa bất nhân của cái giáo hội bất nhân này đã trở thành ngọn đuốc soi sáng cho nhân loại biết rõ đâu là chân lý, đâu là bạo lực của bè lũ gian manh dựa vào thế giới thần linh vô hình hãm hại nhân tài, lòe bịp và bóc lột lương dân ít học ở trong cõi đời này.

Thái độ can cường của ông thà chết chứ không thèm khuất phục trước bạo lực mà nhận tội cho ta thấy trong ông có một cái gì giống như lòng dũng cảm uy vũ bất năng khuất của kẻ sĩ Đông phương.

http://www.google.com/imgres?imgurl=http://www.exclassics.com/foxe/foxe096.gif&imgrefurl=http://www.exclassics.com/foxe/foxe106.htm

VỤ ÁN GIORDANO BRUNO

ảnh http://lanaveva.files.wordpress.com/2009/12/finfo_20090304_giordano_bruno_rogo.jpg
ảnh http://lanaveva.files.wordpress.com/

Là con một nhà chiến binh chuyên nghiệp, ông Bruno chào đời vào năm 1548 tại Nola, gần thành phố Naples, trên bán đảo Ý Đại Lợi và mang tên lúc rửa tội là Filippo. Sau đó, ông còn có tên là ”il Nolano”. Năm 1562 (14 tuổi), ông theo học ngành nhân văn và biện chứng pháp tại Naples. Tại đây, ông rất say mê về các bài thuyết giảng của giáo sư G.V. de Cole, người đã gây nên nguồn cảm hứng rút ra từ những triết thuyết về vũ trụ học của triết gia Aristotle. Năm 1565, ông từ bỏ đời sống thế tục, đi theo tiếng gọi của Chúa sống đời tu hành trong tu viện San Domenico Magiore tại Naples của dòng tu Dominican. Và cũng từ đây ông mang tên là Giordano. Tuy là sống trong tu viện, nhưng ông lại có ngôn ngữ và quan điểm bị người đương thời cho là ”thái độ không chính thống” (unorthodox attitudes). Vì vậy mà ông bị nghi là ”người theo tà đạo”. Dù là bị nghi là người theo tà đạo, năm 1572 ông vẫn được thụ phong linh mục và được gửi đi tu viện Neapolitean để tiếp tục theo học môn thần học.

Tháng 7 năm 1575, ông hoàn tất khóa học do nhà trường quy định. Chính những gì ông học được trong khóa học này đã khiến ông suy tư rất nhiều về cái tính chất huyền ảo của ngành thần học (theological subtleties). Ông có dịp đọc hai bài bình luận do Eramus viết. Hai bài này thường bị cấm, không cho lưu hành. Một trong hai bài này nói về quan điểm của những người Kitô giáo thuộc phái Arian - một giáo phái Kitô do Giám-mục Arius của thành Alexandria, Ai cập thuyết giảng vào năm 318, trong thời Hoàng-đế Constantine của đế quốc La-mã - cho rằng ”không có ba ngôi, mà chỉ có một ngôi Đức Chúa Cha ở trong Thượng Đế. Ngôi Con chỉ là con người giống như muôn vàn người bình thường khác - According to Arius there are not three distinct persons in God, co-eternal and equal in all things, but only one person. The Son is only a creature, made out of nothing like all other beings”. (Collier's Encyclopedia, Volume 2. Mcmillan Education, Edition 1992).

Chúng ta cũng nên biết thêm một sự kiện là vì có quan điểm khác biệt với quan điểm Chúa Ba Ngôi của Giáo-hội La-mã cho nên những người theo quan điểm này bị coi là tà giáo và bị chính quyền thế tục của Hoàng-đế Constantine đàn áp vô cùng tàn ác.

Vì can tội dám đọc của cấm và có thái độ bị coi như là không chính thống, cho nên ông bị linh mục giám đốc dòng tu chuẩn bị đưa ông ra tòa án của Giáo-hội về tội ”tà giáo”. Tháng 2-1576, ông phải bỏ dòng tu chạy lẩn trốn ở La-mã. Ở đây, ông bị cáo gian về tội sát nhân và bị rút phép thông công. Tháng 4-1576, ông lại phải bỏ La-mã đi lánh nạn. Ông đi lang-thang khắp nơi trong miền Bắc nước Ý. Trời đất mênh-mang, đất nước thân yêu của ông bát-ngát mà ông vẫn không sao tìm ra chỗ dung thân. Cuối cùng, ông phải từ giã quê hương, vượt biên sang Thụy-sĩ, tạm lánh ở Geneva, sinh nhai bằng nghề đọc và sửa bài cho người ta in sách (proofreading). Thời kỳ lưu trú tại đây, ông bị ảnh hưởng bởi lý thuyết cải cách của Calvin. Nhưng rồi ông cũng lại khám phá ra chủ thuyết của giáo hội Calvin cũng mang nặng căn bệnh ”bất khoan dung - thiếu lòng nhân ái” (intolerant) không kém gì giáo phái Kitô La-mã. Ông cho in biểu ngữ (broadsheet) chống lại vị giáo sư thuộc phái Calvin. Hậu quả là ông lại bị bắt và rút phép thông công, nhưng sau đó thì đưọc bỏ qua. Người ta cho ông rời khỏi Geneva. Từ giã Thụy-sĩ, ông đi Pháp đến Toulouse và tưởng như đã được yên thân, nhưng Giáo-hội La-mã vẫn chưa chịu buông tha cho ông.

Năm 1581, ông di chuyển lên kinh thành Paris. Nước Pháp lúc bấy giờ trong thời vua Henry III, đang có sự tranh chấp giữa hai thế lực Kitô La-mã và dân Pháp theo đạo Tin Lành thuộc giáo phái Calvin (những người Pháp này được gọi là dân Huguenots). Triều đình vua Henry III gồm đa số những người có lòng khoan dung về chính trị. Họ vốn là những tín đồ Kitô La-mã ôn hòa (moderate Catholics) và những người có cảm tình với các ông vua theo đạo Tin Lành dòng họ Navarre (gốc rễ từ Tây Ban Nha), Vua Herny thuộc ngành Bourbon, lên trị vì vào năm 1584. Như vậy là quan điểm tôn giáo của ông Bruno rất hợp với họ. Nhờ vậy mà ông không những được hoàng đế Pháp che chở, mà còn được bổ nhậm vào chức vụ lecteur royaux (quan thị độc cho hoàng gia) tạm thời của nhà vua.

Năm 1582, ông cho ấn hành ba tác phẩm về kỹ thuật nhớ (mnemotechnical works) trong đó ông trình bày những bài khảo luận rất là tỉ-mỉ về những phương cách mới để đạt tới một kiến thức sâu sắc nhất của sự vật (intimate knowledge). Tiếp theo, ông cho ra đời tác phẩm Người Làm Đèn Cầy (Il Candelalaio (Candlemaker), trong đó ông đưa ra một nhân vật tiêu biểu của xã hội đương thời ở xứ Naples, cũng là nói lên sự phản kháng cái đạo đức và tham nhũng của thời đại lúc bấy giờ.

Mùa xuân năm 1583, ông sang Luân-đôn mang theo lá thư của Pháp hoàng Henry III giới thiệu ông với ông đại sứ Pháp là Michel de Castelnau tại Anh quốc. Tại đây, chẳng bao lâu, ông bị Trường Đai Học Oxford lôi cuốn. Mùa hè năm đó, ông được mời thuyết trình loạt bài về thuyết lý vũ trụ của nhà thiên văn học người Ba Lan Mikolaj Kopernik (Copernican theory) trong đó, ông dẫn giải từng chi tiết về sự có thật của việc trái đất quay chung quanh mặt trời. Nhưng bài thuyết trình của ông chỉ làm cho ban giảng huấn và những người có thế lực tại trường Đại Học Oxford mất thiện cảm. Ông lại phải trở về cái vị thế như là người khách của ông đại sứ Pháp Michel de Castelnau ở Luân Đôn. Trong thời gian này, ông thường lui tới giao thiệp thân mật với những nhân vật có thế lực như Sir Philip Sidney và Robert Dudley trong triều đình Nữ-hoàng Elizabeth Đệ Nhất.

Tháng 2 năm 1584, ông được ông Fulke Greville, hội viên của hội Sidney, mời tham dự thảo luận với các nhà trí thức khoa bảng của đại học Oxford về đề tài ”sự di chuyển của địa cầu”. Không ngờ, cuộc thảo luận lại biến thành cuộc cãi lộn (quarrel). Ít ngày sau, ông khởi sự viết một loạt bài tham luận bằng tiếng Ý Đại Lợi trong đó có ba bài triết lý của ông nói về vũ trụ và ba bài nói về đạo đức. Trong bài tham luận the Cena de le Ceneri (1584; ”The Ash Wednesday Supper”), ông không những tái xác nhận rằng sự thực về lý thuyết mặt trời là trung tâm của vũ trụ, mà còn cho rằng vũ trụ này là vô cùng tận, bao gồm hằng hà sa số các hành tinh và định tinh tương tự như thái dương hệ và địa cầu hiện nay của chúng ta. Cũng trong bài tham luận này, ông tiên liệu rằng nhà thiên văn đồng nghiệp người Ý của ông là Galileo Galilei cũng cho rằng Thánh kinh chỉ nên được dùng để dạy người ta về đạo đức chứ không phải dựa vào đó mà giải thích về môn thiên văn học. Ông cũng chỉ trích gay gắt cái thói quen của xã hội nước Anh và cái vẻ thông thái rởm (pedantry) của các giáo sư có bằng tiến sĩ dạy tại Đại Học Oxford lúc bấy giờ. Trong bài tham luận the De l'infinito universo e mondi (1854 Eng. trans, On the Infinite Universe and Worlds, 1950), ông phê bình thuyết vật lý của Aristotle rất là quy mô và trình bày một lý thuyết về vũ trụ theo quan niệm của ông trong đó có việc hình thành một quan niệm có vẻ giống như quan niệm của triết gia Averroes (1126-1198), người Tây-ban-nha gốc Ả rập. Thuyết lý này cho rằng có sự khác biệt và phân nhiệm giữa triết lý và tôn giáo. Tôn giáo được coi như là một phương tiện để dạy bảo và cai trị dân vô học, còn triết lý thì được coi như là một môn học để tuyển chọn những người có đủ khả năng để chính tâm tu thân và trị quốc - cai trị những người khác. Đây là bài tham luận nói về đạo đức và cũng là một bài tham luận châm biếm, chế diễu những sự mê tín nhảm nhí và các thói hư tật xấu của xã hội đương thời, ám chỉ đến cái đạo đức của giáo phái Kitô, đặc biệt nhất là nguyên tắc đạt đến sự cứu rỗi chỉ bằng niềm tin của giáo phái Calvin.

Tháng 10 năm 1585, ông trở lại Paris. Không khí chính trị ở Pháp lúc đó đã thay đổi. Vua Henry III đã hủy bỏ sắc lệnh hòa dịu với người theo đạo Tin Lành. Vua của xứ Navarre đã bị rút phép thông công. Thay vì phải thận trọng, ông lại nhẩy vào cuộc bút chiến bằng bốn bài tham luận chế diễu cả ”đứa con cưng” của đảng Kitô La Mã là nhà toán học Fabrizio Mordente. Tháng 5- 1586, ông còn dám công khai chỉ trích triết gia Aristotle trong loạt bài nhan đề là Centum et viginti articuli de natura et mundo adversus Perripateicos (”120 Articles on Nature and the World against the Peripatetics”).

Sau đó, ông từ giã Paris sang Đức. Tại đây, ông đi lang-thang qua nhiều đại học vừa thuyết trình vừa viết sách chống lại các quan niệm của các nhà toán học và triết gia đương thời. Đồng thời, ông giải thích rõ ràng quan điểm về tôn giáo của ông. Ông cho rằng việc sống chung hòa bình của các tôn giáo là dựa trên sự hiểu biết lẫn nhau và phải có sự bàn luận trong tinh thần tự do có đi có lại mới toại lòng nhau (the freedom of reciprocal discussion). Nhưng rồi tháng 1 năm 1589, ông lại bị giáo phái Lutheran tại Helmstedti rút phép thông công. Dù vậy, ông vẫn ở lại Helmstedti để hoàn thành tác phẩm nói về ma lực (magic) toán học và thiên nhiên (được phát hành sau khi ông qua đời) cùng ba thi phẩm De minimo, De monade và De innumerabilibus sive de immenso viết bằng tiếng La Tinh trong đó ông giải thích tỉ mỉ các lý thuyết mà ông đã nói rõ trong các bài tham luận bằng tiếng Ý, và đưa ra một quan niệm về căn bản nguyên tử của một vật thể. Năm 1590, sau khi đơn xin ở lại Frankfurt am Main của ông bị bác bỏ, ông vào tu viện Carmelite thuyết trình với các nhà khoa bảng thuộc giáo phái Tin Lành. Cũng từ đây, ông được mệnh danh là ”người của vũ trụ” mà vị tu viện trưởng cho rằng ”không có một dấu vết của tôn giáo”, mà ”chỉ lo bận tâm đến trước tác và mộng tưởng hão-huyền đến những điều mới lạ”.

Những năm cuối cùng ở Venice và Rome.

Tháng 8 năm 1591, do lời mời của nhà quí tộc tại Venice là Giovanni Mocenigo, ông Bruno trở về Ý. Ông trở về Ý hình như không còn là một sự quá liều lĩnh. Venice lại là một tiểu quốc tự do phóng khoáng hơn tất cả các tiểu quốc khác ở bán đảo Ý Đại Lợi. Sau cái chết của ông giáo-hoàng cố-chấp (intransigent) Sixtus X vào năm 1590, tình hình Âu châu đã bớt căng-thẳng. Tại Pháp, Hoàng-đế Henry của dòng họ Bourbon theo đạo Tin Lành hình như muốn cấp thiết thi hành chính sách hòa dịu về tôn giáo. Hơn nữa, ông Bruno lại muốn tìm một thế đứng trong văn học hầu có thể trần thuyết các triết thuyết của ông. Ông mong đưọc vào dạy toán học tại Đại Học Padua, hiện đang còn thiếu một giáo sư. Ngay khi về Ý, ông đi thẳng tới Padua, và vào cuối mùa hè năm đó, ông đã khởi dạy một lớp học tư cho học sinh người Đức. Nhưng tới mùa đông, ông biết rằng người ta sẽ không mướn ông (năm 1592, ông Galileo đưọc mời dạy) nữa, ông trở về Venice như là người khách của nhà quý tộc Mocenigo. Tại đây, ông tham dự vào các cuộc bàn luận của các nhà quý tộc cấp tiến trong tiểu quốc Venice. Nếu không kể đến liên hệ về thần học (tôn giáo), các nhà quý tộc này rất thích ông về những công trình triết lý của ông. Quyền tự do của ông cũng chấm dứt khi nhà quý tộc Mocenigo thất vọng về bài giảng thuyết trong một lớp học tư của ông nói về nghệ thuật ghi nhớ. Nhà qúy tộc này quay ra chống lại ý định của ông muốn trở về Frankfurt để xuất bản một tác phẩm mới của ông. Tháng 5 năm 1592, nhà quý tộc này tố cáo ông với Tòa Án của Giáo-hội La-mã tại Venice về tội ông có những lý thuyết tà ma ngoại đạo. Ông bị bắt và bị đưa ra Tòa Án của Giáo-hội. Tại phiên xử, ông tự bào chữa và khai nhận là có một vài sai lầm nhỏ nhặt về thần học. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng cái đặc tính căn bản trong thuyết lý của ông là triết lý hơn là thần học. Phiên xử đó ở Venice được tiến hành hình như có lợi cho ông. Tòa Án Giáo-hội tại La-mã đòi rằng phải dẫn độ ông về La-mã. Ngày 27-1-1593, ông bị đưa về giam tại ngục thất ngay trong dinh Sant'Uffizio (Holy Office) tại La-mã. Việc xử tội ông kéo dài đến bẩy (7) năm. Trong thời gian này, ông phủ nhận hết những gì đặc biệt liên hệ đến thần học, và xác quyết cái đặc tính triết lý trong tư tuởng của ông. Việc ông tách biệt giữa triết lý và thần học để biện minh cho sự vô tội của ông cũng không làm cho các ông tòa của Tòa Án Giáo-hội La-mã được hài lòng. Họ đòi ông phải chối bỏ vô điều kiện tất cả những lý thuyết mà ông đã trước tác. Ông cố gắng trong tuyệt vọng chứng tỏ rằng quan niệm của ông không thích hợp với quan niệm của người Kitô hữu La-mã về Thượng Đế và sáng tạo. Các ông tòa vẫn bác bỏ mọi lý luận của ông, vẫn khăng-khăng bắt buộc ông phải công khai chối bỏ tất cả lý thuyết của ông. Sau hết, ông phải tuyên bố rằng ông không có gì phải chối bỏ cả, và chính ông cũng không biết những gì các ông tòa còn đòi ông phải chối bỏ nữa. Giáo-hoàng Clement VIII xử ông như một tên tà giáo cứng đầu, cố chấp không biết ăn năn hối cải. Ngày 8 tháng 2 năm 1600, ông bị Tòa án Giáo-hội La-mã tuyên án tử hình. Khi nghe đọc xong bản án, ông nói với các ông tòa rằng: “Có lẽ mối lo sợ của các ông khi tuyên đọc bản án xử tử hình này còn lớn hơn là chính bản thân tôi tiếp nhận bản án đó - Perhaps your fear passing judgment on me is greater than mine in receiving it.” Ngày 17 tháng 2 năm đó (9 ngày sau khi tuyên án) người ta đút giẻ vào miệng ông để khóa mồm ông lại, và đưa ông lên giàn hỏa thiêu, thiêu sống ông tại Campo di Fiori.

Ảnh hưởng của ông và vụ án.

Các lý thuyết của ông Bruno ảnh hưởng sâu-xa đến các tư tưởng triết lý và khoa học trong thế kỷ thứ 17, và nhiều triết gia từ thế kỷ thứ 18 thấm nhuần tư tưởng của ông. Ông Bruno đã trở thành tiêu biểu, một tấm gương sáng cho tinh thần tự do tư tưởng, gợi hứng và khích lệ phong trào tự do ở Âu châu trong các thế kỷ 18 và 19, đặc biệt là phong trào tranh đấu cho việc thống nhất quốc gia tại bán đảo Ý Đại Lợi (the Italian Risorgimento - the movement for national political unity).

Theo ý nghĩa của các công trình trước tác của ông, các học giả chia tác phẩm của ông ra làm nhiều loại. Loại khoa học là các tác phẩm thuộc về thiên văn, ông đã tiên liệu một số khía cạnh căn bản của quan niệm mới về vũ trụ. Loại về đạo đức: Quan niệm đạo đức của ông trái ngược với quan niệm đạo đức khổ hạnh của tôn giáo lúc bấy giờ. Tư tưởng của ông rất là hấp dẫn và đưa đến việc hoạt động tích cực cho nhân đạo. Lý tưởng khoan dung về tôn giáo và triết lý của ông đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các tư tưởng gia trong phong trào tự do sau này. Mặt khác, việc ông nhấn mạnh đến tính cách ma thuật và những điều huyền bí khó hiểu của tôn giáo cũng như cái cá tính mạnh mẽ của ông đã trở thành cơ sở cho người ta chỉ trích. Dầu thế nào đi nữa, tên tuổi Bruno vẫn sáng chói và đã trở thành nhân vật quan trọng trong nền tư tưởng và triết học Tây Phương, người chiến sĩ tiền phong của nền văn minh hiện đại.

VỤ ÁN GALILEO GALILEI

Trước khi ông Galileo chào đời đã có những lý thuyết đối chọi nhau về Thái Dương Hệ. Đó là các lý thuyết của các nhà thiên văn học Johann Kepler, Ptolemy và Copernicus. Galileo Galilei là một nhà toán học, thiên văn học và vật lý học người Ý. Ông là một thiên tài về khoa học và các công trình nghiên cứu khoa học của ông đã đóng góp rất nhiều vào kho tàng kiến thức của nhân loại ngày nay. Ông cũng là người đầu tiên sử dụng viễn vọng kính để quan sát không gian và thâu thập được dữ kiện chứng tỏ rằng trái đất quay chung quanh mặt trời, và trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ.

Là con của nhạc sĩ Vincenzo Galilei, Galileo sinh ngày 15-2-1564 tại Piso, Ý Đại Lợi. Vào tuổi đi học, ông theo học tại chủng viện Vallombrosa ở gần Florence. Năm 1581, ông theo học ngành y khoa tại Đại Học Pisa. Ngay từ năm đầu tại Đại Học Pisa, ông quan sát thấy sự đưa đi đưa lại của nguồn sáng trong một ngọn đèn có một chu kỳ với lượng thời gian bằng nhau. Đây là một nguyên tắc mà sau này ông đem thí nghiệm đã nghiệm đúng và được áp dụng vào nguyên tắc quả lắc của đồng hồ. Năm 1585, ông phải nghỉ học vì gặp khó khăn về tài chánh. Ông trở về Florence và kiếm được chỗ làm dạy học. Năm 1586, ông viết một bài tiểu luận về sự cân bằng thủy tĩnh (Hydrostatic balance). Năm 1589, ông viết một bài luận thuyết về trọng tâm của một vật thể ở trong trạng thái đặc. Sau đó, ông vào dạy môn toán tại Đại Học Pisa và chuyển sang nghiên cứu về chuyển động. Thành quả trong công trình nghiên cứu này là ông đã đưa ra định luật về đặc tính của vật rơi trong không gian theo đường parabol, nghĩa là một vật tròn như trái banh (cầu) được phóng lên không gian thì nó sẽ đi theo đường parabol.

Ngay từ thuở thiếu thời, ông đã cho rằng lý thuyết về vũ trụ của nhà thiên văn học Mikolaj Kopernik (1473-1543) là đúng. Thuyết này cho rằng Mặt Trời là một định tinh của Thái Dương Hệ và có nhiều hành tinh quay chung quanh Mặt Trời. Trái Đất là một trong những hành tinh quay chung Mặt Trời. Mùa xuân năm 1609, đang ở Venice, ông được tin kính viễn vọng mới được phát minh. Ông trở về Đại Học Pisa và miệt mài nghiên cứu phương cách chế ra một loại kính viễn vọng có khả năng phóng đại 32 lần.

Nhờ loại kính viễn vọng do chính ông mới sáng chế ra, cuối năm 1609 và đầu năm 1610, ông loan báo rằng ông đã khám phá ra nhiều điều mới lạ ở trong không gian. Ông thấy rằng mặt chị Hằng lởm chởm chứ không nhẵn nhụi như người đời hằng tưởng, Thiên Hà (Ngân Hà) bao gồm rất nhiều tinh tú. Nhờ những công trình khám phá này, thượng viện Venice quyết định bổ nhậm ông làm giáo sư thực thụ và vĩnh viễn tại Đại Học Padua. Sau đó, ông lại được phong tước Quận Công Tuscany. Việc phong tước này là một phần thưởng khích lệ, thúc đẩy ông tiếp tục hiến đời cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học.

Năm 1611, ông đến La Mã trình bày kính viễn vọng do chính ông sáng chế với các nhân vật có thế lực của triều đình Giáo Hội Hội La Mã (pontifical court). Được đón tiếp long trọng, ông cảm thấy khích lệ. Ông mạnh dạn trình bày lý thuyết về vũ trụ của nhà thiên văn học Kopernik. Cuối cùng ông đi đến kết luận là lý thuyết về vũ trụ của nhà thiên văn học Kopernick là đúng, và lý thuyết của ông Ptolemy là sai. (Ptolemy là một nhà toán học, địa lý học và cũng là nhà thiên văn học người Hy Lạp vào thế kỷ thứ 2 sau Thiên Chúa. Ông đưa ra thuyết trái đất là trung tâm của vũ trụ, mặt trăng cùng các hành tinh và tinh tú khác quay chung quanh trái đất. Người ta gọi lý thuyết này là hệ thống Ptolemy).

Không ngờ việc thuyết trình của ông lại bị nhiều người chống đối. Nhiều giáo sư vốn đã mất nhiều năm tin theo quan niệm về vũ trụ theo thuyết Ptolemy quay ra công kích ông. Các nhân vật cao cấp trong triều đình của Giáo Hội La Mã còn chống đối ông dữ dội hơn vì họ cho rằng lý thuyết Kopernick mâu thuẫn với Thánh Kinh. Các nhà truyền đạo dòng Dominican còn công kích ông ác liệt hơn nữa. Họ cho là ông đã dám đưa ra một sự bất kính mới đối với Thượng Đế (vì trái ngược với Thánh Kinh dạy). Họ bí mật tố cáo ông về tội dám công khai đưa ra những lời tuyên bố xúc phạm đến Thượng Đế mà chính ông đã tự do phát minh ra. Các đệ tử của ông trong đó có tu sĩ B. Castelli thuộc dòng Benedictine báo động cho ông hay và khuyên ông phải làm một cái gì để chặn đứng tình trạng nguy hiểm này.

ảnh http://www.art-prints-on-demand.com/kunst/joseph_nicolas_robert_fleury/Galileo_Galilei_1015956.jpg

Họa phẩm "Galileo Galilei trước Tòa Án Dị Giáo ở Vatican năm 1632"

của Họa sĩ Joseph Nicolas Robert-Fleury. Ảnh của http://www.art-prints-on-demand.com

Nghe lời khuyên của các đệ tử, ông viết tất cả ba lá thư gửi cho ba nhân vật quyền thế trong triều đình của Giáo Hội La Mã là Castelli, Grand Duchess Dowager và Monsignor Dini, trong đó ông trình bày về sự nguy hiểm diễn dịch những lời ngụ ngôn Thánh Kinh vì các lời ngụ ngôn này thường thường là mâu thuẫn với sự thực của khoa học. Không những thế, ông thân hành đi thẳng tới La Mã để trực tiếp yêu cầu Giáo Hội hãy mở rộng cửa đón nhận một sự đổi mới. Có một số tu sĩ ủng hộ ông. Nhưng Hồng Y Giáo Chủ Robert Bellarmine, nhà thần học cột trụ của Giáo Hội, không thể nào nhận thức được tầm quan trọng của các lý thuyết mới về khoa học. Ông Hồng Y này bám chặt lấy quan niệm cũ, cho rằng các giả thuyết về toán học không có gì liên hệ với thực tế trong ngành vật lý. Hồng Y Robert Bellarmine thấy cái nguy hiểm của sự xấu xa này là nó có thể phá hoại đạo Kitô La Mã trong cuộc chiến chống lại Đạo Tin Lành. Do đó, ông Hồng Y này quyết định tuyên bố lý thuyết về vũ trụ của nhà thiên văn học Kopernik là ”sai lầm và không đúng với sự thật”. Ngay sau đó, Tòa Thánh La Mã ban hành Sắc Chỉ ngày 5-3-1616 theo đó thì cuốn sách của nhà thiên văn Kopernik bị đình chỉ, không được lưu hành. Đồng thời, ông Galileo cũng bị cấm, không được ”giữ” và cũng không được ”biện minh” cho lý thuyết Kopernik.

Chán nản với các nhà cầm quyền trong triều đình của Giáo Hội La Mã, ông rút lui về Bellosguaedo gần Florence để tiêu khiển thì giờ trong thú đọc sách. Năm 1621, Giáo Hoàng Paul V qua đời, rồi năm 1623, Giáo Hoàng Greory XV qua đời, Giáo Hoàng Urban VIII lên cầm quyền. Hy vọng tân giáo hoàng có tinh thần cởi mở, năm 1624, ông lại đi La Mã để yêu cầu hủy bỏ Sắc Chỉ đã được ban hành vào năm 1616. Lời yêu cầu của ông bị từ chối. Ông được phép viết về cả hai lý thuyết Ptolemy và Kopernik, nhưng không được đưa ra một kết luận nào khác với quan niệm cho rằng người ta không thể biết được vũ trụ thực sự được tạo ra như thế nào vì Thượng Đế có thể tạo ra cùng những tác dụng bằng những phương cách mà con người không thể tưởng tượng nổi, và ông cũng không được nói gì có vẻ như là giới hạn cái quyền năng vô biên của Thượng Đế. Mọi bản viết của ông phải được gửi qua ban kiểm duyệt do Monsignor Nuccolò Ricardi phụ trách.

Sau đó ông trở lại Florence, tiếp tục đọc sách và viết sách. Năm 1632, được phép của các nhà kiểm duyệt, ông cho ấn hành tác phẩm Dialogue Concerning the Two Chief World Systems. Tác phẩm này được giới trí thức khắp nơi trong lục địa Âu Châu ca tụng như là một kiệt tác về văn chương và triết học. Điều khôi hài là tác phẩm của ông càng được giới trí thức ca tụng bao nhiêu thì lại càng bị Giáo Hội La Mã, nhất là các ông tu sĩ Dòng Tên, chỉ trích thậm tệ. Các ông tu sĩ Dòng Tên cho rằng hậu quả tai hại của tác phẩm mới này đối với đạo Kitô La Mã còn tệ hơn hậu quả của việc rao giảng cả hai lý thuyết Luther và Calvin gom lại. Giáo Hoàng nổi lôi đình ra lệnh truy tố ông ra trước Tòa Án Giáo Hội về tội tà giáo. Tháng 2 năm 1633, bất kể là ông đã lớn tuổi và đang lâm bệnh, Giáo Hội bắt buộc ông phải thân hành đi La Mã để cho Toà Án Giáo Hội xử ông về tội dám viết và công bố tác phẩm Dialogue Concerning the Two chief World Systems. Việc xét xử kéo dài đến ngày 21- 6-1633, ông bị Tòa Án Giáo Hội kết tội đã ”tàng trữ và giảng dạy” chủ thuyết Kopernik, và ra lệnh cho ông phải từ bỏ không được làm như vậy nữa, và phải lập đi lập lại định thức trong đó ông phải “thề bỏ, nguyền rủa và ghê tởm” những lỗi lầm của ông trong quá khứ. Tòa án của Giáo Hội xử giam ông vào trong ngục, nhưng sau đó ông được Giáo Hoàng cho về quản thúc tại một căn nhà nhỏ ở Arcetri gần Florence. Ông bị giam ở đây liên tiếp cho đến khi ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày 8 tháng 1 năm 1642.

Nhìn lại ”Vụ Án Galileo”, chúng ta thấy có một điểm vô cùng khôi hài. Giáo Hội La Mã bảo rằng, theo Thánh Kinh thì “Trái Đất là trung tâm của vũ trụ và Mặt Trời là một hành tinh di chuyển xoay chung quanh Trái Đất.” Trái lại, nhà Thiên Văn Galileo dùng loại viễn vọng kính do chính ông khuyếch đại để quan sát trong không gian và tìm ra sự thực của khoa học là ”Mặt Trời là một định tinh của Thái Dương hệ và có nhiều hành tinh quay chung quanh Mặt Trời. Trái Đất là một trong những hành tinh quay chung Mặt Trời”.

Trước khi đem nhà thiên văn Galileo ra xử, Tòa Án Giáo Hội đã từng xử các ông John Huss (1373-1415), Savonarola Girolamo (1452-1498), Bruno Giordano (1548-1600) và không biết bao nhiêu các nhà trí thức khác. Mục đích của Giáo Hội La Mã là dùng Tòa Án của Giáo Hội để bịt miệng giai cấp trí thức, khiến cho họ phải câm miệng, không còn dám hoài nghi về Thánh Kinh và thắc mắc về những việc làm bất chính, bất nhân và bất nghĩa của Giáo Hội, đặc biệt nhất là những sản phẩm ”phép mầu” của Giáo Hội phịa ra đã được ăn khách ở hầu hết các quốc gia Tây Âu và đang được quảng cáo rầm rộ để xuất cảng sang Phi, Mỹ và Á Châu.

Cung cách Giáo Hội La Mã xử vụ Án Galileo và các nhà trí thức khác giống y hệt cái cung cách Triệu Cao thị oai đe dọa Lý Tư. Ai đã từng xem bộ phim Tần Thủy Hoàng đều biết chuyện này. Lý Tư là người có tài học vấn, theo phò Tần Vương Chính từ khi Lữ Bát Vi còn nắm quyền thừa tướng. Khi trưởng thành, sau khi thực sự nắm quyền trị nước, Tần Vương Chính loại bỏ Lữ Bát Vi, bành trướng thế lực, rồi thống nhất Trung Hoa và xưng đế tức là Tần Thủy Hoàng thì Lý Tư được lên nắm giữ chức thừa tướng. Trong khi đó Triệu Cao chỉ là một tên thị thần vô danh tiểu tốt.

Chính sách đế quốc của Tần Thủy Hoàng khiến cho các tiểu quốc bị chinh phục căm giận nhưng đành phải nuốt hận chờ cơ hội phục thù. Thái tử Đan của nước Yên nuôi chí phục thù, phái Kinh Kha vượt giòng sông Dịch sang đất Tần, và tìm vào Tần triều ám hại Tần Hoàng. Kinh Kha đã thành công xin được vào bệ kiến Tần Hoàng. Trong lúc kinh Kha ra tay ”hành thích”, Tần Hoàng lanh trí nhìn ra ý đồ của Kinh Kha, nhưng lại lo tránh né mà quên rằng có cây kiếm dài đeo lủng lẳng bên hông. Giữa đám quần thần còn ngơ ngác chưa hoàn hồn, Triệu Cao lại tỉnh trí, nhận ra ”thanh kiếm” của Tần Hoàng đã bị bỏ quên. Hắn vội nhắc cho Tần Hoàng phải nên rút kiếm ra để chống lại Kinh Kha. Lúc đó, Kinh Kha đang nắm thế thượng phong dồn Tần Thủy Hoàng vào thế bị động chỉ lo tránh né sao cho thoát được mũi kiếm của Kinh Kha. Khi đượcTriệu Cao nhắc nhở cho biết, có thanh kiếm trong tay, Tần Hoàng lên tinh thần, dần dần lật ngược thế cờ và cuối cùng Kinh Kha bị đánh bại. Nhờ ”có công nhắc nhở Tần Hoàng rút kiếm để đối phó với Kinh Kha” mà sau đó Triệu cao được tin dùng.

Sau này, Triệu Cao được phong làm thái sư phụ trách việc dạy học và dìu dắt Thái Tử Hồ Hợi. Khi Tần Thủy Hoàng băng hà, Thái Tử Hồ Hợi lên ngôi, nhưng quyền chính hoàn toàn lọt vào tay Triệu Cao. Hồ Hợi mồ côi mẹ từ nhỏ, cho đến khi lên làm vua chỉ loanh quanh trong cung cấm, ít khi đi ra ngoài cấm thành. Cũng vì thế mà Hồ Hợi hầu như không am tường sự vật và cũng không biết rõ cả những tên gọi của các loài thú trong vườn thượng uyển.

Tuy Lý Tư không còn quyền hành gì nữa, nhưng Triệu Cao vẫn sợ rằng ông sẽ chống lại những việc làm bất chính của mình. Để bịt miệng Lý Tư, Triệu Cao nghĩ ra một cách để ”ra oai” khiến cho Lý Tư phải câm miệng cúi đầu tuân phục và cũng là cú đánh phủ đầu đánh vào những người thế lực đương thời còn hục hặc chưa chịu cúi đầu

Như đã xếp đặt sẵn, vào một buổi đẹp trời, Triệu Cao dẫn Hồ Hợi ra thăm chơi ngoài vườn thượng uyển có Lý Tư theo hầu. Nhìn về chỗ có con nai vàng đốm trắng ở gần đấy đang được một tên hầu cho ăn, Triệu Cao chỉ vào con vật và bảo với Hồ Hợi đó là con ngựa đốm. Hồ Hợi còn đang ngơ ngác nhìn con vật rồi nhìn Triệu Cao như bán tín bán nghi thì Triệu Cao quay ra nói với Lý Tư: ”Đó là con ngựa có phải không ông Lý Tư?” Lý Tư sợ run nguời lên, ngước nhìn Triệu Cao, rồi sau một thoáng suy tư liền trả lời rằng: ”Dạ, con đó là con ngựa.”

Đem chuyện ”Triệu Cao chỉ con nai mà bảo với Hồ Hợi là con ngựa và bắt Lý Tư phải xác nhận là con ngựa” để so sánh với chuyện ”Giáo Hội La Mã ra lệnh cho Galileo phải công nhận rằng mặt trời quay chung quanh trái đất” ta thấy nó giống hệt nhau y như đúc. Biết rõ ”con thú đó là con nai”, nhưng trong cái thế nằm dưới sức ép của cường quyền, Lý Tư vẫn phải chối bỏ sự thật mà nói chiều theo ý của tên  quyền thần gian ác Triệu Cao rằng ”con nai đó là con ngựa”. Nếu không nói như vậy, Lý Tư sẽ mất mạng như chơi. Y hệt như vậy, biết rõ là ”trái đất quay chung quanh mặt trời”, nhưng đứng trước bạo lực của Giáo Hội La Mã, nhà khoa học Galileo vẫn phải cúi đầu chiều theo ý muốn của Giáo Hội mà bảo rằng ”mặt trời quay chung quanh trái đất”. Nếu không nói như vậy thì ông sẽ bị đưa lên giàn hỏa thiêu và bị thiêu sống như hai ông John Huss và Giordano Bruno trước ông không bao lâu. Hai sự việc xẩy ra vào hai thời điểm cách nhau cả gần một ngàn năm và ở cách xa nhau cả một nửa địa cầu và mà sao giống nhau như bóc. Thì ra những quân đại gian đại ác thường hay giống nhau. Thực ra, Giáo Hội còn lưu manh và bạo ngược gấp triệu lần tên quyền thần Triệu Cao.

Trên đây là chính sách khủng bố đối với giai cấp trí thức để cho họ không còn dám ho he hoài nghi những điều phi lý trong Thánh Kinh, và không còn dám thắc mắc về các ”phép lạ” trong tín lý do Giáo Hội đưa ra. Còn đối với khối đại đa số không phải là trí thức và cũng không tin theo Thánh Kinh, tín lý và giáo lý của Giáo Hội La Mã thì sẽ họ sẽ bị đối xử như thế nào?

Đối với khối dân này, Giáo Hội cho họ là những quân tà giáo, và ra lệnh cho bọn vua chúa cuồng đạo nằm trong vùng ảnh hưởng của Giáo Hội cưỡng bách họ phải theo đạo Ki Tô La Mã. Nếu những người dân này không tuân hành, thì hoặc là bị tàn sát, hoặc là sẽ bị đuổi cổ (trục xuất) ra khỏi nước.

Tên bạo chúa phản thần tam đại Việt gian  Ngô Đình Diệm cũng đã dùng những thủ đoạn này để đối phó với những người cương quyết  không chịu cúi đầu khuất phục theo đạo Chúa. Một trong những nạn nhân như thế là Tướng Ba Cụt [Hùynh Văn Cao, "Một Kiếp Người", Chantilly, VA: Thu Minh Hùynh, 1993, trang 52], đã bị ông Diệm sớm cho đi ”lên Thiên Đường thẳng rò ro.” Ngòai ra, còn có tới hơn 300 ngàn lương dân ở các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Khánh Hòa cũng bị  sát hại một cách cực kỳ dã man cũng chỉ vì họ cương quyết nhất định không theo đạo Chúa. [Chu Bằng Lĩnh. Đảng Cần Lao (San Diego, CA: Mẹ Việt Nam, 1993), trang 133].

Những việc làm tàn nhẫn, bất nhân này đã được triệt để thi hành bởi các nhà cầm quyền ngoan đạo của Giáo Hội trong thời gian họ tại vị như Hoàng Đế Ferdinand V (1452-1516), Nữ Hoàng Isabella I (1451-1504) và Hoàng Đế Philip II (1527-1598) của nước Tây Ban Nha, Nữ Hoàng Mary I (1516-1588) của nước Anh, Louis XIV (1638-1715) của nước Pháp, bạo chúa Ante Pavelich của nước Nam Tư (cha đẻ ra nước Croatia the đạo Kitô La Mã ngày nay) trong những năm 1941-1945, và tên bạo chúa Giám-mục Augustin Misago của nước Rwanda trong năm 1994.