Sách Lược Chống Lại

TRUYỀN THỐNG TÔN THỜ ANH HÙNG DÂN TỘC TA:

TRƯỜNG HỢP CỤ HỔ CHÍ MINH

Nguyễn Mạnh Quang

http://sachhiem.net/NMQ/NMQ026a.php

20 tháng 11, 2009

(tiếp theo mục 1: 1.- Sách lược nhắm vào đời tư cá nhân để phỉ báng)

2.- Sách lược làm giảm thiểu đại công nghiệp của Cụ Hồ Chí Minh:

 

Từ khỏang 20 năm trở lại đây, người thường được nghe thấy có một số người hải ngoại đưa ra luận điệu “Không cần phải phát động chiến tranh chống Pháp để giành lại chủ quyền độc lập vì rằng sớm hay muộn Pháp cũng trả độc lập cho Việt Nam như người Anh đã trả độc lập cho Ấn Độ vào năm 1947, cho Miến Điện vào năm 1948 và người Hòa Lan trả độc lập cho Indonésia vào năm 1949.”

Người viết không biết nguyên nhân hay động lực nào đã khiến cho người ta đưa ra luận điệu này? Khi đưa ra luận điệu này, người ta có mục đích gì?

Kể từ ngày Ngô Quyền giành được chủ quyền độc lập từ trong tay người Hán vào năm 939 cho đến ngày nay, trước khi đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican và Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican, dân tộc đã từng phải chiến đấu đánh đuổi quân xâm lược từ phương Bắc có tới ít nhất là 5 lần (đời Nhà Lý, đời Nhà Trần, cuộc kháng chiến đánh đuổi quân Minh vào đầu thế kỷ 15, cuộc chiến đánh đuổi quân Thanh vào đầu năm 1789) và đánh đuổi 20 ngàn quân Xiêm xâm lăng vào đầu năm 1784, rồi sau năm 1975, lại quân dân ta lại phải chiến đấu đánh đuổi quân xâm lược Trung Hoa vào đầu năm 1979.)

Chúng ta hãy đặt ra vấn đề như thế này: Giả dụ như Nếu tiền nhân ta không cương quyết đánh đuổi quân cướp xâm lăng hay không thành công trong các cuộc chiến này, thì ngày nay:

- Nước Việt Nam ta có tên trên bản đồ thế giới hay không?

- Việt Nam có chỗ ngồi trong tổ chức Liên Hiệp Quốc hay không?

- Người Việt Nam có được nhân dân thế giới nể trọng như hiện nay hay không?

Người viết không hiểu TẠI SAO họ lại đưa ra luận điệu như vậy.

Chủ đích của những người đưa ra luận điệu này là muốn phủ nhận cái công lao của Đảng Cộng Sản và Mặt Trận Việt Minh dưới quyền lãnh đạo của Cụ Hồ Chí Minh cũng như của nhân dân ta trong đại cuộc đánh đuổi các Liên Minh Xâm Lược.

Những người này cho rằng Việt Nam không cần phải chiến đấu thì Pháp và Vatican cũng phải tự động đem chính quyền trao lại cho người Việt Nam. Họ lý luận như thế vì thấy rằng việc người Anh đã trả độc lập cho người Ấn vào năm 1947, cũng như cho người Miến Điện vào năm 1948, và việc người Hòa Lan đã trả độc lập cho người Indonesia vào năm 1949, và họ suy ra rằng nhân dân các quốc gia này không hề nổi loạn mà các đế quốc Anh và Hòa Lan "tự dưng" đem trao trả độc lập cho họ.

Theo sự hiểu biết và kinh nghiệm của người viết:

Những người trên đây là những người có ông cha hay chính họ có liên hệ với các thế lực xâm lăng Vatican, Pháp và Mỹ trong suốt chiều dài lịch sử từ năm 1858 đến nay. Mục đích trong việc đưa ra luận điệu này là vừa để khỏa lấp hay lấp liếm cái tội phản quốc, làm tay sai cho giặc để mưu cầu danh lợi cho bản thân và gia đình họ trước đây, vừa để làm hạ giá đại công nghịệp đuổi giặc cứu nước của Đảng Cộng Sản Việt Nam, của Mặt Trận Việt Minh và của nhân dân ta trong hai cuộc chiến giành độc lập cho dân tộc và đòi lại miền Nam đem lại thống nhất cho đất nước.

Những người này là những người ưa thích nói chuyện thời thế và chính trị, nhưng không thấu hiểu lịch sử thế giới. Họ không hiểu trào lưu tiến hóa của nhân loại luôn bị Giáo Hội La Mã chống lại và cũng không hiểu vài trò của Giáo Hội La Mã trong các cuộc đất đai ở ngòai lục địa Âu Châu là thuộc địa của các đế quốc Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp và Bỉ. Có thể là do sự tình cờ hay thường xuyên nói chuyện với những người thuộc nhóm A đưa ra luận điệu này, rồi vì không thấu hiểu quốc sử về những cuộc chiến đánh đuổi các thế lực ngoại xâm của dân tộc ta như đã nói trên, cho nên họ mới lập lại, lập lại luận điệu này vào những khi cao hứng trong lúc trà dư tửu hậu mà thôi.

Thiết tưởng rằng dù là ở vào trường hợp nào đi nữa, người viết cũng xin cố gắng làm sáng tỏ vấn đề này.

۞۞۞

 

nguồn http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:Chiensicamtu.jpg

Hình ảnh một chiến sĩ cảm tử

Sáng 23 tháng 12 năm 1946, tại ngã tư Nguyễn Du - Bà Triệu, Trần Thành

đã dùng bom ba càng đánh đứt xích 1 xe tăng Pháp.

 

Từ khi triều đình Huế cúi đầu ký Hiệp Nhâm Tuất 1862 cho đến ngày 30/4/1975, nhờ dựa vào quyền lực và các phương tiện của các chính quyền của Liên Minh Xâm Lược Pháp-Vatican và Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican, bộ máy truyền truyền của Vatican tại Việt Nam tha hồ ăn ngang nói ngược, bốc lửa bỏ bàn tay, bóp méo sự thật, xuyên tạc lịch sử và sử dụng đủ mọi thủ đoạn để bôi đen các lực lượng nghĩa quân kháng chiến của nhân dân ta có chủ trương đánh đuổi các liên quân xâm lược trên đây khỏa lấp tội ác của chúng về những hành động cấu kết với kẻ thù.

Tại hải ngọai, từ cuối năm 1975, sau khi đã khống chế được các phương tiện truyền thông bằng tiếng Việt, Nhà Thờ Vatican ra lệnh cho bộ máy truyền thông phải đẩy mạnh các chiến dịch (1) làm giảm hào quang các nhiệm lịch sử lịch sử giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước của Đảng Cộng Sản và Mặt Trận Việt Minh dưới quyền lãnh đạo của cụ Hồ Chí Minh, và (2) đồng loạt bôi nhọ cụ Hồ Chí Minh lẫn cả Đảng Cộng Sản Việt Nam và tất cả những người đã tham gia vào đại cuộc hòan thành cả hai nhiệm vụ lịch sử giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước mà dân ta đã hòan thành.

Ngay từ khi đưa ra đề nghị đưa cựu hoàng Bảo Đại lên cầm quyền để chống lại chính quyền Việt Minh Kháng Chiến vào cuối tháng 12/1945, Nhà Thờ Vatican đã phát động những chiến dịch này bằng cách đưa ra luận điệu không cần phải phát động chiến tranh làm tốn phí tới 4, 6 triệu người vì rằng thế nào rồi Pháp cũng trao trả độc lập cho Việt Nam.

Thiết nghĩ rằng rất có thể luận điệu này được Nhà Thờ Vatican đưa ra vào cùng thời khi viên khâm-sứ của Tòa Thánh Vaican tại Hà Nội là Tổng Giám Muc Antoni Drapier công khai tuyên bố vào ngày 28/12/1945 rằng nên đưa Bảo Đại lên thành lập chính phủ để chống lại chính quyền Việt Minh Kháng Chiến của nhân dân ta. Rồi kể từ đó, bộ máy tuyên truyền của Nhà Thờ Vatican được lệnh khua chuông và gióng trống sao cho phù hợp với hoàn cảnh và thời thế.

Theo kinh nghiệm của người viết đã từng dạy môn lịch sử tại các trường trung học ở miền Nam Việt Nam trên mười năm trước năm 1975 và tại các trường trung học ở Hoa Kỳ trên hai mươi năm trời, thì luận điệu trên đây nghe không ổn chút nào cả. Cứ theo luận điệu này, thì những công lao và sự hy sinh mạng sống của hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ trong các lực lượng nghĩa quân kháng chiến của nhân dân ta trong đại cuộc đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican từ năm 1858 cho đến năm 1954 đều là vô ích! Và hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến đánh đuổi Liên Minh Mỹ - Vatican 1954-1975 để đòi lại miền Nam đem lại thống nhất cho đất nước cũng là vô ích!

Đưa ra luận điệu này là tỏ ra vô ơn với hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ đã ngã xuống cho tổ quốc Việt Nam được trường tồn.

Người viết cực lực phản đối luận điệu này.

Thiết nghĩ rằng, những người đưa ra luận điệu này nếu không phải là người của Vatican thì cũng là những người đồng lõa với bọn vong bản thường lớn tiếng bảo nhau rằng "Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa".

Người viết cũng tin rằng những người đưa ra luận điệu này không thấu hiểu lịch sử thế giới, không thấu hiểu lịch sử Giáo Hội La Mã, và cũng không biết gì về chủ nghĩa bá quyền của Giáo Hội La Mã. Chủ nghĩa bá quyền này đã được công bố rõ ràng trong Sắc Chỉ Romanus Pontifex, ban hành vào ngày 8/1/1454 trong thời Giáo Hoàng Nicholas (1447-1455)]. Dưới đây là phần trình bày của người viết để phản bác luận điệu này:

Như đã trình bày đầy đủ ở trong các Chương 3, Chương 4 và Chương 5 trong sách Người Việt Nam Và Đạo Giê Su (Các chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net) những người Việt Nam tiếp nhận sở học qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Vatican nên không biết gì về lịch sử những rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã. Họ cũng không có kiến thức về lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại.

Vì có quá nhiều điều không biết như trên, tất nhiên là những người này không thể nào biết TẠI SAO khi nhân dân các thuộc địa của đế quốc Anh và đế quốc Hòa Lan vừa mới nổi lên tranh đấu đòi độc lập có mấy năm ngắn ngủi, thì hai đế quốc này đã phải trao trả độc lập cho họ. Và những người này cũng không thể nào biết TẠI SAO dận tộc Việt Nam đã phải vùng lên tranh đấu trường kỳ kéo dài cả một thế kỷ với cả hàng trăm cuộc nổi dậy, phải chiến đấu trong những hoàn cảnh cực kỳ gian khổ và vô cùng đẫm máu, tốn phí cả gần chục triệu sinh linh mới đánh đuổi được giặc Pháp và giành lại được chủ quyền độc lập cho dân tộc, và mới đuổi được đế quốc Mỹ ra khỏi miền Nam để đem lại thống nhất cho tổ quốc. Vấn đề là giặc Vatican vẫn còn lì lợm bám chặt lấy Việt Nam, cho nên mới có những lý luận phản bội với các anh hùng liệt sĩ như thế.

Vậy làm sao một người VIệt Nam yêu nước có trách nhiệm và lương tâm có thể cho rằng, “Không cần phải phát động chiến tranh thì sớm muộn gì Pháp cũng phải trả lại chủ quyền độc lập cho dân ta" ? Những người đưa ra lập luận bạc ơn, vô liêm sỉ này chỉ có mỗi mục đích là phủ nhận những công nghiệp lịch sử giành lại được chủ quyền độc lập cho dân tộc của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Mặt Trận Việt Minh dưới quyền lãnh đạo của cụ Hồ Chí Minh, đem lại thống nhất cho đất nước và vinh quang cho tổ quốc Việt Nam ta.

Để giúp cho độc giả hiểu rõ TẠI SAO các đế quốc xâm lược Âu Mỹ Anh Quốc và Hòa Lan trong đã dễ dàng trả lại chủ quyền độc lập cho các dân tộc thuộc đia của họ ở khắp nơi trên thế giới, trong khi đó thì các đế quốc Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp và Bỉ lại bám chặt lấy các thuộc địa của họ như loài đỉa đói như lịch sử đã cho thấy rõ.

Các Phong Trào Tin Lành
chống Vatican và phong trào các đế quốc Âu Châu

 

Để phản bác luận cứ trên đây của họ, xin quý vị cùng chúng tôi ôn lại một giai đoạn lịch sử ở Âu Châu nói về các Phong Trào Tin Lành chống Vatican và phong trào các đế quốc Âu Châu đem quân đi đánh chiếm đất đai ngoài Âu Châu làm thuộc địa. Đọc lịch sử thế giới, chúng ta sẽ thấy:

Từ thế kỷ 16, tại Âu Châu, có hai sự kiện quan trọng:

Thứ nhất, từ cuối thập niên 1510, Phong Trào Đòi Cải Cách Tôn Giáo bắt đầu bùng lên thành phong trào vũ trang chống lại quyền lực của Tòa Thánh Vatican. Quan trọng nhất là Phong Trào Tinh Lành do Linh-mục Martin Luther (1483-1546) ở Đức khởi xướng, và khởi đầu vào năm 1517. Giậu đổ bìm leo. Phong trào này nổi lên như một vết dầu loang và dẫn đến việc chính quyền Anh của Anh Hoàng Henry VIII (1491-1547) cũng vùng lên chống lại Tòa Thánh Vatican, chính thức ly khai khỏi Giáo Hội La Mã vào năm 1531, rồi thành lập Anh Giáo, tịch thu toàn bộ tài sản của Giáo Hội tại Anh Quốc. Sau đó, vào năm 1691, Quốc Hội Anh lại ban hành Đạo Luật Ổn Định vào năm 1691, cấm, không cho người Anh là tín đồ Da-tô của Giáo Hội La Mã lên cầm quyền. (The Act of Settlement of 1691). Đạo luật này quy định rằng không có một tín đồ Ki-tô La Mãnào có thể trở thành nhà lãnh đạo nước Anh. Như vậy là luật này loại hẳn tất cả những người con và cháu của vua James Đệ Nhị với người vợ thứ hai của nhà vua. Nguyên văn: “A third measure, the Act of Settlement of 1691, provided that no Roman Catholic could be ruler of England, automatically excluding the descendants of James II by his second wife.[20]

Sau khi nước Anh nổi lên chống Vatican và thành lập Anh Giáo không được bao lâu, tại lục địa Âu Châu lại có một Phong Trào Tin Lành khác nổi lên chống Vatican. Phong trào Tin Lành này do hai nhà thần học John Calvin (1509-1564) và William Farel (1498-1566) khởi lập ở Thụy Sĩ vào khoảng năm 1537, rồi lan tràn ra nhiều nước khác ở Trung Âu, Bắc Âu và Tây Âu. Cả ba phong trào chống Vatican này (Anh Giáo, Tin Lành Luther và Tin Lành Calvin) càng ngày càng phát triển: Anh giáo bao trùm toàn thể Anh Quốc.

Tin Lành Luther và Tin Lành Calvin được nhân dân các quốc gia Trung Âu, Bắc Âu và Tây Âu nồng nhiệt tiếp đón. Không biết sự nồng nhiệt tiếp đón đạo Tin Lành của nhân dân tại các quốc gia này là vì họ nhận thấy thuyết lý Tin Lành có lý hơn thuyết lý Ki-tô La Mã hay là vì lòng căm phẫn, thù ghét và quá ghê tởm những thủ đoạn bịp bợm và chính sách tàn ngược của Vatican, giống như một người vợ bị anh chồng ác độc đối xử quá ư tàn ngược cho nên mới phải cuốn gói ra đi với hy vọng sống với bất kỳ người đàn ông tồi tệ nào khác cũng vẫn còn hơn sống với thằng chồng khốn nạn đó. Cũng vì thế, kể từ đó, chiến tranh tôn giáo giữa những người cùng thờ ông Jesus là phe Ki-tô La Mã và các phe Tin Lành trở nên vô cùng tàn khốc và hết sức dã man. Vấn đề này đều được sách sử thế giới ghi lại rõ ràng. Trong Chương 13, sách Tâm Thư Gửi Chính Quyền Việt Nam, chúng tôi có ghi lại một số những bản văn sử nói về những hành động tàn ngược và dã man của phe Ki-tô La Mã đối với những người Tin Lành ở Pháp và ở Ái Nhĩ Lan. Riêng ở Ái Nhĩ Lan, cho đến ngày nay (2009), sự thù hận và chiến tranh vẫn còn âm ỉ giữa người Tin Lành và người Ki-tô La Mã không bằng hình thức này thì cũng bằng hình thức khác.

Cho đến cuối thế kỷ 18, đại đa số nhân dân các quốc gia Trung Âu, Bắc Âu, Tây Âu theo đạo Tin Lành. Tại các quốc gia này, những người theo đạo Ki-tô La Mã trở thành thiểu số, ngoại trừ hai nước Pháp và Ba Lan. Tuy nhiên, dù là đa số người dân hai quốc gia này vẫn còn theo đạo Ki-tô La Mã, nhưng đa số những tín hữu Ki-tô La Mã ở hai quốc gia này cũng đã bắt đầu chán ghét và ghê tởm Tòa Thánh Vatican. Nhờ vậy mà Cách Mạng Pháp 1789 mới thành công dễ dàng như chúng ta đã thấy.

Ki-tô La Mã chỉ còn chiếm đa số tại ba nước ở Nam Âu là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Ý Đại Lợi mà thôi. Tuy nhiên, có rất nhiều tín đồ Ki-tô La Mã ở ba quốc gia này cũng có khuynh hướng theo Cách Mạng chống lại Vatican một cách quyết liệt. Cũng nhờ vậy mà cuộc Cách Mạng Ý 1870 mới dễ dàng thành công. Vấn đề này cũng đã được trình bày đầy đủ trong các Chương 15, 16, 17, 18, 19 và 20 trong sách Tâm Thư gửi Chính Quyền Việt Nam và trong toàn bộ Mục XXVI, Phần VII của bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã.

Thứ hai, cũng bắt đầu từ đầu thế kỷ 16, có phong trào các cường quốc Âu Châu đem quân đi đánh chiếm đất đai ở ngoài lục địa Âu Châu để làm thuộc địa hoặc là để khai thác tài nguyên và tiêu thụ hàng hóa kỹ nghệ, hoặc là để di dân.

Loại thuộc địa để khai thác tài nguyên và thị trường thêu thụ hàng hóa kỹ nghệ. Mới đầu, mẫu quốc dùng loại thuộc đia này làm thuộc địa khai thác tài nguyên và cưỡng bách người dân bản địa làm nô lệ phục dịch trong các công trường khác thác tài nguyên và các công trường xây cất dinh thự, nhà thờ, gác chuông cùng các cơ sở khác và hầu hạ họ. Cuối thế kỷ 18 sang đầu thế kỷ 19, kỹ nghệ phát triển mạnh ở Âu Châu và Bắc Mỹ, các thuộc địa của các đế quốc Âu Châu lại mang thêm tính cách là thị trường tiêu thụ hàng hóa kỹ nghệ của chính quốc và là nơi cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy kỹ nghệ tại chính quốc.

Loại thuộc địa di dân như Bắc Mỹ, Úc Châu và Nam Phi: khi Lọai thuộc địa di dân là những quốc gia bị các đế quốc chinh phục rồi chiếm luôn để đem dân đến lập nghiệp và biến thành một phần đất trong lãnh thổ của chính quốc. Đây là trường hợp Bắc Mỹ, Trung Mỹ, Nam Mỹ, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Nam Phi, v.v…. Trong trường hợp này, các quốc gia nạn nhân hoàn toàn bị xóa tên trên bản đồ thế giới.

[Liên hệ đến đề tài này, xin đọc thêm bài của tác giả khác: "Giá Như Không Có CMT8, Không Có ĐBP, Không Có 30/4..."]

THUỘC ĐỊA CỦA CÁC ĐẾ QUỐC TIN LÀNH
VÀ THUỘC ĐỊA CỦA CÁC ĐẾ QUỐC KI TÔ LA MÃ

Chúng ta lại chia các thuộc đế quốc này ra làm hai loại: Loại thuộc địa của các đế quốc mà chính quyền đế quốc theo đạo Tin Lành, và loại các thuộc địa mà các đế quốc mà những người cậm quyền theo đạo Ki-tô La Mã hay cấu kết chặt chẽ với Vatican.

A.- Loại thuộc địa của các đế quốc theo đạo Tin Lành.-

Trong công cuộc đem quân đi đánh chiếm đất đai ở ngoài lục địa Âu Châu làm thuộc địa, chính quyền các đế quốc Tin Lành có những đặc tính:

1.- Hoàn toàn hành động riêng rẽ,

2.- Không liên kết với Giáo Hội La Mã.

3.- Không có vấn đề tín đồ Tin Lành bản địa được tổ chức thành những đạo quân thứ 5 nổi lên tiếp ứng cho đoàn quân viễn chính từ chính quốc tiến đến tấn công.

4.- Không có vai trò của Giáo Hội La Mã trong bộ máy quản trị nhân dân trong các thuộc địa.

5.- Không có nhóm thiểu số tín đồ Tín Lành bản địa được:

a.- Coi là thành phần nòng cốt để bảo vệ chế độ thuộc địa,

b.- Sử dụng để đánh phá và tiêu diệt các phong trào khởi nghĩa của nhân dân bản địa vùng lên giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc.

Vì những đặc tính "không có" trên đây, cho nên khi nhân dân thuộc địa nổi lên tranh đấu đòi lại quyền độc lập, nếu chính quyền tại chính quốc thấy rằng không thể tiếp tục làm chủ nhân ông tại các thuộc địa được nữa, liền quyết định trao trả chủ quyền độc lập cho họ, tất nhiên là không có Giáo Hội Tin Lành nào níu kéo đòi đem quân đến đàn áp các phong trào kháng chiến của nhân dân bản địa, và cũng không có vấn đề nhóm tín đồ Tin Lành bản địa tìm cách năn nỉ, lạy lục để níu kéo chính quốc đem quân tái chiếm hay vận động chính quyền đế quốc khác đem quân đến giúp đỡ đưa họ lên cầm quyền để họ tiếp tục bán nước và "mở mang nước Chúa". Đây là các thuộc địa của Đế Quốc Anh và Đế Quốc Hòa Lan ở các lục địa Phi Châu, Mỹ Châu, Đại Dương Châu và Á Châu, trong đó có Ấn Độ, Miến Điện, Tích Lan, Mã Lai, Indonesia.

B.- Loại thuộc địa của đế quốc Ki-tô La Mã.-

Trong công cuộc đem quân đi đánh chiếm đất đai ở ngoài lục địa Âu Châu làm thuộc địa, chính quyền đế quốc theo đạo Ki-tô La Mã có những đặc tính:

1.- Dùng các tài liệu tình báo do Vatican và tín đồ Da-tô bản địa cung cấp.

2.- Cấu kết với Tòa Thánh Vatican thành một liên minh xâm lược.

3.- Dùng các giáo sĩ truyền giáo người Âu đã từng hoạt động tại địa phương làm thành phần trung gian để sử dụng giới tu sĩ và nhóm thiểu số tín đồ Da-tô bản địa trong các chiến dịch quân sự tấn chiếm, bình định và thiết lập bộ máy đàn áp nhân dân.

4.- Nhóm thiểu số tín đồ Da-tô bản địa được đoàn ngũ hóa, được tổ chức thành những đạo quân thứ 5 và lực lượng xung kích nằm hờ chờ sẵn khi đoàn quân viễn chinh liên minh với Vatican tiến vào thì nổi lên tiếp ứng.

5.- Vatican đã chuẩn bị đầy đủ nhân sự gồm những tín đồ Da-tô bản địa thuộc loại "thà mất nước, chứ không thà mất Chúa" làm những việc đưa đường, dẫn lối, chỉ điểm, thông ngôn, tra tấn tù nhân, lao công, thư ký và gia nhập các đạo quân đánh thuê làm các công việc canh giữ, tiếp tế, khuân vác, v.v...

6.- Nhóm thiểu số tín đồ Da-tô bản địa trở thành thành phần xã hội được chính quyền bảo hộ tin tưởng nhất, được biệt đãi và biến thành lực lượng nòng cốt để bảo vệ chế độ.

Vì cả 6 đặc tính trên đây, cho nên khi nhân dân thuộc địa nổi lên tranh đấu đòi lại quyền độc lập, thì chính Vatican và nhóm tín đồ Da-tô bản địa trở thành thế lực cương quyết sử dung bạo lực để bảo vệ chế độ và thẳng tay đàn áp các phong trào nổi dậy của nhân dân bằng bất cứ giá nào dù là dã man đế mức nào đi nữa họ cũng làm. Những hành động tàn ngược và dã man của tín đồ Da-tô trong vụ tàn sát gần 20 ngàn người Tin Lành Pháp ở St. Bartholomew trong ngày 22/8/1572, vụ tàn sát người Tin Lành Ái Nhĩ Lan vào năm 1641, vụ tàn sát hơn 700 ngàn người Do Thái Giáo, Chính Thống Giáo và Hồi Giáo ở Croatia trong những năm 1941-1945, tàn sát gần 800 ngàn người Tutsis trong năm 1994 và vai trò của Nhà Thờ Vatican cùng nhưng hành động của tín đồ Ca-tô người Việt triệt để tuân hành lệnh tuyền của Vatican để chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử từ giữa thập niên 1780 cho đến ngày 30/4/1975 và cho đến ngày nay là những bằng chứng rõ rệt nhất cho sự kiện này. Xin xem lại Chương 7 (Mục III, Phần II) sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã. Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net.

Bất kỳ thuộc địa nào nằm dưới ách thống trị của bất kỳ đế quốc xâm lược nào có cấu kiết hay liên minh với Vatican đều bị Vatican bám chặt như loài đỉa đói. Chỉ khi nào chính quyền bản địa hoàn toàn lọt vào tay Vatican qua một chính quyền đạo phiệt Da-tô bản địa mà hậu trường sân khấu chính trị là hội đồng giám mục địa phương (một nhóm cán bộ tay sai đắc lực của Vatican tại địa phương điều khiển) thì khi đó, Vatican không những không níu kéo hay van nài chính quyền đế quốc đã từng liên minh với Vatican trong việc tấn chiếm và thống trị quốc gia thuộc địa đó, mà còn xúi giục bọn tín đồ cầm quyền tìm cách tống xuất đế quốc này ra khỏi lãnh thổ hay đòi hỏi đế quốc này phải trao trả độc lập cho chính quyền bản địa tay sai của Vatican.

Tất cả các thuộc địa của các đế quốc Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp và Bỉ thuộc loại thuộc địa này.

Cũng vì thế mà hầu hết những người cầm quyền ở các quốc gia Châu Mỹ La-tinh, ở Phi Luật Tân, ở các cựu thuộc địa của Bồ Đào Nha, của Bỉ, và của Pháp tại Phi Châu và tại Việt Nam đều trở thành những tên bạo chúa độc ác nhất trong lịch sử nhân loại có tên trong cuốn Tyrants History's 100 Most Evil Despots & Dictators (London: Arcturus, 2004) của sử gia Nigel Cawthorne, và cũng vì thế mà trong số 100 tên bạo chúa độc ác nhất trong lịch sử nhân loại được nêu lên trong cuốn sách sử này, có tới hơn 60% là các bạo chúa Ki-tô La Mã, trong đó hầu hết là những bạo chúa Ki-tô La Mã ở trong các cựu thuộc địa của các đế quốc thực dân xâm lược Âu Châu có cấu kết với Vatican như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp và Bỉ.

Việt Nam là thuộc địa của Liên Minh Pháp - Vatican và tất nhiên là ở vào trường hợp bị Vatican bám chặt như loài đỉa đói. Vì thế mà nhân dân Việt Nam đã phải chiến đấu trong những cuộc chiến vô cùng gian khổ, cực kỳ khó khăn và kéo dài cả một thế kỷ từ 1858 cho đến ngày 30/4/1975 mới có thể tống cổ được thằng giặc Vatican ra khỏi đất nước. Nếu không chiến đấu như vậy, thì Việt Nam đã trở thành một quốc gia giống như Phi Luật Tân hay các quốc gia Châu Mỹ La-tinh, và trong cuốn Tyrants History's 100 Most Evil Despots & Dictators trên đây của sử gia Nigel Cawthorne không phải chỉ có một thằng phản thần tam đại Việt gia Da-tô Ngô Đình Diệm là người Việt Nam ở trong đó, mà còn có thêm một vài tên bạo chúa Da-tô người Việt Nam khác nữa.

Hy vọng phần trình bày trên đây là những lời phản bác rõ ràng để trả lời những người đưa ra luận điệu cho rằng "không cần phải phát động chiến tranh làm tốn phí cả 4 hay 5 triệu sinh linh, thì rồi đến lúc nào đó, Pháp cũng phải trao trả lại chủ quyền độc lập cho dân ta như người Anh đã trả lại chủ quyền độc lập cho Ấn Độ..."

KẾT LUẬN CHUNG:

Trên đây là kế sách của Giáo Hội La Mã về chủ trương hủy diệt các tôn giáo cổ truyền của các dân tộc Đông Phương cũng như chủ trương phỉ báng và hủy diệt những đại chiến công của các đại anh hùng dân tộc ta và chủ truơng triệt hạ uy tín của danh nhân vĩ nhân, chính khách và các nhà viết sử có những tác phầm nói lên những việc làm bất chính của Giáo Hội trong gần hai ngàn năm qua.

Đọc những bản văn, các tài liệu và các tác phẩm của những tín hữu Ki-tô nói về các danh nhân vĩ nhân mà chúng tôi đã nêu lên ở trên hoặc là các nhà viết sử người Việt trong những năm sau 1963 ở miền Nam Việt Nam và ở hải ngọai sau năm 1975, chúng ta sẽ thấy rõ vấn đề này. Những bản văn được viết ra nhằm để phỉ báng và triệt hạ uy tín Đỗ Mậu (tác giả cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi) trong các cuốn Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan (Fall Church, VA: Alpha, 1991) của Linh Mục Vũ Đình Hoạt, Việt Nam Chính Sử (Fall Church, VA: Alpha, 1992) của con chiên Nguyễn Văn Chức, trong một loạt bài viết của con chiên Sức Mấy Đinh Từ Thức đăng trong nhiều số báo Văn Nghệ Tiền Phong từ cuối năm 1987 cho đến hết năm 1989, v.v.. những bản văn đăng trên các tờ báo giấy lá cải và trên các mạng điện tử ở hải ngọai của các  con chiên người Việt để phỉ báng tác giả Trần Chung Ngọc và cá nhân người viết cũng đều nằm ở trong kế sách này của Giáo Hội La Mã.

- Hết -

CHÚ THÍCH


[20] Arnold Schrier & T. Walter Wallbank, Living World History (Glenview, Illinois: Scott Foresman Company, 1974), p. 398.

 


Bài cùng đề tài liên hệ:

- Sách lược làm giảm thiểu đại công nghiệp của Cụ Hồ Chí Minh (Nguyễn Mạnh Quang)

- Xin Đừng Vô Cảm Với Quá Khứ (Trần Thiên Lương)

- Bài trên báo Tuổi Trẻ: Một trách nhiệm chúng ta không thể chối bỏ."