Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam

Sau Hiệp Ước 1874

TS Nguyễn Xuân Thọ

https://sachhiem.net/NGXUANTHO/BuocMoDau_12.php

| ¿ trở ra mục lục| 13-Feb-2023

Chương 11 - Chính Sách Của Pháp Tại Việt Nam Sau Hiệp Ước 1874

Các cường quốc và Việt Nam đã có những phản ứng khác nhau, mỗi nước một cách, sau khi bản Hiệp ước 1874 được ký kết. Thái độ của Pháp và nhất là của chánh phủ Nam kỳ có phần phức tạp hơn, ít ra là về bên ngoài. Nếu như đối với các nước ngoài, họ ra vẻ rộng rãi, thì như chúng ta đã thấy, giữa những người Pháp cai trị, họ tỏ ra thất vọng trước những bản hiệp ước đòi hỏi quá ít.

Sau khi đã tuyên bố rằng ông ta sẽ chỉ hành động theo ý muốn của mình, dù có được ủng hộ hay bị cấp trên phản đối; sau khi đã chuẩn bị một bản hiệp ước cứng rắn cho phía Việt Nam, Duperré bị tràn ngập, bị phê phán mãnh liệt và sốt ruột muốn kết thúc cho xong nên đã ký một bản hiệp ước làm mích lòng mọi người. Bắt buộc phải trả Hà Nội lại, bắt buộc phải gạt bỏ chữ “bảo hộ” đi, trong văn bản một hiệp ước mà mục đích chỉ nhằm có thế; và quyết định mở sông Hồng cho giao thương mà trong tay không có một phương tiện gì đảm bảo; hiệp ước 1874 chẳng khác gì một đứa bé sinh ra đã tàn tật sẵn.

Những thống đốc kế tiếp Dupré đã cố gắng, ít nhất là ngoài mặt, để tỏ ra “quên đi” vấn đề Bắc Kỳ. Sau hiệp ước thương mại ký kết rất nhanh trong thời gian ngắn ngủi thoáng qua của Đô đốc Krantz, Đô đốc Dupré (Duperré), làm thống đốc Nam kỳ ba năm, chắc chắn chẳng được ai để ý nếu không có công trình khai thông các kênh, rạch, qua những bãi sình lầy Nam bộ mà mục đích đầu tiên là phục vụ cho quân sự và cảnh sát.

Việc sửa sang các kênh rạch đó, người Việt Nam đã bị cấm không được tiến hành theo điều X của Hiệp ước Aubaret, được bắt đầu cũng gần như cùng thời kỳ mà nam tước Haussmann, vì mục đích quân sự, đã cho đào những cái hố to ngay giữa những khu phố bình dân Paris: vấn đề là ngăn ngừa và đàn áp cuộc khởi nghĩa của “Văn Thân” đang tái diễn tại Nam bộ, năm 1875, dưới sự chỉ đạo của Thủ Khoa Huân(1), lãnh tụ của phong trào 1862 bị đày ở La Réunion về.

Theo “nguyên lý” của Rheinart, nhà cai trị tại Nam kỳ đã viết, sau đó khi nói về cuộc nổi dậy đó thì:

“Bao giờ cũng khổ tâm khi cần phải dùng sức mạnh để bắt người ta tuân phục mình, phải đàn áp những người đang tìm cách thoát khỏi sự đô hộ của ngoại quốc, nhưng rồi vẫn cứ phải làm…”

Tôi đã nhiều lần nhắc lại cho các ông chức sắc ở các địa phương rằng, dù cho có làm gì hay gì đi nữa thì bao giờ tôi cũng sẽ đi xa hơn họ; rằng nếu họ xấu thì tôi sẽ càng xấu hơn; rằng họ sẽ thấy tôi đúng như bản chất của chính họ. Tôi nghĩ rằng, trong tình thế chúng ta là những kẻ đi chinh phục có một việc cần phải nói và phải làm: ‘luôn luôn giữ thế thắng đối với những kẻ bị trị, luôn luôn vượt lên trước họ trên con đường họ đang theo.’”(2)

Đó chính là lý do của nhà tù khổ sai nổi tiếng Côn Đảo: nó bắt đầu nhận những người “lưu trú” của nó. Đó cũng là lý do tồn tại của hệ thống kênh rạch của Duperré; nó cho phép săn đuổi những người khởi nghĩa. Dĩ nhiên sau này, nó phục vụ cho nông nghiệp, nhưng, rõ ràng không nghi ngờ gì nữa là buổi đầu người ta không hề nghĩ đến hiệu quả đó.

Người ta cũng không quên, trong số những sáng kiến của Dupré có việc xây dựng nhà “Ngân hàng Đông Dương” (Banque de L’Indochine). Được thành lập tại Paris ngày 21/1/1875, do chi nhánh Chiết Khẩu Paris (Comptoir d’Escompte de Paris), Tổng Công ty Tín dụng Công nghiệp và Ngân hàng Paris và Hòa Lan (Société Générale de Crédit Indusstrielt la Banque de Paris et des Pays Bas), Ngân hàng Đông Dương có trong hàng ngũ các cổ phần của những nhà giàu có, những nhân vật và những tổ chức rất sùng đạo, như Nhà Quản lý các Hội Truyền giáo nước ngoài (Procure des Missions Etrangères). Ngân hàng Đông Dương nắm độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và kiểm soát toàn bộ nền kinh tế đất nước(3).

Dupré còn chăm đến công trình mở mang thành thị tại Sài Gòn, trong đó có việc xây cất Nhà Thờ Lớn (Nhà thờ Nhà nước) đối diện với con đường lớn nhất của thành phố, đường Catinat (nay là đường Tự Do).

Với xây dựng nhà tù khổ sai Côn Đảo, tổ chức các sòng bạc, các ty rượu cồn, sự thay thế đồng bạc Đông Dương vào đồng tiền Việt Nam cũ, việc thành lập Ngân hàng Đông Dương, bước đầu của Pháp chiếm đóng Việt Nam đã đánh dấu những thực hiện có ý nghĩa nhất và bền vững nhất của công cuộc thực dân hóa, do các ông Đô đốc-cầm quyền tiến hành.

Sau Đô đốc Dupré, đến Đô đốc Lafont. Ông này đã đụng chạm với các nhà đương cục Việt Nam mà ông ta muốn áp đặt cho họ một chế độ không hề có, cũng như đụng chạm với các nhà chức trách Pháp mà ông ta cố tình theo như Dupré (Duperré!?) trước kia, giả vờ làm ngơ như không biết đến các chỉ thị của họ.

Vì những lẽ đó mà các giới chính quyền Paris quyết định chấm dứt luôn chế độ các ông “Đô đốc-cầm quyền”. Các ông Đô đốc là những quân nhân, họ quen thói chỉ huy nhưng chưa bao giờ được đào tạo để trở thành những người cai trị cả. Với tư cách là “ông chủ sau Chúa trời” trên tàu của họ, họ dễ có thói quen tưởng mình cũng là “ông chủ sau Chúa trời” trên mảnh đất thuộc địa luôn.

“… Các cơ quan ở Paris tuyên bố đã đến lúc xứ Nam kỳ phải bước sang giai đoạn tách rời nước bị chinh phục, khỏi tình trạng thuộc địa và chế độ đặc biệt pháp lý thông thường, nghĩa là nó phải được cai trị theo các nguyên lý của thời đại.Cần phải đồng hóa người Việt Nam với người Pháp, vậy thì phải khẩn trương làm cho họ tiến bộ mau chóng trên con đường văn minh, làm cho họ quen lần với tư tưởng của chúng ta, đạo lý của chúng ta, kỹ nghệ của chúng ta, kiến thức khoa học và kinh tế của chúng ta. Từ đó, vấn đề đặt ra là kết hợp một cách nghiêm túc nhân dân thuộc địa chúng ta để họ tự làm lấy công việc của họ, bằng cách mở rộng hệ thống đại nghị, đã được áp dụng cho thành phố Sài Gòn.”

Đây không còn là vai trò của một chánh phủ quân sự nữa. Ngày 13/5/1879, Le Myre de Vilers, Vụ trưởng Vụ Dân sự và Tài chánh tại Algérie, được cử làm thống đốc Nam kỳ.

Vậy là rốt cuộc, người ta có một nhà cai trị “giỏi”, đã từng có những thành tích tốt đẹp. Họ cử ông ta sang Nam kỳ để làm cho mảnh đất thuộc địa trẻ này, cuối cùng cũng được đồng hóa, được tiến bộ nhanh trên con đường văn minh, hưởng những tư tưởng, đạo lý, công nghiệp, trí thức. Nhân dân thuộc địa xiết bao phấn khởi, theo những nguyên lý tuyệt vời này. Than ôi! Kết quả còn lâu mới đáp ứng nổi những ước vọng này!

Ngay vừa đặt chân tới, ông thống đốc mới thi hành hai việc nổibật: thành lập một “Hội đồng Thuộc địa” và cho Nam kỳ được chọn một đại biểu đầu tiên của mình vào Hạ viện Pháp.

Sau này, nước Pháp luôn luôn tự hào đã tỏ ra “độ lượng”, chứng minh thiện chí muốn đối xử với người Nam kỳ y hệt như với người Pháp. Họ luôn luôn kiên nhẫn phô trương cái “độ lượng” đó như kết quả của những nguyên lý dân chủ vĩ đại mà họ áp dụng cho tất cả những người được hạnh phúc sống trong vòng luật lệ của họ. Nhưng người Việt Nam chẳng ai tán thành tổ chức ấy vì rằng, kể cả khi họ không sinh ra với một ý thức bẩm sinh về độc lập, họ chẳng thấy một tổ chức như vậy mang đến cho họ chút lợi ích gì? Bởi qua chế độ dân sự, người Việt Nam biết quá rõ ràng là người Pháp đang ngày càng lệ thuộc hóa người dân bản xứ, đang tự do tước đoạt tài sản của các thổ dân, phá bỏ các luật nước và thực hiện một chính sách đồng hóa triệt để.

Ngày 8/2/1880, Hội đồng Thuộc địa được thành lập, theo như các hội đồng hàng tỉnh tại chính quốc. Nó gồm sáu người Pháp, bầu ra qua phổ thông đầu phiếu (của những người Pháp tại Nam kỳ mà thôi), sáu người Việt Nam, bầu ra qua đầu phiếu hạn chế của các chức sắc trong các làng xã, hai đại biểu của Hội đồng tư vấn, do thống đốc chỉ định. Vậy giả sử có hết mức rộng rãi trong vấn đề bầu sáu đại biểu Việt Nam đi chăng nữa, cần lưu ý là sự tự do ấy hiếm khi được duy trì vì trong hầu hết mọi trường hợp những đại biểu Việt Nam này đều được các nhà chức trách Pháp “gửi gắm” trước, thì sáu đại biểu này, đối diện với mười đại biểu khác, chỉ thể hiện quyền lợi của nước Pháp mà thôi. Trong các buổi họp, tiếng nói của họ hầu như hoàn toàn vô nghĩa. Hội đồng này chỉ có nhiệm vụ chủ yếu là kiểm soát các hành vi của ông thống đốc, hơn thế nữa là để giải quyết ngân sách thuộc địa. Theo sự thú nhận của nhiều người Pháp thì hội đồng này chỉ là một chuỗi dài bất ổn; gần như hầu hết người Pháp ở thuộc địa đều là công chức: Hội đồng Thuộc địa không ngừng tăng lương và cho họ đủ mọi quyền lợi; những người Pháp khác là thực dân và thương gia: Hội đồng Thuộc địa cung cấp cho họ những thị trường ngoài sức tưởng tượng, mà mục đích duy nhất là giúp chúng làm giàu.

Paul Doumer, toàn quyền Đông Dương mô tả như sau tình hình xứ thuộc địa này lúc ông vừa bước chân tới, năm 1897:

“Năm 1897, trong số nhiều nhất là 2.000 công dân Pháp ở tại Nam kỳ, người ta tính được 1.500 người sống vì ngân sách, và trong 500 người Pháp còn lại, một số không phải không có những mối liên hệ với công tác nhà nước. Vậy là trên một dân số ba triệu người, số cử tri không đến hai nghìn và ba phần tư số cử tri này là công chức nhà nước. Đó cái mà người ta gọi là ‘phổ thông đầu phiếu’ là như vậy!

Đại số đó những nhân viên ăn lương nhà nước bầu một đại biểu của Nam kỳ vào Hạ nghị viện; họ cử ra Hội nghị Lập pháp của thuộc địa, Hội đồng Thuộc địa. Người ta có thể phản kháng rằng trong Hội đồng này có những thành viên người An Nam, những đại biểu của Phòng thương mại và Hội đồng tư vấn. Thực tế thì những thành viên được cử tri đoàn Nam kỳ bầu ra là những “ông chủ” của hội đồng; còn những nhóm khác chẳng qua là những kẻ để làm theo và họ đã cúi đầu tuân phục, một lời kêu ca không dám. (…) Quyền năng của Hội đồng Thuộc địa mà trước nó ông thống đốc cũng phải cúi đầu là một quyền năng tuyệt đối, bởi lẽ một mặt, vì nó có một đại biểu tại Quốc hội, có nghĩa là có ông Bộ trưởng cùng đồng lõa, và mặt khác là nó được quyền sử dụng các tài nguyên của xứ thuộc địa, bởi vì ngân sách do nó biểu quyết. Người ta có thể nắm được cái ‘đẹp’ của hệ thống tổ chức này: một đa số những công chức ăn lương ngân sách, tự giải quyết lấy những khoản chi cần chi và tự quyết định lấy những khoản thuế cần thu.”

Nói về vị đại biểu và các cử tri, Doumer viết tiếp: “… Để làm chủ được cả bộ máy cai trị và hành chánh, chỉ cần có từ 700-800 cử tri trung thành để đảm bảo có đa số người ta đã có. Người ta nắm chắc từng cử tri; người ta đưa họ ghép vào khuôn khổ, đây đó của vài ba người làm gì cũng được. Người ta tự bảo đảm tương lai bằng cách chú ý chọn người làm việc trong bộ máy hành chánh, tức cũng chính là những người của cử tri đoàn. Một nhóm cử tri có kỷ luật trật tự, không bao giờ chia rẽ nhau, được cầm tay khép vào hàng ngũ, qua trung gian của năm, hoặc sáu ông lãnh đạo mà lúc nào thấy cần là truyền xuống vài câu khẩu hiệu luôn luôn được hưởng ứng: đó là nhóm người da đen của Ấn Độ. Những người Ấn Độ tại các cơ sở chúng ta ở vịnh Bengale không nằm dưới sự quản lý của luật lệ nước Pháp, nhưng họ vẫn là những người Pháp như ai; họ vẫn là công dân và cử tri. Những người Ấn Độ Hindous này không những được bảo vệ tính mạng và tài sản, mà còn được chiều chuộng nâng niu. Họ đại diện cho cái hạt nhân bền vững của phe cánh, cho số ‘khách hàng của ông Blanchy’ (đại biểu quốc hội). (…)

Với một đội ngũ nhân viên thuế quan, các nhân viên thành phố Sài Gòn và đội quân Ấn Độ Hindous, đảng đã được tổ chức. Ông Blanchy chắc chắn là được đa số ở tất cả các hòm phiếu. Việc này sắp đặt hoàn hảo.

“Hội đồng Thuộc địa săn sóc đến các cử tri công chức của mình, nhưng không quên săn sóc đến chính bản thân họ. Có những thời điểm mà tất cả các ông ủy viên hội đồng, chẳng trừ ai, đều lần lượt là đối tượng một cuộc bỏ phiếu của Hội đồng, được Hội đồng cung ứng cho bao nhiêu món lợi vô giá. Có những lúc khác, không phải là tất cả mọi thành viên của Đại hội sống bằng ngân sách mà bao giờ cũng có một đa số sống bằng ngân sách.

“(…) Các cử tri không thể là những kẻ duy nhất được hưởng lợi của chế độ, mà chính những người được bầu cũng có quyền hưởng cái phần của họ. Cho cả hai loại người ấy, dân bản xứ cứ việc im lặng mà chấp nhận; người ta không cần hỏi ý kiến họ.”

Và Doumer kết luận: “Vậy là tại chính đất nước mình, người An Nam không phải là công dân và không được bỏ thăm bầu cử!”(4)

Hội đồng Thuộc địa không ngần ngại bắt người Việt Nam ở Nam kỳ phải chịu những khoản chi tiêu không thuộc trách nhiệm của họ. Chẳng hạn ngày 10/12/1881, hội đồng họp theo lệnh triệu tập của Le Myre de Vilers, đã biểu quyết một khoản “tạm ứng” để thanh toán cho Tây Ban Nha số nợ liên quan đến cuộc viễn chinh Pháp - Tây Ban Nha đã được quy định trong Hiệp ước 1874. Điều đó chẳng liên quan gì đến Nam kỳ chút nào cả, nhưng nó cho phép Pháp nghĩ đến việc chiếm đóng Bắc kỳ mà không sợ điều gì khó khăn từ phía người bạn cùng cánh với mình xưa kia. Ngoài ra, Hội đồng còn cấp một số tiền hàng năm là 170.000 francs cho các hội truyền giáo Campuchia và Nam kỳ, làm kinh phí thờ phượng.

Những ví dụ như trên đây đâu phải là trường hợp ngoại lệ: Hội đồng Thuộc địa được người ta đề cao, ca ngợi như một biểu hiện chân chính Việt-Pháp đề huề, đang chà đạp, dày xéo nhân dân bằng hàng trăm thứ thuế, làm lợi cho bọn chiếm đóng. Chính Le Myre de Vilers đã tuyên bố:

“Xứ thuộc địa phải chịu toàn các khoản chi tiêu cho hành chánh dân sự; trả nợ về chủ quyền quân sự (ba triệu) và trả một số tiền cống nạp với tư cách là một nước chư hầu, năm 1897 được rút xuống còn 1.738.000 francs nhưng từ 1888 đến 1890 thì trên 11 triệu.

Nếu tính cả những lợi nhuận thương nghiệp, những giấy ủy lương, thì Nam kỳ hằng năm đưa về cho Pháp một số tiền hai chục triệu francs...”(5)

Sáng kiến thứ hai của Le Myre de Vilers tạo dựng một đại biểu cho Nam kỳ tại Quốc hội Pháp, cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ chút nào.

Từ 26/11/1881, nếu ta tin các sử gia Pháp thì Nam kỳ cũng như bản thân nước Pháp có thể nói lên tiếng nói của mình tại Quốc hội và được tham gia vào mọi vấn đề.

Có vậy thật, nhưng thử hỏi đó là Nam kỳ nào?

Năm 1881, một nhóm thực dân và nhà buôn Pháp lưu trú tại Sài Gòn gởi sang Quốc hội Pháp một bản thỉnh cầu:

“Xứ Nam kỳ chưa bao giờ được vinh dự Quốc hội lưu ý tới một cách trực diện. Nó đã thấy, ít ra là về danh nghĩa, chế độ độc tài quân sự tiêu vong. Nó đã lần lượt được thấy chế độ tam quyền phân lập (…), sự thiết lập một hội đồng thuộc địa. Nhưng chẳng có một biện pháp nào trong các biện pháp đó được nghiên cứu trong các buổi họp Quốc hội của ta, được người ta biết đến khi nó còn ở dạng một bản dự thảo. Nam kỳ đã có một quy chế sau một loạt các sắc lệnh, những sắc lệnh được thảo ra tại một nơi cách xa nó ba nghìn dặm, và ra đời mà dư luận công chúng, cũng như những kẻ đại diện chính thức cho quyền lợi của thuộc địa, không hề biết đến…

Trong tất cả các thuộc địa Pháp, sau Algérie mà có lẽ đúng hơn là ngang hàng với Algérie, Nam kỳ là thuộc địa quan trọng nhất về mọi phương diện. Chánh phủ Nam kỳ vừa đem ra nghiên cứu một dự án kết hợp lại, dưới một chế độ quản lý chung, các đại lý độc quyền thuốc phiện và rượu gạo ở Campuchia và ở Nam kỳ. Nam kỳ thật sự có 1.582.202 dân, với 99 đồn bót quân sự. Năm 1879, tổng thu nhập lên đến 19.657.900 francs. Ngoài việc ngân sách địa phương phải chịu bao nhiêu khoản mà ở các nơi khác ngân sách chính quốc phải chịu, Nam kỳ còn phải nộp cho chính quốc một số tiền trả định kỳ hàng năm là 2.200.000 francs. (...)

Lần đầu tiên, danh sách bầu cử của toàn Nam kỳ năm nay được thành lập với con số 1.142 cử tri. Nên cho cuộc phổ thông đầu phiếu của người Pháp cái quyền cử người đại biểu của Nam kỳ; về sau có thể kêu gọi đến lá phiếu của người bản xứ, sau một nghiên cứu đặc biệt. Trong lúc chờ đợi, một mình cái ‘yếu tố’ người Pháp cũng đủ để có quyền đại diện trực tiếp để bầu một đại biểu (vào Quốc hội)...”(6)

Bản thỉnh cầu này người ta không thể phủ nhận tầm quan trọng cũng như tính xác thực do những người làm ra nó, chứng tỏ chánh phủ chẳng quan tâm đến quyền lợi của người Việt Nam chút nào và Hội đồng Thuộc địa có một vai trò như thế nào khi đặt các đại lý độc quyền thuốc phiện và rượu cồn lên hàng đầu các nhiệm vụ của họ.

Và nó cũng xác định rất rõ ràng thế nào là “vị đại biểu của Nam kỳ”.

Đại biểu đầu tiên, Jean Blancsubé, là người cổ vũ từ năm 1870 cho tiểu ban các cử tri Cộng hòa của Sài Gòn, rồi chủ tịch Hội đồng Thuộc địa, là một luật sư và nhất là bạn thân của Gambetta. Được bầu lên năm 1881, ông ta giữ ghế cho đến khi chết năm 1888.

Một trong những “thành tích vinh quang” của ông ta, với tư cách “đại biểu Nam kỳ”, là đã dựng tượng Gambetta tại Sài Gòn, chắc chắn là để tỏ lòng biết ơn riêng. Tình cảm yêu nước của người Việt Nam luôn luôn bị kích động vì cái tượng bằng đồng to tướng của ông bạn ông đại biểu Nam kỳ, mình khoác áo lông, tóc dài hất ra phía sau, râu quai nón, một tay đặt lên nòng súng đại bác và tay kia chỉ về phía bắc, miệng thét: “Các Ngài, hãy tiến ra Bắc kỳ”. Bức tượng này dựng lên tại cảng Sài Gòn, là tượng “đáp lại” (réplique) của tượng đã dựng lên tại công viên Louvre (Paris) và bị quân Đức đập phá, khi Đức chiếm Paris trong cuộc chiến tranh 1870.

Một “thành tích” khác là trong một cuộc họp Quốc hội Pháp, ông ta đã quyết liệt đòi Pháp chiếm lấy Bắc kỳ. Người ta tìm mà không hề thấy có một ý muốn nhỏ nào can thiệp có lợi cho dân Việt Nam cả.

Cũng như Chasseloup-Laubat và như Giám mục Colombert, Jean Blancsubé cũng có một con đường mang tên ông ta tại Sài Gòn.

Điểm qua sơ lược về hai việc chính của chính sách đồng hóa, những việc mà bọn thực dân thường hay khoe khoang ta có thể xét thấy đằng sau một bề ngoài chói lọi, thực ra chẳng có gì đáng gọi là vì lợi ích cho người dân thuộc địa cả. Tất cả chỉ là chuyện thu lợi cho cá nhân.

Le Myre de Vilers không chỉ dừng lại ở hai “sáng tạo” đó. Ngày 12/5/1882, các hội đồng hàng huyện được thành lập, gồm toàn người Việt Nam (những “người cộng sự”) nhằm thiết lập các ngân sách tỉnh. Hầu hết ngân sách chỉ gồm có những phần thu, lấy ở “túi” của người Việt Nam, theo chỉ thị của Hội đồng Thuộc địa. Mặt khác, ông ta thành lập một số đoàn thăm dò địa chất và làm nhiều công trình công cộng: mở mang hệ thống đường bộ, xây dựng những con đường sắt đầu tiên. Tất cả những việc đó, thực ra đều cùng một mục đích đầu tiên, như chính Le Myre de Vilers đã viết, là “… người Pháp chắc chắn sẽ có thể vận chuyển quân đội đi khắp mọi miền lãnh thổ, trong vòng 24 tiếng đồng hồ”.

Bởi vì, khi ông thống đốc dân sự đầu tiên vừa tới Sài Gòn, cái ý định bành trướng của Pháp bị lắng xuống từ sau hiệp ước, bỗng lại trỗi dậy dưới con mắt của mọi người.

Qua các thư từ trao đổi giữa các Bộ trưởng với nhau, giữa các ông thống đốc với các ông Bộ trưởng, chúng ta có thể thấy rằng sự lắng xuống ấy chỉ là bề ngoài; nhưng nó không tác động tại chỗ. Đại diện lâm thời Pháp tại Huế, hầu như chẳng có vai trò gì. Bọn thổ phỉ không ai đánh dẹp. Sông Hồng bị buông lỏng cho các nhóm quân cờ khác nhau. Còn Bắc kỳ thì được trả lại một cách sòng phẳng cho người chủ hợp pháp của nó, chỉ thỉnh thoảng mới nghe nhắc đến tên.

Tất cả tình trạng này, ai cũng biết, nó chỉ là một cái bề ngoài. Từ 1879 trở đi, cái bề ngoài đó đã rơi xuống và những mưu đồ mới lại xuất hiện.

Jauréguiberry, Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa, giao trách nhiệm cho Le Myre de Vilers nghiên cứu “tình thế mâu thuẫn của chúng ta tại Bắc kỳ và những biện pháp có khả năng giải tỏa một hiện trạng đang đe dọa trở thành tai hại cho quyền lợi của chúng ta, cũng như uy tín của nước Pháp.”(7)

Một tháng sau khi đến Sài Gòn, Le Myre de Vilers đáp ứng nguyện vọng của ông Bộ trưởng mình: “hoặc thiết lập thẳng thắn và rõ ràng nền bảo hộ của chúng ta trên đất Bắc kỳ hoặc thu gọn hoạt động của chúng ta lại trong một số cơ quan lãnh sự thông thường”.

Việc đổi mới chế độ thực dân và sự chinh phục những lãnh thổ xa xôi này hình như nảy sinh do ảnh hưởng của Gambetta. Sau khi Pháp bị bại trận năm 1870, Gambetta muốn mang lại cho nước Pháp một đà phát triển mới, phục hồi nghị lực và đưa nước Pháp trở lại một cường quốc hàng đầu. Như ông ta viết cho bà Juliette Adam: “Chính sách bành trướng đang đà tiến lên… Nếu đến một lúc nào đó, chúng ta không kịp thời chiếm lấy phần thuộc địa của chúng ta thì nước Anh và nước Đức chiếm sẽ lấy”.

Hơn nữa, Blancsubé, đại biểu Nam kỳ, lại là bạn thân của ông ta và đã cho ông ta những thông tin phong phú về tài nguyên Bắc kỳ. Cả Félix Faure, lúc đó là một thương nhân quan trọng ở Le Havre, cũng là bạn thân của Gambetta đã hết lời ca ngợi tương lai của một sự buôn bán tại miền Bắc Việt Nam.

Hình như lãnh tụ phe Cộng hòa ôn hòa ấy là một trong những người tổ chức đường lối chính trị này, mặc dầu trong khi ông làm thủ tướng nội các, ông ta không làm gì một cách tích cực. Ông chỉ tuyên bố: “Bắc kỳ, tương lai thực sự của nước Pháp là đó”.

Từ khi ký Hiệp ước 1874, nước Pháp, về mặt ngoại giao, thực ra chỉ có một mình đối diện với Việt Nam. Mọi sự việc quốc tế chỉ mang tính chất đơn giản là sự việc Pháp - Việt và mọi vấn đề, kể cả những vấn đề liên quan đến tình hình chính trị Việt Nam và Pháp đều có thể coi như công khai, trong một chừng mực nào đó theo cái nghĩa là việc giải quyết các vấn đề đó hoàn toàn phụ thuộc vào một thỏa thuận giữa hai chánh phủ, thỏa thuận mà chánh phủ Huế khó lòng từ chối vì quá lẻ loi và phương tiện hoạt động không cân xứng.

Lâu nay, tình hình đó chỉ mới được động chạm đến về mặt nguyên tắc, qua những nhượng bộ của Pháp đối với chánh phủ Anh, năm 1875, khi Pháp thừa nhận khả năng có thể đặt tại các cảnh mở cửa, những lãnh sự ngoại quốc được quyền tài phán đối với người nước của họ.

Trong thực tế, chẳng nước nào biết lợi dụng những hạn chế đó của Hiệp ước 1874, và nếu do hoàn cảnh đòi hỏi chánh phủ Pháp phải sửa đổi những điểm nền tảng trong quan hệ ngoại giao với Việt Nam, thì cũng chẳng gặp sự phản đối quyết liệt nào, bởi vì chưa một nước ngoài nào lợi dụng những nhân nhượng của nước Pháp để mở quan hệ với Việt Nam.

Việc ký kết hiệp ước với Tây Ban Nha có thể bị đe dọa, làm cho tình hình thay đổi. Khi hiệp ước được chuẩn duyệt, các lãnh sự Tây Ban Nha đặt cơ sở tại các cửa biển mở và sự độc quyền của Pháp trong các vấn đề Việt Nam sẽ kết thúc. Trong xứ sở tài phán lãnh ngoại ấy, Pháp chỉ có thể hoạt động với sự đồng ý của các cường quốc đã đặt chân lên đây.

Tình thế này, ở các cửa ra vào của Nam kỳ sẽ rất nguy hiểm. Tại Huế, kinh đô của một vương quốc độc lập, sát cạnh xứ thuộc địa, tất cả các ảnh hưởng bài Pháp có thể hội tụ lại, tạo thành một sự liên kết ít nhiều có tính chất công khai chống lại Nam kỳ. Nước Pháp phải khẩn trương nếu muốn ngăn ngừa những hậu quả tương tự.

Ngày 9/1/1879, chánh phủ Pháp gửi chỉ thị cho thống đốc Nam kỳ nói tóm tắt nội dung bản dự án đã quyết định: Độc quyền giải quyết quan hệ ngoại giao của Nam kỳ và đại diện nó về mặt đối ngoại, dành cho nước Pháp là nước bảo hộ; các lãnh sự nước ngoài sẽ nhận lệnh chấp nhận lãnh sự của Pháp. Việc xét xử những người châu Âu thuộc quyền các công sứ Pháp ở các cảng mở cửa cho người nước ngoài. Thuế hải quan giữ nguyên và thu vào cho ngân sách Pháp, sau khi hoàn đủ số nợ cho Tây Ban Nha, thì dùng làm chi phí chiếm đóng. Sau cùng, càng sớm càng tốt chiếm đóng dòng sông Hồng. Chánh phủ Việt Nam sẽ hoàn toàn tự do và chịu trách nhiệm về nội trị của đất nước.

Một kết quả như vậy không thể đạt được bằng con đường ngoại giao do thời gian quá ngắn ngủi. Paris bèn quyết định thực hiện nhanh và tắt bằng một biện pháp bất ngờ: một cuộc biểu dương, nếu không thì một hành động quân sự. Những lực lượng vận dụng sẽ rất lớn, đủ để bóp chết mọi ý đồ chống cự của Việt Nam và nước Pháp sẽ có thể tiến quân đến, bất cứ nơi nào nó muốn, mà chẳng gặp khó khăn gì, nhất là trong lúc ở Bắc kỳ đang có khuynh hướng chia rẽ và có sự trợ lực của các giáo dân Việt Nam, được các giáo sĩ thường tuyên truyền vận động. Nhưng tất cả những việc này chỉ có thể thực hiện được nếu như người nước ngoài không có quyền gì ở Việt Nam… Và hiệp ước Việt Nam - Tây Ban Nha có thể sẽ là một mối trở ngại buộc nước Pháp phải từ bỏ một xứ thuộc địa đầy hứa hẹn phồn vinh.

Ngày 9/7/1881, đại sứ đặc mệnh toàn quyền Tây Ban Nha tại Trung Quốc, Don Tiburcia Rodriguez, thông báo cho đại sứ Pháp tại Bắc Kinh biết rằng ông ta được cử làm “đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Trung Quốc, Xiêm và An Nam”.

Không lên tiếng phản đối, Bourée chuyển bản tin về cho thống đốc tạm thời của Nam kỳ, trong lúc Le Myre de Vilers vắng mặt.

Theo lệnh của Paris, đại sứ Pháp tại Tây Ban Nha dàn xếp với nội các Madrid về vấn đề sứ mệnh của Rodriguez. Vừa tuyên bố rằng phái viên của mình tại Trung Quốc không có nhiệm vụ, cũng như ý định đến Huế, chánh phủ Tây Ban Nha không bỏ luận điểm của mình nói rằng, trong Hiệp ước 1874 không một điều khoản nào cấm Tây Ban Nha đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam cả.

Đó là sự phản ứng duy nhất và dè dặt của Madrid trước những tham vọng ngày càng tăng của Pháp tại Việt Nam, trước khi nhường chỗ vĩnh viễn cho ông bạn của mình xưa kia.

Quan điểm giản đơn của Sài Gòn, Le Myre de Vilers khi đến và là quan điểm của Jauréguiberry, không phải là quan điểm của Hội đồng Bộ trưởng, cũng không phải quan điểm của thủ tướng Waddington.

Sau nhiều cuộc thảo luận, Jauréguiberry phải trấn an các đồng sự, và ngày 5/2/1880 phải cam kết không những sẽ không can thiệp vào Bắc kỳ mà còn khước từ mọi sự can thiệp vào các vấn đề nội bộ Việt Nam.

Vậy là trong lúc chờ đợi thời cơ, Le Myre de Vilers thực hiện những cải cách tại Nam kỳ và chấm dứt “kỷ nguyên phiến loạn” bằng những cuộc đàn áp khốc liệt.

Huế Tìm Cách Tiếp Cận Với Bắc Kinh

Qua các Hiệp ước năm 1874, nước Pháp muốn:

1. Có được sự thừa nhận chính thức đối với việc đánh chiếm Nam kỳ.

2. Bằng nền bảo hộ đối với Việt Nam, đảm bảo được đường biên giới phía đông của xứ thuộc địa mới, cũng như nền bảo hộ đối với Campuchia đảm bảo cho đường biên giới phía Tây.

Muốn vậy, Pháp quyết tâm tự bảo đảm cho mình phải có một ảnh hưởng tuyệt đối và ưu thế nhất trên đất Việt Nam, bằng cách áp đặt cho Việt Nam những quan hệ chư hầu đối với nước Pháp, để cho Việt Nam có một cái vẻ độc lập bề ngoài, nhưng thắt càng chặt càng hay cuộc sống quốc tế của nó bằng cách gạt bỏ mọi sự xâm nhập của nước ngoài, có thể phương hại đến hoạt động của Pháp.

Về phương diện kinh tế, Pháp muốn mở một vài cửa biển cho sự buôn bán của châu Âu và tạo một con đường thương mại lớn để lưu thông các sản vật của Hoa Nam.

Về phía mình, chánh phủ Việt Nam không chính thức đồng ý về việc cắt xé lãnh thổ mình, trong khi các nước châu Âu chống đối lại các hiệp ước. Rồi, sau đó ít lâu, chánh phủ Việt Nam lại đòi hoãn lại việc mở cửa sông Hồng, một thời gian vô hạn định, bởi Trung Quốc không cho phép Pháp mở một điểm trên sông Hồng tại biên giới phía Nam, cho châu Âu ra vào buôn bán và bởi mục đích duy nhất của sự thông thương tự do trên sông là tạo ra một con đường buôn bán giữa Vân Nam với biển.

Đứng trước tình trạng sự việc như vậy, chế độ bảo hộ mà họ mưu toan không có “lý do” gì để áp đặt cho triều đình Huế cả. Vậy nên phải cần đến một chính sách đe dọa như người ta đã đe dọa thành công tại Campuchia.

Trong nước, chẳng có quyền lợi gì có thể dựa vào để đe dọa hoặc để làm áp lực với chánh phủ Việt Nam cả; tầng lớp thương gia giàu có, giai cấp trung gian khá giả đều không có. Hầu như chỉ có hai biện pháp cưỡng bức là: một cuộc biểu dương lực lượng hải quân trước kinh thành Huế là nơi tập trung hoạt động chính trị của cả nước hoặc chiếm đóng Bắc kỳ.

Nhưng tại Paris, nhật lệnh vẫn luôn luôn là chờ đợi thời cơ, khi đại sứ đặc mệnh toàn quyền Đức, Radowitz, hỏi chánh phủ Pháp cho biết chánh phủ Pháp quan niệm như thế nào về hiệp ước mới giữa Tây Ban Nha và Việt Nam. Một công hàm của đại sứ Pháp tại Berlin, Saint Vallier, nhắc lại rằng đế quốc Đức đang có những nguyện vọng thuộc địa tích cực, và phát biểu ý kiến của cá nhân ông ta rằng: nước Pháp sẽ có lợi nếu biết xác định tại Việt Nam một lập trường vững chắc đủ để đánh bật đi bất cứ một ý đồ xâm nhập nào của nước ngoài.

Ngày 18/6/1880, Jauréguiberry viết một bức mật thư mới cho Waddington:

“Tôi hoàn toàn chia sẻ nỗi lo lắng của ông De Saint-Vallier về những nguy cơ mà tình thế chúng ta ở Việt Nam có thể gặp phải, những nguy cơ đó có thể gia tăng do hiệp ước đã ký kết giữa Huế và Tây Ban Nha.

“Tôi không bỏ qua một cơ hội nào để biểu lộ những nỗi lo ấy hoặc qua thư từ, hoặc bằng lời nói và yêu cầu chánh phủ chọn một đường lối chính trị rõ ràng và quả quyết.

“Như ông biết, những đề nghị về ngân sách mà theo tôi đã mở đường cho Quốc hội phải tuyên bố về đường lối chính trị cần nên theo, đã được đệ trình lên nhiều tuần lễ nay rồi. Từ đó, mỗi đợt thư về đưa lại.

“Nếu quả thật như người ta thông báo, tiểu ban ngân sách đã từ chối ngay cả việc trình bày một bản báo cáo về những khoản chi rất hạn chế mà chánh phủ đề nghị thì tôi chỉ còn cách là thôi, không chịu trách nhiệm trước những sự kiện chỉ có thể là rất tai hại cho cả quyền lợi, lẫn uy tín của đất nước chúng ta”(8).

Waddington cuối cùng đành tán thành việc đánh chiếm Bắc kỳ theo những lời yêu cầu thiết tha của Dupuis và Lasserre, nguyên thư ký của F.Garnier, người đã thảo ra, theo yêu cầu của Freycinet, một bản báo cáo về Bắc kỳ và vì vậy mà được thưởng chức tùy phái tại lãnh sự quán [Pháp] ở San Francisco. Bằng thư mật gửi Bộ trưởng Bộ Hải quân, ngày 26/7/1880, ông chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng viết:

“Qua nghiên cứu những tư liệu mới về Bắc kỳ, tôi nghĩ rằng ý kiến của ông đánh chiếm xứ sở ấy thiết thực và đúng hơn là ý kiến chỉ kiểm soát một cách giản đơn các cửa sông: ý kiến này đã được Hội đồng Bộ trưởng tán thành và dẫn đến chỗ phải xin một khoản kinh phí phụ như ông biết. Theo tôi, cần quay trở lại với cái tư tưởng phải tiến hành một cuộc viễn chinh thực sự để cuối cùng chiếm cho kỳ được dòng sông Hồng kể cả vùng thượng lưu.

Theo những bằng chứng người ta cung cấp cho tôi thì 3.000 người là đủ; và người ta sẽ thu hồi lại rộng rãi ở những khoản thu nhập thuế hải quan tại các cảng buôn bán trên sông. Sẽ chẳng có chuyện khó khăn nào đáng ngại từ phía Trung Quốc; Trung Quốc sẽ còn biết ơn chúng ta đã gánh đỡ cho họ cái nhiệm vụ cảnh sát thường xuyên tại các cửa sông, nhằm bảo vệ việc buôn bán của họ ở tỉnh Quảng Đông. Sau nữa nước Đức đã cho tôi biết rằng họ sẽ không ganh tỵ gì nếu chúng ta đặt một nền thống trị vững chắc lên đất Bắc kỳ.

Trong những điều kiện như vậy, ông bạn đồng sự thân mến ạ, tôi nghĩ nên soạn thảo một bản dự án luật để trình lên Hội đồng và Chủ tịch nước Cộng hòa. Sau hè, khoảng cuối tháng 9, tôi sẵn sàng để cho ông sử dụng, trong trường hợp ông thấy cần, tập hồ sơ mà tôi đã tập hợp lại, lần sau cùng về vấn đề Bắc kỳ.”

Quá bận rộn về các vấn đề rắc rối ở Ai Cập và ở Tunisiê, ông Bộ trưởng, lại một lần nữa gạt bỏ đi đơn xin kinh phí.

Lúc này, Tự Đức đã cố gắng không kết quả để trực tiếp liên lạc với Chủ tịch nước Cộng hòa Pháp qua một đoàn gửi đi Paris. Nhà vua còn tìm cách gửi một phái đoàn khác sang châu Âu: một Giám mục người Tây Ban Nha của Hội Truyền giáo Bắc kỳ dường như đã khuyên nhà vua cử phái đoàn đó đi với nhiệm vụ đến Madrid và đã cho một giáo sĩ của mình đi theo làm phiên dịch. Từ lâu, các giáo sĩ Tây Ban Nha đã ganh tỵ với ảnh hưởng ngày càng phát triển của Pháp tại Bắc kỳ, ở đó họ nắm được quá nửa số những người Công giáo. Phái đoàn cũng sẽ đi tới thủ đô những nước châu Âu khác rồi đi Nhật; và triều đình Huế chắc rằng Pháp sẽ không dễ dàng gì mà cho phái đoàn này đi được, cho nên đã chi ra 300.000 quan tiền làm kinh phí. Trưởng phái đoàn sẽ là đích thân quan Thượng thư Bộ Ngoại giao đi theo, có ông cựu lãnh sự tại Sài Gòn và một người phiên dịch. Do những sự kiện ở Bắc kỳ diễn biến dồn dập, phái đoàn phải hoãn lại ngày đi.

Vậy là Tự Đức lại hướng sang Trung Quốc. Năm 1880, nhà vua biên thư cho Tổng đốc Quảng Tây nói rõ ý định nhà vua muốn gửi quà tặng cho Bắc Kinh, hỏi xem ngày nào thì phái đoàn Việt Nam mới có thể vượt qua biên giới Trung Quốc. Sau khi đã xem xét bản báo cáo do Tổng đốc Quảng Tây, Trương Thu Thanh, đề lên về vấn đề này, Bắc Kinh công bố một sắc lệnh chỉ thị cho “Nhà vua Việt Nam phải giữ đúng những quy định như lâu nay về thời gian nhất định dành cho việc qua biên giới.”

Ngày 4/3/1880, đại sứ Pháp tại Trung Quốc, Patenôtre, viết thư cho Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, Freycinet, rằng tờ “Nhật báo Bắc Kinh” vừa mới công bố một bản báo cáo mới của Tổng đốc Quảng Tây, trong đó bá quyền của Trung Quốc đối với Việt Nam được khẳng định rõ ràng hơn trong những văn kiện trước và ông Tổng đốc Trung Quốc này đối xử, với vua Tự Đức, một cách bình đẳng ngang hàng trong các thư từ của mình. Và ông kết luận:

“… theo tình hình mọi việc hiện nay, tôi vẫn duy trì ý nghĩ rằng một hành động quân sự tại An Nam đang ngày càng đúng mong muốn. Từ lâu, dư luận công chúng ở Viễn Đông đã được chuẩn bị theo chiều hướng đó.

Nếu chính sách thụ động chiếm ưu thế, thì ảnh hưởng của chúng ta có thể bị giảm đi một cách nghiêm trọng(9)”.

Việc Huế cố tình tiếp cận với Bắc Kinh chẳng những không mang lại lợi ích gì cho Việt Nam mà còn đặc biệt tai hại cho mình. Những việc tự động tiếp cận đó chẳng đem lại lợi gì, càng gây thêm những lo ngại trong nội tình chánh phủ Pháp. Nhiều giới tỏ ra đồng ý một biện pháp bạo lực tức khắc tại Việt Nam, nhằm chấm dứt sự tiếp cận ấy đi.

Ngày 5/6/1880, Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa gởi chỉ thị cho thống đốc Nam kỳ, mời ông đại diện chánh phủ Pháp tại Huế phải phản kháng với triều đình, ngăn cản không để cho phái đoàn Việt Nam đi Trung Quốc. Nhưng không gì ngăn cản được nữa. Phái đoàn do Nguyễn Thuật dẫn đầu vượt biên giới ngày 4/10/1880, và cuộc hành trình kéo dài đến tháng 7/1881 mới tới Bắc Kinh.

Le Myre de Vilers, sau khi có được bản sao bức thư Tự Đức gửi cho Quang Tự, do phái đoàn mang đi đã viết thư về Paris, kèm theo những bản sao ấy:

“… Chúng ta có thể nhận xét rằng triều đình Huế đang hướng về phía Trung Quốc và vua Tự Đức đang chờ trông vị ‘bá chủ’ của mình, đặc biệt, sẵn sàng, che chở cho nhà vua trong hiện tại cũng như trong tương lai.”(10)

Về phía mình, Bourée, đại sứ Pháp tại Bắc Kinh ngày 27/12/1880, viết thơ về Paris rằng ông ta được biết, từ một nguồn tin mật nhưng chắc chắn rằng Tự Đức không chỉ giới hạn ở một vài sự biểu dương trừu tượng và phái đoàn Việt Nam cũng không giới hạn ở những vấn đề nghi thức ngoại giao. Theo Bourée, ngoài bản báo cáo xuất bản trong “Nhật báo Bắc Kinh” ngày 27/12/1880 còn có “một bản báo cáo khác có tính chất tối mật, cầu xin Trung Quốc chi viện vật chất cho mình chống lại những âm mưu xâm lăng ‘mà người ta gán cho Pháp’ mà bằng chứng đáng tin cậy là cả một chiến dịch báo chí Pháp kéo dài từ bao nhiêu năm và có nguy cơ phương hại đến toàn vẹn lãnh thổ của An Nam.”(11)

Quả tình sứ giả Nguyễn Thuật có trách nhiệm vừa mang quà tặng, vừa xin Trung Quốc một sự viện trợ quân sự 20.000 người. Quang Tự trả lời đồng ý và sẽ thu xếp sẵn sàng ngay khi bắt đầu mùa gió bấc.

Sự thay đổi Chủ tịch mới nước Cộng hòa Pháp sưởi nóng niềm hy vọng của triều đình Huế, có thể Chủ tịch Grévy sẽ chấp nhận nhượng lại cho mình các tỉnh Nam kỳ mà lâu nay người ta vẫn từ chối? Triều đình Huế lại đôi phen đặt vấn đề với thống đốc Nam kỳ về ý định cử một phái đoàn đi Paris, chào mừng vị Chủ tịch mới.

Một năm qua, Le Myre de Vilers vẫn không trả lời. Ngày 17/7/1881, Thượng thư Ngoại giao Việt Nam lại viết thư cho ông ta:

“… Theo phúc thư của ông đại biện (Rheinart) nói thì muốn có một quyết định liên quan đến việc cử một phái đoàn đi, cần phải đợi khi nào đại diện của nước Pháp được phép thương lượng bằng lời với Đức vua, trong một cuộc hội kiến riêng, là điều khiến tôi lấy làm lạ bởi vì gởi một phái đoàn đi chào mừng vị đứng đầu nhà nước là một vấn đề lịch sự, còn cơ hội có thích hợp hay không để chấp nhận cho người đại diện của nước Pháp điều đình với Đức vua trong một cuộc hội kiến riêng, lại tùy thuộc vấn đề lễ tân. Hai vấn đề chẳng có gì giống nhau cả. Điều ông đại biện đã nói làm cho tôi nghi ngờ: có đúng ý kiến của Ngài như vậy không? Thư của chánh phủ tôi gửi đi đã gần một năm nay rồi mà chúng tôi không hề nhận được thư trả lời của nước Pháp, của Ngài cũng không về việc ấy, tôi e rằng đấy là một điều khiếm nhã. Chánh phủ tôi nóng lòng chờ đợi phúc thư của phía nước Pháp.”(12)

Việc từ chối không cho tiếp xúc với nhà vua, nói trên đây xuất phát từ Tạm ước 25/4/1875 giữa chánh phủ Pháp và Việt Nam, điều khoản I ghi rằng: nước Pháp sẽ cử một “công sứ” đệ nhị cấp ở Huế, để lo việc thực thi các hiệp ước và điều khoản ấy cũng áp dụng cho vị “công sứ” mà Việt Nam sẽ cử sang ở Paris. Rồi điều II nói: cấp bậc của vị “công sứ” ấy sẽ tương đương với chức “tham tri”. Mà tham tri là Thứ trưởng thứ nhất của Bộ, hàm Tùng nhị phẩm ngay dưới chức Thượng thư, nhưng không bao giờ có quyền được tiếp xúc với nhà vua trong các buổi yết kiến long trọng(13). Vả lại theo quy tắc ngoại giao, chỉ một mình đại sứ, trưởng phái đoàn là được ủy nhiệm bên cạnh vị đứng đầu nhà nước, còn đại biện chỉ được ủy nhiệm bên cạnh Thượng thư Ngoại giao mà thôi. Và chính là căn cứ vào tạm ước đó mà Thượng thư Bộ Ngoại giao Việt Nam đã khước từ không cho viên đại biện Pháp được tiếp xúc nhà vua trong một cuộc hội kiến riêng. Ông cũng căn cứ vào tạm ước này và vào điều khoản XX của Hiệp ước 1874, để yêu cầu, trong bức thư ngày 28/1/1881 gửi thống đốc Nam kỳ gửi một công sứ Việt Nam sang Paris với những đặc quyền mà công sứ Pháp ở Huế được hưởng. Người ta không có một thư nào trả lời bức thư yêu cầu đó của chánh phủ Việt Nam, trong khi đại sứ Pháp thì luôn luôn được ủy nhiệm tại Huế.

Rheinard than phiền chua chát về việc ông ta bị chánh phủ Huế bỏ quên, đồng thời chánh phủ Huế kêu ca về sự thiếu lễ độ của các đại diện Pháp: không còn những “người có cảm tình với An Nam” (Annamitisant) trong đám họ nên quan hệ giữa hai bên bị ảnh hưởng sâu sắc.

Đây là thời kỳ trao đổi thư từ giữa các Bộ trưởng nhằm xúc tiến công cuộc vũ trang chiếm đóng Bắc kỳ. Các Bộ trưởng và thống đốc thi nhau gây sức ép chánh phủ Huế để khi thời cơ đến, là tuyên bố “buộc lòng phải xâm nhập và đánh chiếm Bắc kỳ do sự thiếu thiện chí của triều đình Huế”. Cũng như vậy, họ không ngừng phàn nàn về số phận buồn thảm của Bắc kỳ, xứ “lệ thuộc của An Nam” mà dân tình đang “kêu ca oán trách, dưới ách thống trị khắc nghiệt không thể nào chịu nổi”, họ đang ngóng trông “một cuộc viễn chinh đến để giải phóng cho họ thoát khỏi tay người An Nam bóc lột áp bức mình”, họ sẵn sàng ủng hộ bất cứ kẻ phiến loạn nào, miễn là kẻ đó hứa hẹn sau khi thắng lợi rồi sẽ chịu đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp, chẳng hạn như tên Paulus Thy có ý định lập ra một “nước Cộng hòa Bắc kỳ”.

Là một cựu phiên dịch của lãnh sự quán Pháp tại Hải Phòng, “hàm tri huyện”, tên Paulus Thy này cầm đầu một nhóm 32 giáo dân, Bắc kỳ cũng như ông ta. Ngày 22/2/1879, Paulus Thy thảo ra một bản thỉnh cầu xin “sự bảo hộ của nước Pháp”, bằng cách “giải phóng Bắc kỳ” khỏi ách của “chánh phủ triều Nguyễn”. Sau bức thư thỉnh nguyện này sẽ là một âm mưu tiếp theo nhằm thiết lập một nền “Cộng hòa Bắc kỳ”. Một cuộc nổi dậy đã được sắp đặt, nhằm đánh vào thành Nam Định và chẳng ai ngờ rằng những cuộc “nổi dậy đó” đều được các giáo sĩ Pháp, Tây Ban Nha và chính quyền Pháp xúi giục để lấy đó làm duyên cớ “giải phóng Bắc kỳ” khi thời cơ đến.

Lẩn trốn vô Nam kỳ ở tại Thủ Dầu Một, ngày 8/12/1881, Paulus Thy lại một lần nữa đưa một thỉnh nguyện thư cho Le Myre de Vilers, cầu xin Pháp can thiệp… để “tuyên bố Bắc kỳ độc lập, dưới sự che chở của một liên minh vĩnh cửu với nước cộng hòa Pháp…”(14)

Cái “thời cơ” mà các Bộ trưởng và thống đốc đợi chờ chính là lúc mà Quốc hội Pháp bị họ xúi giục luôn, lâu nay thì không muốn cuối cùng biểu quyết những kinh phí đã yêu cầu.

Những Cuộc Can Thiệp Đầu Tiên Của Bắc Kinh

Sau những tin đồn về khả năng xảy ra một cuộc xung đột Pháp - Việt Nam, hầu tước Tăng Kỉ Trạch vừa mới nhậm chức đại sứ đặc mệnh toàn quyền Trung Quốc tại Paris và Luân Đôn, ngày 25/1/1880 có một cuộc hội kiến với chủ tịch Hội đồng, kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, Freycinet.

Trong cuộc hội kiến này, Tăng Kỉ Trạch nhắc lại mối “quan hệ chư hầu” của Việt Nam với Trung Quốc và yêu cầu xác định về những tin đồn đại về một cuộc xung đột tất gần giữa chánh phủ Pháp với “Nhà vua An Nam”. Freycinet đính chính những tin đồn đó và khuyên Tăng Kỉ Trạch hãy an tâm về thiện chí hòa bình của chánh phủ Pháp.

Rồi ông đại sứ Trung Quốc, lúc này đang lưu lại ở Saint-Petersburg để giải quyết vấn đề Kouldja, nhận được một vài tin tức nói rằng chánh phủ Pháp có thể có ý định, hoặc đã thực sự chuyển quân qua Bắc kỳ. Ngày 10/11/1880, ông ta tỏ nỗi lo ngại của mình với ông Bộ trưởng Ngoại giao mới, Barthélémy de Saint-Hilaire:

“… Theo những tin tức mới đây, dường như chánh phủ Pháp có ý định, hoặc đã thực sự chuyển quân sang Bắc kỳ khiến tôi nảy sinh nhiều lo ngại. Vậy tôi trân trọng yêu cầu Ngài vui lòng cho tôi được biết những tin tức ấy có đúng sự thực hay không và từ ngày tôi hội kiến với ông de Freycinet, những ý định của chánh phủ Pháp có thay đổi gì không.

Tôi mong rằng Ngài vui lòng cho tôi biết, như ngài Bộ trưởng trước quan điểm của chánh phủ Ngài về vấn đề Bắc kỳ. Bởi tôi không cần tuyên bố với Ngài rằng chánh phủ Trung Quốc không thể giữ thái độ bàng quan trước những cuộc vận động có tính chất thay đổi tình hình chính trị một nước lân cận như vương quốc Bắc kỳ, mà lâu nay quốc vương vẫn chịu sự thụ phong của Trung Quốc…”(15)

Ngày 27/12/1880, ông ta nhận được bức thư trả lời sau đây:

“… Quan hệ của chúng tôi với Bắc kỳ đã được quy định bởi hiệp ước, ký ngày 15/3/1874, giữa nước Cộng hòa Pháp và vương quốc An Nam, mà Bắc kỳ, Ngài cũng biết, là một bộ phận phụ thuộc.

Chiếu theo điều II của bản hiệp ước trịnh trọng đó, nước Pháp thừa nhận quyền độc lập hoàn toàn của Nhà vua An Nam đối với tất cả mọi nước ngoài, không phân biệt, đã hứa giúp đỡ và hỗ trợ cho An Nam và cam kết cung cấp cho An Nam tất cả sự ủng hộ cần thiết để duy trì an ninh trật tự và bảo vệ cho họ chống lại mọi cuộc tấn công. Tôi phải thêm để Ngài biết rằng, cũng hiệp ước ấy, đã đặt quyền lợi những người châu Âu tại An Nam dưới sự bảo hộ của nước Pháp.

“Văn bản mà tôi vừa chỉ ra những điều khoản chính đã được thông báo kịp thời cho các chánh phủ liên quan; đặc biệt triều đình Trung Quốc đã được thông báo qua trung gian của phái đoàn Pháp tại Bắc Kinh. (…)

Về phần tôi, chẳng khó khăn gì mà tôi không cam đoan với Ngài rằng chánh phủ Pháp có ý định tuân theo những điều khoản của Hiệp ước 1874 và làm hoàn thành những nhiệm vụ có thể ràng buộc nó, bao gồm trong hiệp ước. Chánh phủ Pháp hiểu rõ rằng chánh phủ Bắc Kinh, cũng như bản thân chúng tôi, rất quan tâm đến việc giữ gìn trật tự trong một vùng đất ở kề ngay biên giới Thiên quốc và sẽ cố gắng hết sức mình để cản ngăn không để cho bất cứ một khó khăn nào hoặc một sự hiểu lầm nào, có thể, do đó nảy sinh ra giữa nước Pháp và chánh phủ của Hoàng đế Trung Quốc…”(16)

Chúng ta hãy nhớ rằng nội các Ferry đầu tiên (9/1880-11/1881) vừa mới nắm quyền có mấy tháng nay. Jules Ferry, lãnh tụ cánh tả Cộng hòa, sắp sửa tiến hành cuộc bành trướng thuộc địa bằng việc đánh chiếm nước Tunisie. Đứng đầu Bộ Ngoại giao của nội các Ferry, là Barthélémy de Saint-Hilaire, một nhà Hy Lạp học danh tiếng và Bộ Hải quân là Đô đốc Cloué.

Chính sách của Pháp đối với Việt Nam đã được xác định một cách dứt khoát rõ ràng. Ông Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa không ngừng thúc giục ông Bộ trưởng Ngoại giao thực hiện nhanh chóng kế hoạch hành động đã được hai bộ thảo ra và được cả nội các tán thành, thi hành một áp lực mạnh mẽ, càng sớm càng hay đối với triều đình Huế nhằm buộc Tự Đức thừa nhận nền bảo hộ Pháp.

Những cuộc điều đình Pháp - Trung về vấn đề Việt Nam vẫn đứng một chỗ không tiến. Ngày 14/11/1880, Barthélémy de Saint-Hilaire được Gambetta thay thế. Trong thời gian ngắn ngủi ở Bộ Ngoại giao, Gambetta thông báo cho nhà ngoại giao Trung Quốc biết, ngày 1/1/1882 rằng mở một cuộc thảo luận về nguyên tắc, lúc này là việc làm không thích hợp tí nào.

Nhắc đến bức thư trả lời của ông chủ tịch Tổng lý Nha môn khi nhận được bản thông báo của Pháp về Hiệp ước 1874, Gambetta tuyên bố:

“Nói về nước An Nam, bức thư này chỉ nhắc đơn giản rằng, trước kia An Nam đã từng là chư hầu của Trung Quốc - điều ấy, thực ra chỉ có một giá trị lịch sử. Nước Pháp không thể chấp nhận sự phản đối muộn màng của Trung Quốc về vấn đề Việt Nam; nhưng tôi có thể cam đoan với Ngài rằng nước Pháp không nuôi dưỡng một ý đồ nào có thể cho Trung Quốc nghi ngờ, hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền lợi của Trung Quốc”.(17)

Mặc dù Bắc Kinh có can thiệp với Paris, về chính sách của Pháp tại Việt Nam, Paris chỉ nghe vị đại diện của Thiên triều bằng một cách lơ lãng. Người ta coi thường những lời phản đối của ông ta vì sự yếu đuối quá rõ rệt của Bắc Kinh.

Vậy là chính sách của Pháp đối với Việt Nam vẫn tiếp tục theo con đường do Jules Ferry và các Bộ trưởng của ông vạch ra.

Từ 1870, giai đoạn lớn của chủ nghĩa đế quốc Pháp bắt đầu.

Giữa những năm 1870 và 1900, các lực lượng bành trướng thuộc địa thắng thế một cách quyết định các lực lượng đối lập. Sau ba thập niên của một giai đoạn lịch sử đầy sóng gió, nước Pháp đã chiếm được một hệ thống thuộc địa bao gồm khoảng 12 triệu km2 và gần 40 triệu dân.

Trong những năm tiếp liền theo cuộc chiến tranh 1870, giữa 1871 và 1880 mà người ta có thể coi như một thời kỳ lắng đọng, có thể ghi nhận một vài thái độ có chiều hướng lẩn tránh, nhưng cạnh đó có bao nhiêu sự kiện chứng minh rằng không hề có tinh thần “bỏ cuộc” chút nào. Ngược lại, người ta thấy một ý chí bành trướng rất rõ nét và có trước cả hoạt động của Jules Ferry.

Năm 1871 tại Algérie, chiến dịch đàn áp cuộc nổi dậy của người Kabyles được khơi mào, do ý muốn rút ra được những mối lợi tối đa cho công cuộc thực dân hóa(18). Năm 1876 tại Sénégal, thống đốc Briérde l’Isle lấy lại dự án Faidherbe: bình định và tiến về sông Niger. Năm 1878 tại Dahomey, một hiệp ước xác nhận xứ Cotonou là nhượng địa của Pháp. Từ 1875, Brazza tiến hành những chuyến thăm dò ở Congo nhờ có sự bảo vệ chính thức của chánh phủ.

Tại Việt Nam như chúng ta đã thấy, những ý đồ thương mại của Jean Dupuis đã được nối tiếp bằng cuộc chinh phục vùng châu thổsông Hồng của Francis Garnier. Hiệp ước 1874 thừa nhận chủ quyền toàn vẹn của Pháp trên đất Nam kỳ; nó chứa đựng mầm mống của chế độ bảo hộ đối với Việt Nam, chưa nói đến bao nhiêu quyền lợi thương mại giành được vài ba tháng sau đó. Sự nghiệp của các ông Đô đốc cầm quyền đã làm được tiếp, đó là của ông thống đốc dân sự đầu tiên, Le Myre de Vilers, chứng tỏ ý chí quyết tâm thiết lập một chế độ thuộc địa vĩnh viễn của Pháp lên đất nước Việt Nam.

Tại các phần khác của thế giới cũng chẳng hề có chính sách từ bỏ xâm chiếm chút nào. Chính sách thực dân cứ tiếp tục tại Nouvelle-Caledonie đã gây ra cuộc nổi loạn lớn của người Canaques năm 1878(19). Một hiệp định được ký kết, cũng trong năm đó, giữa Pháp và Anh về quần đảo Nouvelles Hébrides. Chế độ bảo hộ trên quần đảo Gambier được xác nhận từ năm 1871. Tahiti bị chinh phục năm 1880. Pháp mua lại của Thụy Điển năm 1877 đảo Saint-Barthelemy, vùng Antilles. Ngay cả những quyền có tính chất “lý thuyết” của Pháp trên mảnh đất sa mạc Cheik-Said (duyên hải Arabie) cũng chẳng hề bị lãng quên tí nào..

TS Nguyễn Xuân Thọ

Nguồn: (Alpha Books - Ebook) Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam 1858-1897

Trang Lịch Sử