Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam Phụ Lục TS Nguyễn Xuân Thọ https://sachhiem.net/NGXUANTHO/BuocMoDau_21.php
Hiệp Ước Giữa Vua Pháp Và Vua Nam Kỳ (Hiệp ước Versailles, ngày 23 tháng 11 năm 1787) Nguyễn Ánh, Quốc vương Nam kỳ, bị tước mất hết đất đai sông núi và đang ở tình thế cần thiết phải dùng sức mạnh vũ khí để khôi phục lại, đã phái sang Pháp, ngài Pierre-Joseph-George Pigneau de Bêhaine, Giám mục Adran, với ý định yêu cầu sự giúp đỡ và viện trợ của Đức vua rất kính Chúa; và Hoàng thượng, tin tưởng sự nghiệp của Quốc vương Nam Kỳ là chính đáng và muốn tỏ ra với nhà vua một dấu hiệu rõ ràng về tình hữu nghị cũng như tinh thần yêu công lý của mình, đã quyết định chấp nhận một cách thuận lợi lời yêu cầu gửi tới Hoàng thượng. Do đó, Hoàng thượng đã ủy thác cho ngài bá tước De Montmorin, thống chế các doanh trại và quân đội, huân chương nhà vua và huân chương “Tấm lông cừu vàng”, cố vấn toàn diện của Hoàng thượng, Bộ trưởng và Quốc vụ khanh về các vấn đề mệnh lệnh và tài chính, phụ trách lĩnh vực ngoại giao, thảo luận và quyết định cùng với, Giám mục Adran, tính chất, phạm vi và những điều kiệncủa những khoản viện trợ sẽ cung cấp [cho vua Nam kỳ]; và hai đại sứ toàn quyền, sau khi đã được hợp pháp hóa, bá tước Montmorin bằng cách thông báo quyền hành và Giám mục Adran bằng cách xuất trình chiếc đại ấn của vương quốc Nam kỳ cùng với biên bảo thảo luận của Đại hội đồng vương quốc, đã thỏa thuận với nhau về những điểm và điều khoản sau đây: Điều 1: Đức vua rất kính Chúa hứa hẹn và cam kết sẽ giúp đỡ bằng cách hữu hiệu nhất những cố gắng mà Quốc vương Nam kỳ quyết tâm thực hiện nhằm chiếm lại và hưởng thụ những đất đai lãnh thổ của mình. Điều 2: Nhằm mục đích ấy, Đức vua rất kính Chúa sẽ gửi ngay sang bờ biển Nam kỳ, bằng kinh phí riêng, bốn tàu chiến và binh đội quân gồm một nghìn hai trăm bộ binh, hai trăm pháo binh và hai trăm năm mươi người Phi da đen. Các đội quân này sẽ mang theo đầy đủ những phương tiện chiến tranh, quân trang, quân dụng… và đích danh một đơn vị pháp binh có kinh nghiệm phục vụ chiến dịch. Điều 3: Quốc vương Nam kỳ, trong lúc chờ đợi việc quan trọng mà Đức vua rất kính Chúa sẵn sàng giúp đỡ, nhượng cho Người và triều đại nước Pháp, quyền sở hữu tuyệt đối cũng như chủ quyền toàn vẹn của hòn đảo làm thành hải cảng chính của Nam kỳ là Hội An và người châu Âu gọi là Touranc và quyền sở hữu cũng như chủ quyền đó sẽ vĩnh viễn thuộc về nước Pháp không bao giờ thay đổi nữa ngay lúc quân đội Pháp chiếm đóng hòn đảo nói trên. Điều 4: Ngoài ra, hai bên thỏa thuận rằng Đức vua rất kính Chúa sẽ cùng với Quốc vương Nam kỳ song song sở hữu cảng Hội An nói trên và người Pháp cũng sẽ có thể xây dựng trên đất liền những cơ sở mà họ xét thấy cần thiết cho việc giao thông đường biển và sự thương mại của họ, cũng như để lau chùi giữ gìn tàu bè của họ và cả đóng tàu mới nữa. Còn về việc cảnh sát cửa biển, nó sẽ được giải quyết tại chỗ bằng một thỏa ước riêng biệt. Điều 5: Đức vua rất kính Chúa cũng sẽ được quyền sở hữu và chủ quyền về Côn Đảo. Điều 6: Các thần dân của Đức vua rất kính Chúa sẽ được quyền hoàn toàn tự do buôn bán ở tại tất cả mọi nơi trên lãnh thổ Quốc vương Nam kỳ, loại trừ tất cả các nước châu Âu khác. Họ có thể vì mục đích đó đi lại và lưu trú ự do, không bị ai ngăn trở và không phải trả bất cứ một thứ lệ phí nào về con người của họ, tất nhiên với điều kiện là họ có mang theo mình giấy thông hành do sĩ quan chỉ huy đảo Hội An cấp. Họ có thể nhập cảng mọi loại hàng hóa châu Âu và mọi nước trên thế giới, trừ những thứ hàng hóa bị cấm, họ cũng có thể xuất cảng mọi thứ lương thực và hàng hoá trong nước và của các nước láng giềng không loại trừ một thứ nào; họ sẽ không phải trả một thứ thuế hàng ra hàng vào nào ngoài những thuế mà người nước trả và những thứ thuế này, không được phép nâng lên trong bất cứ trường hợp nào và dưới bất cứ danh nghĩa nào. Ngoài ra, còn thỏa thuận rằng bất cứ một tàu thủy nào, dù là tàu buôn hay tàu chiến, chỉ được chấp nhận vào lãnh thổ Nam kỳ nếu có cắm cờ Pháp và có giấy thông hành của Pháp. Điều 7: Chánh phủ Nam kỳ sẽ dành cho thần dân Đức vua rất kính Chúa một sự bảo hộ có hiệu quả nhất cho tự do và an ninh thân thể cũng như tài sản của họ, và trong trường hợp khó khăn hoặc khiếu nại thì chánh phủ Nam kỳ sẽ xét xử cho họ một cách công bằng và nhanh chóng nhất. Điều 8: Trong trường hợp Đức vua rất kính Chúa bị tấn công hoặc bị đe dọa bởi bất cứ một cường quốc nào liên quan đến quyền hưởng thụ các đảo Hội An và Côn Đảo, và trong trường hợp Đức vua rất kính Chúa xâm chiếm một số nước châu Âu hoặc châu Á nào, Quốc vương Nam kỳ cam kết sẽ viện trợ cho Người hoặc bộ binh hoặc lính thủy, lương thực, tàu thuyền; những món viện trợ này sẽ được cung cấp trong thời hạn ba tháng sau khi có thư yêu cầu nhưng nó không thể mang sử dụng xa hơn quân đảo Moluques, quần đảo la Sonde và eo biển Malacca. Vấn đề bảo quản thì do Quốc vương cung cấp chịu trách nhiệm. Điều 9: Đáp lại lời cam kết nêu lên trong điều khoản trước, Đức vua rất kính Chúa có trách nhiệm viện trợ cho Quốc vương Nam kỳ, mỗi khi có sự lộn xộn trong vấn đề sở hữu các đất đai lãnh thổ củamình, những viện trợ này sẽ tỷ lệ với nhu cầu của hoàn cảnh; tuy nhiên không có trường hợp nào đi qua những điều nêu lên trong Điều 2 của Hiệp ước hiện thành. Điều 10: Hiệp ước này sẽ được chuẩn y bởi hai vị, Quốc vương ký kết hiệp ước và sự chuẩn y sẽ được trao đởi sớm nhất là trong khoảng thời gian một năm nếu có thể. Để làm tin, chúng tôi đại diện đặc mệnh toàn quyền đã ký vào văn bản hiện tại của hiệp ước và đóng dấu huy hiệu vũ khí của chúng tôi. Làm tại Versailles, ngày hai mươi tám tháng Mười một năm một ngàn bảy trăm tám bảy (28/11/1787) De Montmorin Giám mục Adran
ĐIỀU KHOẢN TÁCH RIÊNG Nhằm mục đích đề phòng trước những khó khăn và hiểu lầm liên quan đến những cơ sở mà Đức vua rất kính Chúa được phép xây dựng trên đất liền vì lợi ích của hàng hải và thương mại, hai bên đã thỏa thuận với nhà vua Nam kỳ rằng: những cơ sở ấy sẽ là tài sản và sẽ thuộc quyền sở hữu trọn vẹn của Đức vua rất kính Chúa và việc xét xử, cảnh sát và bảo vệ và mọi hành động chính quyền khác, không trừ trường hợp nào, sẽ được thi hành ở đó đầu tiên là nhân danh Người. Để ngăn chặn những chuyện lạm dụng mà những cơ sở nói trên có thể gây ra, hai bên đã thỏa thuận trên giấy trắng mực đen rằng: ở đây người ta sẽ không tiếp nhận bất cứ người Nam kỳ nào đang bị truy nã vì phạm pháp và tất cả những người nào phạm pháp đã có thể len lỏi vào đây đều sẽ bị dẫn độ theo lời yêu cầu đầu tiên của chánh phủ. Hai bên cũng đã thỏa thuận rằng tất cả những người Pháp phản bội [có mặt trên lãnh thổ Nam kỳ ngoài Hội An và Côn Đảo] đều sẽ bị dẫn độ theo yêu cầu đầu tiên của viên sĩ quan chỉ huy Hội An và viên sĩ quan chỉ huy Côn Đảo. Điều khoản tách riêng này có hiệu lực và giá trị như một điều khoản ghi đúng từng chữ từng lời nằm trong văn bản của bản Hiệp ước này. Để làm tin, chúng tôi đại diện đặc mệnh toàn quyền đã ký vào văn bản hiện tại của Hiệp ước và đóng dấu huy hiệu vũ khí của chúng tôi. Làm tại Versailles, ngày hai mươi tám tháng Mười một năm một ngàn bảy trăm tám bảy (28/11/1787) De Montmorin Giám mục Adran Tuyên bố của Giám mục Adran được Quốc vương Nam kỳ ủy quyền về việc này, khẳng định rằng nhà vua sẽ chịu trách nhiệm về những chi phí, xây dựng đầu tiên mà Đức vua rất kính Chúa có thể thực hiện tại các đảo Hội An, Côn Đảo hoặc trên đất liền của Vương quốc Nam kỳ. Mặc dù trong những thỏa ước ký kết ngày hôm nay, không nói đến những khoản chi phí xây dựng những cơ sở mà Đức vua rất kính Chúa có thể thực hiện hoặc trên các đảo Hội An và Côn Đảo, hoặc trên đất lền của vương quốc Nam kỳ, người ký tên dưới đây, căn cứ vài giấy ủy quyền mang theo, tuyên bố rằng: Quốc vương Nam kỳ sẽ chịu trách nhiệm, hoặc bằng sự cung cấp hiện vật, hoặc bằng tiền sẽ tính theo giá cả, về những chi phí đầu tiên để xây dựng những cơ sở cần thiết cho sự an ninh và sự bảo vệ như công sự, doanh trại, bệnh viện, nhà kho, nhà binh lính và nhà ở của người chỉ huy. Để làm tin, tôi đã ký bản tuyên bố này và đóng dấu vũ khí của tôi với lời hứa sẽ xin được sự phê chuẩn của Quốc vương Nam kỳ. Làm tại Versailles, ngày hai mươi tám tháng Mười một năm một ngàn bảy trăm tám bảy (28/11/1787)(2)
HIỆP ƯỚC SÀI GÒN NGÀY 5 THÁNG 6 NĂM 1862(3) Hôm nay, các Quốc vương: Napoléon III, Hoàng đế nước Pháp Isabelle II, Nữ hoàng Tây Ban Nha và Tự Đức, Quốc vương nước An Nam. Thiết tha mong muốn từ đây sẽ có một sự hòa hợp hoàn hảo nhất ngự trị giữa ba nước Pháp, Tây Ban Nha và An Nam và đồng thời mong muốn không bao giờ quan hệ hữu nghị và hòa bình giữa ba nước này bị tan vỡ. Vì những mục đích ấy: Chúng tôi, Louis-Adolphe Bonard, Chuẩn Đô đốc, tư lệnh trưởng đạo quân viễn chinh Pháp - Tây Ban Nha tại Nam kỳ, đại diện đặc mệnh toàn quyền của Hoàng đế Pháp, Huân chương Bắc đẩu bội tinh hạng ba và Huân chương Stanislas Nga quốc, Huân chương hạng ba Saint Grégoire đại La mã và Huân chương Charles III Tây Ban Nha. Don Carlos Palanca, đại tá tổng chỉ huy đội quân viễn chinh Tây Ban Nha tại Nam kỳ, Huân chương hạng ba hoàng gia Mỹ Isabelle ngoan đạo và Huân chương Bắc đẩu bội tinh hạng ba, Huân chương hoàng gia và quân sự Thánh Ferdinand và Thánh Hermenégilde, đại diện đặc mệnh toàn quyền của Nữ hoàng rất ngoan đạo Isabelle II, Nữ hoàng các nước Tây Ban Nha Và chúng tôi, Phan Thanh Giản, phó Ngự sử, đại thần vương quốc An Nam, Thượng thư bộ Lễ, phái viên đặc mệnh toàn quyền củaĐức vua Tự Đức, trợ tá có: Chúng tôi, Lâm Duy Hiệp, Thượng thư bộ Binh, phái viên đặc mệnh toàn quyền của Đức vua Tự Đức. Tất cả được ủy nhiệm toàn quyền thương thuyết hòa bình và hành động theo lương tâm, ý chí của mình, đã họp với nhau và sau khi trao đổi các ủy nhiệm thư mà chúng tôi xác nhận hoàn toàn hợp lệ. Chúng tôi đã nhất trí thoả thuận với nhau về mỗi điều khoản sau đây thành nội dung bản hiệp ước hoà bình và hữu nghị này: Điều 1: Từ đây về sau sẽ tồn tại một nền hoà bình bất tuyệt giữa Hoàng đế nước Pháp và Nữ hoàng Tây Ban Nha một bên và Quốc vương An Nam một bên; tình hữu nghị sẽ toàn vẹn và cũng bất tuyệt giữa những người dân ba nước tại bất cứ nơi nào họ ở. Điều 2: Những người dân của hai nước Pháp và Tây Ban Nha có thể hành đạo Kitô trên nước An Nam và dân chúng nước An Nam, không phân biệt, ai muốn theo đạo Kitô cũng đều được theo tự do và không ai ép buộc; nhưng không ai được phép cưỡng bức phải theo đạo những người không muốn theo. Điều 3: Toàn vẹn ba tỉnh Biên Hoà, Gia Định, Định Tường (Mỹ Tho) cũng như đảo Côn Lôn được nhượng hẳn toàn vẹn chủ quyền cho Hoàng đế nước Pháp, theo bản hiệp ước này. Ngoài ra, những thương nhân Pháp có thể tự do buôn bán và tự do đi lại trên bất cứ loại tài thuyền nào, trên con sông lớn Campuchia và trên mọi chi lưu của con sông đó; các tàu chiến Pháp được phái đi tuần tiểu trên con sông ấy và các chi lưu của nó cũng đều được quyền tự do đi lại như thế. Điều 4: Một khi hòa bình được lập lại rồi, nếu có một nước ngoài muốn dùng cách khiêu khích hoặc cách ký kết hiệp ước để được nhượng một phần lãnh thổ, Quốc vương An Nam sẽ cử một phái viên báo cho đặc phái viên Pháp biết để đệ trình trường hợp đã xảy ra và để cho Hoàng đế nước Pháp hoàn toàn tự do sẽ giúp đỡ hay không giúpđỡ vương quốc An Nam; nhưng nếu trong hiệp ước ký kết với nước ngoài đó có vấn đề nhượng một phần lãnh thổ thì việc nhượng đất đó chỉ có thể được phê chuẩn với sự đồng ý của Hoàng đế Pháp. Điều 5: Những người dân của đế quốc Pháp và vương quốc Tây Ban Nha sẽ được tự do buôn bán ở ba cảng Đà Nẵng, Ba Lạt và Quảng An. Các người dân An Nam cũng được tự do buôn bản tại các cửa biển của nước Pháp và Tây Ban Nha nhưng với điều kiện phải tuân theo pháp luật hiện hành những nơi đó. Nếu một nước ngoài buôn bán với nước An Nam thì những người dân nước ngoài ấy không thể hưởng môt chế độ bảo vệ đầy đủ hơn chính người dân Pháp và Tây Ban Nha được, và nếu nước ngoài đó nhận được một sự thuận lợi nào đó ở An Nam thì thuận lợi đó cũng không thể lớn hơn những cái đã dành cho nước Pháp và Tây Ban Nha. Điều 6: Hòa bình đã thiết lập rồi, nếu cần, giải quyết một vấn đề gì quan trọng thì Quốc vương ba nước có thể cử đại diện của mình đến một trong ba thủ đô để cùng nhau giải quyết những vấn đề ấy. Nếu, tuy không có gì quan trọng mà một trong ba vị quốc vương có nhã ý muốn gửi những lời chào mừng cho hai vị kia, thì cũng có thể cử một đại diện đi. Chiếc tàu của phái viên Pháp hoặc Tây Ban Nha sẽ đậu ở bến cảng Đà Năng và phái viên sẽ đi đường bộ từ Đà Nẵng ra Huế, ở đó phái viên sẽ được nhà vua nước An Nam tiếp. Điều 7: Hòa bình đã được lập lại rồi, sự thù địch hoàn toàn không còn nữa, cho nên Hoàng đế nước Pháp đại xá cho những người dân An Nam, quân nhân hay thường dân của nước An Nam bị liên luỵ trong chiến tranh, và tài sản của họ bị tạm giữ nay được trả lại. Quốc vương An Nam cũng đại xá chung cho những người dân của mình đã hàng phục chính quyền Pháp, đại xá đồng thời bao trùm cả bản thân và gia đình những người dân đó. Điều 8: Quốc vương An Nam phải trả một khoản bồi thường là 4 triệu đô la trong thời hạn 10 năm, tức mỗi năm 400.000 đô la giao cho phái viên Hoàng đế Pháp tại Sài Gòn. Số tiền này dùng để bồi thường lại cho chiến phí của Pháp và Tây Ban Nha. Số 100.000 quan tiền đã giao sẽ được trừ đi. Vì nước An Nam không có đô la, đồng đô la sẽ được biểu hiện bằng giá trị 72% lượng bạc. Điều 9: Nếu có tên côn đồ, kẻ cướp hoặc gây rối nào người An Nam có những hành động cướp giật hay gây rối trên lãnh thổ Pháp, hoặc có một người dân châu Âu có một hành vi phạm pháp nào đó chạy sang lãnh thổ An Nam, ngay sau khi nhà chức Pháp thông báo cho nhà chức trách An Nam biết, nhà chức trách An Nam phải cố gắng bắt giữ tên tội phạm hòng giao nó lại cho nhà chức trách Pháp. Cũng sẽ được xử lý như trên, những tên côn đồ, kẻ cướp hoặc bọn gieo rắc rối loạn người An Nam sau khi có những hành động phạm pháp, đã chạy vào lãnh thổ Pháp. Điều 10: Dân cư ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên có thể buôn bán tự do trên ba tỉnh thuộc Pháp miễn tuân theo luật lệ hiện hành; nhưng những chuyến tàu thuyên chuyển quân, vũ khí và quân nhu hoặc lương thực giữa ba tỉnh nói trên của Nam kỳ thì phải thực hiện duy nhất bằng đường biển. Tuy nhiên, Hoàng đế Pháp đồng ý cho những chuyến hàng đó vào Campuchia qua lạch Mỹ Tho gọi là Cửa Tiền (?) nhưng với điều kiện là nhà chức trách An Nam phải báo trước với đại diện của Hoàng đế Pháp để được cấp một giấy thông hành. Nếu bỏ qua thủ tục này và có một đoàn tàu thuyền nào như vậy đi vào mà không có giấy phép thì cả đoàn tàu thuyền đó và toàn bộ nội dung nó chuyên chở sẽ bị bắt một cách đúng đắn và các vật phẩm sẽ bị phá huỷ. Điều 11: Thành nội của Vĩnh Long sẽ được quân đội Pháp bảo vệ cho đến khi có lệnh mới mà không cản trở gì đến hoạt động của các quan lại An Nam. Nó sẽ được trả lại cho Quốc vương An Nam ngay sau khi dẹp xong cuộc nổi loạn đang xảy ra theo lệnh của Quốc vương An Nam tại các tỉnh Gia Định và Định Tường và khi các thủ lĩnh của những cuộc nổi dậy đó đi rồi, khu vực này trở lại bình yêu quy phục đúng như phải có trong một nước hoà bình. Điều 12: Hiệp ước này được ký kết giữa ba nước và các đại diện đặc mệnh toàn quyền của ba nước đã ký và đóng dấu của mình vào rồi, mỗi người tường trình lại cho Quốc vương của mình, và bắt đầu từ hôm nay, ngày ký hiệp ước, trong khoảng thời gian một năm, sau kho ba Quốc vương đã xem xét và phê chuẩn hiệp ước nói trên, lễ trao đổi phê chuẩn sẽ diễn ra tại kinh đô vương quốc An Nam. Để làm tin, các đại diện đặc mệnh toàn quyền ba nước đã nói ở phần trên đã ký bản hiệp ước đầu và đóng dấu của mình vào bản hiệp ước. Làm tại Sài Gòn, năm một ngàn tám trăm sáu mươi hai, ngày năm tháng Sáu, Tự Đức năm thứ 15, ngày 5 tháng 9 (5/9/1862). Bonard Carlos Palanca Gutierrez Phan Thanh Giản Lâm Duy Hiệp
HIỆP ƯỚC AUBARET NGÀY 15 THÁNG 7 NĂM 1864, HUẾ(4) Sau khi Đức Hoàng đế nước Pháp đã chấp thuận yêu cầu của Quốc vương An Nam - và để có một bằng chứng hùng hồn về lòng tốt của người về việc sửa đổi các điều khoản của hiệp ước hòa bình và hữu nghị đã được ký kết tại Sài Gòn ngày 5/6/1862. Các vị Quốc vương nói trên đã chỉ định các đại sứ đặc mệnh toàn quyền của mình như sau: Hoàng đế nước Pháp: thiếu tá Louis-Gabriel Aubaret, Huân chương Bắc đẩu bội tinh hạng nhất Và Quốc vương An Nam: Phan Thanh Giản, Phó Ngự sử đại thần của vương quốc, Thượng thư bộ Hộ, trợ tá có Trần Tiễn Thành, Thượng thư bộ Binh và Phan Huy Ích Thượng thư bộ Hình. Các vị đại thần này sau khi đã trao đổi thư ủy nhiệm toàn quyền, đã nhất trí quyết định và ký những điều khoản sau đây: Điều 1: Hoàng đế nước Pháp đồng ý trả lại cho Quốc vương nước An Nam sự lãnh đạo và quản trị ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường mà toàn vẹn lãnh thổ đã nhượng cho nước Pháp với toàn vẹn chủ quyền qua Hiệp ước ngày 5/6/1862. Điều 2: Những địa điểm chỉ rõ dưới đây được miễn trả lại mà vẫn tiếp tục đặt dưới sự đô hộ và sự lãnh đạo trực tiếp của nước Pháp: 1) Thành phố Sài Gòn và vùng đất bao quanh, giới hạn phía Bắc bởi Rạch Trà, phía Tây bởi một đường đi từ đồn Rạch Trà qua đồn Bà Hôm cho đến Chợ Đệm và phía Nam bởi con sông Rạch Giơi (Chợ Đệm là một điểm dùng để chỉ giới hạn chứ không nằm trong lãnh thổ). Con kênh và thành phố người Hoa, Chợ Lớn, cùng với thành Tuân Ken đều nằm trong những đường giới hạn đó. Đối diện với phần đất nằm trong hình bình hành vừa được chỉ ra đó, một dãy đất rộng một nghìn mét kể từ bờ tả ngọn con sông kéo đến suốt cả chiều dài đã định rõ như trên, kể cả điểm gọi là Tam Giang. 2) Đồn Thủ Dầu Một với một đường bán kính đủ để tránh mọi cuộc tấn công. 3) Thành Mỹ Tho và vùng đất bao quanh, giới hạn phía Tây và phía Bắc bởi con kênh Xoi Mút cho đến tận chỗ cuối cùng mà con kênh ấy chảy vào con kênh của đồn; phía đồng băng một con đường đi từ đầu Rạch Kan thẳng đến chỗ kênh Xoi Mút chảy vào kênh Đồn. Thành Mỹ Tho cũ nằm trong giới hạn này. Những cù lao nhỏ nằm trước mặt Mỹ Tho cũng nằm dưới sự thống trị của Pháp. 4) Dòng kênh Đồn cũng như các dòng kênh Bo Bo và Bến Lức cho đến thành phố người Hoa nằm toàn bộ dưới sự thống trị của chánh phủ Pháp và chánh phủ Pháp sẽ không cho thông dòng. 5) Núi Gành Ray, bao gồm cả Vũng Tàu; 6) Con sông Sài Gòn, chỗ thuyền đậu của vũng Gành Ray và của cảng Cần Giờ; 7) Cù lao Núi Nưa nằm trong vũng Gành Ray; 8) Những con lạch chảy về Mỹ Tho gọi là Cửa Tiền và Cửa Đại. Để đảm bảo việc kiểm soát và bảo vệ con sông lớn và những con lạch đã chỉ rõ trên đây, chánh phủ Pháp sẽ tự do xây dựng những công sự nào xét thấy cần thiết, sau này, trên hữu ngạn sông Sài Gòn và ở những con của Campuchia chỉ rõ trong mục thứ 8. Sau cùng, chánh phủ Pháp tự dành quyền đặt những kho than được củng cố và bảo vệ đầy đủ ở Mũi Cổ Chiên gọi là Vàm Tuân và ở mũi Vàm Nao 9) Đảo Côn Lôn Điều 3: Các tàu chiến và tàu buôn Pháp giữ quyền đi lại tự do không ai cản trở trên con sông lớn của Campuchia và trên mọi chỉ lưu của nó. Cũng sẽ được mở cửa cho tàu chiến và tàu buôn Pháp: sông Sài Gòn trên toàn bộ dòng chảy của nó từ phía trên Thủ Dầu Một, sông Soài Rạp, sông Vàm Cỏ lớn, sông Vàm Cỏ Đông và Vàm cỏ Tây, sông Biên Hòa trên toàn bộ dòng chảy của nó và sau cùng là Rạch Phước Lộc và Rạch Cá cho đến thành phố người Hoa. Đổi lại, những tàu thuyền Việt Nam mọi cỡ cũng được tự do đi lại không có gì ngăn cản trên những con sông và những con lạch và cửa sông thuộc sở hữu một mình nước Pháp. Nếu có một tàu thuyền nào chở vũ khí hoặc dụng cụ chiến tranh phục vụ cho chánh phủ An Nam thì phải báo trước với nhà chức trách Pháp để được cấp giấy thông hành. Dĩ nhiên chánh phủ Pháp sẽ có quyền, bằng cách báo cho nhà chức trách An Nam và trong trường hợp cần thiết, đưa vào những lãnh thổ đã được trả lại cho nhà chức trách An Nam và trong trường hợp cần thiết, đưa vào những lãnh thổ đã được trả lại cho nhà nước An Nam những quân số và những thiết bị chiến tranh dùng để thay quân và tiếp tế cho những nơi mà nó dành quyền chiếm đóng, Điều 4: Đáp lại việc được trao trả ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, nhà vua an Nam cam kết cho bản thân và cho cả những người kế ngôi, thừa nhận nền bảo hộ của nước Pháp trên toàn bộ cả sáu tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Và cũng dĩ nhiên chế độ bảo hộ ấy không kéo theo một ý niệm “chư hầu” nào cả. Nhà vua An Nam cũng từ bỏ, với tư cách là nhu cầu, những quyền “bá chủ” mà vương quốc An Nam có thể có đối với vương quốc Campuchia trước khi nước Pháp chiếm đóng một bộ phận của xứ Hạ Nam kỳ. Điều 5: Hoàng đế nước Pháp sẽ giúp đỡ nhà vua An Nam đẩy lùi những cuộc tiến công bất hợp lý có thể xảy ra của bên ngoài đối với Hạ Nam kỳ. Điều 6: Về phía mình, nhà vua An Nam cam kết sẽ góp sức giúp nước Pháp xây dựng và bảo quản tốt những cơ quan quân sự và thương mại mà Pháp sẽ thiết lập tại những địa điểm thuộc quyền sở hữu của mình. Cũng như vậy, chánh phủ An Nam sẽ đặt dưới quyền sử dụng nhà chức trách Pháp với một số lương công bằng hợp lý, một số những người thợ cần thiết cho việc thực hiện các công trình. Chánh phủ An Nam cũng sẽ ra lệnh cung cấp cho người Pháp, theo giá thành, những nguyên vật liệu và những mặt hàng thiết yếu cho việc bảo quản và nuôi dưỡng quân đội và dân thường Pháp được phép ngụ tại các cơ quan của chúng ta. Điều 7: Những quan hệ hàng hải và buôn bán của nước Pháp và vương quốc An Nam sẽ được giải quyết bằng một thỏa ước đặc biệt. Trong lúc chờ đợi ký kết và đưa vào thực hiện bản thỏa ước đó, người Pháp được quyền tự do buôn bán trên mọi cửa biển mà điều 3 của Hiệp ước này đã cam kết cho tàu bè Pháp được tự do ra vào. Điều 8: Những người dân Pháp cũng có thể vào vương quốc Campuchia bằng con đường nào họ muốn để buôn bán tự do thoải mái. Điều 9: Ba cảng Đà Nẵng, Ba Lạt và Quảng Yên vẫn tiếp tục mở cửa cho việc buôn bán của Pháp. Điều 10: Chánh phủ An Nam và các nhà chức trách thuộc quyền, phải áp dụng mọi biện pháp cần thiết để tạo mọi dễ dàng và bảo đảm cho sự vận chuyển và tiêu thụ các sản phẩm của vùng này bằng những con đường tự nhiên của Mỹ Tho và của Sài Gòn. Sẽ cấm vĩnh viễn không được đào thêm kênh hoặc xây dựng những công trình trên con sông của Campuchia nhằm mục đích làm đổi hướng việc buôn bán qua kênh Đồn và kênh Bo Bo về Chợ Lớn. Điều 11: Mức thuế hàng hóa ra vào cũng như thuế trọng tải thuyền bè có thể thu cho cả hai chánh phủ sẽ được quy định trong một bản hiệp định thương mại và hàng hải bổ sung cho các điều khoản của hiệp ước này. Trong lúc chờ đợi, giữa Hoàng đế nước Pháp và Quốc vương An Nam đã thỏa thuận mức thuế hải quan xuất khẩu hay nhập khẩu không được quá 5% giá trị hàng hóa nhập hay xuất, cũng không được đánh thêm phụ thu trong bất cứ trường hợp nào. Những hàng hóa quá cảnh Sài Gòn và Mỹ Tho để đi Campuchia sẽ không phải đóng thuế hải quan cho chánh phủ An Nam. Hai bên cũng đã thỏa thuận rằng các tàu bè Pháp và An Nam được hoàn toàn miễn thuế hàng hải tại các cửa biển, sông lớn và sông nhỏ xứ hạ Nam kỳ. Điều 12: Nếu chánh phủ hoặc tổ chức thương mại Pháp biết rằng tại khu rừng nào đó của Hạ Nam kỳ có loại gỗ xây dựng tốt và muốn có được những loại gỗ đó, thì họ sẽ xin với nhà chức trách An Nam ở địa phương cho họ được mọi dễ dàng trong việc mua những loại gỗ ấy theo giá thảo luận sau. Còn những mỏ than đá nằm tại những vùng nào đó của vương quốc An Nam mà chánh phủ hoặc tổ chức thương mại Pháp yêu cầu được khai thác thì sau khi đã biết chức trách An Nam sẽ tạo mọi sự dễ dàng cho việc khai thác và sẽ cho phép thuê người An Nam làm việc khai mỏ. Điều 13: Những người dân của Hoàng đế nước Pháp cư trú tại các tỉnh Gia Định và Định Tường tại Hạ Nam kỳ hoặc tại các cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt và Quảng Yên, muốn đi đến các nơi trong nội địa vương quốc An Nam để mua sắm một vài sản vật địa phương trước hết phải có giấy thông hành; thiếu giấy thông hành thì họ không thể đi được. Giấy thông hành phải viết bằng tiếng Pháp và tiếng Trung Quốc, do nhà chức trách Pháp cấp và được các nhà chức trách An Nam ký tên và đóng dấu thị thực. Mọi người Pháp có giấy thông hành phải trình diện với địa phương để các nhà chức trách địa phương có thể bảo vệ cho họ về tính mạng cũng như tài sản. Công việc mua bán xong xuôi, họ sẽ trở lại một trong những địa điểm nói trên như là nơi họ cư trú. Trong trường hợp một người Pháp đi lại trong nội địa nước Việt Nam mà bị bọn lưu manh cướp giật mất tài sản, nếu người ta không bắt được bọn tội phạm và thu hồi được toàn bộ tài sản bị cướp giật thì các quan chức An Nam sẽ phải chịu hình phạt theo luật lệ quy định trong những trường hợp tương tự, nhưng họ không thể chịu trách nhiệm về phương diện tài chính Điều 14: Những người dân của Hoàng đế Pháp có thể theo đạo Kitô trên toàn bộ lãnh thổ nước An Nam. Các giáo sĩ Pháp có giấy thông hành như đã nói ở điều trên đây, và những giấy thông hành chỉ rõ họ sẽ vào An Nam bằng cửa biển nào và họ đến cư trú tại đây, sau khi giấy thông hành đã được đóng dấu thị thực của tỉnh trưởng, họ có thể được tự do giảng truyền giáo lý Kitô trong toàn lãnh thổ tỉnh đó. Sẽ không một người dân An Nam nào bị truy tố, bị quấy rối hoặc bị trừng phạt chỉ vì họ là người Công giáo hoặc làm nhiệm vụ một giáo chức hành lễ. Người Kitô giáo có thể xây dựng nhà thờ, trường học hoặc những đạo mà không bị ai cản trở, cũng sẽ chẳng có điều gì ngăn cản tự do tín ngưỡng. Người Công giáo cũng sẽ có thể mua tạo đất đai để làm nghĩa trang. Những người An Nam không muốn theo đạo Kitô thì không ai được phép cưỡng bức họ theo. Khi giáo sĩ muốn rời khỏi tỉnh họ đang cư trú để đi thăm những họ đạo khác tại các tỉnh khác, họ cần phải báo trước viên tỉnh trưởngcủa họ để hợp pháp hóa giấy thông hành cho. Nếu một vị giáo sĩ vi phạm luật nước, ông ta sẽ phải trao trả cho các nhà chức trách Pháp là người duy nhất được quyền xét những vụ này. Còn về phần các linh mục và giáo dân An Nam trong trường hợp vi phạm luật nước thì sẽ bị xử theo pháp luật vương quốc An Nam. Điều 15: Tất cả những người dân của Pháp ở trong vương quốc An Nam đều thuộc quyền tài phán duy nhất của Pháp, về mặt dân sự cũng như hình sự. Nếu có ai trong bọn họ phạm một trọng tội hoặc vi phạm pháp luật hoặc hành động trái với các điều khoản hiệp ước này thì người đó phải được trao lại để xét xử và phạt nếu là nhất với chỗ đương sự bị bắt. Điều 16: Những người dân An Nam muốn cư trú hẳn hoặc đi lại buôn bán tại những vùng đặt dưới sự đô hộ trực tiếp của Hoàng đế Pháp đều được tự do theo ý muốn. Những người dân An Nam xứ Hạ Nam kỳ nếu họ muốn cũng sẽ được hoàn toàn tự do đi tới bất cứ nơi nào trên toàn lãnh thổ của đế quốc Pháp để hành nghề. Quốc vương An Nam đại xá hoàn toàn cho những người dân trước đây sống dưới sự đô hộ của Pháp mà nay có nguyện vọng trở về tỉnh quê hương mình. Còn đối với những người dân An Nam đã sống dưới sự đô hộ của Pháp hoặc đã tự nguyện chạy sang phía người Pháp đô hộ, Quốc vương An Nam cam kết sẽ không truy nã họ bao giờ nữa để họ khỏi lo sợ về tính mạng cũng như về gia đình và về tài sản của mình. Nếu những người An Nam đó đã bị tước mất một phần tài sản của họ tại một nơi nào đó của đất nước, thì những tài sản đó sẽ được trả lại cho họ nhưng với điều kiện là những tài sản đó vẫn còn nằm trong quyền sở hữu của chánh phủ. Điều khoản này cũng áp dụng cho những người Công giáo đã bị tịch thu tài sản chỉ vì một lý do duy nhất là họ theo đạo Kitô. Điều 17: Hoàng đế nước Pháp và Quốc vương An Nam đều có quyền cử những lãnh sự sang cư trú tại nước của nhau để bảo vệ những quyền lợi của kiều dân mình. Theo hướng đó, Hoàng đế nước Pháp tự dành quyền cử một lãnh sự tại Huế ngay khi nào thấy thuận lợi. Điều 18: Đã thỏa thuận giữa hai bên ký kết rằng sẽ không một cường quốc nào tới đặt cơ sở bất kể với tư cách nào, tại bất cứ một tỉnh nào của xứ Hạ Nam kỳ. Điều 19: (để trống. Đề nghị này chỉ có chữ ký của các đại diện toàn quyền của nước Việt Nam mà thôi và đệ trình lên Hoàng đế nước Pháp) Quốc vương An Nam cam kết, để đáp lại những nhượng bộ mà Hoàng đế nước Pháp đã dành cho Quốc vương, sẽ trả cho Hoàng đế Pháp trong thời hạn 40 năm liền một khoản bồi thường là 2 triệu francs ngoài khoản bồi thường đã ghi trong Hiệp ước Sài Gòn. Chánh phủ Pháp chấp nhận thay cho khoản bồi thường nói trên đây một số sản vật thiên nhiên biểu hiện một giá trị tương đương; bản danh mục những sản vật này sẽ được quy định một sự thỏa thuận chung giữa hai chánh phủ. Điều 20: Tất cả những điều khoản nào trong hiệp ước hòa bình và hữu nghị ký kết tại Sài Gòn ngày 5/6/1862, chẳng hạn như những điều 3, 4, 10 và 11, trái với bản hiệp định này đây đều và mãi mãi sẽ bị loại trừ. Điều 21: Bản hiệp ước này sẽ được chuẩn y tại thủ đô vương quốc An Nam và trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày ký hiệp định hoặc sớm hơn nữa nếu được. Để làm tin, các đại sứ toàn quyền hai bên đã có tên trên đây đã ký trên bản hiệp ước và đóng dấu của mình Làm tại Huế ngày 15 tháng Bảy năm 1864. Tự Đức năm thứ 17, tháng 6 ngày 12 Aubaret Phan Thanh Giản Trần Tiễn Thành Phan Huy Vinh.
HIỆP ƯỚC 15 THÁNG 3 NĂM 1874(5) Ngài Chủ tịch (tổng thống!?) nước Cộng hòa Pháp và Đức vua nước An Nam(6) vì muốn đoàn kết hai nước lại với nhau bằng những mối quan hệ hữu nghị lâu dài, đã quyết định ký kết một hiệp ước hòa bình và liên kết, thay cho Hiệp ước ngày 12/6/1862 và để thực hiện mục đích đó, đã cử các đại sứ đặc mệnh toàn quyền của mình như sau: Ngài chủ tịch nước Cộng hòa Pháp: Chuẩn Đô đốc Dupré, thống đốc và tổng chỉ huy quân đội Hạ Nam kỳ, Đệ nhất Bắc đẩu bội tinh, Huân chương Giáo dục hạng Nhất; Và Đức vua An Nam: Lê Tuấn, Thượng thư bộ Hình, đệ nhất sứ giả, và Nguyễn Văn Tường, cố vấn thứ nhất của Thượng thư bộ Lễ, đệ nhị sứ giả; sau khi đã trao đổi cho nhau các thư ủy nhiệm đúng quy cách và hợp lệ, đã đồng ý với nhau về những điều khoản dưới đây: Điều 1: Sẽ có hòa bình và liên kết mãi mãi giữa nước Pháp và vương quốc An Nam. Điều 2: Ngài Chủ tịch nước Cộng hòa Pháp thừa nhận chủ quyền và độc lập hoàn toàn của Quốc vương An Nam đối với tất cả các nước ngoài bất kể là nước nào, hứa giúp đỡ cho Quốc vương An Nam và cam kết giành cho Ngài, không kèm theo điều kiện, sự hỗ trợ cần thiết cho việc giữ gìn trật tự an ninh trong cả nước và bảo vệ Ngài chống lại mọi cuộc tấn công cũng như để tiễu trừ nạn hải tặc đang hoành hành một phần bờ biển của vương quốc. Điều 3: Để đáp lại sự bảo hộ đó, Đức vua An Nam cam kết sẽ uốn nắn đường lối chính trị của mình theo đường lối chính trị của nước Pháp và không thay đổi gì về những quan hệ ngoại giao hiện có. Điều cam kết chính trị này không bao gồm những hiệp ước thương mại; nhưng không một trường hợp nào Đức vua An Nam được phép ký kết với bất cứ một nước nào một hiệp ước thương mại trái với hiệp ước thương mại đã ký với nước Pháp và vương quốc An Nam và không báo trước cho chánh phủ Pháp biết. Điều 4: Ngài chủ tịch nước Cộng hòa Pháp cam kết sẽ tặng không cho Đức vua An Nam: Năm chiến hạm chạy bằng hơi nước có tổng công suất bằng 500 mã lực, trong tình trạng hoàn hảo, kèm theo cả nồi hơi và máy móc, được vũ trang và trang bị phù hợp với đòi hỏi của điều lệ vũ trang. Một trăm khẩu đại bác từ 7-16cm với đường kính của nòng, cộng với hai trăm viên đạn mỗi khẩu. Một nghìn súng trường có lỗ cùng với 500.000 viên đạn. Những chiến hạm và vũ khí đó sẽ được mang đến Nam Kỳ và giao lại trong thời hạn tối đa là một năm kể từ ngày trao đổi phê chuẩn. Ngài Chủ tịch nước Cộng hòa Pháp ngoài ra còn hứa sẽ cung cấp cho Quốc vương An Nam những huấn luyện viên quân sự và những thủy thủ với một số lượng đầy đủ để tái thiết lập quân đội và hạm đội của mình, những kỹ sư và trưởng xưởng có đủ năng lực để chỉ huy những công trình mà Quốc vương muốn tiến hành; những chuyên viên tài chính để tổ chức Sở thuế và Sở Hải quan trong vương quốc; các giáo sư để xây dựng một trường trung học ở Huế. Ngoài ra Ngài còn hứa cung cấp cho Quốc vương những tàu chiến, vũ khí và đạn dược mà Quốc vương thấy cần thiết để phục vụ Ngài. Việc trả lương cho những công việc dịch vụ ấy sẽ được quyết định giữa hai bên ở cấp cao ký kết. Điều 5: Đức vua An Nam thừa nhận chủ quyền đầy đủ và trọn vẹn của nước Pháp trên toàn bộ lãnh thổ mà hiện nay nước Pháp đang chiếm đóng bao gồm trong những giới hạn sau đây: Phía đông, biển Trung Hoa (biển sông) và vương quốc An Nam (tỉnh Bình Thuận): Phía Tây, vịnh Xiêm La (Thái Lan); Phía Nam, biển Trung Hoa; Phía Bắc, vương quốc Campuchia và vương quốc An Nam (tỉnh Bình Thuận); Mười một ngôi mộ gia đình họ Phạm ở trên đất các làng Tân Niên Đông và Tân Quan Đông (tỉnh Sài Gòn) và ba ngôi mộ của gia đình họ Hồ trên đất các làng Linh Chân Tây và Tân Mây (tỉnh Biên Hòa) không thể bị mở ra, đào bới, xúc phạm hoặc hủy hoại được. Sẽ dành một đất rộng một nghìn mẫu cho các ngôi mộ gia đình họ Phạm và một lô đất diện tích tương đương cho những ngôi mộ của gia đình họ Hồ. Số hoa lợi của những khoảng đất ấy sẽ dùng vào việc bảo quản các ngôi mộ và nuôi sống các gia đình chịu trách nhiệm về công việc bảo quản đó. Số đất này sẽ được miễn thuế điền thổ và những người đàn ông trong những gia đình này được miễn đóng thuế thân, miễn quân dịch và miễn công dịch. Điều 6: Nước Pháp miễn cho Đức vua An Nam khỏi phải trả số tiền còn lại về khoản bồi thường chiến phí cũ. Điều 7: Đức vua An Nam công khai cam kết sẽ trả cho Tây Ban Nha qua trung gian nước Pháp, số tiền bồi thường chiến phí còn lại là một triệu đô la (mỗi đô la trị giá bằng 0,72 lượng bạc). Và để hoàn trả số tiền nói trên, sẽ dùng một nửa số tiền thu nhập hải quan của các cửa biển đã được mở cho việc buôn bán các nước châu Âu và châu Mỹ, không kể số thu nhập ấy là bao nhiêu. Số tiền này hằng năm sẽ chuyển vào công khố Sài Gòn là cơ quan chịu trách nhiệm chuyển giao cho chánh phủ Tây Ban Nha, nhận biên lai và giao biên lai đó lại cho chánh phủ An Nam. Điều 8: Ngài Chủ tịch nước Cộng hòa Pháp và Đức vua An Nam ban đại xá hoàn toàn và trọn vẹn, kèm theo việc xóa bỏ mọi lệnh tịch thu hoặc tạm giữ tài sản, bên nào cho những người dân bên ấy mà cho đến khi ký kết hiệp ước và trước đó, từng bị di lụy vì đã làm việc cho bên kia [trong hai bên ký kết]. Điều 9: Đức vua An Nam thừa nhận đạo Gia-tô dạy cho con người làm điều thiện, hủy bỏ và coi nhưng coi như không có tất cả những điều cấm đoán đối với tôn giáo Gia-tô và ban cho tất cả mọi người dân của mình được phép theo đạo và hành đạo tự do. Do đó, những người Kitô giáo của vương quốc An Nam sẽ có thể được họp lại trong các nhà thờ với con số không giới hạn để thực hiện việc tế lễ thờ phượng. Họ sẽ không thể bị cưỡng bách, bất cứ với lý do nào, không phải làm những điều trái với tôn giao của họ dạy cũng như không phải chịu một sự kiểm soát nào về mặt cá nhân. Họ sẽ được tham dự mọi kỳ thi và làm mọi chức vụ công cộng mà không buộc phải có những hành vi gì trái với tôn giáo của họ. Đức vua An Nam cam kết sẽ cho hủy bỏ hết mọi hồ sơ thống kê người Công giáo đã làm từ 15 năm nay và sẽ đối xử với người Công giáo về mặt thống kê cũng như về mặt thuế khóa hoàn toàn như đối với mọi người dân An Nam khác. Ngoài ra Đức vua cũng cam kết sẽ thực hiện trở lại những điều cấm đoán xiết bao khôn ngoan của Ngài về việc dùng trong lời nói cũng như trong các văn bản, những ngôn từ thóa mạ đối với đạo Kitô và cho sửa đổi các điều khoản của “Thập điều” trong đó người ta đã dùng những ngôn từ như vậy. Các giám mục và các giáo sĩ sẽ có thể tự do vào nước An Nam và đi lại các địa phận của họ với một giấy thông hành do thống đốc Nam kỳ cấp và được sự thị thực của quan Thượng thư bộ Lễ hoặc của quan đầu tình. Họ sẽ có thể truyền giảng bất cứ nơi nào về giáo lý Gia-tô. Họ sẽ không chịu một sự kiểm soát đặc biệt nào và các làng sẽ không buộc phải khai báo với các quan về việc họ đến, có mặt hoặc họ đi. Các linh mục An Nam sẽ được tự do hành đạo như các giáo sĩ nước ngoài, theo giáo chức của họ. Nếu hạnh kiểm của họ đáng quở trách, và nếu, chiếu theo pháp luật, tội phạm của họ đáng bị hình phạt “đánh trượng” hoặc “đánh roi” thì hình phạt ấy sẽ được đổi ra thành một hình phạt tương đương. Các giám mục, các linh mục An Nam sẽ có quyền mua và thuê đất đai, nhà cửa, xây dựng nhà thờ, bệnh viện, trường học, nhà nuôi trẻ mồ côi và tất cả mọi thứ nhà cửa khác dùng cho việc thờ phượng. Những tài sản tịch thu của những người Công giáo vì lý do họ theo đạo mà hiện nay còn bị tạm giữ, sẽ được trả lại cho họ. Tất cả những điều khoản trên đây, không trừ điều khoản này, đều áp dụng cho các giáo sĩ Tây Ban Nha cũng như cho các giáo sĩ Pháp. Một chỉ dụ nhà vua, phổ biến ngay sau khi trao đổi chữ ký phê chuẩn sẽ báo cáo rộng rãi tận các làng xã, sự tự do mà Đức vua ban cho các giáo dân vương quốc mình. Điều 10: Chánh phủ An Nam sẽ có khả năng mở một trường trung học tại Sài Gòn, đặt dưới sự kiểm soát của Giám đốc nội vụ và trong nhà trường này không được phép dạy bất cứ điều gì trái với đạo đức và trái với việc thực hiện quyền hành của Pháp. Việc thờ phượng trong trường đó sẽ hoàn toàn tự do. Trường hợp có vi phạm, thì người thầy giáo vi phạm những chỉ dụ này sẽ bị mời về nước, thậm chí nếu sự nghiêm trọng của trường hợp vi phạm đòi hỏi thì nhà trường có thể bị đóng cửa. Điều 11: Chánh phủ An Nam cam kết sẽ mở cửa cho việc buôn bán những cảng Thị Nại (tỉnh Bình Định), Ninh Hải (tỉnh Hải Dương), thành phố Hà Nội và sự thông thương trên dòng sông Nhị Hà từ cửa biển đến Vân Nam. Một hiệp định phụ của hiệp ước này, cũng có hiệu lực như hiệp ước chính sẽ quy định những điều kiện cần tuân thủ cho việc buôn bán đó được tiến hành. Cảng Ninh Hải, cảng Hà Nội và việc quá giang sông Hồng sẽđược mở cửa ngay sau khi trao đổi chữ ký phê chuẩn hiệp ước, hoặc sớm hơn càng tốt nếu được; còn cảng Thị Nại thì một năm sau. Những sông và cảng khác sau này có thể được mở cửa thêm cho việc buôn bán nếu số lượng và tầm quan trọng của các mối quan hệ đạt được chứng tỏ sự ích lợi cũa việc mở cửa đó. Điều 12: Những người Pháp hoặc Nam của nước Pháp hoặc những ngoại kiều nói chung sẽ có thể bằng cách tôn trọng luật pháp của nước cư trú, sở hữu và tự do tiến hành mọi hoạt động thương mại và công nghiệp tại các thành phố nói trên. Chánh phủ Đức vua sẽ cho họ được sử dụng những đất đai cần thiết cho việc cư trú của họ. Họ cũng có thể thông thương buôn bán giữa cửa biển và tỉnh Vân Nam qua con sông Nhị Hà với điều kiện phải trả đầy đủ những thuế và lệ phí quy định và không được làm những chuyện buôn bán bất chính ở hai bên bờ sông, giữa cửa biển và Hà Nội và biên giới Trung Quốc. Họ có thể tự do chọn và tuyển vào làm việc cho họ những nhân viên mại bản, thông dịch, công nhân, người chèo thuyền và người phục dịch. Điều 13: Nước Pháp sẽ cử đến tại mỗi cảng mở cửa cho thương mại một viên lãnh sự hoặc nhân viên với một lực lượng vũ trang không quá một trăm người để đảm bảo an ninh cho viên lãnh sự của y được tôn trọng và để làm công tác cảnh sát đối với những người nước ngoài cho đến một lúc nào đó mà, nhờ củng cố được những mối quan hệ tốt đẹp cho việc thi hành trung thực hiệp ước làm nảy sinh, người ta không còn phải lo ngại gì về vấn đề ấy nữa. Điều 14: Về phía họ, những người dân của Đức vua có thể tự do đi lại cư trú, sở hữu và buôn bán trên đất Pháp và trên các thuộc địa của Pháp, miễn là tuân theo pháp luật hiện hành. Để cho việc bảo vệ họ có hiệu lực thực tế, Đức vua có thể cử nhân viên của mình sang cư trú tại những cảng hoặc thành phố nào tùy ý Đức vua lựa chọn. Điều 15: Khi có những người Pháp, những người châu Âu hoặc người Nam kỳ hoặc những người nước ngoài khác muốn cư trú tại những nơi nói rõ trên đây, thì phải đăng ký với sứ quán Pháp, sứ quánPháp sẽ báo với nhà chức trách địa phương. Những người dân An Nam muốn cư trú trên lãnh thổ Pháp cũng phải tuân theo những quy định này. Người Pháp hoặc người nước ngoài muốn đi lại trong nội địa đất nước chỉ có thể đi lại được nếu có giấy thông hành do một lãnh sự Pháo cấp với sự đồng ý và thị thực của nhà chức trách Việt Nam. Họ không được phép làm việc buôn bán bất cứ dưới hình thức nào; ai vi phạm sẽ bị tịch thu hàng hóa. Khả năng đi lại có thể còn gặp nhiều nguy hiểm trong tình trạng hiện tại của đất nước chưa yên, cho nên người nước ngoài chỉ có thể thực hiện khả năng đó sau khi chánh phủ An Nam, nhất trí với đại diện của nước Pháp tại Huế, xét thấy đất nước đã yên bình đúng mức. Nếu các nhà du lịch Pháp muốn đi đây đi đó, trong phạm vi đất nước với tư cách là những nhà bác học, họ cũng phải khai rõ; họ sẽ được hưởng, với tư cách đó, sự bảo vệ của chánh phủ, chánh phủ sẽ cấp thông hành cần thiết cho họ, giúp đỡ hoàn thành công tác và tạo điều kiện dễ dàng cho việc nghiên cứu của họ thành công. Điều 16: Mọi tranh chấp giữa người Pháp với nhau hoặc giữa người Pháp và người ngoại quốc sẽ do viên công sứ Pháp xét xử. Khi có những người Pháp hoặc người ngoại quốc có chuyện tranh chấp với người An Nam hay có điều gì kêu ca hoặc khiếu nại, họ phải trước hết trình bày vấn đề với viên công sứ Pháp; công sứ Pháp sẽ tìm cách dàn hòa. Nếu dàn hòa không xong, viên công sứ sẽ đề nghị có sự hỗ trợ của một thẩm phán An Nam được ủy quyền về vấn đề này; hai người sẽ cùng nhau và xử lý theo nguyên tác của sự công bằng. Khi có chuyện tranh chấp giữa một người An Nam với một người Pháp hoặc với một người ngoại quốc, cũng sẽ xử lý như vậy: đương sự người Nam sẽ khiếu nại với viên thẩm phán An Nam trước đã; viên thẩm phán này cố gắng hòa giải, nếu không hòa giải được thì yêu cầu sự hỗ trợ của viên công sứ Pháp và hai người sẽ cùng nhau xét xử. Nhưng mọi sự tranh chấp giữa người Pháp với nhau hoặc giữa người Pháp với người ngoại quốc sẽ do một mình viên công sứ Pháp xét xử. Điều 17: Những trọng tội và những vi phạm của người Pháp hoặc của người ngoại quốc trên lãnh thổ An Nam sẽ được thẩm vấn và xét xử tại Sài Gòn, do những tòa án có thẩm quyền. Theo yêu cầu của viên công sứ Pháp, các nhà chức trách địa phương sẽ có cố gắng hết lòng để bắt giữ kẻ hoặc những kẻ phạm pháp và giao cho ông ta. Nếu một trọng tội hoặc một vi phạm xảy ra trên lãnh thổ Pháp do một người dân An Nam thì viên lãnh sự hoặc nhân viên của Đức vua phải được thông báo chính thức về những cuộc truy tố đối với bị cáo và được cho biết chắc chắn rằng mọi thủ tục hợp pháp đều được theo đúng hoàn toàn. Điều 18: Nếu có kẻ gian phi gieo rắc rối loạn hoặc cướp bóc trên lãnh thổ Pháp trốn sang lãnh thổ An Nam thì nhà chức trách địa phương sẽ cố gắng ngay khi được thông báo cho biết sự việc xảy ra, để truy bắt cho bằng được kẻ chạy trốn và giao trả hắn lại cho nhà chức trách Pháp. Cũng sẽ xử lý như vậy nếu có những tên trộm, kẻ cướp hoặc tội phạm nào đó là dân của Đức vua lẩn trốn trên lãnh thổ Pháp: chúng sẽ bị truy nã ngay sau khi nhận được thông báo và bắt giữ nếu có thể được và giao trả lại cho các nhà chức trách nước chúng. Điều 19: Trong trường hợp một người Pháp hoặc một người nước ngoài chết trên lãnh thổ An Nam hoặc một người An Nam chết trên lãnh thổ Pháp thì của cải của người chết sẽ được giao lại cho những kẻ kế thừa của người đó; nếu kẻ kế thừa vắng hoặc không có kẻ kế thừa thì tài sản của người chết sẽ giao lại cho nhân viên lãnh sự (hoặc công sứ) và viên lãnh sự (hoặc công sứ) đó sẽ chịu trách nhiệm giao lại cho người có quyền thừa hưởng. Điều 20: Để đảm bảo và làm dễ dàng cho việc thực hiện những điều khoản và quy định của bản hiệp ước này, một năm sau khi ký, Ngài chủ tịch nước Cộng hòa Pháp sẽ cử một viên công sứ hàm Bộ trưởng bên cạnh Đức vua An Nam, Viên công sứ sẽ chịu trách nhiệm duy trì những quan hệ hữu hảo giữa hai bên ký kết và chăm sóc thực hiện nghiêm túc các điều khoản của hiệp ước. Ngạch bậc của phái viên đó, những vinh dự và đặc quyền mà ông ta được sẽ phải giải quyết sau này một cách nhất trí này và tuyệt đối tương đương giữa hai bên ký kết với nhau. Đức vua An Nam sẽ có thể cử công sứ của mình ở Paris và Sài Gòn. Những chi phí mọi loại cần thiết cho việc lưu trú đó của các công sứ bên cạnh chánh phủ liên kết với mình sẽ do chánh phủ nước nào chịu nước ấy, Điều 21: Hiệp ước này thay thế Hiệp ước 1862 và chánh phủ Pháp tự nhận trách nhiệm sẽ thuyết phục được sự đồng ý của chánh phủ Tây Ban Nha, trong trường hợp Tây Ban Nha không chấp nhận những sửa đổi này đối với Hiệp ước 1862 thì bản hiệp ước này chỉ có giá trị đối với nước Pháp và nước An Nam và những điều quy định cũ liên quan đến Tây Ban Nha vẫn tiếp tục có hiệu lực. trong trường hợp đó, nước Pháp sẽ chịu trách nhiệm trả khoản bồi thường chiến phí cho Tây Ban Nha với tư cách chủ nợ của An Nam, để rồi được trả lại theo đúng quy định của điều 7 bản hiệp ước này. Điều 22: Bản hiệp ước này được ký kết cho lâu dài về sau. Nó sẽ được phê chuẩn và việc trao đổi phê chuẩn sẽ thực hiện tại Huế trong thời hạn một năm và sớm hơn nếu có thể. Nó sẽ được công bố và có hiệu lực ngay sau khi cuộc trao đổi phê chuẩn xảy ra. Để làm tin, các đại diện đặc mệnh toàn quyền của hai bên đã ký và đóng dấu của mình vào bản hiệp ước này. Làm tại Sài Gòn, tại Dinh chánh phủ Nam kỳ thuộc Pháp thành bốn bản, ngày Chủ nhật 15 tháng 3 năm 1874, tức ngày 27 tháng Giêng năm Tự Đức thứ 27. Chuẩn Đô đốc Dupré Lê Tuấn Nguyễn Văn Tường
HIỆP ĐỊNH HARMAND(7) NGÀY 25 THÁNG 8 NĂM 1883 Giữa những người ký tên dưới đây: Một bên là J.T.Harmand, tổng ủy viên và là đại diện đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa Pháp, hành động nhân danh nước Pháp, trợ tá có ông Palasme de Champeaux; Một bên là Trần Đình Túc, đại diện toàn quyền thứ nhất, Ngự sử đại thần; Nguyễn Trọng Hiệp, đại diện toàn quyền thứ hai, Thượng thư bộ Lại và ngoại giao của Đức vua An Nam, hành động nhân danh chánh phủ An Nam, trợ tá có… ... Đã thỏa thuận những điều sau đây: Điều 1: Nước An Nam thừa nhận và chấp nhận sự bảo hộ của nước Pháp với tất cả hậu quả của phương thức quan hệ này, về phương diện luật lệ ngoại giao có nghĩa là nước Pháp sẽ chủ tọa mọi quan hệ của nước ngoài – kể cả Trung Quốc – với chánh phủ An Nam; chánh phủ An Nam chỉ có thể giao tiếp về mặt đối ngoại với những nước nói trên qua trung gian nước Pháp mà thôi. Điều 2: Tỉnh Bình Thuận sẽ được sát nhập vào những thuộc địa của Pháp ở Hạ Nam kỳ. Điều 3: Một lực lượng quân sự Pháp sẽ chiếm đóng một cách thường xuyên dãy núi đèo Ngang (giữa tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh) cũng như các đồn lũy Thuận An và các đồn lũy ở sông Huế (sông Hương), những đồn lũy này sẽ được xây dựng lại tùy ý các nhà chức trách Pháp… Điều 4: Chánh phủ An Nam sẽ triệu hồi ngay lập tức những đội quân đã gửi ra Bắc kỳ Điều 5: Chánh phủ An Nam sẽ ra lệnh cho các quan lại Bắc kỳ trở về nhiệm sở, sẽ bổ nhiệm những viên công chức mới cho những niệm sở bị bỏ trống và sau khi có sự nhất trí chung có thể xác nhận những sự bổ nhiệm mà nhà chức trách Pháp đã tiến hành. Điều 6: Các quan lại cấp tỉnh từ biên giới Bắc tỉnh Bình Thuận cho đến biên giới Bắc Kỳ… sẽ cai trị như cũ, không chịu sự kiểm soát của nước Pháp trừ những việc liên quan đến hải quan và công chính và nói chung tất cả những vấn đề gì đòi hỏi một sự chỉ đạo duy nhất và năng lực chuyên môn của những kỹ thuật viên châu Âu. Điều 7: Chánh phủ An Nam sẽ tuyên bố mở cửa cho việc buôn bán của châu Âu, ngoài cảng Quy Nhơn và các cảng Đà Nẵng và Xuân Đài (Phú Yên). Người ta sẽ bàn bạc xem có lợi cho cả hai nước hay không nếu mở cửa thêm những khu đất khác và người ra cũng sẽ quy định giới hạn những khu đất nhượng cho Pháp xung quanh các cảng mở cửa. Pháp sẽ đặt các nhân viên của mình tại những nơi đó, dưới quyền của công sứ Pháp tại Huế… Điều 8: (Xây dựng một hải đăng tại mũi Varella hoặc mũi Padaran). Điều 9: (Sửa chữa bằng kinh phí chung con đường bộ Hà Nội - Sài Gòn) Điều 10: (Thiết lập một đường dây điện tín trên con đường bộ đó.) Điều 11: Tại Huế, sẽ có một viên công sứ, là một công chức cấp cao. Viên công sứ này sẽ không nhúng tay vào những công việc nội bộ tỉnh Huế, nhưng sẽ là người đại diện của chánh phủ bảo hộ Pháp dưới sự kiểm soát của vị Tổng ủy viên; vị Tổng ủy viên này sẽ chủ trì những quan hệ ngoại giao cho viên công sứ Huế. Viên công sứ Pháp ở Huế có quyền hội kiến cá nhân và không chính thức với Quốc vương An Nam, và Quốc vương An Nam không thể khước từ nếu không có lý do chính đáng. Điều 12: Tại Bắc kỳ, sẽ có một viên công sứ ở Hà Nội, một ở Hải Phòng, một tại những thành phố duyên hải có thể xây dựng sau này, một tại thủ phủ các tỉnh lớn. Bao giờ thấy cần thiết thì thủ phủ các tỉnh thứ yếu cũng sẽ tiếp nhận những công chức người Pháp. Điều 13: Các công sứ hoặc phó sứ sẽ có những người trợ tá và cộng tác viên cần thiết giúp việc và họ sẽ được bảo vệ bởi một đội quân đồn trú người Pháp hoặc bản xứ đủ để đảm bảo ản ninh cho họ Điều 14: Các công sự sẽ tránh không tham gia vào những công việc hành chánh vụn vặt của tỉnh. Các quan lại mọi ngạch sẽ tiếp tục cai trị và điều hành công việc dưới sự kiểm soát của các công sứ, nhưng họ có thể bị thay thế theo yêu cầu của các công sứ nếu họ tỏ ra những thái độ không tốt đối với họ. Điều 15-16: (Quyền hạn và nhiệm vụ các công sứ) Điều 17: Các công sứ sẽ kiểm soát việc an ninh, các thị trấn và quyền kiểm soát của họ đối với các công chức người bản xứ sẽ mở rộng tùy theo sự phát triển của những thị trấn nói trên. Điều 18: Các công sứ sẽ tập trung, với sự cộng tác của các quan bố chánh, công tác thuế vụ mà họ sẽ kiểm soát cả về mặt thu lẫn chi. Điều 19: Công tác hải quan, được tổ chức lại sẽ hoàn toàn do các quan cai trị người Pháp phụ trách… Điều 20: Các công dân hoặc dân thuộc địa của Pháp sẽ được hưởng trên toàn cõi Bắc kỳ, và ở các cảng mở cửa của An Nam, tự do hoàn toàn về thân thể và tài sản. Tại Bắc kỳ và giới hạn các cảng mở cửa của An Nam, họ có quyền được tự do cư trú và sở hữu. Những ngoại kiều nào mà có yêu cầu được hưởng sự bảo hộ thường xuyên hoặc tạm thời của Pháp cũng sẽ được quyền như vậy… Điều 22:(8) Nước Pháp sẽ duy trì bao lâu xét thấy cần thiết những bót quân sự dọc sông Hồng nhằm bảo đảm sự đi lại tự do trên sông. Nó cũng có thể dựng thêm những công sự lâu dài ở bất cứ nơi nào xét thấy có ích. Điều 23: Nước Pháp cam kết từ đây sẽ bảo đảm sự hoàn toànquyền vẹn về lãnh thổ của đất nước Đức vua, sẽ bảo vệ Đức vua chống lại mọi cuộc tiến công từ bên ngoài và mọi cuộc nổi loạn từ bên trong và sẽ ủng hộ những yêu sách chính đáng của Đức vua đối với nước ngoài. Nước Pháp sẽ đảm nhiệm lấy một mình việc đánh đuổi những băng cướp mang tên “Quân Cờ đen” và bằng phương tiện riêng của mình bảo đảm sự an ninh và tự do buôn bán trên sông Hồng. Đức vua An Nam sẽ tiếp tục lãnh đạo như cũ công việc nội trị nước mình, trừ những điểm hạn chế quy định trong hiệp ước này. Điều 24: Nước Pháp cũng cam kết sẽ cung cấp cho đức vua An Nam tất cả những huấn luyện viên, những nhà bác học, những sĩ quan… mà Đức vua cần. Điều 25: Nước Pháp sẽ coi tất cả những người An Nam ở bất cứ nơi nào, trong nước hay ngoài nước đều thật sự là những người được bảo hộ của nước Pháp. Điều 26: Những nợ nần hiện nay của An Nam đối với nước Pháp coi như được thanh toán xong với sự nhượng tỉnh Bình Thuận. Điều 27: (Phân phối lợi nhuận và thuế hải quan của vương quốc, về triều đình Huế và thuế hải quan của Bắc kỳ, đồng bạc [đô la] Mexique và những tiền mặt bằng bạc của xứ Nam kỳ thuộc Pháp sẽ có tỷ giá bắt buộc trên toàn lãnh thổ vương quốc [An Nam] song song với những loại tiền tệ quốc gia An Nam.) Bản hiệp ước này sẽ trình lên Chủ tịch nước Cộng hòa Pháp và Quốc vương An Nam phê chuẩn và những sự phê chuẩn sẽ được trao đổi nhau càng sớm càng hay. Nước Pháp và nước An Nam lúc đó sẽ cử các đại diện toàn quyền của mình sẽ họp ở Huế… …Các đại diện toàn quyền sẽ xem xét, trong một cuộc họp bàn với nhau, về chế độ buôn bán nào có lợi nhất cho cả hai bên cũng như về quy định hệ thống hải quan, về những vấn đề liên quan đến những độc quyền ở Bắc kỳ, việc nhượng các mỏ, cước vận chuyển đường thủy, ruộng muối và những kỹ nghệ nào đó nói chung. Làm tại Huế, sứ quán Pháp, ngày 25 tháng 8 năm 1883 (ngày 23 tháng Bảy Âm lịch).
HIỆP ƯỚC PATENÔTRE (9) NGÀY 6 THÁNG 6 NĂM 1884 Chánh phủ nước Cộng hòa Pháp và chánh phủ của Đức vua An Nam, muốn giữ cho không còn bao giờ tái diễn những chuyện phức tạp khó khăn như vừa mới xảy ra, và với nguyện vọng của mình, đã quyết định ký một bản hiệp ước hướng về mục đích nói trên và đã cử những đại diện toàn quyền của mình như sau: Chủ tịch nước Cộng hòa Pháp: Ông Jules Patenôtre, đặc phái viên và đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa Pháp tại Bắc Kinh Và Đức vua An Nam: ông Nguyễn Văn Tường, đệ nhất phụ chánh đại thần, Lại bộ Thượng thư; Phạm Thận Duật, Hộ bộ Thượng thư và Tôn Thất Phán, phụ trách ngoại giao, quyền Công bộ Thượng thư. Những vị này sau khi đã trao đổi ủy nhiệm thư, đúng phép tắc lễ nghi, đã thỏa thuận với nhau về những điều khoản sau đây: Điều 1: Nước An Nam thừa nhận và chấp thuận nền bảo hộ của nước Pháp. Nước Pháp sẽ đại diện cho nước An Nam trên mọi quan hệ ngoại giao. Những người dân An Nam nằm ở nước ngoài đều đặt dưới quyền bảo hộ của nước Pháp. Điều 2: Một lực lượng quân sự Pháp sẽ chiếm đóng Thuận An một cách thường xuyên. Mọi đồn lũy của nó và mọi công trình quân sự của con sông Huế (sông Hương) sẽ bị triệt bỏ. Điều 3: Các quan chức An Nam từ biên giới xứ Nam kỳ cho đến biên giới tỉnh Ninh Bình tiếp tục nắm quyền cai trị các tỉnh nằm giữa hai đường giới hạn đó, trừ các vấn đề hải quan, công chánh và nói chung những công sở đòi hỏi phải có sự chỉ đạo thống nhất hoặc phải sử dụng các kỹ sư hoặc nhân viên người Âu châu. Điều 4: Trong những giới hạn đã chỉ rõ trên đây, chánh phủ An Nam sẽ tuyên bố mở cửa cho việc buôn bán của mọi nước, ngoài cảng Quy Nhơn ra, là các cảng Đà Nẵng và Xuân Đài. Những cảng khác có thể được mở cửa thêm trong tương lai, sau khi đã có một sự thỏa thuận trước giữa hai bên. Chánh phủ Pháp sẽ đặt tại đó những nhân viên dưới quyền của viên công sứ Pháp tại Huế. Điều 5: Một công sứ toàn quyền (khác với viên công sứ Huế), đại diện cho chánh phủ Pháp, sẽ chủ trì những quan hệ ngoại giao của nước An Nam và phụ trách điều hành công việc thường ngày của bộ máy bảo hộ mà không nhúng tay vào công việc hành chánh địa phương của các tỉnh nằm trong những giới hạn quy định trong điều 3. Viên công sứ toàn quyền sẽ ở trong nội thành Huế với một đội quân tùy tùng. Viên công sứ toàn quyền sẽ có quyền lợi kiến cá nhân và không chính thức với Đức vua An Nam (sau này gọi là Khâm sứ Trung kỳ). Điều 6: Tại Bắc kỳ, những công sứ hoặc phó sứ sẽ được chánh phủ Cộng hòa đặt tại những tỉnh lỵ nào mà xét thấy sự có mặt của họ sẽ bổ ích. Họ sẽ được đặt dưới quyền của viên công sứ toàn quyền. Họ sẽ đóng trong một thành và trong mọi trường hợp, ngay trong phạm vi dành cho các quan; nếu cần, họ sẽ được cấp một đội quân tùy tùng Pháp hoặc An Nam. Điều 7: Các công sứ sẽ tránh không tham dự vào các công việc hành chánh nội bộ các tỉnh. Các quan chức An Nam mọi ngạch sẽ tiếp tục cai trị và điều hành công việc dưới sự kiểm soát của các viên công sứ; nhưng khi có yêu cầu của các nhà chức trách Pháp thì họ sẽ bị cách chức, Điều 8: Các công chức và nhân viên người Pháp ở mọi ngạch chỉđược liên hế với các quan chức An Nam qua trung gian các công sứ. Điều 9: Một đường dây điện tín sẽ được bắc từ Sài Gòn ra Hà Nội và khai thác bởi những nhân viên người Pháp. Một phần các lệ phí thu được sẽ chuyển cho chánh phủ An Nam; đáp lại, chánh phủ An Nam sẽ cấp cho những đất đai cần thiết để xây dựng các nhà ga. Điều 10: Tại Trung kỳ (An Nam) cũng như Bắc kỳ, tất cả những người nước ngoài thuộc bất cứ quốc tịch nào cũng đều đặt dưới quyền tài phán của người Pháp Các nhà chức trách Pháp sẽ quyết định, căn cứ trên những tranh chấp, bất cứ là loại nào, sẽ xảy ra giữa người An Nam và người nước ngoài cũng như giữa nước ngoài với nhau. Điều 11: Tại Trung kỳ, các quan bố chánh sẽ thu thuế cũ dưới sự kiểm soát của các quan chức Pháp, cho triều đình Huế Tại Bắc kỳ, các công sứ với sự cộng tác của các quan bố chánh, sẽ tập trung cũng một công việc thếu ấy, và họ sẽ kiểm soát cả hai mặt thu và chi. Một tiểu ban gồm công chức Pháp và Nam sẽ ấn định những số tiền dành cho các ngành hành chánh sự nghiệp khác nhau và cho các công trình công cộng. Phần còn lại sẽ nộp vào ngân khố của triều đình Huế. Điều 12: Trên toàn cõi đất nước, công tác thuế quan được tổ chức lại sẽ hoàn toàn giao phó cho các nhà cai trị Pháp. Chỉ có thuế quan cửa biển và cửa khẩu biên giới đặt bất cứ nơi nào cảm thấy cần. Sẽ không chấp nhận bất cứ một khiếu nại nào liên quan đến những biện pháp mà các nhà chức trách quân sự đã thi hành về mặt thuế quan. Các luật lệ và quy chế liên đến những thuế gián tiếp, đến chế độ bảng giá thuế quan và chế độ y tế của Nam kỳ sẽ được áp dụng cho cả lãnh thổ Trung kỳ và Bắc kỳ. Điều 13: Các công dân hay dân bảo hộ của nước Pháp đều có thể đi lại tự do, buôn bán, tạo sự mua bán và sử dụng tùy ý những động sản và bất động sản… trên toàn cõi Bắc kỳ và trong các cảng mở cửa của Trung kỳ. Đức vua An Nam xác nhận bằng văn bản những cam kết đã được quy định bởi Hiệp ước 15/3/1874 vì quyền lợi của các giáo sĩ và giáo dân. Điều 14: Những người muốn đi du lịch đó đây trong nội địa nước An Nam chỉ có thể được cấp giấy phéo qua sự trung gian của khâm sứ tại Huế hoặc của chánh phủ Nam kỳ. Các nhà đương cục đó sẽ cấp giấy phép thông hành cho họ, giấy thông hành phải được trình với chánh phủ Việt Nam để được đóng dấu thị thực. Điều 15: Nước Pháp cam kết từ đây sẽ bảo đảm sự nguyên vẹn lãnh thổ của Đức vua An Nam, bảo vệ Đức vua chống lại những cuộc tấn công từ bên ngoài và những vụ nổi loạn bên trong. Hướng vào mục đích đó, các nhà chức trách Pháp có thể chiếm đóng quân sự trên lãnh thổ Trung kỳ và Bắc kỳ những đại điểm xét thấy cần thiết cho sự thực thi chế độ bảo hộ. Điều 16: Đức vua An Nam sẽ tiếp tục lãnh đạo công cuộc nội trị của đất nước như cũ, trừ những hạn chế quy định trong bản hiệp ước này. Điều 17: Những món nợ hiện nay An Nam còn nợ Pháp sẽ được giải quyết bằng những đợt thanh toán theo hình thức cụ thể sẽ được quy định sau. Đức vua An Nam sẽ không được ký kết một sự vay mượn nào của nước ngoài nếu không có phép của chánh phủ Pháp. Điều 18: Những cuộc hội nghị sau này sẽ ấn định giới hạn của các cảng mở cửa và những khu đất nhượng cho nước Pháp trong những cảng này; việc xây dựng các hải đăng trên bờ biển Trung kỳ và Bắc kỳ; chế độ và việc khai thác mỏ; chế độ tiền tệ; phần tỷ lệ dành cho chánh phủ An Nam trên tổng số thu nhập về quan thuế, về các ty; về các phí điện tín và về những khoản thu nhập khác không nói đến trong điều II của hiệp ước này. Hiệp ước này sẽ đệ trình lên Chủ tịch nước Cộng hòa Pháp và Quốc vương An Nam phê chuẩn và việc trao đổi phê chuẩn sẽ được tiến hành càng sớm càng hay. Điều 19: Hiệp ước này sẽ thay thế cho các Hiệp ước ngày 15/3, 31/8 và 23/11/1864. Trường hợp có tranh chấp thì chỉ văn bản bằng tiếng Pháp là có giá trị thực tế. Để làm tin, các đại diện toàn quyền hai bên đã ký và đóng dấu của mình vào bản hiệp ước này, Làm tại Huế thành hai bản ngày 6/6/1884. Patenôtre Nguyễn Văn Tường Phạm Thận Duật Tôn Thất Phán
THỎA ƯỚC THIÊN TÂN(10) NGÀY 11 THÁNG NĂM NĂM 1884 Chánh phủ nước Cộng hòa Pháp và Hoàng đế nước Trung Hoa muốn bằng một thỏa ước sơ bộ mà các điều khoản sẽ dùng làm cơ sở cho một hiệp ước vĩnh viễn, chấm dứt tình trạng khủng hoảng đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền an ninh chung và tiến trình chung của công việc, khôi phục không chậm trễ những mối bang giao láng giềng và hữu nghị cần phải tồn tại giữa hai dân tộc, đã chỉ định các đại diện toàn quyền của mình như sau: Hoàng đế Trung Hoa: Lý Hồng Chương, đại giám hộ của Hoàng Thái tử, đệ nhất Quốc vụ Khanh, phó vương Tchili, quý tộc thế truyền hạng nhất, hạng thứ ba... Chánh phủ nước Cộng hòa Pháp: ông Ernest Francois Fournier, thiếu tá hải quân. Các đại diện toàn quyền, sau khi đã trao đổi ủy nhiệm thư được xác nhận là hợp lệ, đã thảo thuận với nhau những điều khoản dưới đây: Điều 1: Nước Pháp cam kết tôn trọng và bảo vệ chống lại một cuộc tấn công của bất cứ một nước nào và trong mọi trường hợp, những biên giới phía Nam của Trung Hoa giáp với Bắc kỳ. Điều 2: Thiên Triều, yên lòng trước những điều bảo đảm thành văn và nặng tình nghĩa láng giềng mà nước Pháp đã phát triển liên quan Trung Hoa phía Nam, cam kết: Rút ngay tức khắc về biên giới tất cả các đội quân Trung Quốc đồn trú tại Bắc kỳ. Trong hiện tại cũng như trong tương lai, tôn trọng các hiệp ước được ký kết hoặc sẽ ký kết giữa nước Pháp và triều đình Huế. Điều 3: Đền ơn lại thái độ hòa hiếu của chánh phủ Thiên Triều và để chúc mừng sự khôn ngoan chính trị của ngày mà Lý Hồng Chương, người đàm phán hiệp ước này, nước Pháp từ bỏ ý định đòi hỏi ở Trung Quốc một khoản chiến phí. Đáp lại, Trung Quốc cam kết chấp nhận, trên toàn bộ biên giới phía Nam của mình, việc buôn bán trao đổi hàng hóa giữa nước Pháp và nước An Nam một bên và Trung Quốc một bên, theo thể lệ sẽ được quy định trong một hiệp ước thương mại và theo những biểu giá sẽ thỏa thuận sau, với tinh thần hòa hiểu nhất về phái những người đàm phán Trung Quốc và trong những điều kiện thuận lợi nhất cho việc buôn bán của nước Pháp. Điều 4: Chánh phủ Pháp cam kết sẽ không dùng một lời lẽ nào có tính chất xúc phạm đến uy tín của Thiên Triều trong dự thảo hiệp ước vĩnh viễn mà nước Pháp sắp sửa ký kết với An Nam, hiệp ước này sẽ bãi bỏ những hiệp ước đã ký kết trước đây liên quan đến Bắc kỳ. Điều 5: Ngay từ khi bản thỏa ước này được ký, hai chánh phủ sẽ cử các đại diện toàn quyền của mình, họp với nhau trong thời gian ba tháng để dự thảo một hiệp ước chính thức vĩnh viễn trên cơ sở những điều khoản trên đây. Phù hợp với tập quán ngoại giao, văn bản bằng tiếng Pháp sẽ có giá trị. Làm tại Thiên Tân, ngày 11 tháng Năm năm 1884, tức ngày 17 tháng Tư Âm lịch Quang Thiệu năm thứ 10, thành bốn bản… trên đó các đại sứ toàn quyền mỗi bên đã ký và đóng dấu vũ khí của mình vào…
CHỈ DỤ VỀ VIỆC THIẾT LẬP NHỮNG KHU NHƯỢNG ĐỊA CỦA PHÁP TRÊN LÃNH THỔ HÀ NỘI, HẢI PHÒNG VÀ ĐÀ NẴNG(1) Ngày 26 tháng Tám, Đồng Khánh năm thứ ba (01/10/1888) Chiếu theo điều 18 Hiệp ước 6/6/1884 quyết định rằng biên giới các cảng mở cửa và những đất nhượng địa của Pháp tại An Nam và Bắc kỳ sẽ được quy định trong những cuộc họp về sau. Theo đề nghị của Viện Cơ mật và sau khi thỏa thuận với quan toàn quyền Đông Dương. Trẫm ra sắc lệnh: Điều 1: Lãnh thổ các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng sẽ được thiết lập thành nhượng địa của Pháp và sang tay cho chánh phủ Pháp với quyền sở hữu trọn vẹn. Chánh phủ An Nam từ bỏ mọi quyền hành của mình đối với những lãnh thổ nói trên. Điều 2: Những quyền đã giành được trước đây tuyệt đối được giữ nguyên. Những quyền đó sẽ được giải quyết do toàn quyền Đông Pháp căn cứ trên những quyền hạn mà Trẫm đã ủy nhiệm đặc biệt, vì mục đích này trong một chỉ dụ của Trẫm cùng ký trong một ngày; chỉ dụ đó quy định vĩnh viễn quyền sở hữu của người Pháp trên đất Bắc kỳ và An Nam. Điều 3: Các lãnh thổ đó sẽ được giới hạn đúng như những bản vẽ kèm theo; việc cắm mốc đường chu vi của những nhượng địa ấy sẽ do các phái viên của quan toàn quyền Đông Pháp và quan Kinh lược [Bắc kỳ] những biên bản lập nên sau công việc cắm mốc và chứa đựng bản miêu tả chính xác những mảnh đất nhượng này cùng với các giới hạn của chúng sẽ được cất giữ trong kho lưu trữ của vương quốc Trẫm và của phủ toàn quyền. Đồng Khánh Chỉ dụ này đã được thông qua và có hiệu lực Huế, ngày 3/10/1888 Toàn quyền Đông Dương Richaud
CHỈ DỤ BAN CHO CÁC CÔNG DÂN VÀ CÁC DÂN BẢO HỘ PHÁP ĐƯỢC QUYỀN SỞ HỮU Ở AN NAM VÀ BẮC KỲ Ngày 20 tháng Tám Đồng Khánh năm thứ ba (01/10/1888) Theo đề nghị của Viện Cơ mật, Chiếu theo Điều 13 của Hiệp ước 6/6/1884 quy định rằng những công dân và dân bảo hộ Pháp có thể mua sắm tài sản và sử dụng nó trên toàn lãnh thổ Bắc kỳ và các cảng mở cửa của Trung Kỳ. Với mong muốn mở rộng quyền sở hữu đó, Trẫm quyết định: Điều 1: Các công dân và dân bảo hộ Pháp mà tạo dựng được tài sản trên lãnh thổ Bắc kỳ và tại các cảng mở cửa của Trung kỳ thì chỉ riêng bằng sự tạo dựng hợp pháp đó là quyền sở hữu hoàn toàn về những tài sản tạo dựng được, trong những điều kiện đã quy định trong pháp luật cả nước Pháp. Ngoài ra, những tài sản tạo được căn cứ trên chỉ dụ này sẽ phải tuân thủ những quy tắc đặc biệt mà chắc chắn quan toàn quyền Đông Dương được sự ủy nhiệm mọi quyền hành của Trẫm sẽ vạch ra. Điều 2: Những công dân và dân bảo hộ Pháp đã tạo được, trước khi có chỉ dụ này, những tài sản dưới chế độ luật pháp An Nam, để những tài sản đó được hưởng quyền lợi theo pháp luật của nước Pháp thì phải tuân thủ những điều quy định do quan toàn quyền Đông Dương, được Trẫm ủy nhiệm đặc biệt về việc này mọi quyền hành mà luật pháp và tập quán vương quốc trao cho Trẫm đối với những tài sản này, đặc biệt về vấn đề trưng dụng. Điều 3: Ngoài ra, cũng qua chỉ dụ này, Trẫm thừa nhận cho các công dân và dân bảo hộ của nước Pháp được quyền tạo ruộng đất tại An Nam, nhưng Trẫm tự dành cho mình cái quyền cho phép tại những khoảnh đất ấy theo điều kiện pháp luật An Nam. Đồng Khánh Chỉ dụ này đã được thông qua và có hiệu lực thi hành. Huế, ngày 3 tháng Mười năm 1888 Toàn quyền Đông Dương Richaud . TS Nguyễn Xuân Thọ Nguồn: (Alpha Books - Ebook) Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam 1858-1897 Trang Lịch Sử |