Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam Hiệp Ước Patenôtre TS Nguyễn Xuân Thọ https://sachhiem.net/NGXUANTHO/BuocMoDau_17.php
Chương 16 - Hiệp Ước Patenôtre (6/6/1884) Nếu như, trong ba mươi sáu năm dưới triều đình vua Tự Đức, nước Việt Nam đã chứng kiến những ngày đen tối nhất trong lịch sử của mình thì với sự chiếm đóng của thực dân Pháp, giai đoạn tiếp theo cái chết của vua Tự Đức là một trong những giai đoạn bi đát nhất. Trong lúc mà tương lai đất nước đang đứng trước họa sống còn, những cuộc nổi loạn triều lại tiếp nối nhau trên một nhịp độ khủng khiếp, đe dọa không những dòng họ đương trị mà cả sự tồn tại của Việt Nam với tư cách là một quốc gia. Trong suốt giai đoạn vừa nguy kịch vừa đầy tang tóc ấy, do sự cạnh tranh quyền lực giữa hai ông chủ thực sự của Việt Nam, là hai đại thần nhiếp chính Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường, đất nước bắt đầu chìm đắm dần dần trong nô lệ và điêu linh. Sau khi phải ký một bản hòa ước dối trá giữa hai cuộc “cách mạng cung đình”, người ta chỉ còn cách than thở với nhau về tính chất khắt khe của các điều khoản hiệp ước: hai chữ “bảo hộ” kéo hồi chuông báo tử của nền độc lập dân tộc đã giành được bằng cả một quá khứ dày chiến tích đấu tranh và vinh quang bậc nhất trong lịch sử của mình. Việc cắt tỉnh Bình Thuận sát nhập vào Nam kỳ thuộc Pháp là một cơn ác mộng. Việc tách ba tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, và nhất là Thanh Hóa, về cho chính quyền bảo hộ Pháp ở Bắc kỳ là một ám ảnh thường xuyên đối với mọi người. Đáng lẽ phải tìm mọi cách để đuổi quân Pháp ra ngoài biển Đông bằng một cuộc tấn công quyết định dựa trên ưu thế quân số của miền Bắc và kết hợp với sự hiện diện của quân đội Trung Quốc thì các nhà đương cục Huế lại tự bó mình trong một thái độ bàng quan tuyệt vọng. Trước một bước ngoặt có tính chất quyết định như vậy của lịch sử đất nước, chánh phủ Huế đành bị động ngồi nhìn và chỉ dám cầu khẩn lòng thương hại của quân chiếm đóng xin ban cho mình một vài điều châm chước. Ngay hôm sau khi bản Hiệp ước Harmand được ký kết, 26/8/1883, các đại diện toàn quyền của Việt Nam đã viết thư cho thống đốc Nam kỳ là Thomson xin hoãn việc cắt đất Bình Thuận vào cho Nam kỳ trong lúc chờ đợi hiệp ước được chuẩn y. Ngày 20/11/1883, họ yêu cầu Harmand sửa đổi lại một vài điều khoản mà họ cho là quá khắt khe: gạch bỏ chữ “bảo hộ” đi; ba tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An và Thanh Hóa trở lại với Trung kỳ; cắt lại phủ Hàm Thuận thuộc tỉnh Bình Thuận (đã sát nhập vào Nam kỳ) về với tỉnh Khánh Hòa; đại diện lâm thời Pháp tại Huế sẽ đứng ngoài mọi công việc nội trị của đất nước. Ngày 17/11, Harmand bác bỏ yêu cầu của Việt Nam. Trong phiên họp ngày 8/1/1884, Hội đồng Thuộc địa sẽ biểu quyết một khoản kinh phí là 500.000 francs sử dụng cho công cuộc chiếm đóng và tổ chức hành chánh năm 1884 của Bình Thuận. Thi hành điều V của hiệp ước (Chánh phủ Đại Nam sẽ xuống lệnh cho các quan lại ở Bắc kỳ trở lại nhiệm sở…), Huế cử ra Bắc một phái đoàn gồm có Nguyễn Trọng Hiệp, Thượng thư bộ Nội vụ và Ngoại giao, một trong các đại diện toàn quyền ký Hiệp ước Harmand, Trần Văn Chuẩn, Công bộ Thượng thư và Tôn Thất Hồng Phi, đại diện hoàng gia. Cũng chính phái đoàn này đã được ủy nhiệm xin sửa đổi các điều khoản hiệp ước. Họ không đi đường bộ. Để rút ngắn thời gian cuộc hành trình, Harmand đã có “nhã ý” bảo Đô đốc Courbet sửa soạn cho chiếc tàu “Chateaurenaud” đưa phái đoàn Việt Nam đi, tuân theo lời mời vừa lịch sự vừa cưỡng bách đó, các phái viên của Huế ra đến Vịnh Hạ Long vào đầu tháng 10/1883, gặp lại Harmand tại đây. Dĩ nhiên là Harmand tay bắt mặt mừng được gặp lại trong số họ, Nguyễn Trọng Hiệp là người nhiệt tình cổ vũ cho sự hợp tác chặt chẽ với nước Pháp. Hiệp cao giọng tuyên bố tấm lòng thành thực của phái đoàn thừa nhận rằng số phận hai nước Việt Nam và Pháp từ đây sẽ gắn bó với nhau một cách vững bền bất tuyệt. Còn hai vị kia thì tỏ ra rất bối rối, hoang mang sợ hãi trước những sự kiện chưa hề quen biết mà bỗng nhiên họ phải đối diện đương đầu. Ngay những phút hội kiến đầu tiên, Harmand cố tình trấn an họ về các hậu quả của chế độ mới. Ông ta dùng những lối so sánh quen thuộc và những dẫn chứng rút ra từ chính lịch sử Việt Nam để giải thích cho họ hiểu các ý nghĩa chữ “bảo hộ” ở châu Âu. Ông ta khuyên họ tránh đừng có sự hiểu lầm vì tiếng Việt rất “tàn nhẫn”, muốn diễn đạt loại quan hệ này, nó có một cách nói phóng khoáng và linh hoạt hơn tiếng Pháp nhiều. Nhưng mặc dầu những cố gắng đó của Harmand, hai ông Trần Văn Chuẩn và Tôn Thất Hồng Phi vẫn không sao giải thoát khỏi nỗi lo sợ chính đáng của mình. Nguyễn Trọng Hiệp thì đinh ninh tin tưởng từ trước rằng vấn đề hợp tác là cần, là không thể bỏ qua. Các phái viên Việt Nam theo Harmand xuống Hải Phòng. Sự có mặt của họ tại đây thu hút ngay được các quan lại vùng lân cận tụ tập lại. Và họ thảo luôn ra gần như là theo từng chữ, từng câu đọc lên trước của Harmand, bản tuyên cáo sẽ được yết khắp miền Bắc. Sau đó thì cả bốn người lại đi qua Hải Dương, lên Hà Nội. Trong lúc đi đường, Harmand luôn luôn tiếp xúc với các phái viên, nhiệt liệt ca ngợi những lợi ích đáng kể mà Việt Nam sẽ thu hoạch được qua việc thi hành đúng đắn theo tinh thần cũng như theo lời văn của bản Thỏa ước vừa ký xong tại Huế. Các vị Thượng thư đến Hà Nội được chào đón đúng cách thức mà Harmand đã chỉ thị bằng một loạt mười lăm phát đại bác, rồi người ta trịnh trọng đưa phái đoàn về chỗ ở của ông ủy viên dân sự. Người ta tổ chức những buổi chiêu đãi, mỗi người có vẻ như hài lòng được đi đi lại lại với tư cách là những vị khách được kính trọng và những người bạn, giữa những quan chức Pháp mà vừa mới hôm qua còn là những kẻ thù không đội trời chung. Các nhà đương cục Pháp hy vọng tìm thấy qua đó dấu hiệu một sự hòa hoãn toàn diện trong cái trào lưu thù địch chống lại họ đang hình thành. Trong tư tưởng họ, việc phái đoàn Việt Nam đến Hà Nội là một biểu hiện xác định sự hòa hoãn nói trên; nó sẽ dẫn đến sự quy phục của nhiều người nữa, quan trọng và chân thực hơn những lần trước. Thực tế đã không diễn ra như thế, và công việc bình định còn lâu mới gắn liền với những tiến bộ trong tiến trình chiếm đóng quân sự. Cách Hà Nội chỉ vài cây số về phía Bắc, tình hình hoàn toàn thay đổi. Hoàng Kế Viêm vẫn còn quanh quẩn Sơn Tây. Trương Quang Đản vẫn ở Bắc Ninh với đội quân của họ Một số quan chức mang dấu ấn là biểu hiện của chính quyền trung ương, trả lại triều đình. Họ tuyển quân tình nguyện trà trộn vào với quân Trung Quốc, tiếp tục chiến đấu chống lại quân Pháp, như Tạ Hiện, nguyên là đề đốc Nam Định, tướng lĩnh trong quân đội Trung Quốc; hoặc án sát Phạm Vũ Mẫn, tri phủ Hoàng Văn Hòa, tán tướng quân vụ Nguyễn Thiện Thuật, v.v… Các nhà chức trách Việt Nam ở miền Bắc không thừa nhận chế độ bảo hộ áp đặt, bất chấp những cố gắng từ xa của các phái viên triều đình. Đồng minh của họ là quân đội Trung Quốc của Từ Diên – Húc, đang đóng ở Sơn Tây và Bắc Ninh, quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phước, đóng ở Phùng. Từ ngày ký kết thỏa ước Harmand, những tiến bộ của công cuộc chiếm đóng ở miền Bắc Việt Nam của Pháp không đáng kể. Nó chỉ duy trì trên những điểm đã bị chinh phục, phạm vi đầu tư chỉ phát triển một cách chậm chạp. Chưa có gì chứng minh sự hơn hẳn của Pháp, cũng như sự vô hiệu của cuộc kháng chiến Việt Nam. Ngay cả mưu toan của tướng Bouet cũng đã thất bại, như chúng ta đã thấy. Nhưng phía quân Việt Nam lại một lần nữa phạm một sai lầm chiến thuật: không rút được kinh nghiệm những trận đánh ở đồn Chí Hòa, trong những trận đó, Nguyễn Tri Phương đã để cho quân Pháp - Tây Ban Nha có thời gian củng cố lực lượng một cách nguy hiểm trước cuộc tiến công quyết định; quân Việt - Trung lần này cũng không tìm cách lợi dụng sự hơn hẳn về quân số của mình để đuổi quân Pháp ra khỏi ra khỏi vị trí của chúng trong vùng châu thổ khiến cho kẻ thù có đủ thời giờ củng cố sức mạnh của mình và sửa soạn một cuộc phản công mạnh mẽ. Ở châu Âu, dư luận dân chúng không có lợi cho nước Pháp. Việc cấm mua bán vũ khí và việc kiểm soát vùng bờ biển Việt Nam, động chạm đến những quyền lợi riêng tư, mà những lời phản kháng gieo rắc lo sợ. Cuộc đấu tranh kéo dài, Trung Quốc ngày càng can thiệp sâu vào càng làm cho người ta suy nghĩ hoang mang; người ta sợ hoặc một cuộc chiến tranh hoặc chỉ những cuộc hành quân chống lại các cảng Trung Quốc thôi, nhưng đủ trở ngại công việc buôn bán của người châu Âu. Như chúng ta đã thấy, chánh phủ Anh bắt đầu lo ngại nhiều đến vấn đề Bắc kỳ và về câu chuyện bất hòa giữa Trung Quốc với Pháp; Hoa Kỳ cũng vậy. Đức chưa lên tiếng chống lại những mưu toan của Pháp tại Việt Nam nhưng không muốn mất mối quan hệ hữu nghị của Trung Quốc. Ý thì thái độ dè dặt không mấy thiện cảm. Tóm lại là những kẻ bất bình không ít. Về phía Trung Quốc, họ không ngừng lưu ý các chánh phủ phương Tây đến vấn đề Việt Nam, tố cáo những âm mưu chinh phục của Pháp những nguy cơ có thể nảy sinh và cản trở công việc giao thương và buôn bán với Viễn Đông trong trường hợp bất thần xảy ra một cuộc xung đột giữa hai nước Trung Quốc và Pháp; họ tìm cách hình thành một khối Đồng minh nhằm ngăn cản không cho Pháp chiếm đóng Việt Nam hoặc ít ra cũng giới hạn bớt những phương tiện hoạt động của nó. Tại Pháp, nỗi lo sợ bắt đầu bộc lộ ra khi được biết tin những trận đánh ngày 15/8 và 01/9/1883, những khó khăn cần khắc phục, những đợt viện quân quan trọng lên đường, những bài bình luận kinh động và những nhận định đầy chất hăm dọa của báo chí nước ngoài. Các chính khách cánh tả cũng như cánh hữu đều có thể dựa vào đó mà chống đối chánh phủ, Clémenceau phê phán chánh phủ đã dẫn đất nước vào một cuộc chiến tranh mà không được Quốc hội cho phép, có thể làm suy yếu địa vị của mình ở châu Âu. Những người khác với thái độ chống đối ít gay gắt hơn thì tự hỏi: nước Pháp đã tiến hành công cuộc này với một cái nhìn rõ ràng về mục đích cần đạt tới và với những phương tiện cần thiết để đạt mục đích đó hay không? Ngày 11/12/1883, trong một cuộc tranh luận ở Hạ viện về vấn đề kinh phí, Jules Ferry khẳng định rằng những phương tiện ấy đã đầy đủ. Để giữ được đa số của mình, thủ tướng nội các chấp nhận những yêu cầu của tướng Bouet đã đệ trình trước đây và tổ chức đạo quân viễn chinh chia thành một sư đoàn mạnh gồm đủ mọi binh chủng. Nhưng Bộ Hải quân không có quân dự bị, viện binh chỉ có thể xin của lục quân và lục quân sẽ là bộ phận chính của đạo quân viễn chinh này. Tướng Campenon, Bộ trưởng Chiến tranh và các tướng tá bất bình trước việc một Đô đốc chỉ huy đánh bộ và lại chỉ huy quân đội của Bộ trưởng Chiến tranh yêu cầu trao quyền chỉ huy cho một ông tướng. Ngay hôm ông ta chiếm được Sơn Tây, Đô đốc Courbet bị thay thế bởi tướng Millot và trở lại với cương vị chỉ huy các lực lượng thủy quân như trước. Bởi vì trong lúc ấy, Harmand đang trở về Pháp và đã đề nghị cử Courbet làm tổng chỉ huy. Courbet, tận dụng những cuộc hành quân thăm dò của tướng Bouet, ngay khi mới cầm quyền chỉ huy chiến dịch, ngày 27/10/1883, đã chuẩn bị sẵn sàng để đánh chiếm Sơn Tây. Lợi dụng tình trạng quân Việt - Trung tuy đông hơn nhiều nhưng nằm y bất động, không một lần nào tìm cách phản công và tình hình nội các cũng đang lộn xộn (30/11/1883) lại nhận thêm 4.000 viện binh cùng với dân công do Kinh lược Bắc kỳ Nguyễn Hữu Độ cung cấp, Courbet chiếm được thành ngày 24/12, sau ba ngày chiến đấu quyết liệt. Những chuyện bất hòa trong triều đình Huế trong mùa hè 1883 đã góp phần làm cho hành động quân Pháp dễ dàng thành công. Trước mắt những người yêu nước, Nguyễn Trọng Hiệp và Nguyễn Hữu Độ đã phản bội quyền lợi Tổ quốc và hợp tác với kẻ thù ngoại bang. Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đều thuộc phe chủ chiến nhưng hai vị đại thần nhiếp chính này lại chia rẽ nhau bởi một sự cạnh tranh quyết liệt và đều là những người rất tham quyền cố vị. Sự suy sụp trong kinh thành không ngăn trở nhân dân tiếp tục kháng chiến. Phần đông các quan đầu tỉnh phía Bắc từ chối không thừa nhận bản hiệp ước do Nguyễn Trọng Hiệp đã ký. Những đội quân tình nguyện được thành lập. Tại Huế, Tôn Thất Thuyết giờ đây đang nắm lại ưu thế, biến thành hiện thực cái nguy cơ đang đe dọa non sông trước chính sách than thở và đầu hàng ấy trước xu hướng tiến công ngày càng gia tăng của kẻ thù, ông quyết định chống cự. Ông cho củng cố lại các công sự của kinh thành và khu vực Trường thi. Khoảng cuối năm 1883, ông bí mật cho xây dựng ở Tân Sở trong vùng núi Quảng Trị một khu doanh trại lớn có xây thành đắp lũy xung quanh. Một phong trào kháng chiến có tính cách quốc gia bắt đầu được tổ chức. Hàng chục ngàn người làm việc ngày đêm trong vùng núi phía Bắc kinh thành. Họ đào hầm hố, công sự, đắp sửa đường sá, xây dựng pháo đài. Người ta chuyển về đó nhiều cỗ đại bác bằng sức người qua đèo cao, truông ruộng và hằng hà sa số gạo để dành trong các nhà kho. Về phía họ, các xứ đạo Kitô Việt Nam cũng được các giáo sĩ phiên chế tổ chức chặt chẽ để cung cấp cho quân đội Pháp, nào thông ngôn phiên dịch, nào phòng vệ dân công mang lại cho các quân đội chiếm đóng một sự hỗ trợ vô giá. Quân Cờ vàng bị Harmand giải tán ngày 15/9/1883 và vũ khí của họ được phân phối cho những quân đội công giáo Bắc kỳ, những quân đội này được tuyển mộ nhờ sự giúp đỡ của các giáo sĩ và được thành lập theo kế hoạch ưu ái nhất của bọn thực dân Pháp là lấy người Việt đánh người Việt. Hiệp Hòa Bị Truất Ngôi Và Kiến Phước Lên Ngôi Vua Trong lúc trên toàn cõi Việt Nam đang tràn lên một làn sóng phẫn nộ chống lại đường lối cai trị tồi tệ của chánh phủ trung ương và một cuộc kháng chiến được tổ chức nhằm đối phó với kẻ thù từ phương tây đến nô dịch nhân dân thì tại Huế, sau cuộc cách mạng cung đình lật đổ Dục Đức để đưa Hiệp Hòa lên ngôi, tất cả nhiếp chính đại thần, Thượng thư và quan cao cấp ganh tị lẫn nhau, chia rẽ nhau và chi phối bởi lợi ích đối lập. Tất cả ngờ vực nhau, một cuộc đảo lộn mới không thể nào tránh khỏi. Nơi triều đình cũng như trong dân gian, mọi con mắt đều hướng về Hoàng Kế Viêm, tổng chỉ huy quân đội Việt Nam ở phía Bắc và là anh rể của vua Tự Đức. Thái độ ông ta như thế nào? Có quan hệ gì với phái đoàn của triều đình ra Bắc ngày 22/9/1883 không? Ông có chấp nhận việc Hiệp Hòa lên ngôi vua và Hiệp ước 25/8 không? Hoàng Kế Viêm là quan “Đông Các”, người cao niên nhất trong“Tứ trụ triều đình”(1). Việc ông làm rể hoàng gia đã tạo cho ông một uy tín lớn trong chốn cung đình và ông tự hào về những đặc quyền của mình, những đặt quyền mà cho tới đây không mấy ai biết đến. Địa vị của ông ở Bắc Kỳ bị giảm sút do cuộc can thiệp vũ trang của nước Pháp và ông không thể tìm được một sự đền bù trở lại chốn kinh đô, bởi ở đây, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã chiếm lấy những vị trí quan trọng hơn cả bên cạnh Hiệp Hòa mà họ tôn lên ngôi vua không cần cả sự tham gia của Hoàng Kế Viêm nữa. Người ta xác nhận rằng Hoàng Kế Viêm có viết cho Viện Cơ mật một bức thư trong đó bộc lộ sự bất bình của ông. Người ta nói rằng ông không thù địch với Hiệp Hòa mà chỉ phàn nàn đã không hỏi ý kiến trong trường hợp như vậy. Ông phản đối cái việc chỉ trong vòng 38 giờ đồng hồ, người ta đã xé cả bức di chúc của vua Tự Đức và ông đã tuyên bố sẽ lui về thú điền viên sau khi được trút bỏ vũ khí xuống. Thái độ khẳng khái đó của Hoàng Kế Viêm đã thấu tai cả giới quan lại và trí thức kinh thành và chính là họ đã dựa trên thái độ đó để đả kích sự bất hợp lệ của việc tôn Hiệp Hòa lên ngôi vua. Còn Hoàng Kế Viêm thì người ta nói ông vẫn còn ở lại trên đất Bắc tiếp tục đánh Pháp, không cần biết đến Hiệp ước Harmand và các phái viên của triều đình. Có người thì nói ông như kẻ tù nhân của Trung Quốc bị chúng ngăn cản không cho trở về Huế. Có người khác nữa là tin rằng Hoàng Kế Viêm mong muốn được thấy Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường bị lật đổ cả hai người để ông ta thay chân họ bên cạnh vua Hiệp Hòa. Nỗi buồn của ông trước việc người ta đưa Hiệp Hòa lên ngôi thay vì tự quân đã được Tự Đức chỉ định chắc chắn là không chịu nổi một sự kiện bất trắc như vậy. Cuộc “cách mạng cung đình” đối với ông chẳng phải mới lạ gì. Hiệp Hòa có những ý nghĩ cùng một loại như Hoàng Kế Viêm chăng? Và có để lộ ra chăng? Có hay không chưa rõ, nhưng viên công sứ Pháp tại Huế, Champeuax, đã nghe phong phanh rằng các ông đại thần nhiếp chính có ý định mưu sát Hiệp Hòa. Điều ái ngại duy nhấtcủa Pháp cùng lắm là sợ Hiệp Hòa, vì không cảm thấy mình được người Pháp công khai ủng hộ lắm, lại nản lòng vì những âm mưu của những người xung quanh, mà rút khỏi ngôi vị chăng? Và người ta quả quyết rằng Nguyễn Văn Tường đang dùng mọi biện pháp để đi đến kết quả đó. Một vài nhân vật thuộc phe cánh Dục Đức, gửi thư thỉnh cầu tới công sứ Pháp (tại Huế), như Phan Thanh Tôn, con trai của Phan Thanh Giản và em là Phan Thanh Tòng nhằm nhờ người Pháp giúp sức để thực hiện cuộc “cách mạng cung đình” mới này: “… Chính là nhờ sự giúp đỡ của nước Pháp,” Phan Thanh Tôn viết thư cho Champeaux, “mà vua Gia Long đã sáng lập ra được non sông này. Ngày nay, nó đang rơi vào thảm họa và nước Pháp đã đặt nền bảo hộ của mình tại đây. Vậy thì sẽ là điều hợp lẽ nếu nước Pháp tiếp tục bảo vệ cho lợi ích của con cháu vua Gia Long; nước Pháp làm như vậy sẽ là một sự giúp đỡ tận tình không chỉ đối với vị vua đầu tiên mà cả đối với vị vua cuối cùng của triều đại…”(2) Từ ngày bị đi đày tại Pháp trở về, Phan Thanh Tôn sống chật vật ở Huế, vợ ông là họ hàng của Dục Đức, do đó mà ông có những tư tưởng tiến công, tuy vậy chẳng có gì đáng sợ bởi ông ta bị mù cả hai mắt. Champeaux đã cho biên thư trả lời ông: “… Nên giấu mình trong bóng tối mà cả xã hội lẫn số phận đang đẩy ông ta vào, bởi vì chắc chắn là tôi sẽ bỏ rơi ông ta cho sự xét xử của nhà vua nếu ông ta bị nguy cơ đó...”(3) Về phần Hiệp Hòa thấy mình bị đe dọa từ cả hai phía, trước những âm mưu của những người xung quanh một bên và sự có mặt của Pháp một bên, sẵn sàng nhận sự bảo hộ của Pháp để được yên vị trên ngai vàng. Các đại thần không nhất trí với ông. Sau đó, thấy các nhiếp chính đại thần càng ngày càng trở nên độc đoán, Hiệp Hòa muốn gạt họ đi, bèn chỉ định Nguyễn Văn Tường làm Thượng thư bộ Binh và Tôn Thất Thuyết làm Thượng thư bộ Lại nhằm giảm bớt thế lực quân sự của Thuyết đi. Hai ông đại thần nhiếp chính cảm thấy đứng trước một nguy cơ có thể xảy đến, đã quyết định truất phế Hiệp Hòa luôn. Khi Tôn Thất Thuyết chọn Văn Lãng, Nguyễn Văn Tường đã bất mãn vì Tường là đại thần nhiếp chính số một, đã chuẩn bị đưa lên ngôi con hoàng tử Mệ Mến, có người chị ruột là con dâu của Tường. Chính tham vọng của ông ta là nguyên nhân làm cho Hiệp Hòa bị sụp đổ. Ông ta đã lấy được lòng Tôn Thất Thuyết bằng cách gả con gái mình cho con trai Thuyết, sau đó hai người liên kết với nhau cho ám sát đồng sự của họ là quan Cần Chánh Trần Tiễn Thành, cũng là đại thần nhiếp chính và là người chống đối họ, qua bàn tay một nhóm người lạ, ngoài kinh thành. Vậy là cuộc “cách mạng cung đình” đã diễn ra trong đêm 29 rạng ngày 30/11/1883. Triều đình, lúc này đang lui về Tịch điền (nơi có bàn thờ và cánh đồng mà nhà vua xuống ruộng cày truyền thống hàng năm), cho mời Mệ Mến đang ở Văn Miếu (Lăng Tự Đức) cùng với các bà vợ của vị cố vương đến. Mệ Mến bị lôi đi mà mình run sợ, rồi được cả triều đình, cả quân đội tôn xưng làm Hoàng đế mặc dầu ông phản kháng. Sau đó, ông được người ta dẫn tới Viện Cơ mật và giao ông chủ tọa. Ông đành phải làm theo mà lòng chẳng có chút gì là phấn khởi. Người ta huy động mọi làng mạc nhằm gây áp lực buộc tòa công sứ Pháp và phe cánh của Hiệp Hòa phải tuân phục. Bà Thái hậu định phản đối việc tôn xưng Mệ Mến lên ngôi vì còn quá trẻ (15 tuổi). Nguyễn Văn Tường trả lời bà: “Muộn mất rồi, mọi việc đã xong xuôi!”(4) Đoạn Tôn Thất Thuyết cầm đầu bốn trăm “Cẩm Y” (tức thânbinh) đến chỗ Hiệp Hòa đang ở, đuổi ông ta ra khỏi cung điện: “Hãy tự mình ra khỏi cung đi, bằng không người ta sẽ đuổi đi bằng bạo lực!”(5) Bị truất ngôi, bị mọi người ruồng bỏ, ông khốn khổ. Hiệp Hòa phải ký sắc vụ thoái vị. Ông gửi cho bà Thái hậu – là mẹ nuôi của mình – cả ấn tín lẫn vương phục rồi rời bỏ cung điện ra đi giữa hai hàng cấm vệ gươm giáp tuốt trần. Lúc rời cung, Hiệp Hòa uống một liều cao thuốc phiện và giấm thanh. Khi đặt chân trở lại Dục Đức đường, ông ta lảo đảo đi không vững. Sĩ quan cận vệ của Tôn Thất Thuyết, Ông Ích Khiêm, là người dẫn Hiệp Hòa đi với 50 lính Cẩm y, dâng cho ông một chén rượu gọi là “để hồi sức”. Ông uống xong ngã lăn ra cứng đờ. Người ta đưa ông về chỗ ở riêng của ông và tại đó ông đã tắt thở sau hai mươi tám giờ đồng hồ đau đớn quằn quại. Hội đồng nhiếp chính dựng lên một bản cáo trạng kết án Hiệp Hòa chín tội, trong đó chủ yếu là các tội về hạnh kiểm buông thả, tội ăn cắp và tội gia đình trị. Người ta cũng nói rằng một trong những sai lầm lớn của Hiệp Hòa là đã không trả cho ông anh họ Tôn Thất Thuyết số tiền 300 lạng vàng mà Hiệp Hòa đã hứa cho Thuyết để được lên ngôi(6). Với việc ông vua trẻ Kiến Phước (niên hiệu của Mệ Mến), mọi quyền hành đều nằm trong tay hai vị phụ chánh luôn luôn tranh giành nhau ảnh hưởng và quyền lực: Tôn Thất Thuyết thô bạo, mọi người xung quanh đều kinh sợ, luôn luôn đa nghi và sẵn sàng chém giết; Nguyễn Văn Tường thì nắm binh quyền; ngoài đội thân binh (tức đội cận vệ của nhà vua) mà ông ta không ngần ngại gì đặt dưới quyền trực tiếp chỉ huy của mình, ông ta còn tuyển mộ những quân tình nguyện làm đội quân cận vệ của cá nhân ông ta. Nguyễn Văn Tường thì sau khi liên kết với người Tàu, trong lúc ông đang làm Thượng thư bộ Tài chính để chiếm độc quyền chuyên chở gạo cho nhà nước trong những điều kiện rất tốn kém cho quốc gia và rất có lợi cho bản thân ông ta, giờ đây lại nhận hối lộ cũng của những người Tàu đó để cho họ nhập khẩu tiền giả. Tuổi vị thành niên của nhà vua - nhà vua không hề biết gì cả - và những chuyện cạnh tranh của hai vị “phụ chánh đại thần” này làm nên những mối họa lớn cho đất nước. Việc Lên Ngôi Vua Và Sự Đầu Hàng Pháp Của Kiến Phước Sau khi ký Hòa ước Harmand, Paris hy vọng nhà đương cục Việt Nam sẽ thi hành các điều khoản của nó đúng từng chữ từng câu và chánh phủ Bắc kinh sẽ bị đặt trước một việc đã rồi. Sự có mặt của quân đội Trung Quốc sẽ không còn lý do tồn tại nữa bởi Việt Nam đã chấp nhận sự bảo hộ của nước Pháp. Giữa Paris và Bắc Kinh có một sự căng thẳng rõ rệt. Nếu những cuộc điều đình ấy không bị cắt đứt thì thực ra nó cũng gần như đang đi vào ngõ cụt. Tuy nhiên, người ta vẫn có ý đợi chờ ở thiện chí cả hai bên để đi đến một lối thoát có danh dự ra khỏi tình trạng rối rắm này và chờ đợi ở một sự trung gian cuối cùng của Luân Đôn. Đương nhiên tất cả những sự đề phòng cần thiết đã được chuẩn bị cả đến việc, nếu cần thì đưa chiến tranh vào đất Trung Quốc; nhưng tại Quốc hội cánh tả cũng như cánh hữu đều kiên quyết chống lại ý đồ này. Tuy vậy, bất chấp những cuộc chất vấn gay gắt, cuối cùng Quốc hội cũng bỏ phiếu tín nhiệm nội các Jules Ferry. Ngày 11/12/1883, qua hai lần biểu quyết, Jules Ferry đã xin được Quốc hội cấp cho mình một số kinh phí phụ là ba mươi triệu francs cho cuộc viễn chinh. Đạo quân này do tướng Millot chỉ huy và gồm các lữ đoàn Briere de L’Isle (Bộ Hải quân) và Négrier (bộ Chiến tranh). Nó rời bến Toulon ngày 25/12/1883 và 02/01/1884 với một quân số là 6.500 viện binh để tăng cường cho số 10.000 quân đã có mặt ở Bắc kỳ rồi. Cùng lúc Tricou, đặc phái viên của chánh phủ Pháp ở Bắc kinh, nguyên là đại sứ đặc mệnh toàn quyền Pháp tại Tokyo cũng đến Hà Nội. Hoàn thành sứ mệnh tại Trung Quốc xong, ông ta lợi dụng chuyến về nước của mình để tự mắt nhận xét cụ thể thực tế tình hình Bắc kỳ. Tới Hà Nội, Tricou nhận được lệnh của Jules Ferry phải vào Huế ngay để tăng cường cho công sứ Pháp tại đây và bằng mọi giá buộc Kiến Phước phải chấp nhận bản hiệp ước bảo hộ. Tại Huế, tình hình rất đáng sợ. Sau những sự kiện mới xảy ra tại Bắc kỳ và vụ Sơn Tây thất thủ, để đề phòng một cuộc tấn công của Pháp vào thành Huế, người ta đã dựng nên những chướng ngại vật trên sông Hương, một doanh trại có thành lũy công sự kiên cố ở ngay cửa ngỏ của Huế. Những khẩu đại bác của thành đểu chĩa lòng súng về phía cổng sứ quán của Pháp. Tricou cho báo tin ông ta đến với tư cách là đặc phái viên của Cộng hòa Pháp và tuyên bố chỉ tiến hành tiếp xúc với chánh phủ Việt Nam sau khi những công việc bố phòng kia được hủy bỏ đi và lòng đại bác được chĩa về hướng khác. Hôm sau, ngày 25/12/1883, yêu cầu của ông ta được thỏa mãn. Trong cuộc hội kiến đầu tiên, Nguyễn Văn Tường đề nghị xem xét lại bản hiệp ước bảo hộ. Tricou tuyên bố ông ta đến để thực hiện phê chuẩn một hiệp ước đã ký chứ không phải để điều đình một hiệp ước mới. Được thông báo về những ý định mới của Pháp và về việc Pháp gửi quân viện trợ sang Bắc kỳ, sau ba ngày tranh luận cùng do dự và đứng trước những đe dọa của Pháp, cũng như những bất hòa nội bộ của triều đình, ngày 01/01/1884, Tường gửi (cho Tricou) một bản tuyên bố mang kiếm ấn nhà vua: “Đức Hoàng thượng nước Đại Nam và chánh phủ của người chính thức và trịnh trọng tuyên bố, qua sắc vụ này, chấp nhận hoàn toàn và trọn vẹn bản Hiệp ước ngày 25/8/1883, và tin tưởng, với thiện chí của chánh phủ Pháp, sẽ có thể bổ sung một vài điều sửa đổi dễ chịu hơn, sau này. “Chỉ riêng văn bản bằng tiếng Pháp là có giá trị(7)”. Vậy là Kiến Phước vừa ký văn bản đầu hàng nước Pháp. Đến Bắc kỳ ngày 12/02/1884, Millot “thừa hưởng” luôn những việc bố trí quân đội của mình mà Courbet đã thông qua và đợi hết mùa mưa để mở đầu chiến dịch tiến công. Ngày 07/3/1884, Millot tiến đánh những vị trí do quân Trung Quốc chiếm giữ ở phía Bắc thành Hà Nội: bốn mươi tiểu đoàn tại Bắc Ninh và vùng phụ cận. Số quân lên đến 15.000 người nhưng trang bị kém; hơn nữa không có sự chỉ đạo thống nhất từ trên. Tư lệnh trưởng, Từ Diên Húc, một ông quan văn cũ, già nua và đau yếu ở Lạng Sơn giao quyền cho tướng Hoàng Quế Lan và tên tỉnh trưởng Triệu Ốc chỉ huy những cuộc hành quân ở Bắc Ninh. Ngày 12/3/1884, quân đội Pháp đánh chiếm ở Bắc Ninh. Sau trận thất bại này, cánh quân của Hoàng Quế Lan rút về Lạng Sơn, còn cánh quân của Triệu Ốc rút về Thái Nguyên. Xấu hổ vì để Bắc Ninh thất thủ, Hoàng Quế Lan uống thuốc độc tự tử ngày 11/4. Quân Trung Quốc cũng như quân Cờ đen, trước khi rút lui, đã thi hành chánh sách tiêu thổ. Ngày 21/4/1884, Millot đưa quân vào Hưng Hóa bỏ trống và ngày 31/5 vào Tuyên Quang. Quân đội Trung quốc tan vỡ, chạy về phía biên giới. Hoàng Kế Viêm bỏ cuộc chiến đấu, về Huế theo con đường chiến lược. Millot bắt đầu nghiên cứu những vấn đề chính trị, thành lập một Hội đồng chánh phủ do ông chủ tọa cùng với Silvestre là người ở Sài Gòn phái ra để trợ lực cho Courbet sau khi Harmand đã đi rồi.Trước Hội đồng này, Millot đặt vấn đề xác định giới hạn của vùng chiếm đóng. Chánh phủ Pháp đã để cho ông hoàn toàn chủ động xem xét và nhất trí với ông ta quyết định không mở rộng giới hạn đó ra bên ngoài những vùng đất phì nhiêu của châu thổ. Từ đó, mà ra sự phân biệt giữa xứ “Bắc kỳ có ăn” và xứ “Bắc kỳ không có ăn”. Việc Công Bố Bức Thư Của Tăng Kỉ Trạch Những cuộc điều đình ngoại giao giữa Pháp và Trung Quốc đang đi vào thế bế tắc bỗng trở nên bế tắc trầm trọng hơn, từ năm 1884, do việc báo chí công bố một bức thư của Tăng Kỉ Trạch gửi Lý Hồng Chương, đề ngày 08/1/1884, từ Folkestone. Dư luận công chúng Pháp, và nhất là giới nghị sĩ đều xúc động. Báo “Le temps” ngày 14/1/1884, đăng lại bằng tiếng Pháp, như sau: “Ngài hầu tước Tăng trân trọng biểu thị lòng hàm ân của mình đối với sự quan tâm của ngài muốn cho vấn đề Bắc kỳ được giải quyết một cách có danh dự cho Trung Quốc. Ngài mong muốn quy định những điều kiện cho Trung Quốc, theo đó mà ký kết một hiệp ước với nước Pháp trong vấn đề này. Để nói gọn, tôi xin gửi ngài một bài của báo ‘Thời đại’ (Time) ngày 31/12/1883 mà người ta có thể coi như thể diện vào thời điểm nó được đăng lên những quan điểm của chánh phủ Trung Quốc. Nhưng tôi cũng chưa chắc chắn là mọi chi tiết đều đúng như thực tế bởi vì từ đó đến nay, sau ngày Sơn Tây chính thức bị thất thủ, tình hình ở Bắc Kinh có thay đổi. Phe ôn hòa và tiến bộ ở Bắc Kinh đã từng hy vọng Pháp sẽ giới hạn các cuộc hành quân của mình trong vùng châu thổ sông Hồng thì nay đã thấy rằng chánh phủ Pháp không có một đường lối chính trị xác định và sẽ không có gì ngăn cản cuộc tiến quân của Pháp ngày nào mà Trung Quốc còn cho phép người ta coi nó như một ‘số lượng không đáng kể’. Hậu quả của niềm tin ấy là đã đẩy nhiều phần tử có uy tín và lỗi lạc của phe hòa bình về phe chiến tranh. Ngay quan điểm của Lý Hồng Chương cũng đã phát huy được trong cuộc đấu tranh của ông chống lại những phe phái thù địch với ngoại kiều ở Trung Quốc chắc chắn sẽ được sử dụng để chỉ đạo những phe phái này. Jules Ferry, trong khi xin kinh phí cho Bắc kỳ - những kinh phí đó đã được Hạ viện biểu quyết vừa rồi – đã nói ông ta sẽ tiếp tục tiến quân để chiếm Hưng Hóa, Sơn Tây, và Bắc Ninh là những pháo đài, như Trung Quốc đã cảnh cáo Pháp, do quân đội Trung Quốc chiếm đóng. Đồng thời, Jules Ferry cũng nói với Hạ viện rằng mặc dù có quân Trung Quốc tại các chiến lũy ấy. Trung Quốc cũng sẽ phải tán thành việc truy quét những đội quân này và cuối đầu trước một sự việc đã rồi. Vấn đề là để xem lời ‘tiên tri’ ấy có được thực hiện hay không trong khi bao nhiêu lời tiên tri khác cũng cho Jules Ferry nói lên về thái độ chánh phủ Trung Quốc, đều chỉ là những câu tiên tri suông. Jules Ferry đã giữ lời trên, một trong những thành phố ông ta đã đề cập tới: Sơn Tây đã bị tiến công và thất thủ. Việc đánh chiếm thành phố Sơn Tây đã được ca ngợi trên mọi cung bậc và lòng dũng cảm của lính Pháp đã được biểu dương tận mây xanh không khác nào như họ đã chiếm được, không phải Sơn Tây, mà chiếm được cả thành phố Strasbourg hoặc Metz(8). Nhưng chưa hết. Báo chí Pháp, kể cả báo chí của chánh phủ, đã đi đến mức yêu cầu Trung Quốc trả cho một khoản bồi thường bằng tài chính kèm theo lới cam kết về lãnh thổ như một sự thanh toán chiến phí. Nó cũng giống như một lời hăm dọa của chánh phủ Pháp nhằm buộc Trung Quốc phải thừa nhận hiện tình của Pháp tại Bắc kỳ và nếu như vậy, Trung Quốc sẽ không còn một ảnh hưởng gì nữa đến mức độ phải chấm dứt cuộc chiến đấu hết khả năng mình cho quyền của nó tại Bắc kỳ những quyền mà tất cả mọi người đều thừa nhận, trừ một vài người Pháp là không. Mặt khác, nếu lời hăm dọa là nghiêm túc đi nữa thì TrungQuốc chẳng có lý do gì để dao động bởi vì dù Sơn Tây có thất thủ, Trung Quốc còn lâu mới tin rằng mình đang trên con đường Sedan(9). Nhằm mục đích ngăn chặn những hậu quả tai hại mà một cuộc chiến tranh giữa Pháp và Trung Quốc sẽ kéo theo, không thể nào tránh khỏi, người ta đề cập tới vấn đề trung gian hòa giải của một nước hay một cộng đồng. Trong một thời điểm nhất định, sự trung gian của một hay nhiều cường quốc chắc chắn được Trung Quốc đón tiếp chân tình, nhưng trong thời điểm này khó mà tin rằng Trung Quốc sẽ nhận sự trung gian ấy dù nó đến từ phương nào. Sự từ chối của các cường quốc (vì người ta nói rằng các cường quốc đã được thăm dò ý kiến về điểm này) chắc chắn Trung Quốc sẽ không quên sớm lắm đâu. Không còn một cường quốc nào là không thừa nhận rằng Pháp hoàn toàn có lỗi, vậy nhưng bao lâu Trung Quốc còn là nạn nhân và quyền lợi riêng của các cường quốc ấy chưa bị đụng chạm tới một cách sát sườn thì họ vẫn coi vấn đề như không liên quan gì đến họ cả. Phải chăng đây là một bài ‘bình luận’ khá đẹp về Hiệp ước Paris mà trong nghị định thư ngày 14/4/1856 của nó đã nói lên niềm hy vọng rằng: trong trường hợp giữa hai nước có sự hiểu lầm nhau nghiêm trọng, hai bên sẽ nhờ đến một sự trung gian hòa giải trước khi phải dùng đến vũ khí để giải quyết với nhau? Tuy rằng một lời nói thôi của nước Anh hoặc một dấu hiệu của nước Đức đã có thể ngăn cản không để cho Pháp khuấy động lên những vụ lộn xộn vô ích mà âm vang sẽ còn dội mãi lâu dài ở Bắc Kinh, vẫn không một cường quốc nào chịu động đậy ngón tay. Chắc là họ sẽ hiểu cái lỗi mà họ đã phạm khi nào khoản thuế nội địa ‘liking’ đánh vào ngoại thương, đáng lẽ phải hủy bỏ đi như người ta muốn thì lại tăng lên gấp hai lần để trả những chi phí chiến tranh gây nên do khát vọng chiếm thuộc địa của nước Pháp.” Bằng cách công bố bức thư này do thư ký của mình là Macartney, trao cho chủ nhiệm tờ “Deutsche Revue”, Richard Fleischer và đăng trên tờ “Gazette de Breslau”, Tăng Kỉ Trạch tưởng có thể tác động đến dư luận công chúng châu Âu nói chung và dư luận công chúng Pháp nói riêng hòng làm nổi lên một luồng dư luận ủng hộ Trung Quốc và gặp dịp thì làm cho nội các Jules Ferry sụp đổ, với hy vọng sẽ tranh thủ được nhiều cảm tình với người kế tiếp ông ta trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam. Sau khi công bố bức thư này, các cuộc đàm phán Trung - Pháp đã bị gián đoạn. Chánh phủ Pháp đã cho người ta hiểu rằng những cuộc đàm phán chỉ có thể tiếp tục lại sau khi Pháp đã chiếm đóng Bắc kỳ. Các giới ngoại giao đã nghiêm khắc lên án cử chỉ này của ông bạn Trung Quốc. Nội các Paris coi bức thư của Tăng Kỉ Trạch như một câu chuyện điên rồ, “một sự vi phạm nghiêm trọng đến quy chế ngoại giao”, và yêu cầu Bắc Kinh triệu hồi nhà ngoại giao của mình về nước. Thỏa Ước Thiên Tân. Hiệp Ước Patenôtre Sự thất bại ở Bắc Ninh làm cho Thiên triều bị xúc động mạnh. Bắc Kinh chạy ngược chạy xuôi để rút được số tiền vay ở Quảng Châu của “The Hongkong & Shanghai Banking Corporation” (Nghiệp đoàn Ngân hàng Hồng Kông và Thượng Hải), ngân hàng này không chịu giao tiền nếu hòa bình không đảm bảo. Thiên triều còn muốn vay ngay ở Thiên Tân một số tiền 14 triệu francs, nhưng nhà ngân hàng Anh do dự. Ngay từ đầu năm 1884, tin đồn qua báo chí Pháp rằng Pháp định đòi Trung Quốc phải trả một số chiến phí và Pháp sẽ chiếm Đài Loan, Hải Nam cùng quần đảo Chusan làm vật bảo đảm. Khả năng Pháp bất thần chiếm đóng Chusan làm cho Anh lo ngại, họ cảnh cáo rằng một cuộc chiếm đóng như vậy là một sự tuyên chiến đối với nước Anh. Sau thất bại của Trung Quốc, cả Trung Quốc và Pháp đều mong muốn có một sự dàn xếp. Nhưng quan hệ ngoại giao bị cắt đứt tại Bắc Kinh cũng như tại Paris và phải tìm cách khôn khéo để nối lại. Lý Hồng Chương là người có ảnh hưởng lớn đối với Thái hậu Từ Hy sẽ chịu trách nhiệm đi bước đầu. Ông ta nhờ sự vận động giúp đỡ của một người bạn Đức là Detring, giám đốc Hải quan Quảng Châu, có việc đi tạt qua Paris. Detring đến gặp Jules Ferry, trình bày thái độ sẵn sàng của Lý Hồng Chương và niềm hy vọng của nhiều bộ trưởng vào sự can thiệp có thể có của nước Đức hoặc nước Anh. Jules Ferry do dự, để lộ cho Detring thấy rằng trước khi nối lại các cuộc tiếp xúc, Bắc Kinh phải triệu hồi ngay vị đại sứ hỗn xược của mình tại Paris và thay thế người khác, ôn tồn, biết điều hơn. Đáp ứng đề nghị của Pháp, Bắc Kinh miễn cho Tăng Kỉ Trạch khỏi chức vụ đại sứ toàn quyền tại Paris nhưng vẫn giữ chức ấy ở Luân Đôn. Sự bất tín nhiệm “giả vờ” đối với Tăng Kỉ Trạch, trên thực tế, đã tạo nên thắng lợi của Lý Hồng Chương. Bằng sắc dụ ngày 28/4/1884, Thái hậu Từ Hy cử Hứa Cảnh Trừng làm đại sứ toàn quyền Trung Quốc, song song tại các nước Pháp, Đức, Ý, Hà Lan và Áo. Về phía ông ta, đại sứ toàn quyền Pháp cũng bị các nhà chức trách Trung Quốc “quên” luôn. Họ không yêu cầu Pháp triệu hồi nhưng cũng khó lòng dựa vào ông ta trong việc điều đình được. Jules Ferry giao trách nhiệm này cho viên thiếu tá hải quân Fournier, đang chỉ huy chiếc tuần dương “Volta”. Tình cờ lại chính là Fournier, năm 1878, đã thông báo cho Lý Hồng Chương những chỗhư hỏng trên các pháo thuyền Trung Quốc mua của Anh. Vậy là một tình bạn đậm đà được thiết lập đến mức độ vị Phó vương họ Lý đề nghị cử Fournier chỉ huy một hạm đội Trung quốc. Vậy là Fournier đến Thiên Tân gặp Lý Hồng Chương. Ông ta trao cho Lý một bản dự thảo hiệp ước, trong đó Pháp hoàn toàn được thỏa mãn tại Bắc kỳ nhưng danh dự và lòng tự ái của Trung Quốc cũng được bảo đảm. Ngày 07/5/1884, hai bên đề trình văn bản hiệp ước lên cho chánh phủ mình. Tại Bắc Kinh, bất chấp sự phản đối của Sir Robert Hart, giám đốc Hải quan Anh, Từ Hy, dưới sự thôi thúc của Lý Hồng Chương, đã chuẩn y bản dự thảo. Tại Paris, chánh phủ Pháp cũng đồng ý. Vì cấp bậc của Fournier thấp kém nên Đô đốc Lespes là người vừa mới thay chân Đô đốc Meyer, được chỉ huy để ký vào bản hiệp ước. Nhưng Lespes sớm lắm cũng phải một tuần nữa mới tới được mà Lý Hồng Chương thì đang sợ phái chiến tranh – cũng vừa đông vừa mạnh – tìm cách cản trở được việc ký kết hiệp ước, ông ta cũng sợ sự can thiệp của các cường quốc ngoài. Cho nên ông ta khẩn khoản đề nghị cho trao đổi ngay chữ ký giữa Fournier với ông ta luôn. Jules Ferry không đòi gì hơn. Ông cũng sợ một sự thay đổi ý kiến, luôn luôn có khả năng xảy ra, của Trung Quốc, đồng thời muốn nhanh chóng được rảnh tay tại Bắc kỳ. Ngày 11/5/1884, các chữ ký được trao đổi. “Bản Hiệp ước Thiên Tân này, cơ sở của bản hiệp ước cuối cùng giải quyết vấn đề Bắc kỳ một cách có lợi nhất cho Pháp. Trung Quốc từ bỏ quyền bá chủ đối với Việt Nam. Nó ‘cam đoan’, trong hiện tại và trong tương lai, sẽ tôn trọng những hiệp ước đã ký hoặc sẽ ký trực tiếp giữa Pháp và triều đình Huế. Qua điều khoản 2, nó ‘cam kết sẽ rút ngay về biên giới những đội quân Trung quốc đang đồn trú tại Bắc kỳ’”. Tại Pháp, Quốc hội nhiệt liệt tiếp nhận bản hiệp ước. Vấn đề Bắc kỳ không làm đảo lộn những mối quan hệ Pháp - Trung nữa. Nó gạt Trung Quốc ra và giải thoát nước Pháp khỏi một sự đe dọa của một cuộc chiến tranh với nước ngoài. Nhưng liệu rồi những cuộc kháng chiến chống Pháp ở các địa phương Bắc kỳ sẽ được giảm bớt hay không? Và triều đình Huế, bị cô lập và bất lực, liệu có chịu mình theobản hiệp ước bảo hộ mà họ đã chấp nhận kia không? Hiệp ước bảo hộ năm 1883 ấy không được phê chuẩn bởi vì nó được ứng khẩu tại chỗ, do một viên đại sứ toàn quyền vượt quá xa những chỉ thị đã gửi cho ông ta. Nó không làm hài lòng chánh phủ Pháp bởi nó có lợi cho chế độ bảo hộ chứ không có lợi gì cho việc chinh phục đất đai nữa. Tại Trung Quốc, việc công bố sắc dụ triều đình ngày 30/5/1884, về đường lối chính trị cần theo đuổi ở Việt Nam, sau ngày mất Bắc Ninh và việc công bố bản thỏa ước Fournier - Lý Hồng Chương, ngày 11/3/1884, đã gây ra một phong trào đấu tranh của giới trí thức: các hiệu trưởng trường đại học, các viện sĩ, công chức cao cấp đã gửi 47 bản kiến nghị lên cho Hoàng đế, đòi kết tội Lý Hồng Chương. Trước những lời chỉ trách nặng nề đối với Thỏa ước 11/5/1884, Từ Hy do dự không muốn áp dụng những biện pháp có thể bị hiểu lầm như là một sự đầu hàng Pháp. Lý Hồng Chương không dám đương đầu với trận bão tố giáng xuống đầu ông. Ông ta tránh không đề cập đến yêu cầu của Fournier cho quân đội Trung Quốc rút khỏi Bắc kỳ. Với một chút kiên trì và kỹ thuật khéo léo, ông ta hy vọng xoa dịu lòng người và củng cố được hòa bình. Nhưng rồi sự việc xoay chuyển một cách phức tạp đến mức độ ông ta đi đến kết quả ngược lại: chiến tranh. Patenôtre, đại sứ đặc mệnh toàn quyền Pháp tại Trung Quốc, nhân chuyến đi qua nhiệm sở, đã được ủy nhiệm tạt qua Huế điều đình một bản hiệp ước mới, ít hà khắc hơn, thay vào Hiệp ước 25/3/1883, để lập lại an cư lạc nghiệp cho dân chúng. Được biết người ta chọn Patenôtre và có quyết định điều đình với Huế để ký một hiệp ước mới, ngày 25/4/1884 Blancsubé gửi thư phản đối lên Jules Ferry. Vị đại biểu Nam kỳ muốn gạt Patenôtre đi và dùng Thomson, người đỡ đầu của ông ta, chỉ đạo một cuộc đàm phán. Nhưng kiến nghị phản đối của ông ta bị bác bỏ bởi một sứ mệnh như vậy giao cho một nhà ngoại giao chuyên nghiệp (Patenôtre là đặc sứ đặc mệnh toàn quyền), vừa đại diện nhà nước cùng chánh phủ Pháp hơn là giao cho một nhà “ngoại giao nhất thời”, ông thống đốc Nam kỳ, chỉ đại diện cho Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa. Patenôtre cuối cùng cũng đã đến Huế và với một đoàn tùy tùng quân sự. Ông để lại ở cửa sông Hương một lực lượng quan trọng và đầu tháng Sáu bắt đầu tiếp xúc với Nguyễn Văn Tường, trao cho Tường xem văn bản hiệp ước mới đã được chánh phủ Pháp thông qua. Đoàn tùy tùng, những lực lượng quan trọng đi bên cạnh, những thắng lợi mới về ngoại giao và quân sự, cuối cùng đã dẫn các vị đại thần phụ chính nhận nền bảo hộ. Hiệp ước Patenôtre được ký ngày 06/6/1884. Hiệp ước quy định rằng nước Việt Nam đặt dưới sự bảo hộ của nước Pháp và mất quyền độc lập dân tộc. Một vị công sứ toàn quyền Pháp đóng trong kinh thành Huế cùng với một đoàn tùy tùng quân sự, sẽ chủ tọa mọi quan hệ ngoại giao – là dấu hiệu cụ thể nhất về nền độc lập của một nước. Còn việc nội trị, tuy có các quan Nam đảm nhiệm, nhưng phải chịu sự kiểm soát, sự nhắc nhở, sự kiểm duyệt, của các nhà chức trách Pháp; chính những nhà chức trách này, thông qua đại diện của họ ở Huế, cai trị cả đất nước thay cho nhà vua. Ở miền Bắc, ở mỗi tỉnh lỵ đều có một công sứ song song cai trị với các quan Nam. Người ta điều chỉnh lại biên giới, trả ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, ở phía Bắc và Bình Thuận ở phía Nam, mà theo Hiệp ước Harmand trước đây bị cắt về cho Bắc kỳ và về Nam kỳ, trở lại cho miền Trung (Trung kỳ). Để biểu hiện chư hầu của triều đình Huế đối với Trung Quốc từ đây đã chấm dứt, Patenôtre đòi Việt Nam giao lại cho Pháp chiếc ấnbạc mạ vàng mà Hoàng đế Trung quốc đã gửi sang cho Gia Long năm 1803. Các phụ chánh đại thần khăng khăng từ chối. Sau khi dàn xếp, được nấu chảy với nghi thức long trọng trước mặt các đại thần tại tòa công sứ Pháp. Hiệp ước Patenôtre nội dung như thế nào? Nó khác Hiệp ước Harmand ở những điểm nào? Để trả lời những câu hỏi này, cần nhắc lại trong hoàn cảnh nào đã sản sinh ra bản Hiệp ước Harmand. Việc bắn phá các pháo đài Thuận An và hành động bạo lực đánh vào Huế có thể nói là tự phát và xảy ra chỉ trong vòng vài ba ngày. Chánh phủ Việt Nam nằm kẹt giữa Nam kỳ một bên và Bắc kỳ bị Pháp chiếm đóng một bên, và “lưỡi dao kề cổ” không thể tính đến chuyện dựa vào một sự “thống nhất thiêng liêng” của triều đình, đã rơi vào tình thế bắt buộc phải chấp nhận Hiệp ước 25/08/1883 như sẽ chấp nhận bất cứ một hiệp ước nào khác. Về phía mình, chánh phủ Pháp thấy cuộc chiến tranh với Trung Quốc có thể xảy ra trước mắt nên mong muốn có một sự dàn xếp với Huế để được yên tâm, tổ chức lại những vùng đất đai mới chiếm được của mình. Các hoạt động quân sự gần đây đã diễn ra nhanh đến nỗi không kịp cả gửi chỉ thị cụ thể cho các đại sứ toàn quyền: vấn đề là thực hiện chế độ bảo hộ. Thế thì “chế độ bảo hộ” đối với chính trị cao cấp lúc này cũng như một toa thuốc bách bệnh của cả hoàn cầu, trước hết là kinh tế và sau nữa là thuận lợi cho một công cuộc thực dân hóa và đồng hóa giấu mặt. Nói về người điều đình, Harmand, thì ông ta thuộc phe “chinh phục thuộc địa” cho nước Pháp và xóa bỏ một cách đơn giản cả triều đình lẫn chánh phủ Huế. Chỉ thị của Paris trái với quan điểm của ông ta, vậy là ông ta buộc phải điều chỉnh hoàn toàn dự án của mình và soạn thảo một bản hiệp ước không phải là không có điểm nào thỏa mãn ý muốn của ông ta trong vấn đề quan hệ Việt Nam và nước Pháp. Ông ta tự ý buông bút thêm vào những điều khoản đáp ứng quan điểm cá nhân của ông ta, theo cái kiểu yêu nước của cá nhân mình. Trên nguyên tắc, ông ta nhận rằng nước Pháp chỉ có lợi, trong đó, còn Việt Nam, ngược lại, thì mất quyền độc lập. Ông ta đi đến chỗ tạo ra một bên hiệp ước có tính chất hỗn hợp với những điều khoản mâu thuẫn tương ứng với những nỗi bối rối lương tâm ông đại sứ toàn quyền. Nó vừa là một bản hiệp ước chinh phục vừa là một bản hiệp ước bảo hộ, cả hai mặt, mặt nào Việt Nam cũng bị thiệt thòi. Hiệp ước ngày 06/6/1884, kết quả của hiệp ước trên được xem xét lại, đã khôi phục lại tính đồng nhất của nó. Nó không còn phải như ý muốn của chánh phủ Pháp, chỉ là một hiệp ước bảo hộ. Hiệp ước 1874, mà người ta cần thay thế bằng một hiệp ước khác, thực ra cũng là một hiệp ước bảo hộ. Nhưng người ta không dám dùng cái từ “bảo hộ” trong đó. Hiệp ước 1884 thì ngay từ đầu, đã đưa từ ấy vào văn bản: “Nước An Nam thừa nhận và chấp nhận sự bảo hộ của nước Pháp”. Vậy là không nước đôi tí nào. Và nó ghi thêm: “Nước Pháp đại diện cho nước Việt Nam trong mọi quan hệ ngoại giao”. Đây là một hậu quả cơ bản của chế độ bảo hộ đó. Hiệp ước Harmand cũng ghi như vậy, còn cả nói thêm rằng nước Pháp sẽ chủ tọa các quan hệ ngoại giao của chánh phủ Việt Nam với tất cả các nước ngoài, kể cả Trung Quốc (ghi chú sau cùng bị bỏ đi trong Hiệp ước Patenôtre do áp dụng điều khoản 4 của Thỏa ước Thiên Tân). Một công sứ toàn quyền, đóng tại Huế, thi hành chế độ bảo hộ đó: ông ta có quyền tiếp xúc riêng và cá nhân với nhà vua, có cả quyền lưu trú, và có quyền có một đoàn tùy tùng quân sự đóng ngay trong thành. Mặt khác, Harmand đã đi xa quan điểm của chánh phủ khi buộc Việt Nam phải có những việc cắt nhượng lãnh thổ cho Pháp. Quan điểm của chánh phủ Pháp khác hẳn. Gạt bỏ mọi ý đồ chinh phục đất đai và khẳng định rằng nó chỉ theo đuổi một mục đích duy nhất là củng cố những quyền bảo hộ trước đây của Pháp, chánh phủ tin chắc rằng, trên thực tế, việc thôn tính bốn tỉnh ấy sẽ không bảo đảm mang lại lợi ích nào khả dĩ đền bù được những thiệt hại chắc chắn. Tỉnh Bình Thuận, toàn đất rừng núi, dân cư thưa thớt, chỉ có một ngõ ra vào là đường biển; cần phải xây dựng đường giao thông và công sự; hơn nữa hiệp ước có ghi là đổi lấy tỉnh Bình Thuận, Pháp phải xóa hết số nợ của Việt Nam còn lại với Pháp. Thực tế là việc sát nhập này làm cho biên giới Nam kỳ bị yếu đi và ngân sách thuộc địa phải gánh chịu những chi phí nặng nề. Còn về việc sát nhập ba tỉnh kia vào Bắc kỳ, thì đó là một đòn quá khủng khiếp đối với Việt Nam, có thể làm cho nó tuyệt vọng mà nổi loạn chống lại: miền Trung chiếm một dải đất rộng và bị thắt nghẹt tại giữa một bên là núi, một bên là biển; dân cư không đông lắm, trừ ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh mà người ta định cắt vào Bắc kỳ và là những vùng đất phì nhiêu nuôi sống cả phần đất miền Trung còn lại (điều mà Harmand thừa nhận một cách vô liêm sỉ). Hơn nữa, đây là một điều xúc phạm tinh thần nghiêm trọng, vì Thanh Hóa là quê hương, là cái nôi của triều đại nhà Nguyễn, chứa đựng mồ mả dòng họ nhà Nguyễn. Cái sự việc “xúc phạm hai mặt” ấy tất yếu sẽ có tác dụng đoàn kết lại để chống lại Pháp, cả triều đình lẫn nhân dân Việt Nam vốn luôn luôn ấp ủ tinh thần nổi loạn. Hiệp ước ngày 06/6/1884 trả lại cho Việt Nam những tỉnh miền Trung là một bộ phận thống nhất không thể tách rời lãnh thổ Việt Nam. Phía Bắc, Pháp cưỡng bách chiếm đóng vùng châu thổ và sớm muộn cũng sẽ chiếm nốt cả lưu vực sông Hồng, con đường giao thông buôn bán của miền Vân Nam và Lưỡng Quảng Trung Quốc. Chính đây là vùng mà sự phát triển của chính sách thực dân đòi hỏi Pháp phải cố gắng chiếm lấy và tiến hành xây dựng trước tiên. Cần phải thực thi nền bảo hộ theo một cách thức như thế nào đó để cho yếu tố thực dân được bảo đảm hoàn toàn. Cái phần nước Pháp tham gia vào công việc cai trị ở đây phải quan trọng hơn nhiều so với miền Trung. Do đó bản hiệp ước đặt ra những viên công sứ Pháp tại tất cả mọi tỉnh lỵ mà nó thấy cần thiết. Không nhúng tay trực tiếp vào công việc nội trị, những viên công sứ ấy kiểm soát cách lãnh đạo nội trị và sẵn sàng can thiệp nếu họ thấy cần. Họ ở trong nội thành, hay ít ra cũng ở trong khu vực dành riêng cho các quan tỉnh và có quyền có một đoàn tùy tùng người Pháp hoặc người Việt. Các quan Nam tiếp tục việc cai trị của họ, nhưng theo phương hướng đã được chánh phủ bảo hộ đặt ra. Nếu họ đi sai đường lối đó, các viên công sứ có thể kiến nghị với chánh phủ Việt Nam và yêu cầu cách chức những quan lại nào thù địch với Pháp. Các công sứ là khâu trung gian bắt buộc trong mọi quan hệ giữa các nhà chức trách Pháp và Việt Nam; họ độc quyền xét xử đối với người Pháp và ngoại kiều. Ở miền Trung, ngược lại các quan lại thì phụ trách công việc hành chánh của mình một cách tự do, ngoài sự kiểm soát trực tiếp của người Pháp. Không có các công sứ Pháp bên cạnh các ông quan đầu tỉnh người Nam. Tác động của chánh phủ bảo hộ đối với chánh phủ Huế chỉ thể hiện duy nhất qua ông công sứ toàn quyền người Pháp, người theo dõi và lưu ý làm sao cho những “quyền” mà bản hiệp ước đã thừa nhận cho nước Pháp bảo đảm được tôn trọng một cách đầy đủ, vẹn toàn. Ông ta chỉ có những quan hệ trực tiếp với chánh phủ Việt Nam và những nhân viên người Pháp; còn các công chức Việt Nam thì chỉ chịu sự quản lý của Nam triều (chánh phủ Việt Nam). Nhân viên thuế vụ thu thuế dưới sự kiểm soát của các quan chức người Pháp, nhưng là thu cho triều đình Huế. Riêng những công sở đòi hỏi một sự chỉ đạo thống nhất như các sở hải quan, công chính, bưu điện đều do những công chức người Pháp đảm nhiệm, ở Trung kỳ cũng như ở Bắc kỳ. Và nếu như người Pháp và các ngoại kiều đều đặt dưới sự xét xử của Pháp, họ vẫn cần phải có một giấy phép đặc biệt do Pháp cấp mới được đi lại trong nước. Ngoài ra, Hiệp ước tháng 6/1884 còn bao gồm một loạt những điều khoản đặc biệt để rõ mối quan hệ giữa hai bên với nhau và để đề phòng mọi sự khiếu nại về những phần tương ứng của hai bên đối với nhau. Chẳng hạn, nhà vua Việt Nam cam kết không vay nợ một nước ngoài nào nếu không được sự đồng ý của Pháp; mở cửa những cảng mới cho việc buôn bán các nước ngoài; sẽ có những dàn xếp sau để quy định giới hạn và thiết lập những cây hải đăng; người ta cũng dự kiến chế độ và việc khai thác các mỏ, chế độ tiền tệ, phần tỷ lệ để dành cho chánh phủ Việt Nam trong số thuế về hải quan, về các đại lý tài chánh, về phí bưu điện, về phí giao thông… Ngay từ năm 1884, kinh nghiệm chế độ bảo hộ Tunisie đã mang lại nhiều điều bổ ích: nó phải dùng làm mẫu mực cho chế độ bảo hộ Việt Nam. Sau cùng, là Hiệp ước Huế bổ sung cho Hiệp ước Thiên Tân ngày 11/5/1884. Hiệp ước này quy định Trung Quốc phải rút các lực lượng của mình đang đóng ở Bắc kỳ về nước và thừa nhận những quan hệ được thiết lập giữa Paris với Huế. Chưa đầy một tháng sau, nước Pháp đã ký hiệp ước Patenôtre khẳng định nền bảo hộ của Pháp đối với Việt Nam và sự cáo chung của nước Việt Nam độc lập. Những Bản Tường Trình Của Giám Mục Puginier Và Các Giáo Sĩ Ở Bắc Kỳ Sau hơn một phần tư thế kỷ đấu tranh trong điều kiện những lực lượng không cân xứng, kể từ ngày hôm nay Việt Nam đi vào quỹ đạo của nước Pháp. Từ đầu đến cuối, các giáo sĩ đã đóng một vai trò quan trọng hàng đầu trong việc nước Pháp đánh chiếm miền đất xa xôi, cách chính quốc đến mười hai ngàn cây số này; kể ra thì, từ đây họ có quyền thỏa mãn. Và Giám mục Puginier, Khâm mạng Tòa thánh tại miền tây Bắc kỳ đã có đủ lý do để kết luận, trong một bản tường trình dài năm mươi bốn trang, gửi các nhà chức trách Pháp, năm 1889 – cùng một lúc, hai bản tường trình khác: “Ghi nhận và đánh giá về tình hình tháng 10/1889”, bốn mươi trang và “Ghi nhận và đánh giá về tình hình ở Bắc kỳ, ngày 04/12/1889”, hai mươi bốn trang để thông tin cho các nhà chức trách Pháp biết về các hoạt động chống Pháp ở miền Bắc Việt Nam, mang tựa đề “Ghi nhận và chỉ dẫn về một phương diện của tình hình, viết cho lưu trữ và để chuyển cho riêng những người cần phải biết.(10)” “…Không cần phải là một nhà chính trị uyên thâm mới nói được rằng trong tất cả mọi biện pháp dùng để phục hồi ảnh hưởng trở lại một cách thiết thực… thì hiệu nghiệm nhất là thiết lập vững vàng cơ sở của đạo Thiên Chúa. Biện pháp này càng có thêm một sức mạnh mới nếu có được một cơ quan, quyền lực nước ngoài bảo hộ và ưu đãi nó, một cách khôn khéo…”. Đứng trước đạo Khổng, đạo Phật và tinh thần khoan dung tôn giáo của đại đa số nhân dân Việt Nam quá ôn hòa, vì nơi giáo dục từ mấy thế hệ theo những nghi lễ của phương Đông, đạo Thiên Chúa do sức cuốn hút đầy nhiệt tình sôi nổi của nó, đã ngày càng thắng thế. Ở Việt Nam, nó chỉ có thể phát triển khi nó có được sự giúp đỡ và bảo vệ của nhà đương cục Pháp. Giám mục Puginier đã viết trong cùng bản tường trình ấy: “…Phong trào trở lại đạo đã bắt đầu cách đây hai mươi năm; lúc mới chớm nở, nó còn yếu, sau đó khá lên một chút và cho đến nay đã cho chúng ta 58.000 lượt rửa tội cho người ngoại đạo, tất cả: 15.000 lượt trong giai đoạn đầu, từ 1869-1876. 21.491 lượt trong giai đoạn hai, từ 1877-1885. 21.509 lượt trong giai đoạn ba, từ 1884 - 15/6/1889. Mười ba năm mới đây đã cho chúng ta 43.000 lượt người rửa tội cho người ngoại đạo. Chỉ riêng trong đợt giảng truyền, từ 15/6/1888 đến 1889, chúng ta đã có 7.000 người trở lại đạo. Ngoài ra còn khoảng 12.000 người lúc này đang học kinh và bổn. Với những ai không mang nặng thành kiến và hiểu biết về những ‘chuyện An Nam’ thì không nghi ngờ gì nữa, bao nhiêu người ngoại đạo theo đạo đó đều trở thành bấy nhiêu người bạn của nước Pháp. Và cũng chắc chắn rằng số giáo dân càng tăng thì số những người thân Pháp càng tăng lên và số người thù địch giảm đi trên một tỷ lệ tương ứng. Bao giờ giáo dân đạt tới một số lượng đầy đủ, lúc đó sẽ chẳng còn những cuộc nổi loạn nữa hoặc giá có người xúi nổi loạn thì những cuộc nổi loạn ấy sẽ không có gì đáng sợ nữa”. Nói về các giáo sĩ ở Việt Nam, Charles Meyer viết: “Các giáo sĩ đã đến Việt Nam rất lâu trước khi có cuộc chinh phục. Đến Bắc kỳ ngay từ 1624, Alexandre de Rhodes đã để lại xứ sở này những trang miêu tả hào hứng, ông ta viết: ‘Đây là một xứ sở thần tiên, đẹp, phì nhiêu, khí hậu tuyệt vời và lụt lội thì mang lại những điều bổ ích, ông ta viết. Dân chúng rất giàu và những thầy thuốc của họ rất giỏi giang khéo léo: công lý ngự trị khắp nơi và tội ngoại tình thì bị nghiêm trị…’ Những kẻ đến sau không tán thành như vậy, đặc biệt là các vị thừa sai của ‘Hội truyền giáo nước ngoài’, nửa đầu thế kỷ XIX. Cuộc can thiệp Pháp - Tây Ban Nha năm 1859 mà chính các giáo sĩ nói trên yêu cầu, đã liên kết các giáo sĩ vào mưu đồ thực dân rộng lớn của các ông Đô đốc Đệ nhị Đế chế và những người kế tiếp họ. Từ những kẻ bị khủng bố, họ đã trở thành những kẻ ‘bảo hộ’. Từ chỉ có vài ba người lúc đầu, họ đã trở thành cả một đạo quân: 75 giáo sĩ đổ bộ vào An Nam từ 1859 đến 1868, rồi 145 từ 1870 đến 1880, 136 từ 1881 đến 1890. Năm 1904 tại Bắc kỳ, trong riêng một cộng đồng công giáo An Nam gồm 500.000 linh hồn [tức cả nam phụ lão ấu], người ta tính được 4 giám mục, 105 giáo sĩ, 32 nữ tu sĩ dòng Saint Paul de Chartres và 3 nữ tu dòng Carmel. Tại Nam kỳ, người công giáo không đông bằng nhưng cũng có đến 3 giám mục, 150 giáo sĩ và 90 nữ tu. Tại Campuchia, chỉ có một nhóm người theo đạo mà cũng có 1 giám mục, giáo sĩ, cùng với 83 bà xơ Thiên Hựu. Những mối quan hệ giữa các Đô đốc cầm quyền và các giám mục can thiệp vào những vấn đề chính trị, thậm chí cả những vấn đề quân sự, thường mang tính chất hai mặt. Nó trở nên căng thẳng khi chính quyền dân sự được thiết lập; năm 1882, chính quyền dân sự cắt bỏ khoản ngân sách dành cho việc thờ phượng và cho những khoản trợ cấp mà Hội đồng Thuộc địa dành cho các Hội truyền giáo. Trên thực tế là có hai quan điểm về chủ nghĩa thực dân đối đầu nhau: quan niệm của chánh phủ cam kết tôn trọng tín ngưỡng và phong tục tập quán của các nước bị chinh phục và quan niệm của Hội truyền giáo gắn liền việc đô hộ họ với việc truyền đạo Kitô: ‘Nếu toàn thể nhân dân An Nam đều Công giáo thì chúng ta sẽ lãnh đạo họ một cách dễ dàng theo ý muốn của chúng ta; lợi ích họ sẽ nhanh chóng hòa nhập làm một với lợi ích chúng ta; không những chúng ta sẽ không cần thiết phải duy trì tại đây nhiều quân đội người Âu mà chính người An Nam sẽ có thể cung cấp cho chúng ta một số quân bản xứ muốn bao nhiêu cũng được, để trợ lực chúng ta không những trong nội địa đất nước họ, mà còn ở các thuộc địa khác của chúng ta (…). Chỉ cần một điều là đừng cản trở hoạt động của các giáo sĩ”. (E.C.Lesserteur: ‘Paul Bert tại Bắc kỳ và các giáo sĩ’, đăng trên ‘Tạp chí Pháp’, 1888) Cuộc chiến tranh Bắc kỳ đã gây ra sự tàn sát hàng ngàn người Công giáo An Nam bị gọi là ‘Pháp tay trong’, đã lôi kéo trực tiếp các hội truyền giáo vào hành động: ‘Lúc này, các giáo sĩ làm đại úy, còn giáo dân thì làm lính. Bởi phải chết thì thà chết với vũ khí trên tay.’”(Adrien Launay, “Các giáo sĩ tại Bắc kỳ”, 1900). Đi đầu hàng trăm người vũ trang, người ta thấy các linh mục Aguesse, linh mục Arsac, linh mục Klinger cùng nhiều linh mục khác, chỉ huy những cuộc hành quân ‘trừng phạt’, cướp bóc và đốt phá những làng mạc ‘người lương’ [người không theo đạo], cư xử hành động như ‘những tên tướng cướp’, theo cái danh từ mà bộ chỉ huy quân sự có trách nhiệm kiềm chế hành động, của họ đã dùng. Trong bản báo cáo ‘Những ghi nhận giải thích’, ngày 20/8/1886 của mình, Giám mục Puginier thừa nhận rằng có thể có những chuyện bạo hành do người của ông gây ra, nhưng khẳng định rằng ‘các quan lại và sĩ phu làm mọi cách để gieo bất hòa giữa người Pháp với các giáo dân và ngược lại’. Điều này chắc chắn là có. Tuy nhiên, giữa chánh phủ thuộc địa và Hội truyền giáo, trước hết là vấn đề xung đột quyền hành biểu hiện qua một cuộc chiến tranh tiêu hao kéo dài không bao giờ dứt. “Đáp lại những yêu sách khẩn thiết của Giám mục [Puginier], Paul Bert đã trả lời bằng một bức thông tri, trong đó có nội dung căn bản của vấn đề được định nghĩa: ‘Nếu các giáo dân muốn có một nền luật pháp riêng biệt, nếu họ từ chối không chịu đóng thuế cho nhà chức trách, nếu họ muốn thành lập những tiểu quốc gia trong một đại quốc gia thì tôi thôi không bảo vệ cho họ nữa. Tôi sẵn sàng làm tất cả nhân danh bình đẳng, nhưng tôi sẽ không làm gì nhân danh các đặc quyền.’ (Thông tri của Paul Bert ngày 30/6/1886). Lời cảnh cáo không được người ta để vào tai và mấy năm sau tại Bắc kỳ, ‘các nhà cai trị chịu trách nhiệm an ninh công cộng tố cáo các giáo sĩ vì muốn khích lệ những tín đồ mới, đã tuyên truyền cho họ rằng thời điểm của họ đã đến, rằng họ sắp sửa lên cầm quyền và thu thuế các chức vụ sẽ được chuyển giao cho người công giáo.’ (Chailley Bert, Thư từ) Các Hội truyền giáo có tham vọng muốn độc quyền cai trị các làng Công giáo ở Bắc kỳ. Trong một bức thư, công sứ Bonnal giận dữ, viết: ‘Giám mục Puginier phàn nàn về sự khủng bố của các quan lại. Chẳng qua là câu chuyện chú thỏ nhà đã bắt đầu. Khi một giáo sĩ đã thiết lập được một xứ đạo trong một làng rồi thì chuyện gì xảy ra? Người bản xứ từ chối không đóng thuế, tuyên bố không thừa nhận chính quyền nào ngoài chính quyền của ông giáo sĩ, là người đích thân dạy cho giáo dân không thừa nhận chính quyền nào ngoài chính quyền của giám mục; và cái mà Giám mục Puginier gọi là ‘sự khủng bố của các quan lại’, chính là những cố gắng mà các quan lại khốn khổ ấy bắt buộc phải thực hiện hòng thu thuế và khép vào khuôn khổ chính quyền những người Công giáo bản xứ đang trở thành láo xược không những đối với các quan lại An Nam, mà cả với các nhà chức trách của Pháp.(11)” Tại châu Á và châu Phi, cử chỉ thái độ của các giáo sĩ gây nên trong lòng mọi người một sự nghi ngờ chính đáng(12a)(12b). Nhân chuyện nổi loạn của phái “Võ sĩ” (Boxeurs)(13a)(13b) Aristide Briand viết, ngày 27/6/1900, trong báo “La Lanterne”: “…Khi người ta đã biết qua những hành vi áp bức của giới tăng lữ, ngay cả ở châu Âu là nơi người ta không thiếu phương tiện chống lại họ, người ta có thể ý niệm được những hành vi áp bức ấy sẽ đồi bại đến mức nào tại các nước thuộc địa, là nơi mà tuyệt đối không có một sự thanh tra, giám sát nhỏ nào đối với họ… “Là những người chủ tuyệt đối của những xứ sở được các chánh phủ mù quáng và nặng đầu óc thủ cựu đồng lõa giao phó một cách vô ý thức cho họ, họ đã nhanh chóng ép buộc dân chúng vào một chế độ chuyên quyền và khủng bố, mà người Pháp xưa kia đã từng phải chịu đựng dưới thời thống trị của giai cấp cha cố và thầy tu”. Lịch sử vai trò các giáo sĩ Pháp trong quá trình xâm lược Việt Nam sẽ không được đầy đủ nếu chúng ta bỏ quên, không nhắc qua, cuộc tranh giành ảnh hưởng giữa Pháp và Tây Ban Nha trên lãnh vực tôn giáo. Cuộc tranh giành mà người ta muốn chấm dứt như bức thư sau đây của Roche, ngày 6/2/1885, gửi cho Harmand: “Tôi hân hạnh lưu ý Ngài đến một vấn đề mà theo ý tôi, có tầm quan trọng đáng kể về phương diện chiếm đóng Bắc kỳ của chúng ta, tôi muốn nói đến các hội truyền giáo. Các hội truyền giáo tại Bắc kỳ, Nam kỳ và nói chung tại các lãnh thổ hải ngoại của chúng ta… không làm thành những hội riêng biệt, bởi tất cả đều phụ thuộc vào một ngôi nhà chính, đóng tại Paris; sau nữa, chỉ cần thấy được những việc mà các hội truyền giáo đó đã làm một, hai thế kỷ nay tại An Nam, hoặc những nơi khác, để thừa nhận rằng yếu tố thực dân đã tìm thấy ở các giáo sĩ chúng ta những kẻ trợ thủ hùng mạnh và tận tâm. Về phương diện này, các giáo sĩ chúng ta, (không phải các giáo sĩ Tây Ban Nha, tôi sẽ nói lý do sau), ở bên đó (Việt Nam) đã thực sự đóng vai trò giới giáo sĩ ngoài đời; và chỉ có một cái chung với thành viên các hiệp hội (tôn giáo) mới bị trục xuất ra khỏi nước Pháp chưa được bao lâu, là chiếc áo. Tại Bắc kỳ, hơn bất cứ nơi nào khác, cần phải lưu ý đúng mức đến thực trạng này, bởi vì một đất nước, nếu không thù địch với sự nghiệp chúng ta thì ít nhất cũng đã trở thành đặc biệt lạnh nhạt đối với chúng ta, sau cuộc rút lui nhục nhã năm 1874, sẽ còn lâu mới chịu khuất phục nền thống trị của chúng ta, nếu chúng ta không biết lợi dụng lực lượng hết sức hùng hậu của 300.000 giáo dân nước này và bỏ qua không sử dụng họ trong một chừng mực rộng rãi. Ai cũng biết rằng hội truyền giáo của Pháp đóng ở hữu ngạn (sông Hồng), giám mục địa phận (Kẻ-Sở) (Hà Nội) mang chức vụ Khâm mạng Tòa thánh miền Tây Bắc kỳ, có một giám mục phụ tá ở Huế; còn các hội truyền giáo Tây Ban Nha, đóng ở tả ngạn, thâu tóm gần như toàn bộ xứ sở. Giám mục địa phận Bắc Ninh mang chức vụ Khâm mạng Tòa thánh miền Đông Bắc kỳ,có một phụ tá ở Hải Dương. Sự phân định khu vực với những tên gọi xứng giữa hai bên đó, làm người ta tưởng lầm rằng hai hội truyền giáo cùng song song hoạt động với nhau; thực ra, không hề có chuyện đó, ngược lại, một sự ác cảm hay ít ra là một không khí lạnh nhạt, đặc biệt ngự trị giữa các giáo sĩ chúng ta với những bạn đồng nghiệp của họ bên kia dãy núi Pyrénées(14). Bên cạnh những nguyên nhân chia rẽ nội bộ mà tôi hoàn toàn không biết, có một nguyên nhân dưới đây, rất rõ mà tôi cho là nguyên nhân cơ bản, tôi muốn nói đến tình hình hệ thống tổ chức của hai hội truyền giáo ấy. Đúng thế, không ai không biết rằng các hội truyền giáo của chúng ta ở Bắc kỳ cũng như ở các thuộc địa khác, đều phụ thuộc vào một “Nhà truyền giáo nước ngoài” chính, có trụ sở tại Paris, vừa chịu ảnh hưởng của Tòa thánh (La Mã), vừa chịu ảnh hưởng rất cương quyết của chánh phủ Pháp. Do đó, mọi sự việc đều phải thông qua nhà nước và qua các giáo sĩ của chúng ta, y hệt như đối với các giáo sĩ ngoài đời của chính quốc, chỉ ngoại trừ một vài trường hợp hết sức đặc biệt mà thôi. Với hội truyền giáo Tây Ban Nha thì không hề có chuyện, chẳng những đối với chánh phủ Pháp mà ngay cả nội các Madrid, vì một nguyên nhân đơn giản là giáo sĩ Tây Ban Nha đều là những tu sĩ dòng Dominicains, ở Manila mà trụ sở chính là ở La Mã và bề trên trực tiếp là Giáo hoàng. Vậy là các giáo sĩ Tây Ban Nha gần như độc lập tuyệt đối, vì họ có một mục đích chính đáng, đúng thế, nhưng thường là trái ngược với những lợi ích thuộc địa của chúng ta, ví dụ: 1/ Họ muốn bảo đảm, bằng mọi biện pháp, cái uy tín của họ, tại Viễn Đông, đang bị sự hiện diện tại Bắc kỳ của chúng ta làm ảnh hưởng một cách sâu sắc. 2/ Họ phục tùng hoàn toàn và trọn vẹn, với một tinh thần tôn trọng tuyệt đối, tất cả mọi chỉ thị của La Mã. 3/ Họ có sự bảo đảm về quyền lợi vật chất tại Bắc Kỳ và tại Manila. Trước những sự việc như thế, cũng là chuyện tự nhiên nếu chúng ta bắt gặp ở những người đã sẵn thành kiến và mâu thuẫn quyền lợi với chúng ta đó, một tinh thần thù địch mà tính cách của họ thường là tinh vi và trầm lặng, cũng không sao che giấu nổi trong mọi trường hợp, nhất là những khi người ta có dịp nghiên cứu họ một thời gian, như tôi đã có dịp nghiên cứu họ ở Hải Phòng. Điều ngược lại mới đáng làm cho tôi ngạc nhiên… Từ những nguồn tin tức chính xác và bảo đảm thì trong năm 1883 ít lâu sau khi đại tá Rivière chết, một tạm ước đã được ký kết tại Manila giữa Hội truyền giáo Tây Ban Nha và viên lãnh sự Trung Quốc. Trong các điều khoản, có một điều khoản ghi rằng trong trường hợp một cuộc chiến tranh xảy ra giữa Trung Quốc và Pháp thì Hội truyền giáo Tây Ban Nha không có gì phải lo ngại; nhưng ngược lại, nó cũng chẳng giúp ích gì cho việc chiếm đóng Bắc kỳ của chúng ta, lại còn cam kết sẽ ngấm ngầm gây cho chúng ta mọi khó khăn, trong trường hợp chúng ta chiếm đóng vĩnh viễn. (…) Vài ba hôm, sau ngày đánh chiếm Hải Dương, tôi sửng sốt khi đọc thấy trên tường một ngôi chùa trong thành phố, một câu dưới đây do bàn tay một người An Nam viết: ‘Trong lúc đánh thành, một người Công giáo đã bị quân Pháp bắn bị thương. Tử hình quân Pháp! Vạn tuế quân Cờ đen!’ Sau cùng là trong một buổi hội kiến với Giám mục (người Tây Ban Nha) trước khi tôi xuống tàu về Pháp, sau những câu chuyện tầm thường theo lệ, vị Giám mục ấy không nhịn được một câu nói xuất phát từ đáy lòng mình: ‘Tôi nghĩ rằng người Pháp chẳng còn có việc gì ở Bắc Kỳ nữa; và có lẽ tốt nhất là họ đừng tìm cách đi thêm bước nào nữa trong việc chinh phục xứ sở này làm gì!’ Tôi thấy không cần phải nhấn mạnh thêm nữa về cái lợi ích, rất cơ bản của chúng ta, trong việc đuổi các vị giáo sĩ (Tây Ban Nha) đó trở về Manila và chúng ta điều đình trực tiếp với La Mã nhằm thay thế họ bằng các giáo sĩ người Pháp, là những người tận tụy với sự nghiệp chúng ta. Khi nào sự thay thế đó được hoàn tất thì coi như vấn đề Bắc kỳ căn bản sẽ được giải quyết. Trong mọi trường hợp, loại trừ được vấn đề thù địch của các giáo sĩ Tây Ban Nha ra thì các giáo sĩ của chúng ta sẽ hoạt động tích cực hơn và đi đến những kết quả tốt đẹp hơn các giáo sĩ dòng Dominicains. Tôi sẽ làm sáng tỏ hơn ý nghĩ của tôi qua dẫn chứng sau đây: Tại Bắc kỳ, người ta thấy, theo đuôi mỗi linh mục Tây Ban Nha là một lũ người khố rách áo ôm mà sự bẩn thỉu của họ là một bằng chứng hùng hồn về sự lười biếng của cả thầy lẫn trò. Ở Nam kỳ, người ta thấy tại mỗi giáo xứ nói chung và trong nhà trường Adran nói riêng, tất cả các học sinh đều chăm chỉ, sạch sẽ và ăn mặc tử tế; chuyện học hành của họ được tổ chức tốt, có hứa hẹn nhiều, và lâu nay đã mang lại những kết quả khả quan. Tóm lại, tôi nghĩ mình không nói quá nên tôi khẳng định rằng: ‘Cái này phải giết chết cái kia!”..(15) Từ năm 1902, các tu sĩ dòng Dominicains ở Bắc kỳ được các giáo sĩ người Pháp thay chân. Sự thay thế đó không phải tự nhiên mà có. Ngay từ 1889, cái tên “Bắc kỳ” đã nhiều lần được nhắc đến tại Pháp như là một nơi lưu đày của các tu sĩ. Paul de Cassagnac viết trong tờ báo “Autorité”, ngày 19/4/1889: “Dư luận công chúng bị chấn động trước sự tích lũy của cải, ngày càng giàu có của hội truyền giáo mà giá trị tài sản không thể chuyển nhượng đã tăng lên gấp ba lần, trong vòng ba mươi năm trở lại đây, đến con số ít nhất là 10 tỷ (francs); ‘nhờ’ những tài sản khủng khiếp này mà hội truyền giáo bị tố cáo là đã hối lộ những người đứng đầu chánh phủ Cộng hòa vì lợi ích riêng của hội, đã nô lệ hóa nhân dân và đầu độc toàn bộ đất nước, và bị xử án ‘giải thể’. Các tu sĩ lâu nay sống trong các nhà dòng, sẽ không làm người thừa, cố gắng trở thành người hữu ích. Nếu những tu sĩ đó do ăn không ngồi rồi mà trở thành những kẻ phi lao động và rơi vào tình trạng du đãng…! Thì các người đã có thuộc địa mà không có người khai thác thuộc địa. Các ngài hãy gửi qua đó những tên du đãng (thực sự) của các ngài và giải tỏa các ngã đường công cộng khỏi những tay bạn đường nguy hiểm chỉ gieo kinh hoàng lên các vùng nông thôn mà vẫn thoát khỏi mạng lưới pháp luật đó đi! Người ta ước tính con số những tên du đãng ấy lên tới 100.000 người; đó quả là một đạo quân thật sự nó cản đường chúng ta và ăn bám bóc lột chúng ta! Hãy gửi chúng sang Bắc kỳ…! Những người này sang lao động bên đó sẽ có cơ may cải tạo và phục hồi một chút giá trị tinh thần. Lưu đày mà thực ta chỉ có thể. Hãy bắt đầu đi thôi; giờ đã điểm lâu rồi!”. Nếu như trên đất Pháp, giai cấp tư sản và Nhà thờ mâu thuẫn nhau thì tại các nước thuộc địa, giai cấp tư sản lại đánh giá cao những công việc mà Nhà thờ làm, được giúp cho họ trong quan hệ đối với dân tộc thuộc địa. Cũng những cường quốc ấy ở châu Âu thì chống đối nhau trong những cuộc đấu tranh ác liệt, mà ở thuộc địa lại bắt tay tương trợ lẫn nhau. Các giáo sĩ đã trở thành kẻ tiên phong của giới thương nhân, cũng như của những đạo quân chinh phục. Nội các Waldeck - Rousseau, là kẻ mở màn cuộc đấu tranh chống các hội truyền giáo tại Pháp, cũng là kẻ tiến hành cuộc chiến tranh với Trung Quốc để buộc nước này phải duy trì những hội truyền giáo, mà họ tuyên bố không thể nào chịu nổi trên đất Pháp. Họ [Waldeck – Rousseau] đe dọa tịch thu tài sản của các hội đó ở trên đất Pháp, nhưng lại trợ cấp hàng triệu francs bù lại cho những thiệt hại mà các hội đó đã phải chịu trên đất Trung quốc. Thủ tướng Jules Ferry mà dưới nhiệm kỳ của ông ta, Quốc hội đã biểu quyết những đạo luật chống giáo quyền (chống các tu sĩ Jésuites [Dòng Tên], chống các nhà trường của các tu sĩ Jésuites…), lại thấy cần thiết sử dụng Kitô giáo vì lợi ích của chính sách thuộc địa. Chính ông ta đã nói: “Chủ nghĩa chống giáo quyền không phải là một mặt hàng xuất khẩu”. Vậy đó, bất chấp những sự bất đồng tạm thời và những điều “xô xát”, Nhà thờ và giai cấp tư sản, trên thực tế vẫn là đồng tâm nhất trí với nhau trên đường lối chính sách thuộc địa. TS Nguyễn Xuân Thọ Nguồn: (Alpha Books - Ebook) Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam 1858-1897 Trang Lịch Sử |