Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam Biện Pháp Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa TS Nguyễn Xuân Thọ https://sachhiem.net/NGXUANTHO/BuocMoDau_20.php
Chương 19 - Những Biện Pháp Đầu Tiên Nhằm Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Mặc dầu lãnh tụ là Hàm Nghi đã bị bắt, cuộc kháng chiến của người Việt Nam vẫn cứ tiếp tục. Cuộc kháng chiến này, đối với các nhà chức trách Pháp, không những chỉ là một niềm lo âu lớn về chính trị, mà nó còn tạo cho chánh phủ bảo hộ nhiều khó khăn tài chính lớn. Vấn đề giữ gìn những đất đai chinh phục được cũng tốn kém ngang hàng với việc chinh phục đất đai. Từ năm 1860 đến 1895, tổng chi phí lên đến 750 triệu francs vàng. Riêng năm 1888, phải chi 35 triệu francs vàng cho quân đội và 10 triệu cho hải quân. Ai chịu các khoản chi phí này? Trước sự phản đối của phe cực tả và cả phe hữu, sự chi viện của chính quốc ngày càng trở nên bấp bênh. Vậy là chính Việt Nam sẽ phải gánh lấy chi phí của chế độ mới, ngoài ra còn phải đóng góp vào cho ngân khố chính quốc nữa. Được cử sang làm Thống sứ Bắc kỳ, Paul Bert huy động hết khả năng mình để đối phó với những món chi tiêu của nước thuộc địa, ngoài ra còn phải biến nước thuộc địa thành một nguồn trực tiếp làm lợi cho chính quốc. Bắt đầu, ông ta tăng thuế thân lên gấp ba lần, thuế ruộng đất lên 50%. Tổng số thuế trực thu đã tăng từ 1.235.000 đồng, năm 1888 lên 2.995.000 đồng, năm 1896(1). Năm 1897, ông ta đã thiết lập những sòng bạc và nâng mức thuế quan lên. Nhưng rồi Paul Bert chẳng bao lâu thì chết, “nạn nhân của thuộc địa”, cũng như Richaud, kẻ đi trước ông, hoặc như Rousseau, kẻ đến sau ông. Tại Paris, người ta có ý thức rất rõ, liên quan đến chế độ bảo hộ ở Bắc kỳ và Trung kỳ, về những khó khăn khó lòng giải quyết, cũng như những giải pháp mà nó bao gồm. Ngay hôm sau khi toàn quyền Armand Rousseau chết, người ta quan tâm nhất đến việc tìm người kế tục. Cần có một người có khả năng làm được “một sự nghiệp tốt đẹp cho chính quốc tại Viễn Đông”. Không một nhân vật nào có đủ tư cách và tài giỏi để giữ vai trò ấy cho bằng chính Bộ trưởng bộ Tài chính của Nội các Bourgeois, Paul Doumer. Ngày 22/3/1897, Paul Doumer được cử làm Toàn quyền Đông Dương. Trước khi Doumer được cử làm Toàn quyền thì Toàn quyền Đông Dương chẳng là chỉ là viên quan cai trị xứ Bắc kỳ, được trao thêm một vài quyền hành khác thường có tính chất trên danh nghĩa hơn là thực tế, với những viên quan cai trị các xứ bảo hộ khác và của Nam kỳ thôi. Bộ phận chính quyền Đông Dương, thực ra như không có. Nó thiếu hẳn những cơ quan cơ bản mà bất cứ chánh phủ nào cũng phải có(2). Vừa lên cầm quyền, Doumer lo tổ chức những cơ quan chung của “Phủ Toàn quyền”, đồng thời “cải tổ lại” nền tài chính của thuộc địa. Bằng sắc lệnh ngày 3/7/1897, một “Hội đồng cao cấp Đông Dương” được thành lập – gồm các thủ hiến các cơ quan toàn Đông Dương và các chính quyền địa phương, các chủ tịch các phòng thương mại và canh nông và hai viên quan lại Việt Nam cao cấp – có nhiệm vụ giúp đỡ cho Toàn quyền trong công việc cai trị thuộc địa. Có những cơ quan duy nhất về thuế hải quan và các sở tài chính Đông Dương, một cơ quan kinh tế chịu trách nhiệm về các vấn đề nông nghiệp, thương mại và thực dân hóa, một ngân sách chung cho toàn Đông Dương mà sự thành lập do Bộ trưởng Thuộc địa ký ngày 31/7/1898, “đã khẳng định sự ra đời của Đông Dương”, một Nha công chánh, một Nha dân sự (Bộ Nội vụ của Đông Dương), một Tổng nha Bưu điện và điện tín, một Quỹ hưu trí, một Sở Tư pháp… Ở miền Bắc, chức vụ “Kinh lược” thiết lập năm 1886 trái với Hiệp ước Bảo hộ, đã bị hủy bỏ đi một cách đơn giản do sắc lệnh ngày 26/7/1897. Các quan chức Việt Nam ở các tỉnh Bắc kỳ, từ đây sẽ đặt dưới sự kiểm soát của viên Thống sứ Bắc kỳ, được đưa lên hàng đại diện của nhà vua. Như vậy sợi dây cuối cùng ràng buộc Bắc kỳ lại với triều đình Huế đã bị cắt đứt. Trước lúc Doumer tới, tại Trung kỳ nhiệm vụ của nước Pháp chỉ thu lại trong một việc kiểm soát triều đình Huế. Dưới sự thúc ép của viên Toàn quyền, Thành Thái vừa mới đến tuổi thành niên phải ký ngày 27/9/1897 một đạo dụ phê chuẩn việc tổ chức lại việc cai trị đất nước: Viện Cơ mật bị giải thể thay vào đó là một Hội đồng Thượng thư do Khâm sứ Trung kỳ chủ tọa. Các quyết định của Hội đồng, sau khi được viên Khâm sứ duyệt thì được nhà vua đóng dấu và ban hành. Các quan phụ chánh chính thức trở thành những người có trách nhiệm quan trọng nhất trong Hội đồng Thượng thư. Bên cạnh các quan Thượng thư Việt Nam, có những công chức người Pháp được phái đến giúp đỡ các quan Thượng thư làm nhiệm vụ của họ. Con số các công sứ, trước đây rất hạn chế giờ đã được tăng cường để mỗi một tỉnh có một viên công sứ Pháp đứng đầu. Ở miền Bắc cũng như miền Trung, các quan đứng đầu tỉnh, Tuần vũ hay Tổng đốc, nhận thẳng các mệnh của viên công sứ mà thực chất là những người trực tiếp cai trị qua trung gian. Để tư vấn về các vấn đề lợi ích địa phương, Doumer thành lập những hội đồng bảo hộ ở miền Bắc vào năm 1898, ở miền Trung vào năm 1900. Vậy là chế độ bảo hộ chỉ còn tồn tại trong các hiệp ước trên giấy tờ mà thôi. Theo chỉ dụ nhà vua, quyền sở hữu đất đai từ đây được thừa nhận cho người Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Hơn nữa, nhà vua còn nhường cho chánh phủ toàn quyền Đông Dương cái độc quyền sử dụng những tài nguyên đất đai không thuộc các cơ quan công cộng, tức là cái độc quyền được chuyển nhượng đất đai vắng chủ. Từ tháng 9/1898, một nghị định của Paul Doumer tổ chức nhường những số “đất tự do” đó cho bọn thực dân Pháp. Do đó mà Jeans Dupuis được nhận, gọi là đáp lại những “công lao đóng góp”, 25.000 ha đất mỏ ở đảo Kẻ Bào. Từ 1890 - 1896, 32.202 ha đã được nhượng theo cách ấy và từ 1897 - 1901, Doumer đã cấp phát 155.449 ha. Các hội truyền giáo được sở hữu, ở Bắc kỳ chẳng hạn, khoảng 30.000 ha ruộng. Muốn có công ăn việc làm, nông dân phải “trở lại đạo”; các giáo sĩ giảng dạy cho họ đức vâng lời và sự quy phục một chế độ phát canh phong kiến(3). Lâu nay, các quan lại Việt Nam thu thuế nộp cho chánh phủ Huế. Từ năm 1898, chánh phủ Pháp tự đảm nhận lấy việc thu tất cả mọi khoản thuế: một chỉ dụ của nhà vua giao cho chánh phủ bảo hộ việc quản lý hoàn toàn nền tài chính đất nước. Từ đây, nước Pháp toàn quyền sử dụng số tiền thu nhập đó, mà chỉ phải cho vào ngân khố nhà vua một số tiền nào đó để chi dùng cho đời sống nhà vua và cho triều đình. Ở phía Nam, bộ máy hành chánh địa phương không cần thay đổi, mỗi tỉnh đã có một viên quan cai trị người Pháp đứng đầu, những hội đồng địa phương, một tòa án Pháp, những ngân sách hàng tỉnh khá đầy đủ. Việc lãnh đạo cả một thuộc địa cho một viên thống đốc-quân sự đảm nhiệm, ông ta là đại diện trực tiếp của Toàn quyền; trợ tá cho ông ta có một hội đồng tư vấn và một hội đồng thuộc địa. Tất cả những cái đó, tự nó đã ổn rồi. Trước khi quân Pháp đến, tại Việt Nam, tiền tệ quốc gia là đồng tiền(4). Đơn vị tiền tệ cao nhất là nén bạc, giá trị từ 80 đến 100 francs. Nhỏ nhất là đồng trinh bằng kẽm, ở giữa có một lỗ vuông; phải 600 đồng trinh mới được một francs; 600 đồng trinh tức là một quan tiền (ligature), cân nặng 1,500kg. Giữa hai đơn vị cao nhất và thấp nhất đó là đồng bạc Mêhicô (piastre mexicaine), chính thức trị giá bằng 5,55 francs – nhưng tỷ giá thực tế thì thay đổi giữa 5,40 và 6,35 francs; những thời kỳ đầu của chế độ thuộc địa, người ta cắt nó làm đôi, làm tư hoặc làm tám để “đổi ra tiền lẻ”. Còn những đồng tiền Pháp 50 xu, 1 franc và 2 francs bằng bạc được lưu hành chánh thức thì những người đổi tiền không ưa. Căn cứ trên phong tục người Việt Nam lấy kim loại bạc làm chuẩn để định chung mọi vật. Doumer bèn quyết định cho đơn vị (tiền tệ) một định lượng bạc nhất định, một ký hiệu bảo đảm định lượng bạc đó, cùng với một cái dấu hiệu chỉ rõ nguồn gốc của đồng tiền này ở đâu ra: đây là tiền tệ mới chung cho cả Đông Dương. Nó mang cái tên Tây Ban Nha là “piastre” – đồng bạc. Chẳng mấy lâu, “đồng bạc Đông Dương” đã thay thế lần cho đồng bạc kẽm Việt Nam. Đồng bạc Đông Dương nặng hơn đồng “écu” Pháp một chút, tức là đồng 5 francs. Nhưng ngược với đồng “écu”, đồng bạc Đông Dương chỉ có giá trị bằng cái giá trị thật bằng bạc của nó: tức là giá trị của 27g bạc 900/1000. Là một đồng tiền không cố định, đồng bạc Đông Dương này phụ thuộc vào tỷ giá của kim loại bạc và từ năm 1875, Ngân hàng Đông Dương nắm độc quyền phát hành. Với lối “buôn bán đồng bạc Đông Dương [một cách bất chính]”, số tiền lãi thu được, năm 1885 là 393.000 francs vàng đã lên tới 2.666.999 francs vàng, năm 1905. Những số vốn tích lũy được nhiều như vậy, sẽ cho phép Ngân hàng chi phối được phần lớn các hoạt động kinh tế của nước. Ngân hàng Đông Dương kiểm soát 27 ngân hàng, 28 công ty khai thác mỏ, 53 công ty các loại, 2 công ty đường sắt… Nó là ngân hàng kinh doanh duy nhất được phép đúc tiền. Nó có thể phát hành giấy bạc, lúc đầu bằng gấp ba lần, rồi sau đó bằng gấp năm lần số tiền mặt của nó. Hệ thống cân đo hiện hành là phụ thuộc vào đường kính và trọng lượng đồng tiền đúc từ thời Gia Long mà chẳng có một vật gì làm chuẩn. Ví dụ đơn vị đo chiều dài - “thước” - là chiều dài của một số đồng tiền sắp xếp nối nhau: 22 (0,528m) hoặc 27, tùy cái vật người ta muốn do. Tuy nhiên, những thương nhân người Tàu vẫn dùng cái “chỉ” làm đơn vị đo chiều dài: một “chỉ” bằng 0,333 mét. Ở miền Nam, những dụng cụ đo lường, thường chỉ dùng đong lúa, gạo thì có “hộc” bằng 71,905 lít, sau thay bằng “giạ”, dung lượng rút xuống còn phân nửa dùng để đong gạo. Về việc đong các chất lỏng thì phương tiện thường dùng không cố định mà thay đổi theo địa phương thậm chí tùy từng cửa hiệu. Những nhà buôn châu Âu mua hàng để xuất khẩu thì tất nhiên phải dùng “tạ” (picul) (của Trung Quốc); mỗi tạ, về lý thuyết, thì cân nặng bằng trọng lượng 4 quan tiền (6kg). Nhưng tùy những thứ cần đo lường, người ta tính ra có ít nhất 9 thứ “tạ”, chưa kể cái “tạ” Trung Quốc bằng 61,800kg và cái “tạ” Singapour tương đương 133,333 livres Anh(5). Đối với những vật quý như vàng, bạc hay thuốc phiện, đơn vị đo lường là “lượng” (tael), tương đương với một “once”(6). Tuy nhiên, cũng nên biết: một “lượng” Việt Nam bằng 39,050g; 1 “liang” (lượng) Trung Quốc bằng 38,593 gram và 1 “damleng” (lượng) Campuchia bằng 37,5 gram. Từ 1897, Doumer cho lập những sở thuế mới tại một số tỉnh của Việt Nam. Nhiều nghị định đã quy định chế độ thuế trực thu mới. Dưới chính quyền Nam Triều, thuế thân được quy định là một quan tiền mỗi người (nam). Những ngày đầu Pháp chiếm đóng, ở miền Bắc, thuế thân là 50 xu, ở miền Trung là 30 xu mỗi người. Sau những cuộc dàn xếp ngày 12/10/1886, giữa viên Khâm sứ Pháp ở Huế và đại diện chánh phủ Việt Nam, Nguyễn Trọng Hiệp, ngoài số tiền thuế thân ấy ra, mỗi người Việt Nam (nam) còn phải làm sai dịch 48 ngày mỗi năm. Cái nghĩa vụ sai dịch bắt buộc này có thể được “miễn cho”, với điều kiện trả một số tiền là 5 đồng trinh mỗi ngày. Do sắc lệnh ngày 1/6/1897, các thuế thân ở miền Bắc, được nâng lên từ 0,5 lên 2,5 đồng. Ở miền Trung thì do sắc lệnh ngày 14/8/1897, thuế thân từ 0,30 được nâng lên 2,5 đồng. Về thuế ruộng đất, trước kia chỉ 1 đồng/are (100 thước vuông), nay lên 1,5 đồng từ 1897. Các loại thuế tiêu thụ (thuế tem, thuế hộp quẹt) được cải tổ lại. Ba sở đại lý lớn (rượu, thuốc phiện, muối) được tổ chức lại, đã đưa lại cho ngân sách những khoản thu nhập quan trọng(7). Năm 1900, tổng số thuế giánthu của ngân sách Đông Dương là 13.500.000 đồng; trong đó, riêng thuế rượu, thuốc phiện và muối chiếm 11.050.000 đồng. Mặc dù đồng tiền bị sụt giá, ngân sách 1897 sẽ được tổng kết, ở miền Trung và miền Bắc, với con số thặng dư tiêu thụ so với tiền chi là 872.811 đồng, tức gần 2 triệu rưỡi francs vàng. Ngân sách miền Nam, từ 3 triệu francs vàng năm 1864, đã tăng lên đến 5,6 triệu francs vàng năm 1867 và 35 triệu năm 1894. Từ 1861, Đô đốc Charner đã cho lập tại Nam kỳ, nhiều sòng bạc. Năm 1867 riêng những sòng này đã đưa lại cho thuộc địa 2.500.000 francs vàng. Trong khi người dân Việt Nam phải đóng thuế ngày càng nặng nề thì các công chức Pháp mà lương hàng năm dưới mức 1.200 đồng, thì được miễn thuế; chỉ người nào lãnh lương cao hơn số tiền đó mới phải đóng một khoản thuế khoán gọi là 10 đồng. Các nhà kỹ nghệ và điền chủ Pháp, mặc dù chúng có những số tiền lời đồ sộ cũng chỉ đóng có một khoản thuế duy nhất, không quá 60 đồng cho những người ở miền Nam và 150 đồng cho những người ở miền Trung và miền Bắc. Sau những cuộc “cải tổ” tài chính của Doumer, số thu nhập về thuế thân và thuế ruộng đất của người Việt Nam, ở miền Trung từ 83.000 đồng trước ngày ông ta lên đến 2.000.000 đồng, năm 1899; ở miền Bắc, từ 1896 đến 1907 nó đã tăng lên gấp đôi với con số 4.909.000 đồng; ở miền Nam, ngoài một phần đóng góp cho ngân sách rồi, số tiền thuế đó vẫn còn 5.000.000 đồng. Hòa vào những số tiền thu thập nhờ thuế đó, các người “châu Âu” cũng đóng góp được 9.000 đồng (!) Sau khi Paul Doumer đến làm toàn quyền Việt Nam (1897-1902), người dân Việt Nam đã phải trả trên 90 triệu francs vàng. Những số tiền thu được đó đã dùng vào việc gì? Năm 1900, trên tổng số chi tiêu là 20.796.000 đồng của ngân sách Đông Dương, chỉ 3.386.000 đồng được dành cho những công trình công cộng, còn lại thì bị hút vào những khoản kinh phí, nào hành chánh của thuộc địa, nào nuôi quân đội, nào trả nợ chính quốc… Để hoàn tất công cuộc khai thác thuộc địa ở Việt Nam, bên cạnh những cải cách hành chánh, quân đội cũng đã được tổ chức lại. Sau Hiệp ước 1884, quân đội quốc gia Việt Nam đã bị giải tán. Sắc lệnh ngày 11/2/1886 đã thành lập đội “lính biệt kích An Nam” (người dân quen gọi là “lính khố đỏ”) dùng làm lính bổ sung cho quân đội Pháp. Những đội “quân khố đỏ” ấy, người ta còn nhớ, đã giúp cho quân chiếm đóng nhiều việc “lớn lao” trong chiến dịch đàn áp các cuộc nổi dậy của Văn Thân và Hàm Nghi. Để giữ gìn trật tự, một nghị định của Doumer ngày 17/6/1897, thiết lập tại mỗi tỉnh lỵ một “phòng vệ người bản xứ” (garde indigène - dân vẫn gọi là “lính khố xanh”), do những hạ sĩ quan Pháp chỉ huy. Sau này, người Việt Nam còn được tuyển vào quân đội Pháp như những đội quân trợ thủ: năm 1899 vào pháo binh và kỵ binh, năm 1903 vào công binh… Do quan tâm đến những lợi ích vật chất hơn là lợi ích tinh thần, cho nên Doumer để lại ở Đông Dương dấu vết của một nền cai trị trực tiếp, những chính sách thuế khóa nặng nề, một sự chú ý quá ít về tình hình chính trị ở Việt Nam. Phải kể vào công lao đóng góp tích cực của Doumer, sự thành lập những cơ quan đại lý học và địa chất học, việc xây dựng Viện Pasteur và Viện Viễn Đông Bác Cổ, cũng như việc xây dựng chiếc cầu lớn qua sông Hồng tại Hà Nội mang tên ông ta: cầu Doumer (ngày nay là cầu Long Biên), việc trang bị cho cảng Sài Gòn, việc dự thảo một kế hoạch xây dựng con đường sắt, có lợi ích chính trị và tài chính lớn hơn là thuần túy kinh tế. Đặt Cơ Sở Thuộc Địa Tầm quan trọng của công việc thuộc địa đã dẫn Gambetta, năm 1881, đến chỗ phải giao phó các thuộc địa cho một chức phó Quốc vụ khanh phụ trách; cơ quan này, lúc thì phụ thuộc Bộ Thương mại, khi thì phụ thuộc Bộ Hải quân, để rồi năm 1894, nó trở thành một bộ. Sự phản ứng chống chính sách đồng hóa và nỗi lo sợ chính sách tập trung quyền hành quá to lớn, có thể trở ngại công việc hành chánh, đã dẫn tới quyết định thành lập những chánh phủ toàn quyền. Về vấn đề “áp dụng luật lệ cho các thuộc địa”, nền Đệ Tam Cộng hòa tự khoác lấy tư cách đế quốc chuyên chế và quyết định ngày 3/5/1894 của Thượng viện vẫn còn hiệu lực, đặt các thuộc địa (trừ Antilles và La Réunion) dưới chế độ sắc lệnh. Cùng một lúc với sắc lệnh (ngày 20/10/1887) chỉ định một viên toàn quyền đứng đầu “Liên bang Đông Dương”, một sắc lệnh khác ngày 17/10/1887, sát nhập Bắc kỳ và Trung kỳ vào Bộ Hải quân, bất chấp các hiệp ước và khái niệm pháp lý của chế độ bảo hộ. Chính quyền Huế bị tước hết cả ba kỳ, từ đây nhường chỗ cho một “chánh phủ toàn quyền Đông Dương” cho bọn thực dân và các công chức người Pháp. “Sự nghiệp của Doumer” tại Việt Nam, “kẻ chuyên xây dựng đế quốc”, như một số sử gia Pháp gọi ông ta với niềm tự hào ấy, không phải chỉ thể hiện ở chỗ xây đắp thuộc địa trên những nền tảng hết sức vững vàng bằng cách chuyển nó, từ hình thức “cổ truyền” kinh nghiệm chủ nghĩa sang hình thức một tổ chức có hệ thống và thiết lập một bộ máy tài chính và đô hộ chính trị chặt chẽ. Con người tự học ấy đã qua con đường làm báo mà trở thành đại biểu Quốc hội, rồi Bộ trưởng Tài chính, sau đó là Toàn quyền Đông Dương, với các tác phong độc đoán mệnh lệnh của một viên Thái thú, cái vẻ lãnh đạm toán học và tự phụ tự mãn ấy chỉ chăm chăm tìm cách phá vỡ sự thống nhất của nước Việt Nam, chia cắt một cách giả tạo ba miền xa lạ với nhau: Nam kỳ, là thuộc địa từ 1862; Bắc kỳ trở thành gần như thuộc địa; Trung kỳ thì giữ một hình thức “bảo hộ” thuần túy lý thuyết; giờ đây, mỗi kỳ có một quy chế khác nhau và một cuộc sống riêng biệt của mình. Từ đó đã nảy sinh cái chính sách thuộc địa nhằm làm cho những ai chỉ biết về Việt Nam một cách mơ hồ tưởng lầm rằng Việt Nam gồm có ba “nước” riêng biệt: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ và dân Việt Nam khi thì là người “Annamite”, khi thì là “người Đông Dương(8)”. Có người nói rằng sự chia cắt ấy là “do lịch sử muốn vậy”, kẻ khác lại nói sự thống nhất của Việt Nam mang tính chất “thuộc địa” chứ không phải tính chất dân tộc(9). Việc thiết lập ra bộ máy thuộc địa ở Việt Nam đòi hỏi một số lượng nhân viên to lớn. Phần lớn số nhân viên ăn lương nhà nước đó được tuyển dụng tại Pháp và các chức vụ, kể cả những chức vụ thấp kém nhất cũng đều dành cho người Pháp, mặc dù họ chỉ có một trình độ văn hóa hết sức thô sơ: người Pháp của nước Pháp và “người Pháp-Ấn Độ” “Những ‘người Pháp Ấn Độ’ ấy, những người Ấn Độ của năm nhượng địa Ấn Độ (Mahé, Karikal, Yanaon, Pondichéry, Chandernagor) ấy không sống dưới luật lệ của nước Pháp,” – Paul Doumer viết – “nhưng họ vẫn cứ là người Pháp, họ là công dân và là cử tri. Những người mà chúng ta đã đưa sang Nam kỳ hầu hết là hiền lành, thất học, trí tuệ kém mở mang mà một người An Nam hạng bét cũng có thể dạy không cho họ một cách dễ dàng. […] Người An Nam coi người da đen như là thấp kém hơn họ về trí tuệ, cũng như về lòng dũng cảm…” “Người Ấn Độ là một viên chức ngạch Tây [nguyên văn: ‘Âu châu’] chứ không phải là ngạch Nam [nguyên văn: ‘Á châu’]. Anh ta cũng đắt giá như người Pháp, cũng lãnh lương châu Âu và còn được hưởng thêm một ‘phụ cấp thuộc địa’ ngang với số tiền lương. Ba năm một lần, anh ta có quyền được nghỉ phép sáu tháng để ‘phục hồi sức khỏe’ bị khí hậu châu Á làm tổn thương. Luật lệ áp dụng cho công chức người Pháp, và rất cần cho họ cũng được áp dụng cho người da đen, sinh ra trên một bán đảo láng giềng của bán đảo Đông Dương và cùng trên một vĩ tuyến(10)...” Sự có mặt của các công chức người Pháp đó đòi hỏi phải thực hiện những công trình lành mạnh hóa môi trường và những tiện nghi rất tốn kém. Cũng làm một việc, một công chức người Pháp lĩnh lương trung bình gấp 10 lần lương của một đồng sự “người bản xứ” của anh ta. Anh ta “giá khá đắt(11)”. Tất cả mọi chức vụ quan trọng trên thực tế đều “cấm” đối với công chức Việt Nam, mặc dầu họ tốt nghiệp các trường đại học hoặc các trường lớn của Pháp(12). Bên cạnh những công chức người Pháp đó, có cả một “khối lớn” nhưng tên “thực dân” (colons)(13) nắm trong tay tất cả những quyền lực sống còn của nền kinh tế quốc gia và cũng chính những tên thực dân này cầm tay cái chính trị, bởi bọn họ có quyền bầu cử. Phải chăng người Việt Nam là bất lực? Không tin. Thiếu lòng tin “người bản xứ” chăng? Có thể là như thế. Đúng hơn là do những lý do của chính sách thuộc địa, trong đó như Jules Ferry nói, “giống da trắng có tính chất ưu đẳng hơn tất cả các giống khác(14)”; đó cũng là chính sách ai cũng có việc làm, dành cho người Pháp chính quốc. Những phần tử tri thức tinh hoa của Việt Nam chỉ là hạng người cùng khổ bên cạnh kẻ chiếm đóng. Đối với một dân tộc có ý thức mạnh mẽ về giá trị tinh thần như vậy, thì vết thương chỉ sâu sắc thêm hơn, nỗi nhục nhã chỉ thấm thía thêm hơn(15a)(15b). Jean Dorsenne, người đã tiến hành một cuộc điều tra sau những ngày đau thương tiếp theo cuộc khởi nghĩa Yên Bái (tháng 2/1930), có viết: “…Giới trí thức An Nam có trình độ văn hóa rất cao và rất thông minh, nhận xét quá đúng rằng: Giữa người Pháp và người An Nam, có hai đơn vị trọng lượng và hai đơn vị đo lường; mặc dầu chúng ta rêu rao điều ngược lại, thực ra chúng ta để cho mọi người dân da vàng cảm nhận rằng tại Đông Dương, có hai loại người, loại người chiến thắng và loại người thất bại. Nếu chúng ta muốn củng cố vị trí chúng ta trên ‘quyền chinh phục’ – phương pháp khá nguy hiểm và đáng ghét – thì chúng ta hãy dùng bạo lực một cách công khai, chúng ta hãy tăng gấp đôi quân số, chúng ta hãy chất đầy các doanh trại chúng ta những đại bác và đại liên. Nhưng nếu chúng ta có tham vọng đi đến một sự hòa hợp tâm hồn thì chúng ta hãy thực hiện thẳng thắn, không ẩn ý một cơ chế giải phóng. Chúng ta hãy mở cửa mà không cần có những hạn chế làm xúc phạm đến tính dễ mếch lòng của thanh niên An Nam, cho họ đi vào những chức vụ lâu nay chỉ dành cho đồng bào chúng ta. Bao nhiêu lần tôi đã khó chịu khi nhận thấy rằng, do thành kiến mà người ta kìm hãm lại ở những chức vụ thấp kém của biết bao thanh niên trí thức An Nam đầy công lao, trong khi chức vị cao nhất lại dành cho những người Pháp mà họ chỉ có nước da trắng của họ để thay thế cho cả bằng lẫn kiến thức. Một số người Pháp có cái khuynh hướng đáng buồn là khinh rẻ người bản xứ; đó là tàn dư của tư tưởng chinh phục và của định kiến sai lầm về tính ưu đẳng của người da trắng đối với các giống người khác. Thật là một sự hợm hĩnh lố lăng đáng buồn cười, khi nó xuất phát từ những gã khố rách áo ôm ở chính quốc thì không có khả năng làm gì, ngoài việc lau giày cho thiên hạ ở các xó đường, mà một khi được đưa sang thuộc địa thì bỗng trở thành những ‘ngài quý tộc’ và điều khiển một cách hỗn láo cả những ông quan trí thức uyên thâm tận đầu móng tay(16)...” Song song với những công trình nhằm tạo những tiện nghi đầy đủ cho việc ăn ở lâu dài của những công chức và những người đi khai phá đó, có một vấn đề được đặt ra cho chánh phủ Pháp, vấn đề phức tạp và không kém phần quan trọng: việc “xây dựng gia đình” cho những người di tản mới đã chọn con đường lưu vong dứt khoát hay lâu dài ấy ở thuộc địa. “…Vấn đề [này] không lọt khỏi con mắt của Liên hiệp Thuộc địa Pháp, Liên hiệp này vốn đỡ đầu cho những kẻ khai thác ở Bắc kỳ và Trung kỳ, có một số vốn tối thiểu là 30.000 francs. Bằng giá nào cũng phải ‘cung cấp’ cho họ những người vợ chính thức mà không phải là ca kỹ ở các quán cà phê nhạc, nhất là không phải là đàn bà bản xứ… Năm 1897, bá tước Haussonville có một giải pháp sẵn sàng: tại Pháp có một số nhiều những cô gái đã học hành xong nhưng không tiến bộ gì hơn, những cô gái ‘ tuy không phải sa đọa nhưng mà không được xếp hạng luôn luôn bị nguy cơ trở thành ‘sa đọa’. Vậy thì ‘phải tác thành cho họ một cách xứng đáng, nghĩa là cho sang Bắc kỳ kiếm chồng.”(17) Theo triển vọng này, người ta đã thành lập “Công ty di tản phụ nữ sang thuộc địa” có trụ sở tại Rue de Provence, Paris. “…Cái công ty này do Chailley-Bert làm chủ tịch, dự kiến sẽ lựa chọn trong số những cô gái không có hồi môn và không có việc làm, những cô nào có tính cách, thanh danh, tài năng, sức khỏe bảo đảm… và một thân hình dễ ưa. Lập xong những hồ sơ đó rồi, họ để cho những người khai thác sắp sửa ra đi, sử dụng… Giống như một tổ chức ‘dịch vụ dựng vợ gả chồng’, nếu không có những ý định xa hơn. Hằng năm, chúng tôi đưa sang thuộc địa mà họ (những người khai thác) ở một số con gái và thiếu phụ, vô tình đã thành những đồng lõa và những người thực hiện những ý định của chúng tôi với sự ủng hộ của thời gian. Muốn vậy, chúng tôi phải tìm cho họ một công ăn việc làm bảo đảm, chẳng hạn giữ trẻ, làm nữ hộ sinh, dạy học hoặc làm nhân viên bưu điện… rồi tự họ sẽ tìm cách tán tỉnh và chinh phục lấy một ông chồng ở gần cơ quan họ làm. Công ty vừa thành lập đã kết thúc đột ngột. ‘Thị trường’ địa phương đã có sẵn những quả phụ trẻ trung, những du khách dễ thương, những người đàn bà An Nam, Campuchia, Lào và cả những người đàn bà Nhật ‘nhập khẩu’, tất cả đều sẵn sàng cho một cuộc ‘hôn nhân nhất thời’ hay một cuộc ‘hôn nhân thử’…(18)” Gia-tô Giáo Việc các nhà truyền giáo Gia-tô nhắm phá cho tan rã quốc gia Việt Nam đã được trình bày: Ta hãy cứ nghĩ tới hoạt động của Giám mục Pigneau de Béhaine, hãy cứ nhớ lại bức thư của linh mục Huc gửi cho Napoléon III, thư của Roche gửi cho Ủy viên Pháp Harmand năm 1885, những bản báo cáo của giám mục Puginier gởi về Paris năm 1889, hoặc những sự can thiệp của giám mục Frappel trước Hạ viện. Người ta không thể phủ nhận vai trò của các giáo sĩ trong việc Việt Nam mất độc lập và việc Pháp đã xâm chiếm Việt Nam làm thuộc địa. Đã bao lần chúng ta thấy họ tìm cách lật đổ chính quyền đương trị để thay vào đó chính quyền của một tên tay sai của họ, tên gác cổng nhà tu của họ là Tạ Văn Phụng mà họ mạo danh là “Hoàng thân” và là kẻ “thừa kế ngôi nhà Lê”, hay của một tên Lê, tên Lý nào đó, đã từng hứa suông với họ. Chúng ta đã thấy các giáo sĩ xúi giục nhân dân nổi loạn; và thường xuyên ngấm ngầm phá hoại chính quyền [nhà Nguyễn], làm cho nó sớm bị sụp đổ, để giúp cho công cuộc xâm lăng của quân Pháp được dễ dàng hơn sao? Jean Raoul Clémetin viết về vấn đề này, như sau: “Người giáo sĩ ở nước thuộc địa, đó thực sự là một ‘con người chính trị’ (homo politicus) khác thường, đứng trước ba điều quan tâm trọng đại: tinh thần yêu nước của mình, nếu không nói là tinh thần quốc gia của họ; xu hướng vươn lên độc lập của đất nước mà ông ta đang truyền giảng Phúc âm; lợi ích thực sự của tôn giáo mình mà La Mã được coi như là vị quan tòa phán xét chung thẩm. Lịch sử của thái độ chính trị ấy, ngày hôm nay cũng như hôm qua, chúng nằm trong mạng lưới những sự phản kháng, những cuộc gặp gỡ có dụng ý hay không dụng ý, những xung đột gay gắt giữa ba xu hướng lớn trên đây. Những chỉ thị của La Mã, trong lời tựa cho một cuốn ‘Lịch sử hội truyền giáo’, Ferdinand Brunetierè có viết: Tại phương Đông và Viễn Đông, chính các giáo sĩ chúng ta là những người hiểu rõ chiều sâu của những vấn đề mà các nhà ngoại giao ta chỉ thấy được bề mặt. Ở đó, họ là những người thông tin tốt nhất và những tay chân đáng tin cậy nhất của các nhà ngoại giao.” Chính Giáo hoàng Alexandre VII đã sáng lập những hội truyền giáo ở Đông Dương và ngày 8/6/1658 đã chỉ định hai vị Khâm mạng Tòa thánh, Francois Pallu cho Bắc kỳ và P. Lambert de la Motte, cho Nam kỳ. Sự thành lập hai địa phận công giáo này là kết quả nhiều cuộc vận động và cổ vũ cho các giáo sĩ đầu tiên, đặc biệt là của giáo sĩ dòng tên (Jésuite) Alexandre de Rhodes; họ đã xây dựng được một cộng đồng Gia-tô giáo nho nhỏ ở Việt Nam. Tuy vậy, không phải các giáo sĩ dòng tên được vinh dự xây dựng các địa phận công giáo tại Đông Dương mà là một hội đặc biệt nảy sinh trong những năm tiếp theo 1658, dưới sự thúc đẩy của các bạn bè Francois Pallu: ‘Hội Truyền giáo nước ngoài’ có trụ sở tại Paris. Những chỉ thị năm 1659 cho hai vị Khâm mạng Tòa thánh của ‘Thánh hội truyền bá Đức tin’ biểu hiện khá cụ thể cái học thuyết chính trị truyền giáo của nhà thờ, của thế kỷ XVII, một học thuyết mà về mặt lý luận sẽ không bao giờ thay đổi. Sau khi nhắc lại những nguyên tắc riêng của đức tin, những chỉ thị này định nghĩa mục đích của các Hội truyền giáo là: đào tạo một đội ngũ linh mục bản xứ - ngày nay chúng ta gọi là dân tộc – trong lòng các cộng đồng công giáo đã hiện hữu. La Mã yêu cầu các linh mục dân tộc đó phải trải qua một cái, mà chúng ta gọi lúc này là một sự ‘huấn luyện chuyên môn cấp tốc’… Để dễ dàng cho việc phong chức các linh mục bản xứ, chúng tôi trao cho các ngài cái chức năng được miễn cho các linh mục mới khỏi phải học biết tiếng Latin… Rome mời các giáo sĩ đừng bao giờ làm cái việc tuyên truyền quốc gia ở những nước mình đang truyền đạo: ‘Không phải cái đó, mà là đức tin mới là điều các ngài cần nhập cảng’. Cấm không được Âu hóa đất nước người ta. “…Sự công tác tích cực của các giáo sĩ Pháp với công cuộc chinh phục Việt Nam là một vấn đề mà người ta biết khá rõ. Những người lãnh đạo nhà nước của Đệ tam Cộng hòa đã biểu dương sự kiện này một cách trịnh trọng; các giáo sị đã đề cao điều đó. Ta nên lưu ý rằng trong nội bộ họ không phải tất cả đều nhất trí, có những người nhận thức sâu sắc hơn, chỉ dám yêu cầu sự bảo vệ của nước Pháp mà vẫn sợ sự hiện diện của chủ nghĩa thực dân. Trong số đó có Giám mục Puginier mà chúng ta sắp nói đến… Một vua Constantin(19), một vua Clovis(20). Chiến tranh chống các sĩ phu”. Giai đoạn mở đầu công cuộc chiếm đóng Việt Nam của Pháp, giai đoạn mệnh danh là ‘giai đoạn các ông Đô đốc’, đã mang đến cho các giáo sĩ những điều an ủi mong đợi: trong số những tôn giáo ở nước ngoài vào Việt Nam thì duy nhất đạo Gia-tô được quyền truyền giáo; các giám mục Gia-tô trở thành những ‘nhà chức trách’; những khoản trợ cấp và những chuyện chuyển nhượng đất đai ngày càng dồn dập và triều đình Huế buộc phải nhận những ông Bộ trưởng, thậm chí cả một ông vua nữa do các nhà chức trách Pháp áp đặt, theo âm mưu xếp đặt của chính các hội truyền giáo Gesta Dei per Francos (nguyên văn tiếng Latinh có nghĩa là: “Việc Chúa làm qua tay người Pháp”.) Chẳng được bao lâu nếu như La Mã tin (hoặc vờ tin) qua lời trung gian của các Tổng Giám mục Bordeaux và Rouen rằng sự hiện diện của Pháp tại Đông Dương sẽ bảo đảm cho sự thắng lợi của đức tin, nếu như chủ nghĩa đế quốc Pháp lấy làm hài lòng về sự đóng góp có tính chất quyết định của giáo dân Việt Nam vào công cuộc chinh phục, thì trong thực tế mối quan hệ giữa hai bên đã diễn biến nhanh chóng khi cái giờ tổ chức lại những đất đai chinh phục đã điểm. Các hội truyền giáo chỉ có mục đích duy nhất: tạo ra một dân tộc Việt Nam theo đạo Gia-tô. Phương tiện căn bản nhất đối với họ là sự thiết lập tại Việt Nam một nền cai trị vừa Pháp vừa bản xứ, chẳng những Công giáo mà còn là hoàn toàn tận tụy với sự truyền bá đức tin. Chủ nghĩa đế quốc Pháp lại có những mối lo khác. Họ chẳng cần gì cái chuyện dân Việt Nam là Công giáo hay không Công giáo, miễn là nó chịu sống yên lặng mà thôi. Sự hiện diện của Pháp khuyến khích La Mã và các hội truyền giáo, nhất là ‘Hội truyền giáo nước ngoài’, mà chỗ đứng ở Việt Nam sẽ luôn luôn vững vàng hơn cả và số giáo sĩ ngày nay chiếm 80% tất cả các giáo sĩ có mặt ở Việt Nam – thử làm lại cái điều mà họ đã không làm được năm 1787 với Gia Long: đưa Việt Nam trở lại đạo Gia-tô từ trên xuống, bằng cách làm cho nhà vua theo đạo trước, rồi nhà vua sẽ áp đặt tính ngưỡng mới của mình cho các sĩ phu và qua các sĩ phu đến tận nhân dân. Giám mục Guébriant, bề trên tổng quản của các ‘Hội truyền giáo nước ngoài’, năm 1931 có tuyên bố rằng: ‘tác dụng tinh thần do cuộc chinh phục của Pháp đã tạo nên, cách đây 50 năm, đối với nhân dân Đông Dương thật là vĩ đại… Vì những người Pháp đã trở thành những ông chủ của đất nước ấy, người ta quả quyết vậy, đều có cùng một tôn giáo với các giáo sĩ. Vậy thì cái chìa khóa của tương lai đó dường như là nằm trong tay các giáo sĩ’. Nhưng vị Giám mục nói thêm ‘có hội kín franc-maconnerie dưới dạng của viên Toàn quyền De Lanessan’. Chính De Lanessan có kể trong cuốn sách ‘Các hội truyền giáo và chế độ bảo hộ của họ’, ông ta đã làm như thế vào năm 1891 để chấm dứt một âm mưu của các hội truyền giáo nhằm đưa lên ngôi vua một đứa cháu lạc loài của dòng họ đang trị vì, một Hoàng thân bị phế truất đã theo đạo Gia-tô. Cái mưu toan đặt lên ngôi một ‘Constantin’, một ‘Clovis’ của thế kỷ XX ấy, chúng ta sẽ còn gặp lại nhiều lần trong quá trình hoạt động của hội truyền giáo và nhà thờ Vatican tại Việt Nam. Chúng ta gặp lại nó năm 1932 khi người ta tìm cho Bảo Đại một người vợ Công giáo (Nam Phương Hoàng hậu) và biến con cái của nhà vua, trong đó có ‘Thái tử Đông cung’ (Bảo Long) thành những đầy tớ trung thành của đức tin La Mã. Các Toàn quyền kế tiếp nhau ở cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đã chỉ trích các hội truyền giáo coi trọng lợi ích của nhà thờ La Mã mà coi nhẹ lợi ích của nước Pháp ở thuộc địa. Họ chỉ trích chủ yếu các hội đồng ấy đã chống đối một cách có hệ thống chính sách hợp tác mà các ông De Lanessan, Paul Bert, Lyautey, Doumer theo đuổi, gọi là ‘chính sách chòm râu dê’ (la politique detie ‘des barbichettes’): Nội dung của nó là đảm bảo yên tĩnh để khai thác các tài nguyên phong phú của đất nước bằng cách hợp tác với các tầng lớp tư sản và tiểu tư sản dân tộc, các quan lại và các sĩ phu rất dễ nhận ra ở chỗ họ thường để râu cằm, bộ râu cằm ấy không lấy gì làm dày cho lắm dưới khí hậu nước này. Những tầng lớp ấy lâu nay, nói chung, đều thù địch với những cuộc chinh phục của ngoại bang; một chính sách hợp tác sẽ đặc biệt làm cho họ mềm dẻo hơn. Nói thực ra, là những người yêu nước sẽ loại trừ dần dần. Các hội truyền giáo thì coi họ như vật chướng ngại lớn nhất cho công cuộc giảng đạo của mình. Để dẫn chứng, ta hãy nghe cuộc đối thoại đáng […] ngạc nhiên mà toàn quyền De Lanessan kể lại sau đây. Năm 1887, ông đến thăm chính thức người chỉ huy các Hội truyền giáo tại Đông Bắc Việt Nam, Giám mục Puginier. Vì ông ta [Giám mục Puginier] luôn luôn trở lại vấn đề các sĩ phu, De Lanessan viết, tôi nghĩ mình được phép hỏi: ‘Theo ý ông thì nước Pháp phải đối xử với tầng lớp sĩ phu như thế nào?’. Câu trả lời của ông ta rất rõ ràng và ngắn gọn: Phải thủ tiêu họ đi!’ Ông ta đáp kèm theo với một điệu bộ làm cho câu trả lời ấy càng thêm cụ thể hơn. ‘Vì sao?’ Vị toàn quyền hỏi. ‘Vì các sĩ phu có ảnh hưởng rất lớn’ vị Giám mục đáp. ‘Một uy tín rất lớn; họ được kính trọng mỗi khi họ ra làm quan, cho nên cần thiết phải thủ tiêu họ đi. Chừng nào tầng lớp sĩ phu còn thì chúng ta còn phải lo sợ tất cả bởi vì với lòng yêu nước nồng nàn, họ không thể nào chấp nhận nền đô hộ của chúng ta. Còn điều nữa là chẳng một ai trong họ chịu theo đạo Kitô cả”. Chữ Quốc ngữ cách ly người Công giáo: ‘Một chiến thuật khác hiệu nghiệm hơn, bởi vì nó được chế độ địa chấp nhận ngay tức khắc để chia rẽ dân tộc Việt Nam xuất hiện với việc bắt buộc dùng chữ ‘Quốc ngữ’ làm chữ viết chính thức của Việt Nam. ‘Chữ Quốc ngữ’ là một lối dùng chữ cái Latin để phiên âm tiếng Việt. Nó được phát minh ra do một linh mục dòng tên, Alexandre de Rhodes, không phải vì mục đích để dạy cho người Việt Nam và người Trung Quốc, mà để giúp cho các giáo sĩ làm quen một cách nhanh chóng hơn các thứ ngôn ngữ Trung Quốc mà phải học tập nghiên cứu lâu dài mới có thể ghi lại bằng những chữ tượng hình. Các Hội truyền giáo đã khéo léo lôi cuốn được các vị Đô đốc ủng hộ chữ Quốc ngữ ngay từ những ngày đầu của cuộc chinh phục: những tờ công báo đầu tiên xuất bản tiếng Việt ở Nam kỳ đều được viết bằng chữ Quốc ngữ, chứ không phải bằng tiếng Hán. Trong ba mươi năm, một khi chế thuộc địa đã có nền móng vững chắc rồi thì các tầng lớp quan lại và sĩ phu, dù chỉ là để sống còn, đã bắt đầu học chữ ‘Quốc ngữ’ trong khi tại các trường làng (nền giáo dục tiểu học truyền thống hầu như đã phổ biến hoàn toàn ở Việt Nam năm 1880), người ta bỏ mặc việc học tiếng Nôm bằng chữ tượng hình của nó. Các trường này, người ta không nghĩ đến thay thế bằng những trường dạy ‘Quốc ngữ’. Tuy nhiên mục đích của các Hội truyền giáo, khi đã được các ông Đô đốc áp đặt việc học chữ Quốc ngữ không phải là để cho các giai cấp lãnh đạo sử dụng nó. Mục tiêu của họ là ở chỗ khác: trước hết là để đảm bảo cho người Công giáo có những chức vụ nhà nước, nhưng cũng là để ‘cách ly’ người Công giáo khỏi người không Công giáo, nhất là khỏi các sĩ phu ‘nguy hiểm’ ấy. ‘Cách ly’, chính là lời của Giám mục Puginier đã dùng. Để tồn tại, các tầng lớp sĩ phu rồi quan lại sẽ đến với chữ ‘Quốc ngữ’. Hậu quả của việc ‘thoái vị’ này rất to lớn và chưa được tìm hiểu kỹ càng. Với sự thiết lập chính thức chữ ‘Quốc ngữ’ thì cái công cụ truyền thống của nền văn hóa dân tộc Việt Nam, tức chữ Hán lập tức bị tiêu tan. Người ta dùng phương pháp nhân tạo để cắt đặt đất nước Việt Nam khỏi nền văn minh Trung Quốc mà nền văn hóa Việt Nam phần lớn đã bắt nguồn từ đó. Hơn nữa so với lối viết tượng hình thì cách thức diễn đạt của chữ ‘Quốc ngữ’ có xu hướng cách ly Việt Nam với cả khối cộng đồng văn hóa và chính trị phức hợp của châu Á, do Trung Quốc, Triều Tiên và Nhựt Bổn tạo thành. […] Nhưng có lẽ nào tiếng nói cứ luôn luôn phải là cái điều vừa xấu nhất vừa là tốt nhất trên đời? Nếu chữ ‘Quốc ngữ’ và sự triệt tiêu của chữ Hán ngày nay vẫn đặt ra những vấn đề lớn cho các nhà lãnh đạo Việt Nam, thì cái bảng chữ cái ‘Latin’ hóa đã góp phần rất đắc lực trong công cuộc đấu tranh chống nạn mù chữ tiến hành: chỉ cần học sáu tháng là đọc được chữ ‘Quốc ngữ’ và chính nhờ bảng chữ cái ‘Latin’ mà Hồ Chí Minh đã có thể chỉ trong năm năm thanh toán được nạn mù chữ trong 95% dân số Việt Nam. Người Việt Nam cũng có vặn lại rằng nếu như chữ ‘Quốc ngữ’ không bị người Pháp áp đặt cho họ, nếu các trường làng truyền thống không bị phá đi thì có lẽ không có vấn đề mù chữ phải thanh toán năm 1945. “Tương tự, sự nhập khẩu qua Việt Nam mối xung đột của Cộng hòa Pháp với các tổ chức Gia-tô giáo ở chính quốc, hòa nhập là một với mối xung đột rất khu biệt của các Hội truyền giáo với các nhà chức trách thuộc địa: các nhà chức trách thuộc địa thì chủ trương liên kết các nhà lãnh đạo Việt Nam, khi cần thì bằng cách vừa đồi trụy hóa, vừa chém đầu họ để khai thác đất nước; các Hội truyền giáo thì một hai muốn triệt tiêu các tầng lớp quan lại và sĩ phu đi, vì ảnh hưởng của họ tác động đến quần chúng thấp kém, nhưng lại là đối tượng được ưu ái của các giáo sĩ trong khi chờ đợi một ngày cả nước sẽ trở lại đạo Gia-tô, khi người ta đặt được lên ngôi một ông vua tận tụy với đức tin. Một cuộc xung đột kể ra khá thanh thản. Các bên đối thủ không đấu tranh với nhau công khai; lợi ích về sự có mặt thuộc địa vượt lên trên tất cả. Chế độ [bảo hộ] chỉ đặt ra cho các hội truyền giáo một số giới hạn rất hợp lý hợp tình; đạo luật về sự tách biệt nhà nước với nhà thờ sẽ không công bố ở Đông Dương. Các Hội truyền giáo sẽ tận dụng được một cách tối đa sự che chở của nhà nước đã cho họ trên thực tế. Không những trên phương diện của cải vật chất – số của cải này ngay từ 1920 sẽ hết sức quan trọng – mà còn trên phương diện thật sự tôn giáo nữa. Theo Giám mục Guébriand: ‘Cho đến 1860, số giáo sĩ ở Đông Dương chưa bao giờ đạt đến tới 50.’ Từ 1900 về sau, con số đó thường xuyên là 380 - 400. Sự phát triển của giới tu sĩ bản xứ lại càng đáng ngạc nhiên hơn nữa: năm 1862 có 55 linh mục Việt Nam; năm 1892 là 101; năm 1930 là 1.102. Tóm lại là sự hợp tác giữa các Hội truyền giáo Gia-tô tại Đông Dương với chế độ thuộc địa chưa bao giờ là một sự hợp tác thực tình tin cậy lẫn nhau, trừ thời gian trước 1900. Nhưng sự hợp tác đó đã có lợi cho các hội truyền giáo trên cả hai phương diện vật chất và tôn giáo(21)”. Trái với đạo Tin Lành(22a)(22b), việc rao giảng Phúc Âm của các giáo sĩ được dư luận cảm thấy như một ý muốn đế quốc chủ nghĩa của nhà thờ Gia-tô. Do dấn bước vào con đường thực dân, đạo Gia-tô đã tự nó làm mất đi uy tín của nó, mất đi sức mạnh tỏa sáng và ảnh hưởng tinh thần của nó.Vốn rất giàu và có thế lực, Hội truyền giáo Gia-tô đã sử dụng tài sản và những chỗ dựa chính quyền có sẵn ở tầm tay của họ để duy trì đức tin của các họ đạo bản xứ và chinh phục linh hồn. Còn cái tình thế của các họ đạo trong lòng xã hội Việt Nam thì chẳng có gì nên mơ ước. Kết thành một khối riêng biệt người Công giáo, trong thời gian quân Pháp đánh chiếm Việt Nam, thực tình đã cấu kết với quân xâm lược; họ không ngần ngại theo lời kêu gọi của các giáo sĩ, cầm vũ khí đứng lên chống lại Tổ quốc. Những người Gia-tô giáo chân thành, như Francois Mauriac, là những người đầu tiên chịu lỗi và có lẽ cả biện bạch nữa trước thái độ thù địch đối với nhà thờ La Mã của hầu hết các thuộc địa cũ: “…Cần thiết phải dám thừa nhận – nhà Viện sĩ hàn lâm ấy [F.Mauriac] tuyên bố - rằng hiện tượng chinh phục thuộc địa ở châu Phi hoặc những nơi khác, đồng thời cũng là một hiện tượng phi Cơ đốc hóa, do lỗi của những nước gọi là Công giáo đã lợi dụng đạo Kitô và việc rao giảng Phúc âm phục vụ cho công cuộc thống trị và bóc lột. […] Có lẽ phải lâu lắm, có thể là hàng thế kỷ nữa, tại các dân tộc ấy, Kitô giáo không bị lẫn lộn với người đi áp bức. Mong sao tinh thần Vatican II từ đây sẽ chiến thắng và sự ‘phi thực dân hóa tôn giáo’ sẽ tiếp nối theo sự phi thực dân hóa chính trị.” Lúc đó nước Việt Nam, trong nền độc lập hoàn toàn được khôi phục trở lại, sẽ lo thực hiện một cách phấn khởi lý tưởng mà hai mươi lăm thế kỷ trước đây, nhà hiền triết Lão Tử đã nêu lên: “Sáng tạo, mà không sở hữu, Xây dựng, mà không giữ lấy, Phát triển, mà không thống trị”.. TS Nguyễn Xuân Thọ Nguồn: (Alpha Books - Ebook) Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam 1858-1897 Trang Lịch Sử |