Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam Sau TS Nguyễn Xuân Thọ https://sachhiem.net/NGXUANTHO/BuocMoDau_12.php
Chương 18 - Cuộc Kháng Chiến Của Vua Hàm Nghi Và Việc Vua Đồng Khánh Lên Ngôi Tướng Roussel de Courcy đã được thỏa mãn: trong cái ngày 5/7/1885 náo loạn ấy, ông ta đã chiếm được kinh thành nước Việt Nam, bị bỏ ngỏ. Ông ta đã đạt được mục đích của mình; ngôi sao của ông ta đang “bùng lên một ánh sáng chói lọi mới…”. Câu chuyện vua Hàm Nghi bỏ trốn về vùng núi rừng phía Bắc, rồi tổ chức cuộc kháng chiến kéo dài 20 năm sau, khi nhà vua bị bắt thì ở Pháp chẳng ai để ý tới, kể cả chánh phủ, cũng như dư luận. Sau khi từ biệt vua Hàm Nghi ngay trong cái này nhà vua rời bỏ kinh thành, tức ngày 5/7/1885, lúc 10 giờ sáng, ông phụ chánh đại thần Nguyễn Văn Tường đến nhà Giám mục địa phận Huế, Caspar, người Pháp để nhờ giám mục dẫn ông đến gặp tướng De Courcy. Cử chỉ đó của Nguyễn Văn Tường dĩ nhiên đã được tính toán trước là nhằm quan hệ với người Pháp, qua sự trung gian của vị giám mục. Ông biết dư luận của tướng Courcy đối với ông ta không đến nỗi bất lợi, nhất là sau khi cứu được vị Kinh lược Bắc kỳ, Nguyễn Hữu Độ mà Tôn Thất Thuyết đã toan xử chém đầu vì đã tự động thông đồng với những kẻ cầm đầu của quân xâm lược. Tường thấy giờ của mình đã điểm; dưới con mắt của những người Việt Nam yêu nước, thì cuộc phản bội của ông ta xảy ra một cách hấp tấp vội vàng và trong những điều kiện như vậy càng thêm bỉ ổi, nhuốc nhơ. Chẳng bao lâu sau, ông ta bị quân Pháp lợi dụng. Ngày 7/7/1885 tại Huế, mọi sự đều yên tĩnh; nhưng quyền lực của De Courcy không thể vượt ra khỏi phạm vi của nó. Vị tướng Pháp tỏ ra rất lúng túng, bởi vì mọi sự ở Việt Nam đều đã thay đổi, sau cuộc bỏ chạy của ông vua trẻ Hàm Nghi. Ở Huế không còn có chánh phủ, không còn có công việc hành chánh gì nữa cả; chẳng ai có thể đứng ra đảm bảo cho việc thi hành các hiệp ước đã ký với nước Pháp cả. Và trong một nước như Việt Nam, mà công việc hành chánh được tổ chức rất tập trung, cần phải tránh bằng mọi giá tình trạng hỗn độn vô chánh phủ là một hậu quả tất nhiên phải xảy ra tại các tỉnh, sau khi vua Hàm Nghi chạy trốn và thất thủ kinh thành. Đúng vào lúc này, Champeaux biết tin Tường đầu hàng và cuộc đầu hàng của Tường sẽ kéo theo sự đầu hàng của vua Hàm Nghi, Champeaux tin tưởng như vậy. Viên đại diện lâm thời bèn khuyên tướng De Courcy chấp nhận sự đầu hàng viên quan phụ chánh cũ mà ông ta coi như người duy nhất còn có uy tín cần thiết để lãnh đạo công việc quốc gia theo ý muốn của nước Pháp, trong hoàn cảnh một cuộc khủng hoảng quyết liệt gay go như thế này. Hơn nữa, chữ ký “quan phụ chánh” của ông ta hợp thức hóa mọi giấy tờ văn bản hành chánh. Nguyễn Văn Tường theo Giám mục Caspar tới sứ quán, được Courcy tiếp kiến. Courcy ra hạn cho ông ta trong hai tháng phải mang lại bình yên cho đất nước. Nhưng vì không tin tưởng lắm, Coucry cho quản thúc ông ta tại lầu “Thương Bạc”, dưới sự kiểm soát của các sĩ quan và một đội lính gác. Từ đó, mọi người Việt Nam đều nhận định rất đúng, rằng tên phản quốc ấy chỉ là một tù nhân của quân Pháp, và tất cả mọi mệnh lệnh ký tên của ông ta đều do quân Pháp áp đặt tất. Quả thực ngay từ ngày 6/7/1885, Tường ký một chỉ dụ kêu gọi những ai ủng hộ nhà vua chạy trốn hãy trở về đầu hàng Pháp trong thời hạn 12 ngày kể từ ngày 9/7; một chỉ dụ khác giải tán quân đội chính quy chỉ để lại các binh đội lính canh của các phủ huyện, tức các “lính lệ” mà thôi. Mỗi trấn thủ các tỉnh đều được thông báo về việc này. Tường cũng đồng thời lo chuyện mời bà Thái hậu và các hoàng hậu trở về lăng Tự Đức. Ông biên thư cho vua Hàm Nghi yêu cầu nhà vua hồi kinh và mời các Hoàng thân tới trình diện tại sứ quán để bàn bạc với đại diện lâm thời Pháp. Ngày 30/7/885, trong một cuộc họp tại sứ quán Pháp mà tham dự là có đại diện lâm thời Champeaux và Vụ trưởng Vụ Dân sự chính trị Silvestre, đại diện tướng De Courcy, Nguyễn Văn Tường và Nguyễn Hữu Độ, cùng ba quan chức cấp cao khác, được các đại diện Pháp trao trách nhiệm lập lại chánh phủ. Thực ra đã được tướng De Courcy chỉ định sẵn rồi. Hội nghị chấp nhận thay vào ban phụ chánh trước đây, gồm ba người, nay chỉ có một phụ chánh duy nhất lãnh đạo chánh phủ nhân danh nhà vua. Hoàng thân Thọ Xuân, chú của vua Tự Đức, người cao tuổi nhất trong cả hoàng gia, 76 tuổi, được toàn thể Hội nghị bầu lên và ông ta đã nhận. Nguyễn Văn Tường được chỉ định đứng đầu Viện Cơ mật, với hai ông Nguyễn Hữu Độ và Phan Đình Bính làm phụ tá. Cái “Hội đồng bí mật” (Viện Cơ mật) này đã trở thành Hội đồng chánh phủ thực sự duy nhất nắm “độc quyền” giải quyết mọi vấn đề nghiêm trọng. Nguyễn Hữu Độ cùng một lúc, vừa giữ chức Phó Viện trưởng Viện Cơ mật vừa được phong“Võ Hiển” nhưng được phái ra Bắc Kỳ với tư cách “Đại Ngự Sử”. Với tư cách này, Độ sẽ thực hiện mọi chức năng của một vị “Kinh lược” (Phó vương) và khoác luôn chức danh ấy. Trong thực tiễn thì quan “Kinh lược” đặt dưới quyền trực tiếp của viên thống sứ Pháp – là một cách làm trái với Hiệp ước bảo hộ; chính quyền Việt Nam ở phía Bắc mà người ta vẫn xưng danh “bảo hộ”, bị xóa bỏ một cách đơn giản nhẹ nhàng bằng cách đó. Sự khác nhau về chế độ giữa miền Bắc với miền Trung, được dự kiến trong Hiệp ước ngày 6/6/1884 như vậy là đã bị thay đổi khác đi. Một thỏa ước được dự thảo ra sau cuộc họp ngày 30/7/1885 đó và gửi sang Paris để chuẩn y được kèm theo như là phụ lục của Hiệp ước bảo hộ. Nó ghi rằng “tất cả các tỉnh của vương quốc An Nam (tức Trung kỳ chính thức và Bắc kỳ) sẽ cùng phụ thuộc vào một chế độ bảo hộ ấy”. Cả miền Trung nước Việt Nam cũng sẽ đặt dưới quyền của các nhà cai trị Pháp như ở miền Bắc, kể từ đó. Vậy là chút quyền hành nhỏ này mà Hiệp ước 1884 để lại cho chánh phủ Việt Nam, trên phần nhỏ lãnh thổ quốc gia này, đã bị xóa luôn. Nguyễn Văn Tường và Nguyễn Hữu Độ(1) đã dâng cả đất nước, một cách cố tâm vào con đường nô lệ hoàn toàn, và giúp cho Pháp hoàn tất việc đô hộ nước Việt Nam. Việc kiểm soát thu và chi mọi khoản thuế khóa và lợi tức công cộng của đất nước thuộc về tay người Pháp; ngân sách chi tiêu sẽ do chánh phủ bảo hộ quy định, viên khâm sứ toàn quyền có thể triệu tập Viện Cơ mật trong bất cứ trường hợp nào và trong trường hợp triệu tập này, chính viên khâm sứ sẽ chủ tọa phiên họp của Viện Cơ mật; đó cũng chính là nghị quyết của Hội đồng chánh phủ giả hiệu đầu tiên của Việt Nam. Sự thiết lập chánh phủ này không đủ để làm yên lòng cả nước. Đi theo con đường chiến tranh du kích, Hàm Nghi đã thể hiện đúng tinh thần và ý chí của dân tộc Việt Nam quyết chiến đấu đến cùng chống bọn xâm lăng để giành lại độc lập của mình. Ông kêu gọi nhân dân đứng lên khởi nghĩa, mà chính nhân dân này lâu này thù địch “chống đối” với triều đại nhà Nguyễn và họ coi gần như là những kẻ chiếm ngôi. Bằng cử chỉ cao đẹp đó, Hàm Nghi đã đưa lại cho chế độ quân chủ, trong một vài năm một uy tín lớn lao mà các tổ tiên ông chưa bao giờ được biết. Cuộc đấu tranh Hàm Nghi phát động đã kéo dài khoảng 28 năm, bởi vì mãi đến năm 1913, Đề Thám vị tướng cuối cùng của Hàm Nghi, mới bị bêu đầu. Hưởng ứng lời kêu gọi và noi theo gương sáng của nhà vua, các văn thân và chí sĩ yêu nước lãnh đạo phong trào khởi nghĩa đang đe dọa lan rộng ra khắp nước. Những vụ tàn sát người Công giáo, mà những kẻ có tinh thần dân tộc có đủ lý do để coi như những thành phần tích cực nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp, gây nên những nỗi lo hết sức sâu sắc cho tướng De Courcy. De Courcy càng lo ngại hơn khi chánh phủ Pháp đã ra lệnh cho ông ta chấm dứt mọi hành động quân sự và từ chối không gửi qua Việt Nam một sự viện trợ mới nào, sợ gây chấn động trong dư luận quần chúng trước những cuộc tuyển cử sẽ diễn ra vào cuối tháng 9. Viên tướng mà trong tư tưởng quân sự chỉ nhìn thấy có thanh kiếm của mình và những họng súng của quân lính ấy, giờ đây ngập đầu trong bao nhiêu công việc. Các thư từ của ông ta gửi về Paris đã nói lên sự hoang mang đó của ông ta. Ông ta đã đề nghị với Bộ trưởng Ngoại giao: “…Rời bỏ Bắc kỳ hay ít nhất cũng là rời bỏ những vùng chúng ta đang chiếm và muốn chiếm ở phía trên vùng châu thổ; chiếm lấy Trung kỳ là vùng mà nếu được quản lý tốt, với những món tiết kiệm được bằng cách chúng ta cho hồi hương quân đội, thì đối với chúng ta sẽ trở thành một xứ thuộc địa giá trị rất đáng kể(2)”. Và trong thư ngày 2/8/1885, gửi Bộ trưởng Chiến tranh, ông nhấn mạnh: “…Vì muốn chinh phục và chiếm đóng, vững bền bằng lực lượng quân đội, những vùng xa xôi cùng tận của Bắc kỳ như Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang mà chúng ta đã ném đi những số tiền khổng lồ, đã phung phí bao nhiêu máu xương của người Pháp và phá hoại sức khỏe của binh lính chúng ta. Tiếp tục hệ thống ấy, mở rộng nó lên tận Lào Kay, lấy cớ là để mở một con đường đi sâu vào nội địa ‘lừng lẫy’ mà chẳng bao giờ có một cái gì đã đi qua và sẽ đi qua, ấy sẽ là phạm một lỗi lầm ghê tởm; lỗi lầm đó sẽ càng thô bạo và bất khả dung khi những bài học kinh nghiệm tươi rói còn kia để nhắc nhở chúng ta đừng tái phạm. Những vùng đất thật sự có sinh lợi của Bắc kỳ chính là được giới hạn ngay tại những tột cùng mà dòng sông cho phép các pháo thuyền mớn nước thấp của chúng ta ngược lên được. Xa hơn nữa, chỉ là khoảng trống không, bởi tôi không mơ gì những vùng mỏ giàu có, chỉ tồn tại tôi rất sợ như vậy, trong trí tưởng tượng quá dạt dào của một đôi nhà thám hiểm mà thôi…”. Những bức thư ấy có thể hoàn tất bức chân dung của một vị tướng chẳng hiểu biết gì ngoài chuyện quân sự thuần túy. Và chẳng phải mỉa mai một cách đáng buồn, ngay cả trước con mắt người Pháp, khi thấy ông ta lên tiếng gièm pha việc sử dụng sông Hồng hoặc nguồn tài nguyên vô tận của Bắc kỳ, trong lúc hai mươi năm nay, toàn bộ chính sách của Pháp ở Việt Nam là xây dựng trên cơ sở chiếm lấy Bắc kỳ được coi như một cái nguồn bất tuyệt của sự buôn bán và khai mỏ sao? Dĩ nhiên là những đề nghị của De Courcy chẳng được ai hưởng ứng. Trong một công hàm gửi từ Hà Nội, ngày 14/11/1885 cho Freycinet, Bộ trưởng Ngoại giao, Bourcier Saint-Chaffray, trưởng phái đoàn Pháp tại tiểu ban Pháp - Trung phân định các đường biên giới Bắc kỳ, có viết như sau khi nói đến tướng De Courcy: “…Ở đây, người ta lên án ông ta nhiều việc, nào là ông ta chỉ là một trong những tên lính vô tư và hoàn toàn chẳng hiểu bất cứ một cái gì không phải là nghề nghiệp lính của ông ta; nào đối với ông ta thì ngay cả Tổ quốc cũng chẳng là cái gì ngoài quân đội ra; nào ông ta chỉ hiểu Bắc kỳ như một mảnh đất phong độc chiếm của ngành quân sự, một Algérie thứ hai mà ở đó bản thân ông ta cùng các sĩ quan ‘sủng ái’ của ông ta, có thể tìm thấy danh vọng và lợi quyền, dù chỉ bằng cách tiết kiệm hằng năm những số tiền to lớn do cắt giảm chính tiền lương của họ. Nhiều người khác thì phê phán ông ta có tính nóng nảy, tàn nhẫn, độc đoán, theo kiểu những tên bạo chúa, dễ rơi vào trạng thái điên khùng, một ông già đồng bóng và trên hết, là sợ ánh sáng có thể đôi khi rọi vào mỗi một hành vi nhỏ của mình; một số người khác nữa thì lên án ông ta đã làm cho mọi sự vật xung quanh trở thành bất động, bằng cách đưa mọi sự về cho bản thân mình, luôn luôn múa may quay cuồng giữa sự bất động xung quanh ấy và tin rằng mọi sự chạy đều, rất tốt, bởi vì ông ta luôn luôn qua lại, ngược xuôi(3)”. Paris ra lệnh cho De Courcy không được khởi hành bất cứ một việc gì có chút quy mô, trước khi chiến dịch bầu cử kết thúc; lệnh ấy, vô tình đã để cho Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết có một thời gian nghỉ ngơi. Từ Tân Sở, thủ đô kháng chiến mà nhà vua đang ẩn náu cùng với một nhóm sĩ phu yêu nước kiên cường, Hàm Nghi phát đi trong nhân dân, lúc này đang hết sức hoang mang, những lời kêu gọi hùng hồn, “với người giàu thì yêu cầu góp tiền góp của, với người có thân thế thì yêu cầu góp sức mạnh và sự hùng cường của họ, với người dũng cảm thì yêu cầu cống hiến sức mạnh cánh tay của họ mình để giành lại Tổ quốc từ tay kẻ xâm lăng”. Hưởng ứng lời kêu gọi, nhiều cuộc khởi nghĩa nổi dậy khắp nơi, chỗ nào cũng có. Trừ một nhóm quan lại nhỏ theo kẻ chiến thắng, cam tâm hợp tác với quân xâm lược để duy trì và tăng cường chế độ phong kiến, rất nhiều nhà Nho yêu nước nồng nàn đã tự nguyện bỏ quan về để khỏi phải phục vụ một chánh phủ ô nhục và một kẻ chiếm đóng ngoại quốc. Họ sống giữa lòng nhân dân, phần lớn trong những điều kiện khiêm tốn và có rất nhiều uy tín. Các “Văn Thân” (tức các sĩ phu) sắp đóng vai trò những người cổ vũ chân chính cho phong trào kháng chiến nhân dân, mỗi ngày mỗi phát triển rộng lớn thêm lên. Ở miền Trung đã diễn ra một cuộc chiến tranh chống quân Pháp thực sự và kéo dài trên hai mươi năm. Trong số những cuộc nổi dậy dó, ta hãy kể những cuộc quan trọng nhất xảy ra trong hai năm 1885 và 1886; đó là cuộc khởi nghĩa của Phạm Bành, Đinh Công Tráng và Hà Văn Mao tại Thanh Hóa; Nguyễn Xuân Ôn và Lê Doãn Nhã, tại Nghệ An; Lê Ninh và Ấm Võ, tại Hà Tĩnh; Trương Đình Hội và Nguyên Tử Nha, tại Quảng Trị; Trần Văn Dư và Nguyễn Duy Hiến, ở Quảng Nam; Mai Xuân Thông, Bùi Biên và Nguyễn Đức Nhuận, tại Bình Định… Ở miền Nam, dưới sự kiềm kẹp chặt chẽ của bàn tay quân Pháp, ít có những cuộc nổi dậy đáng kể. Để phòng bị, quyền Thống đốc là tướng Bégin đã đặt tất cả các đồn bót vào thế phòng ngự và gửi cho tất cả các viên quan cai trị một thông chí, nhắc nhở các làng thi hành những nhiệm vụ do pháp luật quy định và chỉ rõ trách nhiệm cụ thể của các làng. Ông ta đã ra một nghị định cấm không cho vào Nam bất cứ người Việt Nam nào không có một giấy thông hành do chính quyền Pháp ở miền Trung cấp. Cuộc kháng chiến nhân dân này, đồng thời cũng là một cuộc kháng chiến hợp pháp. Trong lúc chạy trốn, Tôn Thất Thuyết đã mang theo chiếc đại ấn của quốc gia, biểu hiệu của chính quyền hợp pháp và những lời kêu gọi đóng dấu ấn này có uy thế rất lớn lao đối với nhân dân. Tại Paris, nội các Brisson tiếp tục đường lối chính sách của Jules Ferry, mặc dù những cuộc bỏ phiếu lập pháp năm 1885 liên quan chủ yếu đến vấn đề Bắc kỳ, đã ít nhiều làm cho phe đối lập cánh hữu thù địch với chủ nghĩa thực dân, được củng cố thêm. Cuối năm 1885, khi chánh phủ yêu cầu chuyển số kinh phí về Bắc kỳ của năm tài chính 1885 chưa chi hết 79 triệu franc sang cho năm 1886 thì George Perrin, chủ tịch tiểu ban, cũng như đa số của ban này phản đối và đòi rút quân ra khỏi Bắc Kỳ. Riêng chỉ một mình Freppel, Giám mục Angers và đại biểu quốc hội suốt cả phiên họp thảo luận, đã đấu tranh sôi nổi chống lại luận đề rút quân này. “…Các Ngài sẽ được gì với việc rút quân ở Bắc kỳ? Nhục nhã và mất danh dự, không gì khác. […] Cái điều mà cử tri đoàn chỉ trích không phải là bản thân cuộc viễn chinh Bắc kỳ mà là sự chỉ đạo kém cỏi cuộc viễn chinh ấy. […] Chính do những biện pháp nửa vời, những mò mẫm, những sự lần chần tránh né, những sự hoãn đi hoãn lại… đã cho phép Trung Quốc và An Nam tung ra trận những lực lượng mà họ không có lúc ban đầu. […] Các Ngài có lẽ nào gạt lại sau lưng các Ngài con số bốn năm trăm nghìn giáo dân, mà sai lầm duy nhất của họ mà tội nặng của họ, đã mang tiếng xấu về mình, là vì họ đã bảo vệ quyền lợi của nước Pháp sao?... Phải, cái công cuộc mở rộng thuộc địa của nước Pháp quả là điều rất có lợi, rất hợp lý. Đúng là bổ ích và hợp lý vô cùng, nếu chúng ta kết vào với Bắc kỳ, cả An Nam, Nam kỳ và Campuchia lại, để làm thành một nước mạnh, tương đương với các nước Đại Ấn…(4)”. Tiểu ban đã hỏi ý kiến của Bộ Ngoại giao, Bộ Hải quân, bộ Chiến tranh; họ đã gửi cho tiểu ban từng đống tài liệu; họ đã giới thiệu cho tiểu ban nhiều chứng nhân; trong đó, chỉ một mình Đô đốc Duperré tán thành sự rút lui quân Pháp khỏi Bắc kỳ. Cuối cùng, sau bốn ngày bàn cãi, các kinh phí đã được biểu quyết với 274 phiếu thuận và 270 phiếu chống, chỉ thắng 4 phiếu. Thấy mình không giành được một đa số đầy đủ, Nội các bèn từ chức ngày 28/12/1886. Chính là Freycinet sẽ tổ chức nền bảo hộ tại Bắc kỳ. Tại Huế, chánh phủ mới vừa tạm thời ổn định thì tướng De Courcy đã bắt buộc phải ra Bắc kỳ; ở đây đang có một cuộc tổng nổi dậy: toàn đất nước đáp ứng lời kêu gọi của nhà vua lưu vong. Lúc đi qua Hải Phòng, ông ta có một cuộc họp quân sự với các tướng miền Bắc nhằm chuẩn bị một cuộc tổng hành quân tại miền Trung. Sau đó, ông loan báo cho Paris biết về cuộc hành quân đã dự kiến đó: đại tá Pernot với 1.500 quân sẽ đuổi theo Tôn Thất Thuyết, xuất phát từ Huế; tướng Négrier thì đi từ Nam Định qua Ninh Bình và Thanh Hóa vào; hai đạo quân sẽ gặp nhau. Paris dứt khoát chống lại, vẫn với lý do “gần ngày tuyển cử”; Paris không muốn có một cuộc hành quân nào trước mùa đông. De Courcy đành phải bỏ kế hoạch chiến đấu, ở Trung cũng như ở Bắc. Vả lại, cái phương án kia cũng ít có cơ may thắng lợi, bởi vì sườn núi Tây Trường Sơn, phía Lào, tuyệt đối không thuận lợi chút nào cho một cuộc truy kích quân sự. Hơn nữa lúc này, quân đội Pháp đang trải qua một căn bệnh dịch khủng khiếp: bệnh dịch tả. Tuy không đánh nhau mà đã gây nên cho quân đội Pháp 4.000 người tử vong! Vậy là De Courcy đành chuyển sang những chiến dịch “ngoại giao”, mà về ngoại giao thì ông ta chẳng bao giờ là một nhân vật xuất sắc cả! “Nạn nhân” đầu tiên của “chiến dịch ngoại giao” này chính là Nguyễn Văn Tường. Thời hạn hai tháng mà De Courcy định cho Tường bình định xong đất nước, kết thúc vào ngày 5/9; chính cũng là lúc mà sự bất an ninh và những cuộc nổi dậy diễn ra ngày càng trầm trọng. Mặc dù sống dưới sự kiểm soát chặt chẽ của người Pháp, mà thực tình ông ta chỉ là một tù binh, Tường vẫn bị Courcy nghi ngờ là thông đồng với quân phiến loạn, phe chống đối, chỉ trích ông ta về thái độ mập mờ của ông ta và tố cao ông ta đã cung cấp cho chế độ bảo hộ những tin tức không thật. Tất cả những nghi ngờ đó đều khó lòng mà có căn cứ, nhất là sau khi chúng ta biết tâm hồn, tính cách của Tường, chẳng cao thượng gì cho lắm. Nhưng tướng Courcy muốn, bằng cách đó, thanh minh cho những thất bại của chính ông ta. Và vị “chủ tịch Viện Cơ mật” vừa mới được người Pháp tôn lên chức vụ này đã bị, cũng chính những người Pháp ấy, ra lệnh bắt giam. Ngày 22/10/1886, ông ta bị đưa xuống thuyền đày ra nhà tù Côn Đảo, cùng với nguyên Thượng thư bộ Hộ, Phạm Thân Duật và thân phụ Tôn Thất Thuyết, là Tôn Thất Định, đã bị quân Pháp giữ làm con tin một cách hèn nhát từ ngày 6/7/1885. Phạm Thân Duật chết trên đường đi đày và xác của ông bị ném xuống biển. Nguyễn Văn Tường thì sau đó bị giam giữ tại Tahiti, được chánh phủ Pháp ban cho một khoản trợ cấp (hằng năm) là 30.000 francs. Những việc trợ cấp này đã gây nên những sự phản đối quyết liệt đến nỗi chỉ vài hôm sau đó, một chỉ dụ của Hoàng đế, có chữ ký của Courcy kèm theo, hủy bỏ mọi phẩm tước đã được ban thưởng cho Tường và ra lệnh tịch thu tài sản. Đồng Khánh Lên Ngôi Tuy rằng một chánh phủ mới, do sự thu xếp của Courcy, đã được thành lập tại Huế, công việc quốc gia không được ổn định chút nào theo như ông này mưu tính. Sau khi đày Tường đi Tahiti, Courcy quyết định chọn một vua khác thay Hàm Nghi. Ông ta hy vọng chấm dứt được tình trạng loạn lạc đang nổi lên khắp đất nước và dĩ nhiên ông ta chỉ nghĩ đơn giản là thay vào chỗ ông vua theo kháng chiến một ông vua khác, do nước Pháp chọn và đưa lên ngôi, tập hợp xung quanh ngai vàng cái số rất ít những kẻ tán thành chế độ chiếm đóng của ngoại bang. Ngay sau khi vua Hàm Nghi rời Huế ra đi, đoàn người theo vua đã thâu lần cho nhẹ một số những nhận vật, do tuổi tác già nua hoặc bệnh tật mà không có khả năng sống một cuộc sống lang thang. Người ta hết sức ngạc nhiên thấy trong số này, có Hoàng thân Chánh Mông, là người không thể viện những lý do nói trên để trở về vì ông ta mới có 23 tuổi và hoàn toàn khỏe mạnh. Hầu ngay tức khắc, ông Hoàng thân này xin được gặp tướng De Courcy. Vì Courcy vắng mặt hôm đó, Chánh Mông được viên đại biện lâm thời tiếp đón. Ông yêu cầu được đặt dưới quyền bảo hộ của người Pháp; Champeaux bèn cho ông được có một chỗ ở quanh quẩn sứ quán Pháp và mời ông hãy sống yên ổn ở đây. Ông ta đã ở đây không lâu. Đầu tháng 11/1885, tướng De Courcy muốn tìm một người đặt lên ngôi cho triều đình Huế; tất nhiên là Courcy nghĩ đến Chánh Mông, một “ứng cử viên” hầu như đã được chỉ định, ở ngay tầm tay của ông ta và lại là một “lựa chọn tốt”. Khi được đưa lên ngôi vua, người con cuối cùng của Tự Đức, người Pháp tự nghĩ mình đã dựng lên cho Việt Nam một ông vua do chính họ lựa chọn. Chánh Mông vừa chứng minh là ông coi nước Pháp như kẻ tâm đầu ý hợp mà đi với nước Pháp. Thỉnh thoảng ông ta có một vài cơn điên, Rheinart rất biết vậy. “Những cơn điên có vẻ chẳng nguy hiểm gì, nhưng vẫn tái xuất hiện, lâu lâu một lần trong thời gian ông ta trị vì”; nhưng chẳng gây trở ngại gì cho ông ta, cũng như cho chánh phủ bảo hộ. Còn tình cảm của dân tộc đối với ông ta ư? Lãnh đạm, khinh bỉ hoặc căm thù. Đối với người Việt Nam, chỉ có một ông vua và chỉ có một thôi là Hàm Nghi; ông vua đã nổi lên chống lại quân Pháp. Ngày đăng quang định vào ngày 29/6/1886(5), làm nổi bật lên chủ yếu một điều: ông ta chỉ là một kẻ chư hầu tội nghiệp. Chính Chánh Mông tự thân hành đi đến sứ quán Pháp, ở đó Courcy đang “đợi” ông ta. Chưa bao giờ một ông vua Việt Nam lại chịu chấp nhận một sự khinh mạn nhục nhã đến thế này. Ông vua trị vì dưới niên hiệu “Đồng Khánh” ấy (Hạnh phúc liên minh giữa hai dân tộc hùng cường) (1885-1889), tự tay mang bức thư thụ phong mà ông ta phải trao cho vị tướng Pháp. Chính là tại sứ quán Pháp mà ông ta được thụ phong. Lúc trở về cung, khi “Hoàng đế” muốn theo nghi thức lên ngôi ở chiếc cáng khiêng tay của mình, thì Courcy cản lại ba lần không cho: “Hoàng đế” phải đi bộ bên cạnh vị tướng Pháp cho đến gian phòng đặt ngai vàng. Sau đó, Courcy hỏi một câu hỏi khá bất ngờ: “Nhà vua muốn một đội thân binh người Pháp hay người Việt?”. Đồng Khánh trả lời luôn không chút do dự: “Người Pháp”. Người thấy rất rõ: chủ quyền của Việt Nam sẽ được “giữ chặt”. Để cho cuộc thụ phong này thêm phần giá trị, các nhà chức trách chiếm đóng đã cho cử hành, liền sau lễ thụ phong, nghi thức chuẩn y của Thái hoàng Thái hậu(6). Nhưng nhân dân, không ai bị lừa bịp trước lời tuyên bố của một người đàn bà bảy mươi tám tuổi, vừa câm, vừa điếc, bao nhiêu năm nay, mà người ta đã dùng áp lực cưỡng bách phải nói lên và công nhận lễ thụ phong này; lời tuyên bố do người Pháp viết ra và buộc bà ta phải ký vào, vì lý do “đại sự quốc gia”. Tại Huế với nhà vua mới này, công việc của các nhà chức trách Pháp trở nên rất nhẹ nhàng: Viện Cơ mật, do một quan chức Pháp chủ tọa và Đồng Khánh không ngớt bộc lộ những dấu hiệu phục tùng nô lệ của mình đối với kẻ chiếm đóng. Ngày Đồng Khánh nhận lễ thụ phong từ tay tướng De Courcy, trong buổi yết kiến từ biệt, nhà vua mới phong cho De Courcy tước “Đại Quận công – Người bảo hộ vương quốc”. Vài tháng sau, ngày 23/2/1886, Đồng Khánh chuẩn y hiệp ước bảo hộ năm 1884. Trước những điều kiện thuận lợi như thế, viên phụ tá của tướng De Courcy, là tướng Prudhomme, luôn luôn tạo ra những cơ hội mới để chứng minh sự quy phục của vua Đồng Khánh đối với chính quyền chiếm đóng; ông ta hy vọng, bằng cách đó, khai thác được tác dụng tâm lý đối với người Việt Nam do những dấu hiệu kiêng nể đối với những kẻ đại diện của Pháp, do những buổi dạo chơi mà bên cạnh nhà vua luôn luôn có một linh mục Công giáo Việt Nam đi kèm, là “cha Hoàng”, được Pháp đặt bên cạnh nhà vua để “phục vụ” nhà vua làm thông dịch viên và chắc chắn là để do thám nhà vua khi cần. Thông qua “cha Hoàng”, Prudhomme gợi ý cho Đồng Khánh thực hiện những chuyến đi kinh lý khắp nơi trên đất nước, có quân đội đi theo nhằm củng cố uy tín của mình trước nhân dân và kêu gọi những người khởi nghĩa “biết điều” một chút mà chấm dứt mọi giao tranh. Đó là nội dung của cuộc xuất chinh, vài ba tháng sau mà người ta gọi là “đội quân ngự giá”. Tại Paris, Nội các Freycinet vừa thay thế Nội các Brisson, quyết định sẽ duy trì chỗ đứng tại Bắc kỳ tuy khó khăn lắm mới được Quốc hội thông qua kinh phí. Công việc bảo hộ An Nam - Bắc kỳ được tổ chức trở lại và từ đây trực thuộc Bộ Ngoại giao, theo các điều khoản của sắc lệnh ngày 27/1/1886. Ngày 31/1, Paul Bert được chỉ định làm Thống sứ Bắc Kỳ. Không chờ đợi sự có mặt của người thay thế mình – người này đến Hà Nội ngày 8/4/1886, De Courcy vội vàng trở về Pháp. Vị tướng này rất hợm hĩnh về cái “giá trị cá nhân” của mình và không thể hòa mình vào bất cứ một nhà chức trách dân sự nào, trở về Paris một cách âm thầm, và năm sau thì từ giã cuộc đời lòng mang nặng những nỗi dày vò uất hận. Mặc dầu quân đội chiếm đóng đã có nhiều cố gắng liên tục, tình hình quân sự lúc ông khâm sứ mới đặt chân lên Việt Nam vẫn không có gì sáng sủa. Đại tá Chaumont đóng quân tại Đồng Hới nhằm ngăn cản con đường ra Bắc của nghĩa quân vua Hàm Nghi, sau đó lại chiếm đóng cả Vinh. Những sự kiện đó không thể ngăn cấm nổi cả Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh có một phong trào dấy nghĩa rầm rộ. Tình hình hành chánh cũng chẳng hơn gì: mọi ngành mọi mặt đều hỗn độn hoàn toàn, mọi công việc đều trì trệ. Phần lớn các quan lại, nhất là các quan lại cao cấp bỏ nhiệm sở chạy theo ông vua lưu vong, mà ảnh hưởng và uy tín ngày càng lớn. Cuộc khởi nghĩa “Văn Thân” ngày càng mở rộng quy mô, việc khủng bố người công giáo tiếp tục. Kể từ đó, người Pháp dùng từ “phản nghịch” để chỉ những ai nổi loạn, kể cả vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết, là những kẻ thù của nhà vua mới do họ lập nên và là ông vua duy nhất hợp pháp, trước con mắt của họ, Đồng Khánh ra lệnh gạch tên Tôn Thất Thuyết và gia đình ông khỏi danh sách hoàng gia. Ông cựu phụ chánh cận thần ấy, từ đây, sẽ gọi theo tên họ: Lê Thuyết. Cuối tháng 3/1886, tướng Prudhomme, là viên tướng nổi danh về chuyện cướp phá các kho tàng cung điện nhà vua lúc Hàm Nghi chạy khỏi kinh thành, bị tướng Munier thay thế. Để đền đáp công ơn vĩ đại của ông ta đối với ngai vàng(7), Đồng Khánh đã phong cho ông ta tước “Bảo quốc Công” (Quận công bảo vệ vương quốc). Ngày 16/5/1886, sau khi Prudhomme đi rồi, “đội quân ngự giá” do ông ta “sáng chế” ra, bắt đầu lên đường với hy vọng ngây thơ rằng chỉ một sự có mặt của nhà vua, tay sai của Pháp và do Pháp lập nên ấy, sẽ lôi kéo được nhân dân miền Bắc. Cuộc “triển lãm – giả trang” kỳ quái, trong đó Đồng Khánh đóng vai kép nhất này, do đại úy Billet chỉ huy. Bên cạnh nhà vua, có một tùy viên văn phòng của Paul Bert đi kèm với nhiệm vụ điều khiển mỗi hành vi cử chỉ của “con hình nộm” Đồng Khánh. Sự đón tiếp của dân chúng quả là đặc biệt: mặc dù được một đội quân khá mạnh của Pháp yểm trợ, tối nào đoàn của nhà vua dừng lại ở đâu cũng bị tấn công. Đêm đêm tiếng súng vang lên, cũng như những tiếng súng mà viên tướng De Courcy đã nghe đêm mồng 4/7/1885, trong buổi tiệc chiêu đãi của ông ta, chẳng phải là để chào mừng người Pháp, cùng vị khách mời của họ chút nào. Đoàn “quân ngự giá” đi qua tỉnh Quảng Trị rồi vất vả lắm mới đến được Đồng Hới (Quảng Bình); đoàn ở lại đây ba tuần rồi theo đường biển trở lại Huế. Theo lời thú nhận của người Pháp, quả đây là một cuộc thất bại hoàn toàn. Nói về cuộc tuần du này, thuyền trưởng chiếc “Primauguet” đã đi cùng Đồng Khánh trong chuyến đi trở về Huế có viết một bản tường trình gửi Đô đốc chỉ huy Hải quân Pháp tại Việt Nam, như sau: “…Cuộc tuần du vừa qua của vị Tân vương đã làm cho mọi người An Nam bất bình. Những người theo chúng ta đã thấy ở đó một dịp tặng quà thường lệ tốn kém hết sức khó chịu: kẻ thù chúng ta đã châm lửa đốt những hành cung mà vị Tân vương đã ở đó, một cách công khai, cốt cho mọi người thấy rằng, những hoàng cung ấy đã trở thành uế tạp(8)”. Cũng cùng lúc ấy, ở Huế những người theo hàm Nghi đã dán những yết thị và ngay cả trên tường nhà sứ quán Pháp, nói rằng: quân đội Pháp, không lâu nữa sẽ bị đuổi ra khỏi lãnh thổ đất nước và tống cổ ra biển! Ngày 10/6/1886, theo yêu cầu của Paul Bert, Đồng Khánh ủy quyền cho “Kinh lược”, “đại diện của nhà vua”, những quyền hành tối cao tại Bắc kỳ; đây là cái thủ đoạn sẽ dẫn tới việc chia tách Bắc kỳ và Trung kỳ ra làm đôi, về phương diện hành chánh. Nguyễn Văn Tường đến Tahiti giữa tháng 2/1886 và vào ngày 30/7 năm ấy, ông ta mất, người ta nói là do bệnh ung thư cổ. Còn Prudhomme thì bảo là ông ta chết “vì tuyệt vọng và héo mòn”. Ngày 20/10/1886, một bức công hàm của chánh phủ yêu cầu chuyển thi hài của Tường về Huế. Khi quan tài Tường vừa được đặt lên đất Thuận An, thì theo lệnh vua Thành Thái (bị hạ bệ năm 1907 và đày sang đảo La Réunion), quan tài này bị đánh đòn bằng xích sắt, trừng phạt tối cao(9). Tất cả mọi người Việt Nam đều nhất trí lên án con người đó. Vua Hàm Nghi Bị Bắt Những cuộc tuyển cử mùa thu 1885 tại Pháp đã đưa lại thất bại cho phe “ôn hòa” và củng cố thêm cho phe quân chủ, cũng như phe tự do. Ảnh hưởng của những phần tử chủ trương chinh phục thuộc địa và chung sống (hòa bình) với Đức bị giảm sút, còn ảnh hưởng của phe “phục thù” tăng lên mạnh mẽ. Năm 1886, tướng Boulanger được vào chánh phủ làm Bộ trưởng bộ Chiến tranh, lập tức thi hành những biện pháp cứng rắn để tăng cường và củng cố quân đội, Bismarck muốn lợi dụng những khó khăn mà quan điểm của Bulgarie chắc chắn sẽ gây nên cho Nga, nhằm buộc Nga phải giữ vị trí trung lập trong trường hợp có chiến tranh với Pháp. Về phía mình, Đức cũng bắt đầu tính toán trở lại về vấn đề tiêu diệt, một lần nữa ông bạn láng giềng phía Tây của mình. Trước những triển vọng mờ mịt như vậy và xét vì tình hình bất ổn định ở Việt Nam sau những cuộc tranh luận vừa rồi của cơ quan lập pháp, tướng Millot, cựu chỉ huy quân đội Pháp tại Bắc kỳ năm 1884 và hiện đang là tư lệnh trưởng thành Paris, trong một bức thư gửi thủ tướng nội các ngày 01/10/1886 đề nghị một “công thức chiếm đóng nước An Nam bằng cách liên kết ông phụ chánh đại thần với nhà vua lưu vong,” và cho Hàm Nghi làm vua Bắc kỳ, trong khi vẫn để Đồng Khánh làm vua ở Huế(10). Hàm Nghi vẫn ở vùng thượng nguồn sông Gianh bên chân núi Trường Sơn, sát biên giới Lào. Xung quanh nhà vua vẫn có cựu Thượng thư Nguyễn Phạm Tuân và ba người con trai của Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm, con trai lớn, 23 tuổi; Tôn Thất Thiệp, con thứ 2, 19 tuổi; còn người con thứ ba thì chỉ mới bảy hay tám tuổi lúc nhà vua bị bắt, năm 1888. Hai người đầu đã phục vụ Tổ quốc và nhà vua một cách tuyệt vời cao đẹp, ngay cả quân thù cũng khâm phục và kính trọng. Lúc này, nếu cuộc kháng chiến của Việt Nam vẫn hùng cường thì những tấn công của quân Pháp, vừa có thêm một đội quân tăng viện đổ bộ vào Đà Nẵng cũng quyết liệt mạnh mẽ hơn nhiều. Quân đội Việt Nam ngày càng gặp nhiều khó khăn trong vấn đề mua sắm vũ khí và quân trang quân dụng. Và Tôn Thất Thuyết, lâu nay vẫn ở bên cạnh Hàm Nghi, giờ đây chia tay với nhà vua. Cùng với Trần Xuân Soạn và một đoàn tùy tùng quan trọng, ông ta đi theo con đường chiến lược qua Trung Quốc để xin cứu trợ của “nước lớn” ngày trước của mình, mặc dầu Thỏa ước Thiên Tân, Trung Quốc chẳng mấy tốt bụng gì đối với Pháp. Thuyết tới Hưng Hóa, ngược sông Hồng đến Lai Châu. Đi theo ông vẫn có một đoàn tùy tùng đông mấy chục người. Trong thời gian ghé lại Hưng Hóa, có thể đoàn nảy sinh những mối nghi ngờ về thực chất cái ý định của ông phụ chánh và có thể cũng đã chỉ trích ông về việc trốn chạy này chăng? Thuyết bèn cho giết phần lớn các nhân viên tùy tùng của ông ta… Tới đất Trung Quốc, Thuyết yêu cầu Tổng đốc Vân Nam giúp đỡ cứu trợ. Bản báo cáo của Sầm Dục Anh về vấn đề Việt Nam xin viện trợ không được chánh phủ Trung Quốc trả lời. Bắc Kinh cho rằng Việt Nam “chơi trò hai mặt” và không muốn giúp đỡ cho họ(11). Sau ngày vua Hàm Nghi bị bắt, Tôn Thất Thuyết ở lại luôn Trung Quốc tại Quảng Đông, ông được Trung Quốc trợ cấp cho một số tiền. Ông mất tại đó, thọ 80 tuổi, không một lần nào được nhìn lại quê hương xứ sở Việt Nam, nơi mà hai con trai ông đã rời bỏ cuộc đời trong vinh dự, trong lúc họ tìm cách bảo vệ vua Hàm Nghi và qua đó cứu lại được danh dự dòng họ nhà mình. Đầu năm 1888, những màn lưới bủa vây ngày càng thắt chặt lại một cách nguy hiểm xung quanh Hàm Nghi và nhóm thân binh trung kiên của nhà vua, mỗi ngày một thưa thớt. Ý chí kháng chiến của họ quyết tâm đến mức độ mà họ bất chấp tất cả, có thể tin chắc rằng họ sẽ không bao giờ chịu đầu hàng. Để tiêu diệt được họ, quân Pháp định dùng khủng bố; chúng tăng cường chém giết, ngày một tàn nhẫn các tù binh – mà chúng bắt được – Lúc này ở chiến khu, các thân binh kiệt mòn sức lực vì thiếu thốn và bệnh tật; ý chí trung thành với nhà vua dần mòn và sẵn sàng hợp tác với kẻ thù. Kháng chiến luôn đứng trước nguy cơ tan rã vì đói khổ. Vậy là dần dần quân Pháp gặp binh sĩ kháng chiến tinh thần hoang mang suy sụp, hoặc người nông dân, người lao công mong ước có chút lợi cỏn con và được sống bình yên, sẵn sàng phản bội nhà vua và cung cấp nhiều tin tức đáng quý cho kẻ thù. Qua tình trạng đó, quân Pháp đã dần dà chiếm được lòng tin của một thân binh hầu cận nhà vua là Trương Quang Ngọc, vừa nghiện thuốc phiện vừa nghiện rượu, tình nguyện sẽ nộp Hàm Nghi cho Pháp. Ngày 1/11/1888, một vài kẻ tay chân cùng đi với Ngọc bắt Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ đêm, chúng đến ngôi nhà Hàm Nghi đang ở, đó là một túp lều khốn khổ mái lợp lá buôn. Nhờ bất ngờ, và sau vài phút giao gươm, Tôn Thất Thiệp bị một mũi đồng đâm ngay vào ngực chết tại chỗ. Thấy mình bị Ngọc phản bội, nhà vua trẻ với thanh kiếm cầm tay, nhảy ra khỏi cửa lều trao thanh kiếm cho hắn và nói: “Thà mày giết ta đi chứ đừng nộp ta cho Pháp!”(12) Một tên người Mường, từ phía sau ôm thắt ngang lưng nhà vua; Hàm Nghi ngay sau đó bị tước mất khí giới. Sinh tháng 3 năm 1871, Hàm Nghi bị bắt năm mới 17 tuổi 7 tháng(13). Ngày 16/11/1888, chánh phủ Pháp họp hội đồng Bộ trưởng, quyết định đưa vị cựu vương Việt Nam sang giam tại Algérie, “ở đây khí hậu ôn hòa sẽ có lợi cho tình trạng sức khỏe bị suy sụp quá nhiều do cuộc sống lang thang quá gian khổ chốn núi rừng của nhà vua”. Vua Hàm Nghi mà nhân dân Việt Nam coi như linh hồn của cuộc kháng chiến bị bắt, là một đòn quyết định đánh vào cuộc nổi dậy của toàn dân. Những cuộc đàn áp tiếp theo thật là khủng khiếp. Những người nào không vượt qua được Trường Sơn, băng qua Lào, sang đất Thái Lan sau khi người lãnh đạo đã bị bắt, đều bị đưa về Huế và xử tử trước công chúng để cho mọi người được mắt thấy tai nghe, “lấy đó làm gương”, người ta nói vậy. Tuy thế, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam không vì vậy mà ngừng lại. Nó tiếp tục xảy ra tại bất cứ đâu ở Bắc hay ở Trung. Cuộc đấu tranh do Hàm Nghi phát động kéo dài khoảng 28 năm, bởi vì cho mãi đến tháng 2/1913, cái đầu của Hoàng Hoa Thám, vị tướng cuối cùng của Hàm Nghi, mới bị “triển lãm” cho công chúng. Trong số các tướng tá nổi tiếng, phải kể trước tiên Hoàng Hoa Thám, lãnh tụ nghĩa quân Yên Thế (1892-1913); Ba Bao ở Thái Bình (1883-1887); Lãnh Giang và Đốc Khoát tại Vĩnh Yên, Phúc Yên, Tuyên Quang (1892-1893); Lãnh Pha ở Đông Triều (1892-1893); Lãnh Tánh ở Phú Thọ (1890-1893) và Phan Đình Phùng tại Hà Tĩnh (1885-1895). Ngoài các thủ lĩnh nổi tiếng đó ra, chúng ta cũng không quên kể những đội quân tự vệ nhỏ đã tiếp tục một cuộc kháng chiến tuyệt vọng chống thực dân Pháp tại một vài tỉnh lỵ mà người ta vẫn còn nhắc đến như Nguyễn Túc ở Bắc Ninh, Quang Kỷ ở Hưng Yên, Đốc Kết ở Phúc Yên, Quản Tha ở Tuyên Quang, Đốc Bạt ở Sơn La, Nguyễn Sĩ, Nguyễn Hợp ở Nghệ An, Ba Xu ở Nha Trang... Cuộc kháng chiến chống lại nền đô hộ của Pháp là điều lo ngại lớn nhất của chính quyền bảo hộ, mặc dầu đội quân chiếm đóng đã có nhiều cố gắng trong việc bình định. Ngày 5/2/1889 trong một báo cáo gửi Toàn quyền Richaud, Thống sứ Bắc kỳ có viết: “…Nước đi chinh phục càng khác nhau về phong tục tập quán với nước bị chinh phục thì nó càng khó lòng mà áp đặt được nền thống trị của nó. Ở đây, không còn nghi ngờ gì nữa rằng,từ lúc chúng ta đến đất nước này, trật tự xã hội đã bị đảo lộn. Chúng ta chỉ có thể và chúng ta đã thực sự là một điều phiền phức trở ngại cho bất cứ cái gì có một chức vụ, một ảnh hưởng, một quyền hành, nói tóm lại là cho tất cả mọi tầng lớp lãnh đạo; ở đây các tầng lớp lãnh đạo, được lựa chọn trên cơ sở trí tuệ và học vấn, mạnh hơn ở nhiều nước châu Âu mà tầng lớp lãnh đạo thường thường là căn cứ trên sự thế truyền và tài sản…(14)”. Ngay sau khi Đồng Khánh được biết chánh phủ Pháp quyết định đưa Hàm Nghi sang giam giữ tại Algérie thì ông ta có lời tuyên cáo sau đây với nhân dân: “…Từ trên ngai vàng, biết được tin vui mừng ấy [tin Hàm Nghi bị bắt], Trẫm đã run lên vì vui sướng. Lập tức Trẫm đã chỉ thị cho các quan lại Quảng Bình phải tìm đến với Ngự đệ với tất cả những nghi thức cần thiết. Khi Ngự đệ vừa đến đất Thừa Thiên, Trẫm đã phái đi đón Ngự đệ các quan đại thần của triều đình, văn và võ, có một đội quân đông đi theo. Đồng thời, Trẫm cho sửa soạn một buồng riêng, dành cho bậc vua chúa, ngay trong cung điện của Trẫm để đón tiếp Ngự đệ trở về. Cả nước có thể nhìn thấy Trẫm đã có lòng yêu thương sâu sắc và chân thành đối với Ngự đệ như thế nào. Nhưng ngài Khâm sứ đã khuyên nên để cho Ngự đệ, cùng với những công chức người Pháp, đi theo về Thuận An bằng đường biển. Hơn nữa Ngài Khâm sứ đã cùng với Ngài Tư lệnh trưởng, nhất trí nhận định rằng tình trạng sức khỏe của Ngự đệ đã bị suy sụp nghiêm trọng do một thời gian quá dài sống ở những vùng ma thiêng nước độc, lam sơn chướng khí nặng nề, cần phải được điều trị; rằng y học bản xứ khó lòng chữa được cho Ngự đệ khỏi hẳn bệnh tình, trong khi y học Pháp rất giỏi về khoa học điều trị và biết rõ tận căn nguyên mọi bệnh tật, có đủ khả năng trả lại cho Ngự đệ sức khỏe ban đầu; vậy nên tốt nhất là đưa Ngự đệ sang Pháp để ở bên đó và để được chăm sóc tại một nơi có khí hậu rất trong lành; rằng ở đó Ngự đệ sẽ có thể phục hồi sức khỏe trong một thời gian rất ngắn sau đó có thể được đưa về An Nam; rằng không có gì đáng lo ngại về phía Ngự đệ cả. Trẫm rất sung sướng nhận thấy các quan chức Pháp đã có nhiều biểu hiện về lòng quý mến chân thực và lòng kính trọng đối với Ngự đệ như thế […] Nhận xét rằng một đất nước không thể có hai vua, như một bầu trời không thể có hai vầng dương được, cho nên Trẫm chỉ dụ như sau: Nhân Ngự đệ Ưng Lịch trở về, Trẫm đưa Ngự đệ lên tước vị Quận công, như Trẫm đã hứa trong lời Tuyên cáo. Còn hai chữ ‘Hàm Nghi’ thì từ nay trở đi cấm chỉ không được ai gọi đến, người ta sẽ gọi Ngự đệ là ‘Quận công Ưng Lịch’: đó là tên thật của Ngự đệ. Hỡi các sĩ phu và nhân dân của đất nước, các người phải phục tùng triệt để những chỉ thị này; mọi sự vi phạm đối với chỉ dụ này sẽ bị trừng trị nghiêm khắc… Ngày thứ 26 tháng Mười, Đồng Khánh năm thứ ba”(15). Đồng Khánh Và Những Lợi Ích Của Dân Tộc Trước những biện pháp độc tài của chánh phủ Pháp, trái ngược hoàn toàn với Hiệp ước bảo hộ năm 1884 nhưng lại được chính Đồng Khánh đồng tình ủng hộ, một vài vị quan chức cấp cao của triều đình lo ngại đến số phận tương lai của đất nước, bèn mưu toan chống lại Đồng Khánh. Cảm thấy nguy cơ, Đồng Khánh không ngần ngại xin sự bảo vệ và giúp đỡ của Pháp. Trong một bản báo cáo gửi cho Bộ trưởng Chiến tranh tại Pháp, tướng Munier, chỉ huy đạo quân chiếm đóng ở Bắc và Trung kỳ, ngày 4/12/1887 có viết về vấn đề này như sau: “…Ngày 17/11, nhà vua bất chấp mọi tập quán, đã thân hành đến sứ quán Pháp và một cuộc họp kín có mặt viên đại tá chỉ huy lữ đoàn, nhà vua đã bộc lộ một nỗi lo sợ lớn về vấn đề an ninh cá nhân của mình. Nhà vua có đề cập đến một âm mưu, trong đó các nhân vật chính của triều đình đều có dính líu. […] Tôi đã lập tức chỉ thị cho đại tá Callet phải thực hiện mọi biện pháp cần thiết để mọi âm mưu bị bóp chết ngay từ trong trứng nước, và bảo đảm an toàn cho nhà vua bằng mọi khả năng của ông ta…”(16). Đồng Khánh ra lệnh bắt giam ông Chủ tịch Hội đồng (Cơ mật) Phan Đình Bính. Theo bản tin chính thức “thì khi ông này sắp sửa bị đưa ra truy tố trước tòa án tối cao thì người ta đã thấy ông chết trong tù rồi”. Sự sụp đổ của Phan Đình Bính mang lại một hậu quả là Hoàng Kế Viêm được vào chánh phủ. Hoàng Kế Viêm vừa xin quy phục triều đình và đề nghị được góp phần làm cho tình hình đất nước ổn định trở lại. Để yên vị ở ngôi vua, Đồng Khánh chỉ có cách là phó thác mình vào sự bảo vệ của người Pháp; vì vậy ông ngày càng xích gần đến họ. Tháng 7/1888, để làm cho công việc quản lý Bắc và Trung kỳ được chạy đều đặn, viên Toàn quyền Richaud đã ra những nghị định mà dưới hình thức kiểm soát, thực chất là những văn bản hành chánh trực tiếp thật sự. Trong một bản báo cáo gửi Bộ trưởng Ngoại giao ở Paris, Richaud lưu ý ông Bộ trưởng rằng: “Chẳng những nhà vua và các cố vấn của mình không một mảy may nào phản kháng việc này, mà ngược lại nhà vua đã đích thân hứa hẹn sẽ phát huy hết khả năng mình giúp chúng ta việc thử áp dụng phương pháp trực trị này”. Nói về những người thân cận của Đồng Khánh, Richaud viết thêm: “…Chắc chắn là họ hết sức ngán ngẩm khi trông thấy vua mình, trong mối quan hệ với nhà chức trách Pháp bộc lộ một tinh thần hòa hợp và tử tế quá đáng đã trở thành, trước con mắt họ, một sự hèn yếu và một sự lãng quên đáng tiếc những lợi ích của dân tộc”. Và người ta thấy ông Bộ trưởng tự tay ghi bên lề các bản báo cáo đó những câu ghi chú bằng tay: “Tất cả những điều này có thể giải thích được cái chết bất ngờ của nhà vua”. Nguyễn Hữu Độ, nhạc phụ của Đồng Khánh và nguyên Kinh lược Bắc kỳ, đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong những chuyện nhượng bộ điều mà Richaud khẳng định với chúng ta, cũng trong bức công hàm này: “…Tôi phải trừ trường hợp ông Kinh lược […] Trước thái độ ấy của những người thân cận nhà vua, người ta có thể đoán trước được tôi sẽ gặp những khó khăn như thế nào mới có được những chỉ dụ ngày 3/10 của nhà vua, nếu không có áp lực của ông Kinh lược. […] Ngày nay, ông Kinh lược đã bị mang tiếng vì chúng ta khá nhiều lắm rồi…”. Chẳng đợi người ta yêu cầu, để tỏ lòng biết ơn đối với người Pháp đã vui lòng đảm nhận sự bảo vệ cho cá nhân ông ta, Đồng Khánh đã cho họ được quyền sở hữu và nhượng cho họ thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng, phục vụ một cách trọn vẹn chính sách thực dân Pháp và giúp cho phép họ được vĩnh viễn thiết lập chính sách này trên đất nước Việt Nam. Chính Paris cũng hết sức ngạc nhiên trước những quyền mới vừa đạt được này. Trên báo cáo của Richaud đề ngày 3/1/1888, người ta thấy ông Bộ trưởng Ngoại giao René Goblet, rõ ràng là rất ngạc nhiên đã đánh một dấu hỏi bên lề với một lời phê ngắn gọn: “Người ta cũng không hỏi ý kiến tôi về những điều thay đổi này trong Hiệp ước!(17)”. Những thiệt hại lớn lao do Đồng Khánh gây ra cho đất nước không dừng lại ở đây. Ta hãy nhường lời cho viên Khâm sứ Rheinart. (...) Sau khi Đồng Khánh chết, Rheinart lập bản báo cáo ngày 28/2/1889 gửi cho Toàn quyền Richaud, Rheinart kể lại những vụ ăn cắp của Đồng Khánh trong ba năm bốn tháng làm vua: “…Việc kê khai này bắt đầu từ hôm 13/2. Linh cữu vua Đồng Khánh còn quàn tại điện Cần Chánh […] Tôi cùng ông Boulloche tham gia vào việc tìm kiếm và kê khai: chúng tôi trước hết vào thăm Nhà hát Nội cung, ở đó người ta nói có tập trung một số lượng bạc khá nhiều. Đầu tiên, chúng tôi thấy một cái buồng rộng tối đen, cửa khép sơ sài thôi và chứa đựng rất nhiều hòm xiểng, tất cả trong một sự hỗn độn khủng khiếp: một vài chiếc sừng tê giác dưới đáy một chiếc hòm, những đôi giày Tàu, một số đồ dùng linh tinh, trong đó có vài thứ có giá trị và sau cùng là những hòm đựng bạc mà chúng tôi đã lập bản kê khai sơ lược. Nhìn tổng thể thì có những đồng bạc chắc là đào được dưới đất, những lạng bạc và những huy chương bằng bạc. Hai hòm nhỏ đựng khoảng 20.000 đồng bạc, gói thành từng cuộn 50 đồng một, hòm có khóa nhưng sơ sài đến nỗi người ta không cần mở khóa cũng có thể vét sạch sành sanh; và hình như hàng trên cùng các cuộn đó đã ‘biến’ đi mất một phần rồi. Trong một cái hòm trên, đề ‘3.000 đồng’, chỉ còn lại 3 hay 4 cuộn, mỗi cuộn 50 đồng thôi. Số kia chắc nhà vua đã cho lấy ra để chi tiêu hàng ngày. Liệu có chuyện ăn cắp hay không? Khó mà xác định được. Chắc chắn người ta đã có ăn cắp một số bạc, nhưng chắc chắn là người ta đã ăn cắp những thứ quý giá hơn và ít nhiều cồng kềnh. Phía sau nhà hát, có hai chiếc hòm to tướng bọc sắt, Đồng Khánh đã cho đặt ở chỗ đó tới gần hai năm nay, mỗi hòm có thể đựng ngót 100.000 nén, tức là 1.500.000 đồng bạc. Một hòm thì trống rỗng, một hòm thì còn lại một số nén, chúng tôi đã đo khối lượng và ước tính có thể đến 19.000 nén tức 280.000 đồng. […] Chúng tôi đi vào trong một cung điện – điện Lương Tâm - ở đây các bà Thái hậu già đã cho chuyển tới những đồ vật gói kín và do những người đàn bà giao lại; cũng ở đây người ta đã cất những hòm đầy ắp tơ lụa và vô số những thứ linh tinh khác, chúng tôi để ý thấy có ba tấm đá lót được khai quật từ dưới đất lên. Những tấm đá ấy chiều dài khoảng 50cm, chiều rộng 30cm và chiều dày 8cm. Một trong ba tấm bị bể làm đôi, còn hai tấm kia còn nguyên lành. Trên mỗi tấm đá ấy, người ta đọc được một dòng chữ còn được giữ gìn rõ ràng, ghi lại rằng Minh Mạng đã chôn giấu tại chỗ này, để con cháu nhà vua sử dụng sau này, một số lượng là 100.000, tiếp theo sau con số đó là những chữ ‘vàng’ và ‘bạc’; rõ ràng đây là tiền, nhưng không nói rõ thực chất là bao nhiêu. Người ta có nói đến bốn kho báu vật bị Đồng Khánh lấy trộm đi, trong số đó có ba kho ‘bạc’ và một kho ‘vàng’: ba tấm đá lót kia chắc chắn là thuộc về ba kho ‘bạc’ nhưng là bạc ‘nén’ hay ‘lượng’(18)? Quan phụ chánh đại thần thứ nhất, là vị Hoàng thân già Tuy Lý Vương cùng với anh là Tùng Thiện Vương, hai nhà thơ nổi tiếng thời đó, người cao tuổi nhất trong số các con trai của Minh Mạng còn sống sót, khi đọc thấy những biện pháp chu đáo của vua cha, bị trở thành vô hiệu trước những sự xa hoa lãng phí của một ông vua bất bình thường và phóng đãng, đã xúc động sâu sắc đến nỗi ông không sao cầm nổi dòng nước mắt tuôn chảy. Ông vừa khóc nức nở, vừa nói rằng, hồi nhỏ xíu, ông có thấy người ta làm những tấm đá lót đó, nhưng lúc đó không làm sao đọc và hiểu được. Ông đoán rằng chắc chắn số bạc đó được tính bằng nén. […] Tôi bèn cho đi tìm những người đã thực hiện cuộc khai quật… […] khó khăn lắm tôi mới được người ta giới thiệu cho tôi hai phụ nữ. […] Hai người này trước tiên dẫn tôi vào một nơi giống như một vườn hoa bỏ hoang, vườn Hoàng Phước và chỉ cho tôi hai điểm khai quật còn dấu vết vôi vữa lẫn lộn với đất. Các nén bạc được đóng vào từng bao với 150-250 nén một, cất trong những khúc gỗ tròn, chất đầy một cái hầm xây dưới đất. Mỗi khúc gỗ tròn gồm hai nửa úp vào nhau và chằng đai sắt, chiều dài khoảng 60cm, đường kính 25cm. Chính giữa mỗi nửa của khúc gỗ, người ta khoét một cái lỗ đủ để cất số tiền cần thiết. Đồng Khánh, sau khi đã cho moi hết bạc ra, đã cho chuyển ra Nhà hát, nơi mà chúng tôi đã tìm thấy, một ít nén. […] Tôi đã đi đến kết luận, một cách chắc chắn rằng, mỗi lỗ cất giấu 100.000 lượng, tính ra là 10.000 nén, tức trị giá 150.000 đồng – là một số tiền khổng lồ vào thời Minh Mạng. Đồng Khánh đã đào bới được bạc trị giá 450.000 đồng, cộng với một chỗ giấu thứ tư nữa – mà tấm đá lót không tìm thấy đâu, cho nên người ta phỏng đoán rằng là một kho vàng, nhưng chẳng có gì làm bằng chứng cho giả thiết ấy. Một chỗ giấu thứ ba, ở trước điện Quang Minh, ở gian phòng dùng làm phòng ăn khi Đồng Khánh tiếp các sĩ quan, hoặc các công chức người Pháp. Từ Quang Minh đi tới nhà hát, sau bữa ăn, các tân khách đi qua chính chỗ cất giấu cái kho tàng kia. Chỗ cất giấu thứ tư ở phía sau một cung điện khác gọi là Cần Minh. Khi công cuộc tìm kiếm đã hoàn thành, chúng tôi tiến hành kiểm kê những đồ vật chất đống tại điện Lương Tâm. Người ta không thể hình dung ra được một sự lộn xộn quá quắt và hỗn độn đến thế. Trong cùng của ngôi nhà, xếp đầy những chiếc hòm to tướng chứa đựng vô số lụa là; ở giữa trên một chiếc giường là một vài chiếc hòm cỡ trung bình hai thanh kiếm Tây Ban Nha, bảo quản thiếu cẩn thận (tôi nhận ra thanh kiếm Tolède tuyệt vời của sứ đoàn Tây Ban Nha đã tặng Tự Đức năm 1880). Phía trước một bên là những chiếc tủ kính xấu xí chứa đựng nhiều thứ ngọc ngà châu báu, một vài chiếc sừng tê giác, những chai thuốc, nước hoa, vài chai nước suối. Xa hơn một chút một chiếc tủ chè cẩn xà cừ chứa đựng một đôi thứ đồ đạc bằng vàng và sau cùng rải rác trên nền nhà hàng trăm ngàn đồ vật linh tinh, hầu hết chẳng có giá trị gì, giống như một cửa hàng bán lẻ: ly, cốc, bình lọ, bát đĩa pha lê… khá nhiều những đồ ngọc thạch rất có giá trị, theo như các công thức ước tính lúc bấy giờ, có thể lên tới 500.000 francs. […] Đồng Khánh vừa mất thì những tiếng đồn chẳng hay ho gì về ông đã lan truyền khắp nơi và chắc chắn là ông đã chẳng để lại trong lòng người dân một thoáng cảm thông nhớ tiếc nào cả. Để dẫn chứng sự tàn bạo của ông, người ta kể chuyện bà hoàng hậu, vợ của ông ta, bị ông ta buộc tóc đánh 80 roi mây; rồi chuyện những người đàn bà khác bị thương tích, những người làm công việc khổ sai quá sức con người, ngày cũng như đêm, để xây cho xong lăng của vua cha. Tôi sẽ không nói gì về tính phóng đãng của nhà vua, nhưng điều tôi lưu ý hơn hết là những mánh khóe bất hảo mà đâu đâu người ta cũng nhắc đến; người ta kể những món tiền lớn lao cho các quan chức và tư nhân vay; những lệnh mua sắm giao cho một vị Hoàng thân chắc chắn đã nhận được những món tiền kếch sù; người ta kể những cuộc khai quật ‘rất phát tài’ của Đồng Khánh thực hiện trong nội cung, nhưng hòm bạc mang đi chôn giấu tại Quảng Trị và trong Thiên Thành (lăng vua cha)(19)”. Đồng Khánh mất ngày 28/1/1889 “vì những trận nôn mửa ra máu đen, sau một cuộc hấp hối kéo dài mười ngày”, theo lời ghi chú trong một bảo báo cáo của bác sĩ Pháp đã chăm sóc và điều trị nhà vua. Dưới thời Pháp thuộc một trường trung học nữ duy nhất ở Huế, mang tên Đồng Khánh. Sau khi Đồng Khánh mất mà di chúc không chỉ định ai nối ngôi, sau một buổi hội kiến với bà Thái hậu – vợ góa vua Tự Đức, viên Khâm sứ Huế, Rheinart, tưởng bà Thái hậu và Viện Cơ mật sẽ gạt người con trai của Đồng Khánh ra vì “ít tuổi quá và lại ốm o gầy còm”. Nói đến chuyện nối ngôi thì cái tên “Hàm Nghi” lại bắt đầu được người ta nhắc tới. Trong một bức mật mã, đóng dấu “mật” ngày 30/1/1889, từ Hà Nội gửi đi, Toàn quyền Richaud đề nghị với Bộ Hải quân ở Paris về việc kế vị ngôi vua bỏ trống như sau: “…Có thể các nhà chức trách Bắc kỳ muốn tôn Hàm Nghi lên ngôi vua, bởi vì Hàm Nghi chống đối chế độ bảo hộ. Nhưng Huế không muốn. Khâm sứ Huế thì tưởng người ta sẽ chọn một người con trai của Dục Đức, là người đã trực tiếp kế vị Tự Đức, lên ngôi được vài hôm thì bị phế truất do âm mưu của hai phụ chánh đại thần Thuyết và Tường. Sự lựa chọn ấy sẽ đưa một người thuộc dòng họ chính thống của Minh Mạng. Hoàng tử này chưa đến tuổi thành niên – tôi không rõ bao nhiêu tuổi –đã được cảm tình của triều đình và Hội đồng Cơ mật đang thảo luận sáng hôm nay nhằm đi đến một quyết định dứt khoát(20)”. Nghe đến tên Hàm Nghi do Hà Nội nêu, Paris vội vàng trả lời viên Toàn quyền, cũng ngay ngày hôm đó, bằng một bức điện “Thượng khẩn và tối mật”. “Hãy khước bỏ Hàm Nghi vì Hàm Nghi đương nhiên là thù địch với chánh phủ bảo hộ. Trong số các Hoàng thân khác hãy chấp nhận hoặc khuyên người ta lựa chọn kẻ nào thích ứng hơn cả với lợi ích chính trị của chúng ta, sau khi đã trao đổi với Khâm sứ (Huế)”. Ngày 11/2/1889, trong một bức thư gửi Bộ trưởng Hải quân, Richaud giải thích như sau những lý do khiến ông nghiêng về việc chọn lựa của ông: “Ông hoàng này [Hàm Nghi] đã từng ở ngôi vua. Ông là thủ lĩnh phe những người theo chủ nghĩa quốc gia; tên tuổi của ông ai cũng biết đến, và đã là ngọn cờ tập hợp tất cả những người kháng chiến chống lại chúng ta. Ảnh hưởng của ông sâu rộng không cần phải bàn cãi nữa; để dẫn chứng, tôi chỉ cần nhắc đến lòng cảm thương sâu sắc của toàn dân Việt Nam khi được tin ông bị bắt và những dấu hiệu của lòng tôn kính của mọi người đối với ông trong suốt chặng đường di chuyển, từ chỗ núi rừng nơi ông bị bắt, cho đến Thuận An trên chiếc tàu thủy ‘La Comète’ (Ngôi sao chổi) chở ông.(21) Ở đây tại xứ Bắc kỳ, ông được dân chúng yêu mến đến nỗi một người An Nam thuộc tầng lớp thượng lưu, bản thân rất có uy tín nguyên là Kinh lược và hiện nay là đệ nhất phụ chánh đại thần(22), đã chủ động đến tìm tôi, sau ngày vua Đồng Khánh mất và tuyên bố với tôi rằng việc chọn Hàm Nghi lên ngôi dường như là điều chúng ta có nhiệm vụ thực hiện, rằng việc lựa chọn này sẽ tự khắc giải giáp được rất cả những thủ lĩnh các đội nghĩa quân đang gieo rắc điêu tàn lên khắp đất nước. Điều đó để chỉ rõ cho chúng ta thấy những lợi ích người ta có thể hy vọng đạt được qua sự phối hợp đầu tiên này, cũng như những mối lo ngại mà nó có thể làm nảy sinh cho chúng ta, và nhất là cho những người bản xứ đã từng, tôi không nói là chân thành tận tụy với sự nghiệp chúng ta – hiếm lắm, không hề có – mà đã bị mang tiếng không hay vì chúng ta. Phải chăng chúng ta đã thay đổi quyết định? Rồi Hàm Nghi do chúng ta đưa lên ngôi, há chẳng vì thế mà sẽ bị mất uy tín trước mặt những người thân thuộc tay chân của ông, trước vốn là kẻ thù và vẫn là kẻ thù của chúng ta sao? Sau nữa, Hàm Nghi mặc dù là người của chúng ta lựa chọn, liệu rồi có thành thật liên kết với chúng ta chăng? Bao nhiêu câu hỏi vừa nghiêm trọng vừa tối tăm mà chúng ta chỉ có thể trả lời bằng giả thuyết và phải nghiên cứu trên mọi mặt của nó. Vì vậy mà chúng ta mặc nhiên thống nhất với nhau rằng, dù rốt cuộc chúng ta có chọn Hàm Nghi chăng nữa thì ngay từ bây giờ, việc chỉ định Hàm Nghi lên ngôi vua không bao hàm việc phải đưa ông trở về Đông Dương ngay tức khắc; rằng sau khi đã thừa nhận ông, chánh phủ Pháp sẽ bảo đảm dành cho ông những nghi thức vinh dự và một cuộc sống xứng đáng với địa vị vương gia, nhưng sẽ hoãn việc hồi hương của ông đến khi nào đất nước thực sự yên ổn. Và trong trường hợp đó, rồi cũng phải thiết lập chế độ phụ chánh như đối với một đứa trẻ chưa đến tuổi vị thành niên vậy(23)”. Mặc dầu những lý lẽ dùng để bênh vực cho vị vua bị phế truất, Paris vẫn khăng khăng loại trừ Hàm Nghi. Vì vậy ngay khi nhận được điện của Bộ trưởng Hải quân, ngày 10/1/1889, ngày 31, Rheinart chính thức thông báo cho Huế rằng chánh phủ Pháp đã phê chuẩn sự lựa chọn của các hội đồng và của triều đình. Hôm trước đó, theo đề nghị của bà Thái hậu, triều đình đã tôn lên ngôi hoàng tử Bửu Lân, con trai vua Dục Đức, 10 tuổi. Lễ đăng quang cử hành ngày 1/2/1889 và nhà vua mới sẽ trị vì dưới niên hiệu Thành Thái (1889-1907). TS Nguyễn Xuân Thọ Nguồn: (Alpha Books - Ebook) Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam 1858-1897 Trang Lịch Sử |