Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam Vụ Bạo Động Ở Kinh Thành Huế TS Nguyễn Xuân Thọ https://sachhiem.net/NGXUANTHO/BuocMoDau_18.php
Chương 17 - Vụ Bạo Động Ở Kinh Thành Huế Đêm 4-5/7/1885 Và Các Vụ Cướp Phá Cung Điện Nhà Vua Thỏa ước Thiên Tân và hiệp ước bảo hộ không tài nào mang lại hòa bình ở Viễn Đông. Tại Trung Quốc, phần lớn các quan chức và các sĩ phu đều đứng về phe chủ trương một đường lối chính trị cứng rắn đối với bọn “rợ phương Tây” và thù địch với Lý Hồng Chương, là thủ lĩnh phe hòa bình. Tuy nhiên ngoài sự đối lập về nguyên tắc ấy, họ không mấy nhất trí với nhau về việc Trung Quốc có nên theo đuổi cuộc đấu tranh hay không. Bản thân viên đại diện lâm thời Pháp tại Bắc kinh, Semallé, là người theo dõi việc triển khai Thỏa ước Thiên Tân, cũng khó mà biết được nó đã đi tới đâu. Ngày 30/5/1885, ông ta báo cho chánh phủ biết Bắc Kinh chưa chịu chuẩn y; và ngày 7/6/1884, ông ta lại nói rằng: thái độ của chánh phủ Trung Quốc “rõ ràng là rất tốt”. Vào đầu tháng 4/1885, nhiều âm mưu đã đưa đến sự thất sủng của Bộ trưởng Tổng lý Nha môn, Cung Thân vương mà người thay chân là một kẻ đối thủ với Lý Hồng Chương, Khánh Thân vương. Sự kiện này không thuận lợi cho việc thi hành thỏa ước chút nào; thực tế bản thỏa ước đã trở nên vô hiệu. Tại Huế sau sáu tháng “lên ngôi”, ngày 26/7/1884, người ta được tin vua Kiến Phước chết vì bệnh. Bệnh của “nhà vua” chắc chắn là do có sự bất hòa với nhạc phụ Nguyễn Văn Tường, và cái chết là do uống nhầm thuốc gây ra, dư luận đồn như thế. Trên nguyên tắc, ngai vàng bây giờ phải thuộc về Chánh Mông, người con nuôi thứ hai của Tự Đức. Nhưng các quan phụ chánh sợ mất quyền hành nên không muốn tôn lên ngôi một người đã lớn tuổi. Họ bèn chọn người em út của vua vừa mới chết, là Ưng Lịch mới 12 tuổi và tôn lên ngôi vua với niên hiệu Hàm Nghi. Ngày 14/8/1884, Viện Cơ mật thông báo cho đại diện Pháp biết. Ngày 16/8/1884, viên công sứ (sau này gọi là Khâm sứ) Rheinart trả lời rằng: “Chánh phủ An Nam đã tiến hành bầu lên một vua mới mà không xin, cũng không được sự đồng ý của chúng tôi… cuộc bầu này coi như không có giá trị. Triều đình sau khi đã nhận được ý kiến nhất trí của chúng tôi, phải tiến hành một cuộc bầu mới và làm lễ đăng quang cho vị hoàng thân trẻ, em của đức vua mới băng hà… Lễ đăng quang nhất nhất phải được cử hành với sự có mặt của đại diện nước Pháp, một toán quân Pháp sẽ làm đội quân nghi lễ danh dự trong nội cung, cùng với đội thị vệ An Nam trong lúc hành lễ… Nếu chánh phủ An Nam không thi hành ngay tức khắc từng điều kiện nêu trên đây thì chúng tôi sẽ dùng bạo lực.”(1) Để hỗ trợ cho thái độ của mình, Rheinart đã ra lệnh cho Hà Nội gửi vào cho ông ta sáu trăm quân cùng với những khẩu đại bác. Khi lực lượng này đã đến Huế, ông ta bắt buộc các quan phụ chánh, trước mọi nghi lễ, phải đệ trình lên ông ta một lá đơn viết tay đề nghị chỉ định và tôn Hoàng thân Ưng Lịch lên ngôi vua. Triều đình đã gửi lá đơn lên, nhưng đơn này viết bằng “chữ Nôm”(2); Rheinart từ chối không nhận đơn viết bằng thứ “chữ dân gian” ấy mà phải viết bằng chữ Hán! Triều đình chiều ý và ngày 10/8/1884, viên công sứ (Rheinart) cùng với viên chỉ huy quân sự, vào thành dự lễ đăng quang vua Hàm Nghi bằng cửa giữa (Ngọ Môn), mà theo lễ nghi từ trước, chỉ dành riêng cho một mình nhà vua đi mà thôi. Cùng một lúc Hàm Nghi cảm thấy nỗi bất bình khó chịu đầu tiên, báo hiệu những ngày sóng gió sau này thì triều đình Huế cũng thấy vô cùng nhục nhã trước những truyền thống ngàn đời bị kẻ thù giẫm đạp lên một cách ngang nhiên. Số phận nước Việt Nam và vương triều Nhà Nguyễn đã thấp thoáng hiện lên dưới dấu hiệu một tương lai u ám. Cuộc Rút Quân Khỏi Lạng Sơn Ngày 12/9/1884, Jules Ferry chỉ định viên khâm sứ mới ở Huế được bổ nhiệm đặc sứ đặc mệnh toàn quyền hạng nhì. Đầu tháng 12/1884, đại sứ Tây Ban Nha tại Paris được chỉ thị thăm dò ý chánh phủ Pháp về việc có thể cử những nhân viên lãnh sự quán Tây Ban Nha tại Việt Nam, khi cần. Quả thực là trong hiệp ước Việt Nam - Tây Ban Nha ngày 27/1/1880, có dự kiến việc cử sang Thị Nại, Ninh Hải và Hà Nội, những lãnh sự Tây Ban Nha mà sau khi được chấp nhận sẽ được hưởng những đặc quyền ngoại giao y như lãnh sự các nước khác. Họ phải được quyền tài phán trong những vụ xung đột giữa người Tây Ban Nha với nhau, hoặc giữa người Tây Ban Nha với những ngoại kiều khác, những cuộc xung đột mà khi vắng mặt các lãnh sự Tây Ban Nha, sẽ do các lãnh sự Pháp xét xử. Còn những vụ bất hòa giữa người Việt Nam và Tây Ban Nha, trong trường hợp lãnh sự Tây Ban Nha không dàn xếp được thì sẽ đưa ra một tòa án trọng tài gồm có viên lãnh sự Tây Ban Nha và một thẩm phán Việt Nam. Hiệp ước Tây Ban Nha - Việt Nam đang có hiệu lực. Đối với nước Pháp, nếu Tây Ban Nha thực hiện dự kiến của mình là cử các lãnh sự mà quyền hạn sẽ không tương hợp với chế độ bảo hộ của Pháp sang Việt Nam thì sẽ gây ra nhiều điều bất lợi. Cho nên chánh phủ Pháp yêu cầu Tây Ban Nha đừng thay đổi gì về thực trạng tình hình hiện nay, trước khi miền Bắc và miền Trung nước An Nam được hoàn toàn bình định xong. Pháp có thể hy vọng rằng nếu sau này nội các Madrid yêu cầu, thì Pháp có thể thỏa thuận từ bỏ quyền tài phán của mình đối với các nhân viên của Tây Ban Nha tại Việt Nam, cũng giống như ở Tunisie. Thỏa ước Thiên Tân đạt được trong mùa xuân có tính chất tạm thời, rất bấp bênh. Chánh phủ mới của Trung quốc thấy Pháp vội vàng phê chuẩn thỏa ước này, cho rằng đó là một dấu hiệu yếu đuối; họ coi thường chữ ký của một viên thiếu tá hải quân “tạm thời kiêm việc ngoại giao”. Hơn nữa, bản thỏa ước dịch vội vàng và có những sai sót trong văn bản tiếng Hán, đã gieo những điều hoài nghi. Phần đông các sĩ phu đều phản đối bản thỏa ước này vì nó thừa nhận cho Pháp được đóng quân ngay sát biên giới phía Nam Trung Quốc. Theo nguyên tắc, các sĩ phu nói chung đều mang nặng tư tưởng bài ngoại và không muốn thấy một nước Trung Quốc “mở cửa”, dù bất cứ với giá nào. Đứng đầu phe đối lập là một ông già 79 tuổi, Tả Tông Đường, người đã chiến thắng quân Thái bình Thiên quốc. Ông đã kích động toàn thể các sĩ phu trong nước đòi không được thi hành bản thỏa ước mà họ muốn sửa đổi nhiều điểm quan trọng. Khi quân Pháp ở Huế hủy bỏ chiếc ấn phong vương, biểu hiện bá quyền của Trung Quốc thì chánh phủ Bắc Kinh phản kháng; Bắc Kinh phủ nhận rằng, hiệp ước có quy định sự rút lui lập tức của quân Trung Quốc ra khỏi Bắc kỳ. Về phía họ, quân Pháp đã chuẩn bị mọi việc theo chỉ thị của Fournier, sẵn sàng để chiếm đóng những vị trí mà quân Trung quốc sắp sửa rút lui. Vì vậy mà đã xảy ra “sự kiện Bắc Lệ”. Một đội quân Pháp được lệnh đi “tiếp quản” Lạng Sơn, theo những chỉ thị trên ngày 23/6/1884, đã gặp những đội quân rất đông của Trung Quốc; quân Trung Quốc tiến công; quân Pháp phải rút lui với nhiều thiệt hại đáng kể. Thực ra không có chuyện “mai phục” Bắc Lệ, như có vài sử gia Pháp đã nói. Nguyên nhân đơn giản là do lệnh chuyển quân về phía Trung Quốc đến quá muộn. Do đường xa và phương tiện thô sơ mà mệnh lệnh của Bắc Kinh cho quân đội của họ đóng ở Bắc Kỳ không đến kịp thời cho nên mới xảy ra “sự kiện” bất trắc. “Sự kiện bất trắc” đó đã khiến cho chánh phủ Pháp hết sức bất bình. Ngày 12/7/1884, Jules Ferry gửi cho Bắc Kinh một bức tối hậu thư được gia hạn đến 19/8. Hơn nữa Courbet đã bắt được trong ngày đánh chiếm Sơn Tây những bức thư của phó vương Lưỡng Quảng gửi cho Lưu Vĩnh Phước, chứng tỏ Trung Quốc có chính thức tham gia vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Vậy là Pháp bắt buộc Trung Quốc phải rút quân ngay lập tức khỏi Bắc Kỳ và trả một khoản chiến phí là 250 triệu francs. Pháp giao cho Courbet, lúc này đang bận việc phong tỏa bờ biển Việt Nam, làm tổng chỉ huy tất cả các lực lượng hải quân của Pháp trên các vùng biển Trung Quốc, khoảng 40 chiến hạm. Để làm chỗ dựa cho bức tối hậu thư, Courbet đi tìm kiếm hải quân Trung Quốc; gặp hạm đội quan trọng nhất của nó gần Phúc Châu, Courbet tiến công bắn chìm quá nửa hạm đội và phá hủy các pháo đài, cùng các kho vũ khí. Theo chỉ thị của Paris, ông ta không đến những vùng biển gần Bắc Kinh để khỏi làm mếch lòng Lý Hồng Chương và khỏi gây những phản ứng bất lợi cho những quốc gia mạnh về đường biển đang lo sợ cho thương mại của họ. Cũng theo những chỉ thị đó, ông ta tiến công Đài Loan nhằm chiếm đoạt vùng mỏ than quan trọng Keelung. Tại Việt Nam, quân đội Trung Quốc và Việt Nam cố gắng thêm một lần nữa. Tôn Thất Thuyết tổ chức tại vùng châu thổ Bắc Kỳ một chiến dịch phản công rộng lớn với các lực lượng quân Cờ đen, những toán quân Mường và những đơn vị quân chính quy. Các quan chức cao cấp Trung Quốc và Việt Nam kêu gọi kháng chiến và triệt hạ các cơ sở của Pháp. Ngay từ tháng 4/1884, chánh phủ Huế cho xây đắp tại các tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An những doanh trại quan trọng. Các phủ, huyện ra lệnh tuyển quân hàng loạt, người ta tiến hành những công trình lớn, sửa sang lại con đường Đồng Vang để các đợt viện quân của Trung Quốc có thể kéo vào tận Quảng Bình và Quảng Trị, ở đó người ta đã chuẩn bị điều kiện ăn ở và tiếp tế lương thực cho họ. Như chúng ta biết, người ta đã xây dựng một pháo đài chắc chắn tại huyện miền núi Cam Lộ (Quảng Trị) để đón vua Hàm Nghi và triều đình và dùng làm đại bản doanh cho một cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc. Tôn Thất Thuyết sẽ hộ giá vua Hàm Nghi tới đây. Hoàng Kế Viêm mang 5.000 quân từ Quảng Nam, Quảng Ngãi ra vào địa phận tỉnh Hưng Hóa mà ông biết rõ địa thế địa hình qua những tháng năm ông đã chống với quân Pháp. Đề đốc Ngô Tất Ninh sẽ cùng với 400 cựu chiến binh ra Thanh Hóa; tại đây ông sẽ chỉ huy nhiều đội quân tình nguyện đã được Cai Mao tập hợp sẵn để tiến đánh Ninh Bình. Tri châu Điện Biên Phủ và con trai là Điện Văn Xanh sẽ từ phía thượng nguồn sông Hồng đổ xuống chiếm Tuyên Quang và Sầm Cung Bảo thì chiếm phủ lị Lâm Thao. Những kế hoạch được chuẩn bị chu đáo và tỉ mỉ ấy không may đã bị người Pháp biết hết: Giám mục Puginier đã báo cáo hết sức cụ thể trong từng chi tiết cho viên tướng chỉ huy đạo quân viễn chinh, trong một bức thư ngày 6/11/1884. Viên tướng chỉ huy lập tức cho bố phòng cẩn thận để đối phó với mọi bất trắc và xin thêm viện binh. Vậy là những chiến dịch quân sự lại bắt đầu trở lại dưới sự chỉ huy của tướng Brière De L’Isle ngày 8/10/1884, Nigrier đã đẩy lùi một đội quân Trung Quốc từ Quảng Tây đến, tại Kép (12 cây số phía bắc thành phố Bắc Giang). Một đạo quân khác của Trung Quốc đe dọa Tuyên Quang, do thiếu tá Dominé trấn giữ. Cuối tháng 12, tướng Lewal, tân Bộ trưởng Chiến tranh, gởi viện binh sang và lần này chính bộ Chiến tranh chỉ đạo chiến dịch. Đầu tháng 2/1885, quân đội Pháp lại một lần nữa mở những cuộc tiến công mới. Tuyên Quang được giải tỏa; Lạng Sơn bị đánh chiếm và Nigrier theo lệnh của Paris, đang muốn gây áp lực cho những cuộc điều đình đang được tiến hành với Trung Quốc, tiến quân vào nội địa lãnh thổ Trung Quốc, nhưng không thể nào đóng quân lại tại đây được vì vấp phải sự chống cự của những lực lượng đông hơn gấp bội. Trong cuộc lui quân, Nigrier bị trọng thương; người thay thế ông ta làm chỉ huy mất cả bình tĩnh, ra lệnh cho mạnh ai nấy chạy bỏ thành Lạng Sơn ngày 28/3/1885. Nước Pháp, chỉ trong 48 tiếng đồng hồ đã mất hết những kết quả đạt được bằng những nỗ lực lớn đầy gian lao và của năm tháng trời chuẩn bị. Đạo quân lại lui trở về nơi xuất phát, với một tinh thần rã rời bại hoại, sau cái thất bại hoàn toàn vô nghĩa đó. Sự thất bại, biến thành “thảm họa Lạng Sơn” làm nảy sinh ra tại cung điện Bourbon những quyết định quyết liệt. Để nâng cao lên trở lại ảnh hưởng và tầm quan trọng của nước Pháp, bị giảm đi sau thất bại 1870 và trước những khó khăn gặp phải trong việc phục hồi địa vị của Pháp tại châu Âu, Jules Ferry đã lấy việc chinh phục thuộc địa làm nền tảng cho đường lối chính trị mới của ông ta. Việc đào kênh Suez đã làm cho Viễn Đông được xích lại rất gần, và từ một thời gian này rồi tinh thần thuộc địa đang phát triển dần lên ở Pháp. Jules Ferry lợi dụng tinh thần đó nhằm ngăn cản đất nước ông “thu mình trong sự suy tư trầm lặng và bất lực”. Người ta biết, ông cao giọng tuyên bố rằng, “chính sách thực dân đối với nước Pháp là một món gia tài của quá khứ để lại và một kho dự trữ cho tương lai” và rằng:“Người ta không thể là một cường quốc mà cứ ở mãi quanh một xó nhà!”. Ông ta quyết tâm tiến lên một cách mãnh liệt thực hiện cho được cái mà ông coi như những phác họa của những người đi trước, nhằm thiết lập nước Pháp hải ngoại. Nhưng chính sách này không phải mọi người Pháp đều chấp nhận. Những kẻ thù, thuộc bất cứ chính kiến nào cũng đều khước từ một chính sách “vừa thiển cận vừa nguy hại cho Tổ quốc đến thế”. Tại châu Âu cũng có đủ nguy cơ nhiều rồi, chẳng cần phải đi tìm đâu xa. Cái “đường xanh xanh của rặng núi Vosges” luôn luôn bị đe dọa; liệu người ta lại cứ tiếp tục mang lực lượng của đất nước đi rải khắp bốn phương thiên hạ chăng? Vả lại tất cả những chuyện tìm kiếm thuộc địa kia chẳng phải đơn giản, chỉ là những âm mưu tài chính và thương mại, nhằm thỏa mãn một số quyền lợi riêng tư nào đó, trên sự thiệt hại cho quyền lợi chung đó sao? Sau nữa, Jules Ferry càng lâu càng “thiếu cái lỗ tai” của Hạ viện: trước hết vì ông lên cầm quyền đã lâu! Rồi ông ta lại có tác phong độc đoán, giọng nói ra lệnh. Không khí xung quanh nặng nề, người ta đang chồng chất những lời oán trách kêu ca, thì… bất ngờ, tin tức về chuyện thất bại, về tấn “thảm họa Bắc Kỳ” truyền về đột ngột như một tiếng sét. Phiên họp ngày 30/3/1885 quả là một tấn bi kịch; ngay trước phiên họp, đa số nghị sĩ Hạ viện đã biểu thị sự bất tín nhiệm. Jules Ferry đã biết trước số phận của mình rồi, không tìm cách giữ chức vụ nữa; ông ta chỉ đành yêu cầu một số kinh phí phụ để gỡ lại tình thế ở Bắc kỳ. Giữa chiến dịch chống giáo quyền đang quyết liệt, chính các hệ tư tưởng đối lập lại phục vụ cho ý đồ chinh phục thuộc địa. Người Công giáo ủng hộ vì muốn truyền bá đức tin. Phe tả cấp tiến lại nắm lấy vai trò chỉ đạo chiến dịch với hy vọng đi truyền bá “ánh sáng”. Nhưng những đòn đau nhất đánh vào chủ nghĩa bành trướng của Jules Ferry, lại không phải từ phe cực hữu quân chủ hay do dự về những vấn đề này mà từ Clémenceau và các bạn của ông ta, đang được kích động vì một hình thức khác của chủ nghĩa yêu nước cộng hòa. Vậy là Clémenceau mở màn trận chiến, tiếp đó là Ribot. Chẳng ai lên tiếng bảo vệ cho Jules Ferry: người ra đã bắt đầu lo sợ làm mếch lòng chánh phủ sắp tới. Lời yêu cầu thảo luận ngay về vấn đề kinh phí bị bác bỏ, với 306 phiếu chống và 149 phiếu thuận. Nội các Jules Ferry từ chức. Bên ngoài trụ sở Quốc hội, quần chúng la ó “tên Bắc kỳ” (Le Tonkinois, chỉ Jules Ferry), “mà cái vinh quang ngày mai” đang là cái “nhục nhã hôm nay”. Tuy nhiên, ngày trước khi nội các Jules Ferry sụp đổ, việc ngoại giao đã được nối lại giữa Trung Quốc và Pháp. Tuy là rất bất bình với nước Pháp, Sir Robert Hart, Tổng Giám đốc Thuế quan Hàng hải Trung Quốc, lo sợ thấy thu nhập của Sở thuế Hải quan của ông bị tiêu hao vì chiến tranh kéo dài. Ngày 10/1/1885, ông cử đại điện của mình tại Anh, là Sir James Duncan Campbell, sang Paris đòi trả lại một chiếc tàu buôn đã bị Đô đốc Courbet bắt giữ gần Đài Loan và lợi dụng thời cơ để thăm dò giúp cho Trung Quốc biết về ý đồ của Pháp. Viên công chức vừa của Anh, vừa của Trung Quốc, và các nhà ngoại giao Pháp, bắt đầu, từ ngày 6/2/1885, đã có những cuộc tiếp xúc với nhau, lúc đầu còn bí mật, nhưng sau đó trong tháng Ba thì họ gặp nhau gần như hằng ngày. Cả hai chánh phủ Pháp và Trung Quốc bây giờ đều mong muốn giải quyết vấn đề thật khẩn trương để trở lại giao hảo với nhau. Lý do chiến tranh đâu phải là cơ bản đối với cả hai bên. Những lý do hòa bình mới là quan trọng và ngày càng gia tăng. Tại Pháp, cần phải làm cho phe đối lập trong Quốc hội mất hẳn đi một cái duyên cớ thường xuyên cho họ can thiệp, đồng thời loại bỏ đi một cuộc chiến tranh xa xôi, tốn kém mà chẳng cần thiết chút nào. Tại Trung Quốc, vấn đề Triều Tiên đang phát triển theo chiều hướng đáng lo ngại cho Bắc Kinh; ở Turkestan (Tân Cương), có một cuộc nổi dậy và người ta đang đàn áp; thương mại và công nghiệp bị đình đốn hoàn toàn, do tài chính suy đốn thảm hại; quyền bá chủ đối với Việt Nam đã bị quá thời. Cùng một lúc với những cuộc đàm phán bán chính thức diễn ra tại Paris, còn có những cuộc đàm phán khác tại Berlin, giữa các tùy viên quân sự Pháp và Trung Quốc. Trung Quốc đề nghị những điều rất cụ thể với tùy viên Pháp, cho một hiệp định tương lai trên cơ sở Thỏa ước Thiên Tân. Ngày 1/3/885, chính Sir Campbell thực sự đã trở thành “Đại sứ toàn quyền” Trung Quốc, đã phát biểu những điều đề nghị đó; nhà ngoại giao Pháp sửa đổi, bổ sung thêm và văn bản được thông qua, trước tiên là Campbell, rồi tiếp theo là Tổng lý Nha môn, ngày 30/3. Người ta trở lại với Thỏa ước Thiên Tân, chỉ đơn giản vậy thôi. Cả hai bên đều nóng ruột muốn kết thúc cho xong vấn đề nên chẳng bên nào nghĩ đến lợi dụng sự kiện Lạng Sơn cả. Cả hai, vội vàng đến nỗi một mặt, họ không đợi sự thành lập nội các mới (nội các Brisson mãi đến ngày 6/4 mới ra mắt) và mặt khác, họ không đợi sự hiện diện của một đại diện chính cống người Trung Quốc để ký vào văn bản. Vể phía người Pháp, hiệp ước mới do Billot, Vụ trưởng Vụ Chính trị của Bộ Ngoại giao Pháp ký và phía bên kia, là do Sir Campbell ký, thay mặt cho chánh phủ Trung Quốc. Bản hiệp định này được đổi thành hiệp ước chính thức ngày 9/6/1885, với chữ ký của Patenôtre và Lý Hồng Chương sẽ được Quốc hội Pháp chuẩn y ngày 6/7/1885. Vụ Bạo Động Ngày 5/7/1885 Và Việc Cướp Phá Cung Điện Nhà Vua Từ đây, Việt Nam sẽ phải một mình đối phó với những yêu sách của Pháp. Trung Quốc, niềm hy vọng cuối cùng, đã bỏ rơi Việt Nam cho nên Việt Nam vội vàng chuẩn y hiệp ước Pháp - Trung. Cái “trò chơi hai mặt” mà Trung Quốc đã chỉ trích Việt Nam, thực ra thì ai đã chơi trò đó? Bản Dự án Bourré - Lý Hồng Chương phân chia đất Bắc kỳ và bản Thỏa ước Fournier - Lý Hồng Chương chẳng phải là những bằng chứng hùng hồn để xác minh cái mưu mô đích thực của Trung Quốc sao? Hình như Hiệp ước 1884 đã được giải thích một cách rất khác nhau ở hai bên; ở Huế thì giải thích theo từng câu từng chữ và như một sự nhượng bộ tối đa; còn Paris thì giải thích một cách rất rộng rãi và như một giai đoạn để tiến đến một sự thôn tính không che đậy lắm. Ngày 31/3/1885, hôm sau ngày nội các Jules Ferry đổ, Hạ viện biểu quyết một số tiền tạm ứng 30 triệu vào số kinh phí Bắc Kỳ. Có nghĩa là cuộc biểu quyết hôm trước không nhằm vào chống lại việc chiếm đóng Bắc Kỳ mà nhằm chống lại cá nhân Jules Ferry mà thôi. Trên thực tế, không nghi ngờ gì nữa rằng chánh phủ Pháp, trong thời kỳ này đang hướng về một chính sách cứng rắn ở Việt Nam. Sở dĩ viên tướng Roussel de Courcy được làm tổng chỉ huy mới là người ta muốn thi hành những biện pháp bạo lực. Không phải là một viên thiếu tá hải quân hay một viên đại tá nữa, mà là một vị đại tướng. Mặc dù ông ta cả đời chỉ lo chuyện quân lính của mình, chẳng có kinh nghiệm gì về ngoại giao hay chính trị, người ta vẫn trao cho ông những quyền hành cả quân sự lẫn dân sự và các ông khâm sứ, thống sứ ở Huế và ở Hà Nội, đều đặt dưới quyền của ông ta. Rõ ràng là người ta đang hướng đến một hành động quân sự quan trọng. Người ta còn đề xuất vấn đề áp đặt cho Việt Nam một hiệp ước mới, vì các công thức “bảo hộ” đã lỗi thời mất rồi. Vừa đặt chân tới Việt Nam và chắc chắn là ông ta đã nhận được chỉ thị theo chiều hướng này Courcy tính toán ngay đến việc chiếm đóng toàn vẹn lãnh thổ đất nước Việt Nam. Đến Huế ngày 3/7/1885, ông ta có một đoàn tháp tùng khoảng 1.000 người. Ông ta yêu cầu phải để ông ta dẫn cả đoàn tháp tùng theo ông ta vào Nội điện, trình quốc thư cho vua Hàm Nghi, đồng thời lợi dụng cơ hội để “bắt cóc” Tôn Thất Thuyết luôn. Biết rõ ý đồ của Courcy và đi trước cả Courcy, ông phụ chánh đã cho tăng cường bố phòng. Những việc chuẩn bị quân sự của các nhà chức trách Việt Nam đã bị tiết lộ vì hai vị Giám mục Puginier và Caspar đã báo trước cho Courcy hay. Courcy đóng ở sứ quán của viên khâm sứ Pháp, rồi cho mời hai vị phụ chánh tới để bàn về nghi thức yết kiến nhà vua. Chỉ một mình Nguyễn Văn Tường đến. Tôn Thất Thuyết tuyên bố ông bị bệnh nên không tham gia được. Cuộc thảo luận kéo dài hai ngày, Courcy yêu sách chủ yếu là toàn bộ đoàn tháp tùng của ông cho đến cả những tên lính thường, sẽ đi vào bằng cửa Ngọ Môn, dành riêng cho một mình nhà vua, và là cửa cấm, cả đối với các vị đại thần. Không một lý do gì, ngoài cái ý muốn làm nhục và khiêu khích, có thể chứng minh cho cái yêu sách mà viên tướng ấy quyết đòi hỏi cho kỳ được, bất chấp mọi sự. Ngày 4/7/1885, y ra hạn cho triều đình phải chấp nhận bản tối hậu thư trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Người ta có thể hình dung được ngay một cách tổng quát cái bối cảnh, trong đó vụ bạo động ở Huế sẽ xảy ra và sự bác bỏ của triều đình không chấp nhận cái tình huống áp đặt cho họ bằng sức mạnh. Người ta cũng có thể đoán trước được sự việc sẽ diễn biến ra sao và lập trường của một số người có đóng một vai trò trong đó. Thái độ hai vị phụ chánh tỏ ra khác nhau: Tường đáp ứng ngay các yêu sách của viên tướng Pháp, mặc dù là những yêu sách hết sức thiếu lễ độ. Thuyết thì quay lưng đi, thông báo rằng ông ta bệnh. Buổi chiều ngày 4/7 để san bằng bớt các khó khăn, Viện Cơ mật đề nghị hội kiến với Courcy, Courcy từ chối. Y từ chối cả những tặng vật của bà Thái hậu cho các quan lễ phục chỉnh tề mang tới biếu y. Cả cung điện coi hành vi bất nhã đó là một sự thóa mạ đối với ngai vàng. Trước ngày 5/7/1885 mà theo ý nghĩ của tướng Pháp phải dẫn tới hoặc sự đầu hàng hoàn toàn, hoặc sự hủy diệt của chánh phủ Việt Nam, Courcy mở một cuộc chiêu đãi quan trọng tại sứ quán. Tối hôm 4/7/1885 ấy, y tuyên bố: “…Tôi luôn luôn gặp may trên con đường sự nghiệp của tôi. Bất cứ nơi nào tôi đi đến, ‘ngôi sao’ của tôi không bao giờ bị lu mờ. Tôi thấy nó đang bừng lên một ánh sáng mới(3)”. Y rất tin chắc ở mình: ngôi sao của y vẫn chiếu sáng. Vì vậy, một cuộc nổi dậy ở kinh thành Huế, theo y là hoàn toàn không thể ngờ tới. Trước thái độ thù địch rõ rệt của người đại diện nước Pháp và nguy cơ khẩn cấp của một cuộc tấn công có thể xảy ra, chánh phủ Việt Nam đã đi bước trước, khởi cuộc ngay trong đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 tháng Bảy. Quân đội Pháp đều đóng trại tại đồn Mang Cá, một cái đồn nhỏ xây dựng cạnh thành. Cách khoảng 2 km, phía bên kia sông Hương, là ngôi nhà của sứ quán Pháp; tại đây tối hôm ngày 4/7/1885, Courcy mở cuộc chiêu đãi tất cả các nhà chức trách dân sự và quân sự Pháp. Tôn Thất Thuyết ra lệnh cho một đội quân mai phục bên thành và diệt hết tất cả các sĩ quan Pháp trên đường trở về đồn Mang Cá, sau buổi chiêu đãi. Có phải viên đội trưởng quá sớm hay chuẩn bị không đầy đủ chăng? Chẳng rõ. Chỉ biết một điều là những người Pháp đều trở về nơi ở của họ nhẹ nhàng, chẳng gặp một trở ngại nào. Quân đội Pháp có thể thoát chết nhờ một mệnh lệnh không được thi hành, nếu không thì chắc chắn nó đã bị tiêu diệt. Và lịch sử Việt Nam có thể đã đổi khác rồi. Đến nửa đêm, mọi sự đều yên tĩnh. Bỗng đúng lúc trăng lặn, khoảng một giờ sáng, một trận nã pháo đại bác vang lên dữ dội, tiếp đó là ánh lửa cháy nhà; quân của em Tôn Thất Thuyết, là Tôn Thất Liệt, tiến công vào các binh trại của quân Pháp và gây ra những đám cháy khắp nơi. Tôn Thất Thuyết biết rằng dàn trận đánh nhau thì khó mà chống lại nổi quân Pháp; nhưng ông hy vọng rằng bằng một vụ bạo động táo tợn, sau khi đã diệt được các sĩ quan đi dự chiêu đãi về, diệt được viên tướng và cả bộ Tham mưu Pháp bằng cuộc tấn công bất ngờ này thì quân Pháp có thể bị quét sạch ra ngoài biển khơi một cách dễ dàng. Ông đã biết khá rõ những phản ứng của Paris sau vụ rút lui Lạng Sơn nên ông hy vọng cuộc thất bại nghiêm trọng mới sẽ kích động dân chúng Pháp nổi dậy và đòi quân Pháp triệt hồi khỏi Việt Nam. Mưu toan đã thất bại. Quân Pháp đã đương đầu. Tờ mờ sáng, chúng xông lên tiến công vào một thành trì và cung điện đã bị chiếm giữ, mặc dầu những người bảo vệ thành đã chiến đấu dũng cảm đến cùng. Từ lúc còn tinh sương, Thuyết và Tường đã xin với vua và các hoàng hậu được phép đưa họ tạm lánh về Lăng Tự Đức, cách Huế năm cây số, để tránh những chuyện lộn xộn. Năm giờ sáng, cả đoàn xa giá của hoàng gia rời cung điện đi về chùa Thiên Mụ do Nguyễn Văn Tường dẫn đường. Đến Kim Long, Tường được lệnh của Thái hậu ở lại Huế để giải quyết một số công việc khẩn cấp, nhưng rồi ông ta đã nhanh chóng theo kịp đoàn người đi trốn(4). Tới chùa Thiên Mụ, Thuyết cũng đã gặp đoàn người và dẫn đoàn lên đường đi ra Tân Sở; lúc này Tường mới chia tay với đoàn. Quân đội Việt Nam tan vỡ đã để lại cho quân xâm lược cả cung điện lẫn kinh thành. Courcy làm chủ kinh đô Huế. Những thông báo thắng trận của y tiếp theo nhau được gửi về nước; y không bỏ quên những của cải báu vật tìm thấy trong các cung điện. Y điện về Paris: “Giá trị những số vàng bạc cất giấu trong các hầm, ước tính khoảng chín triệu. Ngoài ra, còn tìm được những ấn tín và cuốn sách bằng vàng bạc trị giá một triệu. Đã bắt đầu tập hợp lại, một cách rất khó khăn, được một phần những kho tàng nghệ thuật. Cần gửi ngay sang một tàu thủy và nhiều chuyên viên giỏi để chuyển những kho tàng nghệ thuật này về, cùng với các báu vật, bạc vàng”(5). Không cần thêm dài dòng, bức điện này cũng đã nói lên khá đầy đủ và một cách hùng hồn rồi. Nếu như vụ cướp phá của cải và báu vật của kinh thành Việt Nam được tổ chức một cách có phương pháp do tướng Courcy và phụ tá của y là tướng Prudhomme(6) và chẳng kém gì những vụ cướp phá đã diễn ra 25 năm về trước, tại cung điện Mùa hè ở Bắc Kinh, ở Jéhol do quân đội của Đô đốc Page, nam tước Gros và Lord Elgin(7) - không nổi tiếng trên thế giới cho bằng những vụ cướp phá trên đây, nhưng nó để lại trong lòng toàn thể nhân dân Việt Nam một nỗi đau xót sâu xa, kể cả với những tên phản quốc. Một chứng nhân, P. Pène-Siefert, kể: “…Họ [những người Việt Nam] làm cho chúng ta ngượng ngùng khó nghĩ khi họ kể với chúng ta rằng: với những bản mục lục tài sản đã có trước ngày 5/7 cầm tay, người Pháp đã lấy ở nhà ở các đội thân binh, 113 lượng vàng, 742 lượng bạc, 2.627 quan tiền, tại cung bà Thái hậu, mẹ vua Tự Đức, 228 viên kim cương, 266 đồ nữ trang nạm kim cương, ngọc trai và đá quý, 271 đồ dùng bằng vàng; tại các lăng Thiệu Trị, Minh Mạng, Gia Long, đầy ắp những đồ dùng của cá nhân các vua đó lúc sinh thời. Tất cả những thứ gì có thể lấy mang đi được: vương miện, đệm lưng, đệm trải nhà, nệm giường, áo đại lễ, giường và bàn tròn chạm trổ, chậu thau, lồng ấp, mùng và màn cửa bằng lụa thêu, lư hương, ấm pha trà với những chiếc khay, cho đến cả những ống tăm xỉa răng… Tại các ngân khố hoàng gia, cướp đi một số vàng trị giá khoảng 24 triệu francs… Một vụ cướp phá trắng trợn như vậy kéo dài hai tháng ròng, nổi tiếng một cách đáng buồn gấp nhiều lần hơn so với những vụ cướp phá cung điện Mùa hè tại Bắc Kinh và nó chỉ có thể làm bại hoại tinh thần của người lính… “…Cái đã làm cho Nguyễn Văn Tường cũng phải khóc là việc thiêu hủy kho lưu trữ của hầu hết các bộ và của Quốc gia thư viện; những thiệt hại của các phòng Biên niên sử (Quốc sử quán) của Quốc gia Ấn quán mà các bộ chữ Hán rời đã biến mất”.(8) Khi Đồng Khánh lên ngôi, bị để trống sau khi Hàm Nghi bị bắt tuy là “nhờ ơn” kẻ chiếm đóng và buộc lòng phải nể nang họ - nhưng không gì ngăn cấm Đồng Khánh đòi Pháp phải hoàn trả những kho báu đã bị bọn họ lấy đi và chắc chắn hiện còn được cất giữ tại Pháp. Trong biên bản cuộc viếng thăm toàn quyền Constans của nhà vua, ngày 21/3/1888, có ghi: “…Trở lại vấn đề đã nhiều lần Người đề cập đến, Hoàng thượng đã nhắc lại rằng nhiều đồ dùng có giá trị của gia đình Người đã biến mất sau những sự kiện ngày 5/7 và chắc chắn hiện đang giữ ở Pháp, đặc biệt là một chuỗi ngọc được bắt đầu làm dưới thời Gia Long mãi đến đời Tự Đức mới làm xong, cùng với một thanh kiếm nạm ngọc của vua Gia Long. Quan toàn quyền đã hứa sẽ cố gắng làm mọi cách để những vật ấy được tìm ra và trả lại cho Hoàng gia… Ngài có nói thêm với Hoàng thượng (Đồng Khánh) đừng nên khoác cho lời cầu xin này tính chất một bản yêu sách, nhất là khi ai cũng thừa nhận rằng những đồ dùng này bị mất cũng là do hậu quả không hay của sự kiện ngày mồng 5/7; những sự kiện này ít ra, cũng có một kết quả tốt lành: là đưa Hoàng thượng lên ngôi và cho phép vị đại diện của nước Pháp, bây giờ đây được dâng lên Hoàng thượng những lời chúc mừng trân trọng…(9)”. Nhắc lại vụ cướp phá, đã một lần làm ông phẫn nộ, Rheinart, Khâm sứ Pháp tại Huế, trong một bản tường trình gửi Toàn quyền Richaud, ngày 28/2/1889, có viết: “…Ngày 5/7/1885, trong vụ bạo động Huế, một số lượng lớn những báu vật đã bị cướp đi và người ta thấy vô cùng xấu hổ mỗi khi nghĩ lại những sự việc xảy xa đã xảy ra lúc đó: một con voi bằng vàng làm rất kỳ công và có giá trị lớn bị cưa làm đôi vì hai gã kình địch, gã nào cũng muốn giành phần của mình vì cái chất nguyên liệu của đồ vật ấy. Cái điều mà nhắc lại chỉ thêm buồn là một viên sĩ quan cấp tướng, tướng Prudhomme, đã không hề có chút áy náy nào trong lương tâm, khi ông ta lấy đem đi những đồ vật nhiều giá trị, mà chẳng ai tìm cách đánh thức cái lương tâm đang mê ngủ của ông ta; báo chí chẳng tố cáo điều gì; người ta không yêu cầu ông ta gửi trả lại triều đình Huế một phần những tài sản quý ông ta đã chiếm đoạt. Khi nhận thấy cái nghèo nàn, cái khốn khổ hiện tại của triều đình An Nam, người ta có thể quên đi thái độ lừa đảo hai mặt của nó trước kia, mà thực ra chính là những hành vi bất chính của chúng ta đã làm nảy sinh ra và người ta rất lấy làm tiếc không còn lại ai để bắt họ phải trả lại một phần nào những thứ mà chúng ta đã cướp đi một cách vô liêm sỉ đó. Dĩ nhiên người ta có thể gọi sự kiện ngày 5/7/1885 là ‘một cuộc mai phục’, một cái ‘bẫy’ chăng cho chúng ta; nhưng phải chăng, chính chúng ta đã gây ra và triều đình Huế không thể không nhớ những cuộc chúng ta, hai lần đánh chiếm Hà Nội, những cuộc tấn công của chúng ta ở phía Bắc, mà họ là nạn nhân? Dù cho sự kiện này được đánh giá như thế nào đi nữa thì bổn phận đòi hỏi chúng ta một cách rất nghiêm túc là không được cướp đem đi những tài sản của triều đình. Hẳn vậy, bởi chúng ta không phải là khách qua đường, ghé lại trên một xứ sở thù địch một hôm rồi đi, không cần quan tâm đến những sự mất mát của nó, không cần lo lắng cho ngày mai: một chánh phủ thật sự đã đoạn tuyệt với chúng ta, đúng vậy, nhưng chúng ta quyết sẽ thay vào đó một chánh phủ khác, nhằm tiếp tục thi hành Hiệp định ngày 6/6/1884 và việc thi hành này đặt lên lưng chúng ta những nhiệm vụ tài chính lớn lao, mà một khi nước được bảo hộ càng nghèo đi thì nhiệm vụ tài chính đó càng trở nên nặng nề gấp bội. Muốn cho triều đình còn có đủ uy tín để buộc người dân phục tùng, dưới sự thúc đẩy của chúng ta thì phải giữ lấy cho nó cái chút ít xa hoa mà nó đã tạo nên được, nhờ bao nhiêu năm dài chắt bóp. Còn nhiều điều cần nói nữa…”. Một vài tư liệu chưa xuất bản trên đầy đủ làm sáng tỏ cho chúng ta về những ngày bi đát mà kinh thành và nền quân chủ (nhà Nguyễn) đã trải qua và qua nó là cả nhân dân Việt Nam. Từ trước đến nay, rất hiếm những nhà sử học người Pháp nhắc đến những ngày bi đát này và nói lên cái điều nên nói. TS Nguyễn Xuân Thọ Nguồn: (Alpha Books - Ebook) Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam 1858-1897 Trang Lịch Sử |