Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam Sự Kiện Bắc Kỳ, Thái Độ Các Nước TS Nguyễn Xuân Thọ https://sachhiem.net/NGXUANTHO/BuocMoDau_16.php
Chương 15 - Thái Độ Của Trung Quốc Và Các Cường Quốc Châu Âu Trước Những Sự Kiện Bắc Kỳ Kể từ 1883, một cuộc đấu trí ngoại giao hết sức chặt chẽ diễn ra giữa Bắc Kinh và Paris, mà đối tượng tranh giành nhau là miền Bắc Việt Nam. Thực Trung Quốc đang bị đe dọa từ nhiều phía: phía Bắc là nước Nga đang gặm dần đường biên giới Mãn Châu, phía Đông là Nhật Bản đang dòm ngó Triều Tiên. Nhưng Trung Quốc hy vọng có thể dựa vào Anh, Đức và Hoa Kỳ. Nhiều sự kiện đang động viên khích lệ nó: thất bại của Pháp tại Ai Cập, cái khó khăn nó vấp phải trong việc xâm nhập Bắc kỳ, phe đối lập trong Quốc hội và trên báo chí Pháp. Chính vào lúc mà tại Paris, chánh phủ Pháp đang tích cực sửa soạn một cuộc can thiệp quân sự vào Bắc kỳ, thì Tăng Kỉ Trạch đến Quai d’Orsay để tìm hiểu về những hoạt động mà Pháp đang muốn thực hiện tại Bắc kỳ. Ông Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Challemel Lacour tiếp ông ta và tuyên bố với ông ta rằng “nước Pháp đảm bảo sẽ thi hành đều đặn và một cách hợp pháp Hiệp ước 1874 ký kết với Việt Nam, và tiêu diệt nạn cướp bóc thổ phỉ nó đang ngăn cản không cho ra vào buôn bán.” Và ông ta nói thêm: “Những vấn đề này, nước Pháp sẽ thương thuyết với vua Tự Đức, hoặc tự mình giải quyết lấy”. Dĩ nhiên những kêu nài của phía Trung Quốc không được cứu xét một cách nghiêm túc. Lúc này, Tricou, đại sứ đặc mệnh toàn quyền Pháp tại Tokyo, người thay thế Bourée ở phái đoàn Pháp đến Bắc Kinh. Vài ngày trước khi Tricou đến Thượng Hải, Rivière đã chết tại Hà Nội. Trước những thông tin quan trọng về một cuộc viễn chinh vũ trang khẩn cấp của Pháp tại Bắc kỳ, thêm vào đó là những lời lẽ hiếu chiến của ông Bộ trưởng mới của Pháp, ngay khi Tricou đến Trung Quốc, chánh phủ Trung Quốc hoang mang và nội các Bắc Kinh thì đinh ninh rằng Pháp sẽ mở cuộc tấn công trực tiếp vào lãnh thổ của mình, có thể là vào Thiên Tân. Vì Thiên Tân xem như là cái cửa ngõ của Bắc Kinh cho nên nếu nguy cơ ấy trở thành hiện thực thì tai hại vô cùng cho uy tín của Thiên triều. Vậy nỗi lo lắng giờ đây của chánh phủ Trung Quốc không còn là vấn đề Bắc kỳ nữa mà là vấn đề quốc phòng của chính mình. Ngày 11/6/1883, Phó vương Lý Hồng Chương đệ trình chánh phủ hai báo cáo mật giãi bày quan điểm của mình về khía cạnh ngoại giao và quân sự của vấn đề Việt Nam, có liên quan đến Trung Quốc. Trong khi chánh phủ Trung Quốc chuẩn bị bảo vệ lãnh thổ của mình về mặt biển, đại sứ Trung Quốc tại Paris đến Bộ Ngoại giao Pháp, ngày 21/6/1883, yêu cầu muốn biết rõ về ý nghĩa và tầm quan trọng của lời tuyên bố của đại sứ Pháp tại Bắc Kinh rằng nước Pháp sẽ coi như một “hành vi chiến tranh” (casus belli) bất cứ một sự viện trợ nào dù công khai hay bí mật của Trung Quốc đối với Việt Nam. Tăng Kỉ Trạch lưu ý Jules Ferry đang tiếp ông ta rằng người ta có thể gặp những người Trung Quốc lẫn trong đám những người Việt Nam. Vì Trug Quốc có nhiều khu vực thực dân địa tại Bắc kỳ cho nên có những người Trung Quốc từ mọi miền, luôn luôn vượt qua biên giới Việt-Trung. Nếu họ gia nhập vào quân đội Việt Nam, Pháp không thể đổ trách nhiệm cho Trung Quốc được. Khi nói đến cái chết của Rivière, nhà ngoại giao Trung Quốc tuyên bố: “Vì sao lại không xử lý cái chết của Rivière như một vụ ám sát và đòi hỏi phải bồi thường hoặc bằng cách phạt tiền, hoặc bằng hình phạt ‘lấy máu trả máu’?” Jules Ferry trả lời rằng: danh dự quân sự của nước Pháp cấm không cho chánh phủ Pháp xử lý vấn đề này như một vụ án. Vả lại rõ ràng ở đây, chánh phủ Việt Nam phải trực tiếp chịu trách nhiệm bởi vì Tự Đức nuôi dưỡng quân Cờ đen. Vậy vấn đề này chỉ có thể giải quyết bằng con đường quân sự. Tăng Kỉ Trạch nhắc lại rằng nước của ông không thể chống đối lại ý muốn của nước Pháp. Tăng Kỉ Trạch phát biểu tiếp lý thuyết về vai trò các “nước đệm”. Theo ông đại sứ Trung Quốc thì giữa hai nước lớn như Pháp và Trung Quốc, mà có một nước đệm là điều rất nên mong muốn. Nếu Pháp chiếm đóng cả Việt Nam thì “nước đệm” không còn nữa. Theo ý Jules Ferry, sẽ cần thiết có một mảnh đất trung lập giữa hai cường quốc, ví dụ nước Nga và nước Anh, là điều dễ hiểu khi hai cường quốc đó đều là những kẻ đi chinh phục. Trường hợp Pháp và Trung Quốc, ông ta nói, không phải như vậy; nước Pháp không hề có ý định chinh phục Việt Nam mà chỉ muốn đưa lại ổn định và mở cửa sông Hồng cho châu Âu ra vào buôn bán và như vậy là có lợi cho cả Trung Quốc lẫn các nước phương Tây. Và ông thủ tướng nội các nói tiếp: “Nước Pháp rất biết rằng, một khi lưu vực sông Hồng đã được quét sạch bọn thổ phỉ thì việc giao thương với Vân Nam cũng không thể thiết lập được nếu không có sự thỏa thuận và giúp đỡ của chánh phủ Trung Quốc. Đây là một mảnh đất để thương thuyết và hiểu biết lẫn nhau một cách thực tiễn và phong phú.”(1) Sau đó, nhà ngoại giao Trung Quốc hỏi người đối thoại với mình: nước Pháp quan niệm như thế nào chế độ bảo hộ mà nó đang muốn thiết lập đối với Việt Nam và chế độ bảo hộ ấy khác với chủ quyền như thế nào? Jules Ferry giải thích rằng chế độ bảo hộ không phải là chủ quyền. Chủ quyền là thi hành quyền bính. Còn chế độ bảo hộ là áp dụng cho một mục đích nhất định trong những điều kiện giới hạn và vẫn để tồn tại quyền tự trị của nhà nước được bảo hộ trong những công việc hàng ngày. Tăng Kỉ Trạch lưu ý Jules Ferry rằng: tất cả vấn đề này đã từng gây bao nhiêu dư luận và tai tiếng rồi cho nên cần thiết phải củng cố và khẳng định chắc chắn những ý kiến vừa trao đổi. Ông cho rằng quan điểm của Jules Ferry là một bước đầu của sự thỏa thuận. Tại Bắc Kinh, Lý Hồng Chương và Tricou cũng có trao đổi ý kiến về vấn đề Việt Nam. Sau hai cuộc gặp gỡ, những ngày 29 và 30, tháng Sáu 1885, giữa Phó vương Trung Quốc và đại sứ Pháp về vấn đề chế độ bá quyền Trung Quốc và chế độ bảo hộ của Pháp, hai bên đã thỏa thuận với nhau: “Trung Quốc sẽ không công khai khẳng định rằng An Nam là nước chư hầu của Trung Quốc, cũng như Pháp sẽ công khai khẳng định quyền bảo hộ của mình với nước An Nam(2)”. Vì Lý Hồng Chương đặc biệt nhấn mạnh về việc nước Pháp không muốn chinh phục Việt Nam, nên Tricou hứa sẽ làm sáng tỏ rõ rệt và cụ thể hóa vấn đề trong văn bản một công hàm. Buổi tọa đàm được diễn ra trong một không khí thân mật. Nhà ngoại giao đã chủ động đề xuất những điểm cơ sở cho cuộc dàn xếp: “Chánh phủ Trung Quốc cam kết sẽ không ngăn trở bằng bất cứ cách nào những hoạt động quân sự và dân sự của Pháp tại Bắc kỳ và không động chạm gì đến tình hình đã đạt được của Pháp tại An Nam, từ sau ngày ký kết Hiệp ước 1874. “Chánh phủ Trung Quốc sẽ sẵn sàng, một khi trật tự đã được tái lập, mở cửa các tỉnh Hoa Nam và đặc biệt là tỉnh Vân Nam cho việc buôn bán, bằng con đường sông Kói. “Ngoài ra, chánh phủ Pháp tuyên bố sẽ sẵn sàng có cơ hội là ký kết với Thiên triều một thỏa thuận để giải quyết ổn thỏa những quan hệ buôn bán và bảo đảm những quyền lợi của kiều dân Trung Quốc tại Bắc kỳ. Chánh phủ Pháp sẽ có trách nhiệm tôn trọng và buộc người ta tôn trọng đường biên giới và về phía mình, chánh phủ Trung Quốc cũng sẽ cam kết làm như vậy đối với biên giới Bắc kỳ. “Chánh phủ Pháp sẽ đồng ý cả việc phối hợp với Trung Quốc để xem xét có nên điều chỉnh một vài chổ về đường biên giới nhằm bảo đảm an ninh một cách có hiệu quả hơn”(3). Cái giọng hòa hoãn hơi không bình thường đó của Jules Ferry, trước mặt Tăng Kỉ Trạch, và những cuộc trò chuyện đặc biệt tâm tình của Tricou với Lý Hồng Chương, cũng như bản dự án thu xếp của Tricou, chẳng có một mục đích nào khác ngoài việc “chia để trị”. Trong lúc Pháp đang sửa soạn chinh phục miền Bắc Việt Nam thì sự có mặt của Trung Quốc có thể trở ngại cuộc hành quân và gây những khó khăn cho Pháp. Làm cho Trung Quốc tạm thời lơ là các vấn đề Việt Nam đi vẫn là mục đích duy nhất của nhà đương cục Pháp, dù có phải tiến hành trở lại cuộc đàm phán với Trung Quốc sau khi đã đánh chiếm bắc kỳ. Lý Hồng Chương coi bản dự thảo ước này như một văn bản “cầu xin ý kiến” của chánh phủ vì ông ta nhấn mạnh yêu cầu nước Pháp tuyên bố rằng: trước mắt Pháp không có ý định chinh phục Việt Nam, Tricou chấp nhận rằng khi nào bản thỏa ước được ký kết sẽ trao ông ta một công hàm theo hướng đó, đổi lấy những lời cam kết của Trung Quốc. Công việc bố phòng mà chánh phủ đang tiến hành tại Thiên Tân đòi hỏi sự có mặt của vị Phó vương, ông ta quyết định trở về. Ông rời Thượng Hải ngày 5/7. Trước lúc lên đường, ông báo cho nhà ngoại giao Pháp biết rằng không thể nào giải quyết vấn đề Bắc kỳ một cách nhanh chóng được và nếu Tricou đi Thiên Tân thì hai bên có thể tiếp tục điều đình tại đây. Tricou rất bất bình về việc Lý Hồng Chương ra đi, coi như là sự cắt đứt đàm phán. Viên đại sứ Pháp lên án Tổng lý Nha môn, Lý Hồng Chương và Tăng Kỉ Trạch đã đồng ý nhau để gạt chánh phủ Pháp:“Khi chúng tôi muốn nói chuyện với Lý đưa chúng tôi qua Tăng, Tăng lại đưa chúng tôi qua lại với Lý và Tổng lý Nha môn thì đưa chúng tôi qua cả hai người”(4). Tricou cho rằng cần phải chấm dứt cái chính trị “trốn tránh” ấy đi: ông ta khuyên chánh phủ mình nên nắm trở lại quyền tự do hành động đối với Bắc Kinh và khẳng định một cách dứt khoát những cái quyền của mình mà không để cho ai phản đối lâu hơn nữa. Về phía họ, các cường quốc châu Âu cũng không đứng bàng quan đứng trước những sự kiện Bắc kỳ và những cuộc vận động của Trung Quốc liên quan đến các vấn đề Việt Nam. Từ sau cuộc chiến tranh Nha phiến (1839-1842). Anh quốc đã giành được một vị trí quan trọng về mặt ngoại giao. Hơn nữa, Anh lại là nước kình địch chính của Pháp trong cuộc chạy đua chiếm thuộc địa, là một biểu hiện của một cuộc cạnh tranh kinh tế gay gắt. Vậy cũng là điều dễ hiểu khi thấy Anh quốc tỏ ra lo lắng và ganh tỵ khi vấn đề Bắc kỳ được đưa vào chương trình nghị sự. “Anh quốc thu thập ghi chép mọi hành động, mọi ý định thoáng qua trong chính sách thuộc địa của Pháp”. Tissot, đại sứ Pháp tại Luân Đôn, đã viết như vậy trong bản báo cáo gửi ngày 15/4/1883 về Quai d’Orsay. Báo chí Anh không lên án công khai các phương án của Pháp. Họ, công khai nói và làm ra vẻ hoan nghênh một dự án như vậy, nó có thể mở ra những nguồn tiêu thụ mới cho nền thương mại Anh quốc. Báo chí Anh sợ rằng những do dự, những trì hoãn, những sự bất lực là một nét đặc điểm của chính sách ngoại giao Pháp trong thời gian gần đây sẽ tái diễn và chánh phủ Pháp, cuối cùng sẽ áp dụng những biện pháp lưng chừng, dẫn đến hoàn toàn thất bại. Theo chiều hướng đó, khuyên người Pháp đừng nên lao vào một việc làm có thể vượt quá khả năng của mình hay ít nhất cũng vượt quá nghị lực kiên trì của mình. Các nhà chính trị Anh cũng cùng chung một ý kiến như vậy. Khi nói chuyện với một nhà ngoại giao nước ngoài về công cuộc người Pháp dự định tiến hành tại Bắc Việt Nam, một chính khách Anh đã diễn đạt ý kiến của ông ta một cách lộ liễu hơn. Theo ông ta thì nước Anh không thể nhìn bằng con mắt bình thản những hành động có thể dẫn đến một sự xung đột giữa Pháp và Trung Quốc và một cuộc chiến tranh nghiêm trọng cho mà kết quả điều kiện của họ, chỉ có thể là thất bại cho Pháp mà thôi. Mà sự thất bại này sẽ không khỏi mang lại một hậu quả các xứ Ấn độ thuộc địa Anh và trên biên giới Nga; lúc đó Pháp có thể ở trong tình thế phải chịu những trách nhiệm nghiêm trọng đối với nội các Luân Đôn và Saint-Petersbourg. Tuy vậy, đại sứ Đức tại Luân Đôn không chia sẻ niềm lo lắng đó. Thực tế bá tước Munster đã có nhiều lần khẩn khoản đề nghị với Lord Granville, Bộ trưởng Ngoại giao Anh, rằng Anh quốc nên để cho Pháp được rảnh tay tại Việt Nam “với cái lý do rất hay là chẳng bao lâu nữa, người Pháp sẽ bị trói tay và trói tay lâu dài ở xứ ấy”(5). Ông ta dự đoán Pháp sẽ gặp nhiều rối ren và tất nhiên những chuyện rối ren đó sẽ là một thứ bảo đảm an ninh cho Anh, cũng như cho cả châu Âu. Sau đó ít lâu, đại sứ Pháp tại Luân Đôn kể lại rằng những quyết định của chánh phủ Pháp trong vấn đề Bắc kỳ và nhất là những cuộc hành quân đầu tiên của hạm đội Pháp trên bờ biển Madagascar đã làm nảy sinh một phản ứng mãnh liệt tại Luân Đôn. Trước con mắt nhà ngoại giao Pháp đó “là một cảm xúc ganh tỵ mà bất cứ một biểu hiện nào, dù nhỏ, của chính sách thực dân cũng như của thế lực Hải quân Pháp, cũng đều làm cho nẩy sinh trong lòng của cái ‘đất nước bên kia biển Manche’ [Anh quốc]. Cái cảm xúc ấy, ông ta viết, còn kèm theo một nỗi thất vọng trông thấy(6)”. Về sự kiện Bắc kỳ, nước Anh không thể viện dẫn những quyền lợi mà Anh đã viện dẫn trong sự việc Madagascar. Anh đành chỉ báo trước một cách rất nhân đạo cho Pháp biết rõ những khó khăn đang chờ đợi họ. Anh cảnh cáo cho Pháp rõ rằng Đức đang đứng sau lưng Trung Quốc và Thiên triều đã quyết định sẽ coi như một “hành động chiến tranh” bất cứ một áp lực nào đối với Việt Nam rằng Trung Quốc đang trở thành một cường quốc quân sự đáng phải dè chừng và cường quốc quân sự ấy sắp dành cho nước Pháp những bất ngờ không đẹp lòng tý nào. Còn nước Đức thì hiện nay chẳng quan tâm bao nhiêu đến vấn đề thuộc địa. Mặc dù sức ép của giới tư bản Đức, nhất là của các công ty thương mại và hàng hải Hambourg và Brême, là lớp người ngay từ trong cuộc chiến tranh Pháp - Đức đã lên tiếng đòi đi chinh phục thuộc địa; mặc dù trong khoảng từ 1870 - 1880, cái nhà ngân hàng đồ sộ “Discounter-Gesellschaft” đã tích cực ủng hộ những đòi hỏi ngày càng riết ráo ấy, Bismarck vẫn luôn luôn tỏ ra rất dè dặt, thậm chí rất lạnh lùng đối với vấn đề thuộc địa. Theo vị thủ tướng Đức, “nếu nước Đức trẻ đi chinh phục thuộc địa thì chẳng khác gì những nhà tiểu quý tộc Ba Lan có một chiếc áo khoác da chồn mà một chiếc áo ngủ thì không có”(7). Vị trí của Đức ở trung tâm châu Âu đã tạo ra cho nó hai mặt trận đáng sợ ở hai đầu, không cho phép nó nhắm mắt làm gây ra một cuộc xung đột với Pháp và Anh về vấn đề thuộc địa. Vậy thì ít nhất là trong thời điểm này, Đức hãy nên đối xử hữu hảo với cả Pháp lẫn Trung Quốc. Bismarck vừa duy trì quan hệ hữu nghị với Trung Quốc vừa kín đáo khuyến khích Pháp chinh phục Bắc kỳ. Trung Quốc không hiểu mánh khóe chính sách khôn khéo của Bismarck và cứ tìm cách lôi kéo Đức về phía ủng hộ mình. Tháng 7/1883, đại sứ đặc mệnh toàn quyền Trung Quốc tại Berlin, Lí Phượng Bào tâm sự với Bộ trưởng Ngoại giao Đức, bá tước Hatzfeldt, rằng Trung Quốc chỉ tin tưởng ở Đức quốc, ông ta yêu cầu ông Bộ trưởng Đức cho mình những lời khuyên bảo và sự giúp đỡ trong vấn đề Bắc kỳ. Ông Bộ trưởng Ngoại giao Đức khuyên nhà ngoại giao Trung Quốc chuyển về cho nội các Bắc Kinh lời khuyên cụ thể: Nên dàn xếp với Pháp. Với đại sứ Pháp tại Berlin, De Courcel, Hatzfeldt tuyên bố rằng theo những tin tức mới nhận được gần đây từ Trung Quốc sang thì ông ta có thể căn cứ để nghĩ rằng chánh phủ Trung Quốc chắc chắn là nhờ ảnh hưởng những lời khuyên của ông ta sẽ thôi không bảo vệ những ý đồ (bá chủ) của mình đối với Việt Nam và quyết định sẽ thi hành một đường lối chính trị hòa hiếu với Pháp. Trong lúc Trung Quốc cố tìm cách tranh thủ sự viện trợ của Đức để chống lại Pháp trong các vấn đề Việt Nam thì Paris cũng tìm cách liên kết với Tokyo để chống lại Bắc Kinh. Chính đại sứ Pháp tại Bắc Kinh, Tricou, đã gợi lên ý nghĩ này. “… Chúng ta chỉ cần nói một tiếng là chúng ta có thể chắc chắn sẽ nhận được sự giúp đỡ của chánh phủ Nhật Bản. Tôi biết Trung Quốc đang sợ khả năng này có thể xảy ra”. Tricou điện về Paris ngày 19/6/1883(8). Quả thực từ mấy năm nay, Nhật Bản đã từng tìm cách chiếm lấy Triều Tiên, chư hầu của Trung Quốc. Một cuộc xô xát đổ máu đã xảy ra giữa quân đồn trú Trung Quốc với đội bảo vệ phái đoàn ngoại giao Nhật Bản tại Séoul (Hán thành). Vậy thì Trung Quốc sẽ vô cùng khó chịu nếu thấy Nhật Bản liên kết với Pháp trong vấn đề Triều Tiên và Việt Nam. Đáp ứng những điều gợi ý của đại diện mình tại Bắc Kinh, ông Bộ trưởng Ngoại giao Pháp bèn yêu cầu đại diện lâm thời Pháp tại Tokyo thăm dò thái độ của chánh phủ Nhật Bản. Nhật Bản thích giữ thái độ trung lập, chánh phủ Nhật không muốn gây chiến với Tàu (điều đó dễ thấy năm sau đó, 1884, qua cuộc xung đột tại Séoul còn nghiêm trọng hơn cuộc xung đột năm 1882 nữa). Trong khi mối quan hệ giữa Trung Quốc và Pháp về vấn đề Việt Nam đang rất căng thẳng và có nguy cơ dẫn đến một sự xung đột chỉ một mình nước Hoa Kỳ là có thái độ hòa giải. Sự cảm tình đối với Trung Quốc đó phát sinh từ truyền thống chống thực dân của dư luận công chúng Mỹ. Hoa Kỳ là nước duy nhất không có những mưu toan thuộc địa đối với Trung Quốc, ngoài ra Hoa Kỳ còn bị ràng buộc bởi hiệp ước Thiên Tân 1858 trong đó có ghi rằng Hoa Kỳ sẽ giúp đỡ Trung Quốc tận tình nếu Trung Quốc yêu cầu. Sau nữa, đại diện của Washington tại Bắc Kinh, Russel Young mang một cảm tình cá nhân sâu sắc đối với Thiên triều. Nhận được điện của Russel Young báo tin chánh phủ Trung Quốc yêu cầu chánh phủ Hoa Kỳ giúp mình giải quyết vấn đề Việt Nam với Pháp, Quốc vụ khanh Frenlinghuysen yêu cầu đại sứ đặc mệnh toàn quyền Mỹ tại Paris, Morton, thăm dò thái độ chánh phủ Pháp. Trả lời những cuộc thăm dò ý kiến này của đại diện lâm thời Mỹ, Brulltour, Jules Ferry, ngày 17/7/1883, viết thư cho ông ta, nói với ông ta rằng: trước khi nhận làm một việc trọng tài, phải “hoàn toàn xác định về nội dung tính chất cuộc xung đột cần phân giải. Nhưng hiện nay, chánh phủ Pháp chưa hình dung ra được một cách chính xác những vấn đề mà chánh phủ Washington sẽ phải góp công vào việc trọng tài”. Ngày 11/8/1883, Brulltour gửi Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Challemel-Lacour một đoạn trích công hàm của Frenlinghuysen, ủy nhiệm ông ta chuyển cho chánh phủ Pháp bản tóm lược những yêu cầu của Trung Quốc do Tăng Kỉ Trạch chấp bút theo chỉ thị của Bắc Kinh. Chánh phủ Trung Quốc yêu cầu: nước Pháp cam kết không sửa đổi gì về tình hình chính trị Việt Nam và bằng lòng với sáu tỉnh Nam kỳ họ đã chiếm đóng, không đánh chiếm thêm một phần đất đai của Việt Nam; quân đội Pháp rút khỏi những phần đất đai họ đang chiếm đóng và giới hạn việc chiếm đóng của họ tại nhiều thành phố vì mục đích về sự buôn bán trong những điều kiện tương tự như những điều kiện đã được thỏa thuận cho những thành phố đã được giải tỏa của Trung Quốc; tự do thông thương và buôn bán cho tất cả các nước trên sông Hồng; cam kết của Trung Quốc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự lưu thông trên sông Hồng (như vậy chẳng cần dùng bạo lực nữa đối với quân Cờ đen); cam kết của Pháp sẽ không ký bất cứ hiệp ước nào với Việt Nam mà không có thông báo cho Trung Quốc biết. Challemel-Lacour từ khước không nhận bản thông điệp của Brulltour và giải thích lý do từ khước như sau: chánh phủ Pháp vẫn không ngừng quan hệ với đại sứ Trung Quốc tại Paris, do vậy không gì ngăn cản đại sứ Trung Quốc trao bản văn kiện nói trên cho Quai d’Orsay. Tăng Kỉ Trạch đã giữ im lặng. Pháp từ chối không nhận ai trung gian hòa giải trọng tài. Mặc dầu ông đại diện lâm thời Mỹ giải thích về thái độ của đại sứ Trung Quốc về vấn đề này, ông Bộ trưởng Ngoại giao Pháp vẫn nhấn mạnh đến quan điểm của chánh phủ Pháp và từ chối sự giúp đỡ của Washington, coi như đây là một sự can thiệp của Hoa Kỳ. Morton, đại sứ Hoa Kỳ tại Paris, ngày 18/8/1883, có đến Quai d’Orsay để phản kháng về thiện ý của chánh phủ mình. Nói đến Brulltour, Challemel-Lacour gọi nhà ngoại giao Hoa Kỳ là “con người thiếu kinh nghiệm và chưa sạch lỗi chính tả nhưng không phải thiếu mưu mẹo và lạm dụng xã giao”. Trước ngày đánh chiếm Sơn Tây không lâu, ngày 18/8/1883, Tăng Kỉ Trạch gửi cho Quai d’Orsay, qua một đặc phái viên văn kiện đã bị từ khước đó. Challemel-Lacour thấy rằng một vài đề nghị của nhà ngoại giao Trung Quốc “tỏ ra không sao chấp nhận được và cả không sao bàn bạc được”. Tuy nhiên, ông ghi nhận “cái nguyện vọng được bộc lộ rõ ràng của ông đại sứ Trung Quốc muốn lấy việc này làm điểm xuất phát cho những cuộc thương lượng giữa hai bên”; và ông lưu ý rằng “cơ hội mở cuộc thương lượng đó chắc chắn không còn xa lắm đâu”(9). Trong nội bộ chánh phủ Pháp, những đề nghị của Trung Quốc tạo nên những hồi âm rất bất lợi. Challemel-Lacour coi những đề nghị đó là “kỳ cục”; Jules Ferry thì cho là “lố lăng”(10). Sự kiện Bắc kỳ lúc đầu chỉ là một “hành động cảnh sát” nhưng sau cái chết của Henri Rivière thì nó trở thành một sự kiện có tính chất xung đột quốc tế do việc Trung Quốc đứng chen vào giữa Pháp và nước Việt Nam. Trung Quốc, trong khi Pháp thiết lập nền cai trị tại Nam kỳ đã tỏ ra rất bàng quan thì giờ đây đã “thay đổi thái độ trong vấn đề Bắc kỳ”, là cái “hàng rào chặn phía Nam của Trung Quốc. Nó lo sợ sự láng giềng quá gần gũi, ở ngay biên thùy phía nam của mình của một cường quốc châu Âu; đã hoảng hốt, họ càng hoảng hốt khi thấy Rivière đến Hà Nội”. Ngày 27/8/1883, Challemel-Lacour phúc đáp cho Tăng Kỉ Trạch bằng lời lẽ ôn hòa rằng “tính chất của đôi bên đề nghị của ông ta không loại trừ khả năng dùng toàn thể những lời đề nghị đó làm cơ sở cho cuộc thảo luận bổ ích”(11). Thái độ ôn hòa này sẽ được lý giải qua những sự kiện xảy ra tại châu Âu và những nỗi lo ngại của ông ta trước tình hình quốc tế. Ở Paris, người ta chưa biết kết quả cuộc hành quân Thuận An ra sao và người ta đang đánh một dấu hỏi về khả năng đánh một đòn quyết định ở Sơn Tây. Để dứt điểm với vấn đề Trung Quốc, phải thực hiện hoặc một hành vi đe dọa hoặc một hành động bạo lực. Nhưng nước Pháp không thể cũng không nên thực hiện một hành vi nào trong hai hành vi đó. Vả chăng Quốc hội có làm theo chánh phủ đâu. Nếu Bắc kỳ làm nên một điều lo âu lớn cho nội các Pháp thì tình hình quốc tế lúc này càng làm cho Pháp lo ngại gấp mấy lần hơn. Trước con mắt chánh phủ Pháp, hòa bình đang treo đầu sợi tóc. Những tháng đầu năm tới chắc chắn một cuộc khủng hoảng sẽ xảy ra tại phương Đông. Và phải làm sao để chánh phủ khỏi bị bất ngờ trước biến cố vì chánh phủ đã dấn mình sâu quá mức độ vừa phải. Đối diện với tình hình sẵn sàng bùng nổ này, chánh phủ cần phải nắm trong tay toàn bộ lực lượng vũ trang. Thế nhưng thật khó lòng mà thoát ra khỏi những khó khăn đang gặp phải trong mối quan hệ với Trung Quốc hiện nay một cách danh dự. Và ông Bộ trưởng Ngoại giao Pháp phàn nàn về chuyện chánh phủ không được thông tin đầy đủ và các đại diện ngoại giao của mình tại Trung Quốc đã không phục vụ đúng mức. Người ta đang bị dồn vào ngõ cụt. Phải tìm cách thoát ra để tránh những điều bất trắc xảy ra. Challemel-Lacour cho rằng “cần cắt ngang ngay mà không ảnh hưởng gì tai hại đến uy tín của đất nước với những hậu quả bất ngờ của công việc dự định(12)”. Bận rộn nhiều về các vấn đề quốc tế và những xung đột quyền lợi với Anh, Paris tìm một mảnh đất thỏa thuận với nội các Saint-James nhằm hoặc là nhận được sự ủng hộ của Saint-James trong việc giải quyết vấn đề Bắc kỳ, hoặc là tránh được những sự lầm nhau giữa Paris và Luân Đôn. Vì những lý do đó mà Waddington được cử làm đại sứ Pháp tại Anh. Chánh phủ Luân Đôn đồng thời cũng được Bắc Kinh cầu mong giúp đỡ họ trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam. Trong lúc Bourée điều đình với Lý Hồng Chương thì Tăng Kỉ Trạch, đại diện Trung Quốc vừa ở Paris vừa ở Luân Đôn, hội kiến với Lord Granville, Bộ trưởng Ngoại giao Anh về vấn đề Việt Nam. Đại sứ Trung Quốc lưu ý ông Bộ trưởng rằng Trung Quốc sẽ ủng hộ một hành động can thiệp của Anh và ông Bộ trưởng Anh đáp lại rằng: một cuộc can thiệp như vậy sẽ mang lại những hậu quả vừa tốt lại vừa không tốt, nhưng nếu có những đề nghị cụ thể thì ông ta sẽ không bỏ qua. Ngay từ mùa hè 1883, khi quan hệ Trung - Pháp đang căng thẳng và trước triển vọng Anh quốc một ngày kia rồi cũng sẽ bị lôi cuốn vào cuộc xung đột này, Bộ trưởng Ngoại giao Anh đã tìm kiếm một căn cứ đàm phán khả dĩ chấp nhận được cho cả hai bên đương sự. Về phía mình, Paris cũng báo cho Luân Đôn biết về cuộc bất đồng giữa Pháp và Trung Quốc. Khi đề cập tới vấn đề Bắc kỳ, Challemel-Lacour ngày 5/9/1883, gửi một công hàm cho Waddington, lúc này đang sửa soạn đi nhận nhiệm sở mới: “Tốt hơn hết là tìm cách chấm dứt một tình thế bất thường ngày càng trở nên trầm trọng và có thể dẫn tới những sự kiện phức tạp và nguy hiểm. Vì Anh có những quan hệ buôn bán rộng rãi nên họ cần ngăn chặn trước khi những điều bất trắc có thể xảy ra và mang đến cho họ những điều hại”(13). Ông Bộ trưởng Ngoại giao Pháp chuẩn bị thảo ra những đề nghị làm cơ sở cho một cuộc dàn xếp. Ông yêu cầu nội các Luân Đôn ủng hộ ông bên cạnh chánh phủ Trung Quốc và giúp Paris chiến thắng được “những sự trì trệ có thể làm hỏng công chuyện, bảo vệ được những quyền lợi chung của các nước văn minh và của chánh phủ Trung Quốc”, kết thúc bức công hàm gởi đại sứ Pháp. Waddington rời Paris đi Luân Đôn ngày 8/9/1883; ông ta tới ngay Walmer Castle gặp Lord Granville, hội kiến luôn ngay tối hôm đó và sáng hôm sau. Đề cập tới vấn đề Bắc kỳ, đại sứ Pháp yêu cầu ông Bộ trưởng Ngoại giao Anh giúp đỡ Pháp giải hòa chuyện xích mích với Trung Quốc. Chấp thuận nguyên tắc về một sự trung gian của nước Anh, Lord Granville thừa nhận rằng những quyền lợi buôn bán của Anh tại Trung Quốc là quan trọng hàng đầu; những quyền lợi đó sẽ bị thiệt hại nặng nề nếu một khi cuộc chiến tranh Trung và Pháp xảy ra. Vấn đề an ninh của người châu Âu cũng vậy. Bộ trưởng Ngoại giao Anh lưu ý rằng mọi hoạt động kết hợp giữa Anh và Pháp trong sự bất hòa Pháp - Trung này sẽ là một bước đầu để đi đến hiểu nhau về nhiều điểm hơn và có khả năng tái tạo một sự thỏa thuận thân tình hơn. Rồi Waddington phát biểu cho Granville nghe những điều kiện để dàn xếp vấn đề Bắc kỳ và giải những điểm cần thiết về điều khoản liên quan đến “khu trung lập” mà chính Pháp coi như ý kiến tối hậu của mình. Còn về vấn đề bá quyền của Trung Quốc đối với Việt Nam, ông đại sứ tuyên bố rằng nước Pháp không thể chấp nhận một thay đổi nào trong các hiệp ước mà Pháp đã ký kết với Việt Nam, rằng Pháp sẽ không đồng ý một quy định thành văn nào về vấn đề này, nhưng trong thực tế thì Pháp sẽ chấp nhận cho “tình trạng sẵn có” vẫn được duy trì một cách lặng lẽ, chẳng hạn vua Tự Đức cứ gửi cống vật truyền thống sang cho Bắc Kinh, Pháp sẽ làm ngơ đi như lâu nay, miễn Trung Quốc đừng can thiệp vào công việc cai trị Việt Nam. Kết luận bản thuyết trình của mình, ông đại sứ Pháp yêu cầu ông Bộ trưởng Anh ủng hộ một cách “mạnh mẽ và cương quyết” những đề nghị của chánh phủ Pháp trước ông đại sứ và trước chánh phủ Bắc Kinh. Ông ta còn nói thêm rằng dù trong bất cứ trường hợp nào, Pháp cũng sẽ không ngừng gửi viện quân sang Bắc kỳ. Vừa tán thành những đề nghị của Pháp, Lord Granville vừa tuyên bố rằng mọi thái độ do dự trong vấn đề này chỉ có tác dụng khuyến khích phía Trung Quốc tăng cường phản kháng. Tuy nhiên, ông ta không thể, ngay từ bây giờ, hứa hẹn sẽ dùng sức ép đối với Tăng Kỉ Trạch và nội các Bắc Kinh, để buộc họ chấp nhận một cách đơn giản những đề nghị của nước Pháp được. Trước tiên, ông cần phải xem xét kỹ tầm quan trọng của việc can thiệp này; vả chăng ông ta không thể quyết định một vấn đề quan trọng như vậy mà không hỏi ý kiến của các bạn đồng sự của ông hiện đang đi tản mác nhiều nơi trên đất Anh và Scotland. Ông ta bèn đề nghị với Waddington sẽ tiến hành theo cách khác. Ông cho rằng Waddington nên thăm dò ý kiến bạn mình là ông đại sứ Trung Quốc, ông này sẽ tới Luân Đôn ngay ngày hôm sau. Ngay hôm sau, Waddington và Lord Granville lại hội kiến với nhau. Đại sứ Pháp chấp nhận cách tiến hành mà ông Bộ trưởng Anh đề nghị, với điều kiện là có sự đồng ý của Bộ trưởng Ngoại giao mình. Ngày 10/9/1883, Waddington trở về Luân Đôn. Challemel-Lacour trả lời “đồng ý”. Đại sứ Pháp báo ngay cho Bộ trưởng Ngoại giao Anh biết sự đồng ý của Bộ trưởng Ngoại giao Pháp. Đồng thời, ông nhấn mạnh sự cần thiết phải có được thư trả lời của chánh phủ Trung Quốc trong thời gian sớm nhất. Ngày 11/9, Macartney, thư ký phiên dịch của Tăng Kỉ Trạch, đi Walmer Castle, thay mặt cho ông đại sứ Trung Quốc mà Lord Granville đã mời tới hội kiến, nhưng đã xin cáo vắng mặt vì lý do sức khỏe. Macartney trình bày về phía quan điểm của Trung Quốc, cả nội dung và diễn biến của cuộc điều đình và giải thích lý do vì sao ông đại sứ Trung Quốc đã đi đến chỗ phải diễn đạt sáu điều đề nghị chứa đựng trong công hàm ngày 18/8 của ông ta gửi Bộ trưởng Ngoại giao Pháp. Nhà ngoại giao Trung Quốc vẫn chờ đợi người ta trả lời những đề nghị của mình, ông ta sẽ không có một đề nghị gì mới và chỉ nói thêm rằng: “Paris vừa cho ông biết là chánh phủ Pháp dự định sẽ dừng lại Thỏa ước Bourée, nhưng Trung Quốc thì chưa bao giờ chấp nhận cái thỏa ước, trong đó nước Pháp được tất cả, còn Trung Quốc tuyệt nhiên chẳng được gì”. Do Macartney, Lord Granville biết rằng Tăng Kỉ Trạch thật sự có nhiều quyền hành, “một việc rất là hiếm có, phía ngoại giao Trung Quốc”. Về ý Lord Granville nếu Trung Quốc tiến hành cuộc chiến tranh thì Trung Quốc sẽ thất bại, Macartney cho rằng Tăng Kỉ Trạch bị tràn ngập bởi phái chủ chiến ở Bắc Kinh, phái mà Thái hậu Từ Hy đã buộc phải chịu đựng mọi yêu sách. Không bàn vào chi tiết, Lord Granville nói rằng ông chỉ giúp đỡ được trong trường hợp ông có những đề nghị khả dĩ chấp nhận được để chuyển giao cho chánh phủ Pháp. Paris cho Lord Granville biết, qua Waddington, rằng việc thảo luận những đề nghị của Trung Quốc đúng như nó được trình bày, sẽ bao hàm sự khước từ những quyền không thể ai chối cãi đã được đặt vào bàn tay nước Pháp, qua các hiệp ước đã được ký kết với Việt Nam; và về điểm này, thì không thể nào có sự nhân nhượng được. Việc rút quân đội Pháp ra khỏi Bắc kỳ, mà Trung Quốc đòi hỏi, là điều không thể chấp nhận; nếu yêu cầu đó mà đến tai người Pháp bên này, nó sẽ gây một luồng phẫn nộ lan truyền khắp mọi người và có thể làm đảo ngược dư luận hiện nay đang rất thuận lợi cho những cuộc thương lượng hòa bình. Ngày 13/9/1883, Challemel-Lacour điện cho Waddington rằng ông ta có thể thông báo cho Lord Granville biết phúc thư ngày 27/8 của Bộ Ngoại giao Pháp trả lời những đề nghị của Trung Quốc và cả chính những đề nghị đó. Điều quan trọng là chánh phủ Anh nên quyết định khẩn trương sẽ ủng hộ những đề nghị của Pháp bởi vì việc này liên quan trực tiếp đến “lợi ích chung” của tất cả các cường quốc châu Âu. Ngoài ra, Challemel-Lacour còn yêu cầu đại sứ của mình thông báo cho ông Bộ trưởng Anh biết rằng nước Pháp chẳng “nợ nần” gì Trung Quốc cả, ngoại trừ những điều cam kết bảo đảm cho các tỉnh phía Nam của họ chống lại những mối nguy hiểm mà họ gắn vào với sự có mặt của ông bạn Pháp láng giềng của họ mà thôi. Nếu Pháp đòi hỏi sự giúp đỡ của Anh chính là để Anh thực hiện một sức ép đối với Trung Quốc. Trước mắt chánh phủ Pháp, sự can thiệp của Sir Harry Perkes, đại sứ đặc mệnh toàn quyền Anh tại Bắc Kinh, sẽ có tác dụng tăng cường và củng cố lại uy tín của Tăng Kỉ Trạch đã bị phe chủ chiến làm cho sứt mẻ nặng nề. Tuy rằng trên thực tế, Tăng Kỉ Trạch vẫn nắm toàn quyền, người ta nói vậy, phía người Pháp – _“Ông ta chỉ càng dè dặt hơn, càng muốn tránh xa hơn không chịu nhận lấy một trách nhiệm thực sự nghiêm túc về mình, lòng hoang mang khi nghĩ tới ông bạn xấu số ở Nga của mình”.(14) Ông Bộ trưởng Ngoại giao Pháp có ý định sẽ đích thân trình bày với Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc những điều kiện giải quyết vấn đề Bắc kỳ, nhưng vì lịch sự đối với ông bạn Anh nên ông đã hoãn lại ngày gặp gỡ. Ông muốn tránh không để xảy ra một cuộc bàn cãi giữa Tăng Kỉ Trạch với Waddington trước mặt Lord Granville “bởi vì một tình thế như vậy sẽ gây nhiều lúng túng cho mọi người”; cuối cùng vì những điều gì người ta nói với Tăng Kỉ Trạch là người ta nói với tất cả báo chí. Ông Bộ trưởng Ngoại giao chỉ đòi hỏi sự ủng hộ của nước Anh, đối với những điều kiện dàn xếp, chứ không muốn chuyển những điều kiện đó cho ông ta để mang ra thảo luận trước. Đương sự quan tâm nhất đến những cuộc thảo luận sôi nổi này, cuối cùng chẳng còn nghi ngờ gì nữa, chính là Việt Nam. Nếu như những sự kiện chính trị, quân sự, đang diễn ra tại đất nước này làm cho các nội các phương Tây cũng như Nội các ông bạn láng giềng Trung Quốc hết sức bận tâm, thì những quyết định hoặc những đề nghị liên quan tới Việt Nam với tư cách là một quốc gia lại tiếp tục được thảo luận và được “quyết” ngoài chính bản thân nó và giấu nó. Jules Ferry buổi đầu chưa vững vàng trên địa bàn Quốc hội và sau đó chấp nhận trở lại với “chính sách nước đệm” đề nghị với Trung Quốc lập ra một “khu vực trung lập”. Ông ta làm việc đó mà không thèm hỏi ý kiến Việt Nam. Ngày 15/12/1883, ông viết thư cho Tăng Kỉ Trạch. “... 1. Chánh phủ Pháp cam kết sẽ không đóng một điểm nào và không tiến hành một hoạt động nào trong vùng đất giới hạn, phía Bắc bởi đường biên giới Trung Quốc và phía Nam bởi một đường ……… đi từ một điểm ở bờ biển giữa vĩ tuyến 21 và 22 đến con sông Hồng, phía thượng nguồn của Lào Kay. Về phần mình, chánh phủ Trung Quốc cũng sẽ cam kết không chiếm đóng một điểm nào và không tiến hành một hoạt động nào trong cùng vùng đất ấy. Tại vùng đất này, việc cai trị của người An Nam vẫn được duy trì. Ở đây không được xây dựng công sự. Nếu có những toán quân vũ trang đến cư ngụ tại đó hoặc nếu xảy ra những vụ lộn xộn làm ảnh hưởng đến nền trật tự an ninh của những vùng xung quanh thì Trung Quốc và Pháp có thể cùng nhau, hoặc riêng lẻ đưa lực lượng quân sự vào sau khi đã thỏa thuận nhất trí với nhau về mục tiêu cũng như về quy mô của cuộc hành quân. Những lực lượng ấy sẽ phải rút ngay ra ngay sau khi mục đích đã đạt. 2. Thành phố Man Hao (Mạn Hảo!?), trên sông Hồng thuộc tỉnh Vân Nam, sẽ được mở cửa cho sự buôn bán của nước ngoài trong những điều kiện tương đương với các thành phố và cảng khác của đế quốc Trung Quốc mà sự buôn bán của nước ngoài đã được phép…”(15) Như vậy là “khu đệm” sẽ lọt khỏi tay của nền bảo hộ, một sự nhân nhượng lớn nhằm tránh mọi va chạm với Trung Quốc. Như vậy là “khu đệm” mà Tăng Kỉ Trạch đã đề nghị với Jules Ferry ngày 21/6/1883, theo ý đồ của nhà Ngoại giao Trung Quốc là nhằm ngăn cản Pháp chiếm đóng miền Bắc Việt Nam chứ đâu phải để thiết lập một khu trung lập hạn chế, như Pháp đã đề nghị? Hai tháng trước ngày Sơn Tây bị chiếm, tức ngày 1/10/1882, Harmand đã có đề nghị Paris mở cuộc đàm phán với Trung Quốc trên cơ sở một sự phân định mới về biên giới Bắc kỳ vẫn vì mục đích tránh một cuộc xung đột vũ trang bằng sự thiết lập một “khu trung lập” ngày càng được củng cố. Ngày 18/9/1883, Tăng Kỉ Trạch từ Luân Đôn trở về, đã có hội kiến với Jules Ferry, lúc này đang kiêm chức Bộ trưởng Ngoại giao. Vị thủ tướng nội các Pháp lo lắng chờ đợi những tin tức liên quan đến việc giúp đỡ của Anh. Tuy nhận được những tin “chói lọi” về Bắc kỳ, Jules Ferry, vẫn mong muốn đi đến được một hiệp ước với Trung Quốc để có một kết thúc. Tăng Kỉ Trạch, hôm trước đó, đã nhận được bức giác thư của Pháp về vấn đề thiết lập một khu trung lập mà ông ta không kịp nghiên cứu cho đầy đủ. Tuy nhiên, ông tự hỏi: hai điểm được xác định trong giác thư ấy việc thiết lập một khu trung lập và việc mở cửa một thành phố Trung Quốc cho sự buôn bán của nước ngoài có đủ để làm cơ sở cho một cuộc dàn xếp hay không? Vừa thừa nhận rằng sẽ khó lòng mà tranh thủ được sự đồng ý của phe chủ chiến ở Bắc Kinh, ông tuyên bố rằng bản thân ông và các thành viên chánh phủ ông không chấp thuận. Còn việc giải quyết vấn đề Bắc kỳ, Tăng Kỉ Trạch khẳng định rằng ông ta có toàn quyền ký kết. Jules Ferry yêu cầu Tăng Kỉ Trạch, nhằm mục đích giải quyết vấn đề Bắc kỳ, gửi cho ông một bức thư nêu rõ kết quả việc ông xem xét bức giác thư của chánh phủ Pháp như thế nào bằng cách chỉ rõ những điểm nào chấp nhận được và những điểm nào cần phải sửa đổi, bổ sung. Bởi vì bức giác thư chỉ đặt ra nguyên lý về một khu trung lập, còn về chiều dài, chiều rộng và giới hạn của nó thì còn phải thảo luận sau. Nhà ngoại giao Trung Quốc trả lời là ông ta sẽ điện hỏi Bắc Kinh và nhận mệnh lệnh của chánh phủ. Tuy rằng ông được toàn quyền, ông ta nói nhưng vấn đề “khu trung lập” là vấn đề quan trọng không cho phép ông giải quyết một mình được. Ông ta tưởng rằng chánh phủ Trung Quốc thích “một đường biên giới chắc chắn với một khu vực bảo hộ” hơn là một khu trung lập. Về điểm này, ngày 23/9/1883, đại sứ Pháp tại Luân Đôn viết thư về cho Quai d’Orsay, những cuộc thương thuyết tiến hành, về vấn đề nói đó tại Luân Đôn dường như đã đạt được những cơ sở nghiêm túc. Vì thiếu những chỉ dẫn tỉ mỉ về bản đồ Bắc kỳ về tài nguyên từng vùng, về những vùng giàu có nên chiếm giữ nên Waddington muốn áp dụng một công thức co giãn tương tự các công thức đã được dùng trong những dự án trước đây của Pháp: “… từ một điểm sẽ định sau nằm giữa vĩ tuyến 21 và 22 đến Lào Kay hoặc một điểm khác nào đó…” Đối với ông ta, “mặc dù việc nhượng cho Trung Quốc một phần đất Bắc kỳ đã là một sự thối lui so với những đề nghị trước đây, ông vẫn không ngần ngại mà chấp nhận, về điểm này, bất cứ một sự dàn xếp nào miễn là hợp lý”, nhất là “nếu người ta thu nhận được những mối lợi tương xứng trên lãnh thổ nước An Nam thực sự”(16). Tại Trung Quốc, một luồng dư luận mới thổi bùng lên những yêu sách mới của Trung Quốc. Họ không còn bằng lòng với việc nhường cho Trung Quốc một phần lãnh thổ Việt Nam. Không trả lời bức giác thư của Pháp, Tổng lý Nha môn chỉ thị cho đại sứ mình tại Paris rằng đường giới hạn vùng Pháp chiếm đóng phải được vạch ra trong địa phận tỉnh Quảng Bình, nghĩa là rất xa phía Nam sông Hồng. Được biết về yêu sách này, ngày 20/12, trong một cuộc hội kiến với Tăng Kỉ Trạch, Jules Ferry tỏ ra rất tiếc vì công cuộc điều đình tiến triển chậm chạp hơn trong thời gian tháng Sáu vừa qua. Vậy nên chánh phủ Pháp không thể nào tán thành đề nghị của phía Trung Quốc được. Ngày 15/10, Tăng Kỉ Trạch thông báo cho Quai d’Orsay về phúc thư của chánh phủ mình. Những đề nghị của Pháp được coi như là không thích hợp với quyền lợi của chế độ bá quyền Trung Quốc đối với Việt Nam. Bắc Kinh yêu cầu hoặc trở lại trạng thái xã hội trước 1873 vì Việt Nam đã được công nhận là độc lập với mọi cường quốc, trừ với Trung Quốc; hoặc chấp nhận một cách thu xếp, theo đó, Trung Quốc được độc quyền hoạt động trên sông Hồng với một khu trung lập nằm giữa Quảng Bình và vĩ tuyến thứ 20. Jules Ferry tuyên bố với Tăng Kỉ Trạch rằng những đề nghị nhưvậy không thể nào chấp nhận được: đề nghị của Trung Quốc có nghĩa là Pháp từ bỏ các hiệp ước đã ký với Việt Nam và rút hết quân mình ra khỏi đất Bắc kỳ. Tại Bắc Kinh, phe chủ trương chính sách bạo lực đã chiếm được ưu thế. Cho rằng từ bỏ Bắc kỳ là một thối lùi của nước Pháp và Pháp sẽ không chấp nhận bao giờ, Lord Granville kêu lên: “Nhưng mà… chiếm được Bắc kỳ là đã có đường đi sâu vào nội địa Trung Quốc…” Chánh phủ Trung Quốc có những cố gắng đáng kể để củng cố quốc phòng. Họ mua của Đức và Mỹ những vũ khí hiện đại, mua của Anh những chiếc pháo thuyền. Về phần mình, cuối tháng 9/1883, chánh phủ Pháp cũng gửi viện quan sang Bắc kỳ và cử Đô đốc Courbet làm tư lệnh trưởng đạo quân viễn chinh. Tình hình căng thẳng giữa Paris và Bắc Kinh cũng làm cho Luân Đôn lo lắng. Để tìm kiếm một giải pháp hòa bình, Anh gợi ý cho cả Pháp và Trung Quốc nên đưa vấn đề Bắc kỳ ra nhờ một cường quốc phương Tây trung lập nào đó phân xử hoặc nhờ Hoa Kỳ. Anh quốc khuyến cáo nên giải quyết vấn đề sao cho thỏa mãn được quyền lợi và uy tín của hai nước và tránh được những chuyện phức tạp tai hại mà một cuộc xung đột có thể xảy ra. Chính là theo ý nghĩa đó mà trong một bức thư của Lord Granville gửi cho Waddington, ngày 18/11/1883, Anh đã thăm dò ý định của Pháp nhưng không có kết quả vì Paris duy trì cái ý định chỉ giải quyết vấn đề Việt Nam với một mình Bắc Kinh. Tất nhiên họ không đếm xỉa gì đến cả chánh phủ Huế nữa. Trước khả năng một cuộc chiến Pháp - Trung, nội các Anh nghĩ đến những biện pháp bảo vệ kiều dân Anh và hỏi ý kiến Hoa Kỳ, Đức, Nga và các cường quốc khác nữa về vấn đề bảo vệ những người trung lập, bằng cách sử dụng phương tiện duy nhất: hải quân. Tăng Kỉ Trạch đã phân tích sai những việc thăm dò ý kiến của Anh quốc khi ông kể lại với Tổng lý Nha Môn rằng các nước Anh, Đức, Nga và Hoa Kỳ đã bí mật thỏa thuận với nhau để ngăn cản Pháp tấn công và chiếm các cảng Trung Quốc. Cũng chính vì lý do trên mà tháng 12/1883, Tăng Kỉ Trạch phái Macartney qua Luân Đôn thông báo với Bộ Ngoại giao Anh: rằng Trung Quốc sẵn sàng từ bỏ phần lãnh thổ Bắc kỳ nằm phía Nam Sơn Tây và vùng châu thổ sẽ được mở cửa cho tất cả các nước. Ông ta cũng muốn biết thêm Anh, Đức, Nga, Hoa Kỳ và Ý có thể áp đặt những điều cơ sở như vậy hay không. Bộ Ngoại giao Anh có ý kiến rằng nếu hai bên xích mích không yêu cầu Anh thì một cuộc can thiệp như vậy sẽ là vô ích. Ngày 7/12/1883, Waddington nhận được một bức thư “MẬT” của Lord Grandville. Trong bức thư này, người đứng đầu Bộ Ngoại giao Anh thông báo cho đại sứ Pháp biết những thông tin mới của đại sứ Trung Quốc vừa truyền đạt lại cho ông liên quan đến những nhượng bộ mới mà chánh phủ Trung Quốc sẵn sàng thực hiện nhằm đi đến một giải pháp hợp lý cho vấn đề Bắc kỳ. Ông ta nhận thấy rằng “có một sự tiến bộ lớn đến mức độ ông ta nảy sinh hy vọng ở sự thành công của những đề nghị mới này”. Trong cuộc hội kiến ngày 10/12, Lord Grandville nói riêng với Waddington biết những đề nghị mới của chánh phủ Trung Quốc. Trung Quốc sẽ từ bỏ mọi “quyền” trên Việt Nam và trên Bắc kỳ, từ bờ Nam sông Hồng cho đến một điểm nào đó phía hạ lưu Sơn Tây. Trung Quốc chiếm hữu phần đất phía Bắc sông Hồng, mở cửa sông Hồng cho tàu bè mọi nước được qua lại. Nước Pháp từ bỏ vùng châu thổ Bắc kỳ, mở cửa vùng châu thổ cho mọi nước được vào buôn bán trong những điều kiện trung lập sẽ được quy định rõ sau. Đại sứ Pháp trả lời ông Bộ trưởng Ngoại giao Anh rằng những điều kiện đó không thể nào chấp nhận được và không phải là một sự nhượng bộ của Trung Quốc đối với Pháp. Khi Waddington nhắc lại cho Grandville rằng từ bỏ Bắc kỳ là một bước thối lùi của nước Pháp và Pháp sẽ không chấp nhận bao giờ; Lord Grandville kêu lên: “Nhưng mà… chiếm được Bắc kỳ là đã có đường đi sâu vào nội địa Trung Quốc rồi!” Không lưu ý đến câu than ấy, ông đại sứ Pháp chỉ trả lời rằng việc Pháp chiếm đóng Bắc kỳ đã bao gồm ý nghĩa là mở cửa sông Hồng cho việc buôn bán của tất cả các nước và bảo đảm an ninh tuyệt đối cho việc buôn bán đó rồi. Báo cáo sự kiện này với Quai d’Orsay, Waddington còn nói thêm: “… Đây là lần đầu tiên mà Lord Grandville vô tình bộc lộ một cách rõ ràng như thế cái tư tưởng ghê tởm của những nhà hoạt động nhà nước Anh khi thấy chúng ta thiết lập được một vị trí vững vàng trước một cửa ngõ của Trung Quốc”. Ngày 11/12/1883, Jules Ferry điện cho Courcel, đại sứ Pháp tại Berlin, tìm hiểu quan điểm của thủ tướng Bismarck đối với vấn đề Bắc kỳ. Trong cuộc hội đàm với Courcel, Bismarck đọc cho ông ta nghe một bức điện của Hoàng thân Hohenlohe, đại sứ Đức tại Paris; Hohenlohe đã thấy rằng Tăng Kỉ Trạch tỏ ra rất hoang mang trước cái đa số đáng sợ mà Hạ viện đã dành cho việc biểu quyết cấp kinh phí cho chiến dịch Bắc kỳ(17). Nói chuyện với đại sứ Đức, ông đại sứ Trung Quốc tỏ ra hy vọng rằng… Một thắng lợi của quân đội Pháp tại Sơn Tây có thể khiến chánh phủ Pháp sẵn sàng điều đình và ký hiệp ước. Đại sứ Trung Quốc đồng thời cũng thăm dò ý kiến ông về một sự trung gian của Đức, bởi vì ông ta nói, những quyền lợi của Đức có thể sẽ bị động chạm vì cuộc chiến tranh Trung - Pháp, cuộc chiến tranh có thể gây ra nhiều hậu quả phức tạp tai hại cho tất cả mọi người. Hoàng thân Hohenlohe đã khéo léo lẩn tránh câu trả lời, chỉ nói một câu: Không thừa nhận rằng quyền lợi của nước Đức có thể vì đó mà bị ảnh hưởng. Ông thủ tướng Đức để cho Courcel hiểu rằng, ông sẵn sàng ủng hộ chánh phủ Pháp trong vấn đề Bắc kỳ nhưng ông sợ rằng một sự ủng hộ công khai có thể bị người ta hiểu theo một ý nghĩa sai lầm và có hại cho nước Pháp hơn là có lợi cho nội các của Jules Ferry. Sau khi Courcel đề cập một cách rất dè dặt đến vấn đề một sự trung gian, Bismarck để lộ cho Courcel thấy rằng ông rất hiểu nước Pháp sẽ được thỏa mãn về lòng tự ái của mình khi chánh phủ Pháp tự mình giải quyết lấy được công việc của mình hơn là khi phải nhờ đến sự can thiệp của một cường quốc bên ngoài như Anh, hoặc Đức. Nói về việc Hạ viện biểu quyết ngân sách cho vấn đề Bắc kỳ, ông thủ tướng Đức lấy làm hài lòng về cái “đa số” áp đảo mà Jules Ferry đã giành được. Đại sứ Pháp bèn lưu ý Bismarck rằng vấn đề Bắc kỳ từ lâu nay đã từng là một đối tượng làm nảy sinh những cái cực đoan cũng như những hiểu lầm. Sao ta lại phóng đại lên quá mức những dự án của chánh phủ Pháp. Mà thực ra – ông đại sứ nói tiếp nước Pháp đâu có muốn bắn đại bác, để mở cửa biên giới Trung Quốc, hay xông lên chinh phục các tỉnh của Thiên triều. Pháp không nghĩ đến cả chuyện chinh phục Bắc kỳ mà chỉ muốn bảo vệ chỗ đứng của mình đã chiếm đóng được và những lợi ích đã xây đắp lên tại Việt Nam. Trong cuộc hội kiến với Courcel, Bismarck có một vài lời nhận xét liên quan đến cái cách thức đã tiến hành công việc ở Việt Nam. Theo vị thủ tướng Đức thì người ta (Pháp) đã sai lầm khi gửi sang miền Bắc Việt Nam, ngay từ đầu, những đội quân quá ít ỏi và đã thực hiện những cuộc viễn chinh “nhỏ bé” dĩ nhiên là bất lực. Bằng cách đó, người ta đã vừa làm nảy sinh sự nghi ngờ của Trung Quốc vừa tăng thêm lòng tin của họ vào những điều mà lòng họ mưu toan. Cũng là một điều không hay – ông nói tiếp – khi người ta muốn bắt tay vào quá nhiều công việc cùng một lúc và toan hòng cùng một lúc giải quyết đẹp đẽ những vấn đề Tunisie, Madagascar và Việt Nam. Ông đại sứ giải thích cho Bismarck rằng: Sự trùng hợp của những khó khăn do ba vấn đề kia gây ra không nằm trong ý muốn chủ quan của chánh phủ nước Pháp cũng không phải là hậu quả của một hệ thống. Đúng hơn, nó là kết quả đáng tiếc của tình trạng bất ổn định về Nội các. Những nội các nào cảm thấy tương lai của mình không được bảo đảm đều sẵn sàng tìm cách lẩn tránh hơn là giải quyết những vấn đề và dồn mọi trách nhiệm lại cho người sau họ. Và như vậy, một ngày kia, người ta thấy mình bị dồn vào ngõ cụt và đứng trước một món “nợ truyền kiếp” những khó khăn không thanh toán kịp thời. Cái đa số mà chánh phủ ông vừa đạt được chứng tỏ sự tình đang có hướng thay đổi và trong Hạ viện có nhiều nhân vật phái bảo thủ biết điều đang sẵn sàng, từ đây, khước bỏ cái hệ thống chính trị tai hại, quen đặt việc điều hành tốt công việc quốc gia xuống cái thú vui lật đổ nội các. Sau đó, ông thủ tướng Đức còn lưu ý ông đại sứ rằng: cái hệ thống đúng nhất nên thực hiện theo ý ông là thẳng thắn xin Quốc hội cấp cho một số kinh phí không quá nhiều nhưng đủ để gửi sang tại chỗ số quân cần thiết mà tình hình thực tế đang yêu cầu, như vậy nó cho phép đáp ứng được mọi nhu cầu về quân số. Theo ý ông, muốn hành quân kết quả ở Bắc kỳ cần phải có 15.000 người. Sau những buổi hội đàm với Bismarck, Courcel có cảm giác rằng qua cuộc nói chuyện, ông thủ tướng Đức tỏ ra một tinh thần nhân hậu rộng rãi đối với chánh phủ Pháp và một nguyện vọng thiết tha muốn gạt bỏ hết những nguyên nhân bất bình đả kích lẫn nhau giữa nước Pháp và nước Đức nhân những điều rắc rối xảy ra xung quanh vấn đề Việt Nam. Ông nhận xét rằng: Không một lúc nào Bismarck tỏ ra có một thoáng ý nghĩ muốn dẫn nước Pháp vào một câu chuyện không hay và để cho Pháp bị giam chân tại một nơi nào đó xa xôi cách biệt với cái sân khấu lợi quyền của nước Đức tại châu Âu cả. Nhưng Bismarck cũng tránh không dùng một từ nào kém lịch sự đối với Trung Quốc. Ông rất quan tâm giữ những thái độ và cử chỉ đúng mức đối với Bắc Kinh và không để cho Bắc Kinh có cớ để phàn nàn ông về bất cứ một điều gì. Cách ứng xử ấy của ông thủ tướng Đức đặc biệt thích nghi với cái vấn đề mà Anh quốc đã đặt ra, là cần có một cuộc can thiệp chung đồng bộ nhằm bảo vệ cho những kiều dân châu Âu tại các cảng Trung Quốc đã được giải tỏa trong lúc này. Trong bữa tiệc ngày 19/12/1883, về phần mình, Hoàng đế Guillaume I thông qua ông đại sứ Pháp, lời ca ngợi thủ tướng Pháp về vấn đề Quốc hội đã biểu quyết kinh phí cho vấn đề Bắc kỳ. Bởi vì – nhà vua nói – một Quốc hội vừa biểu quyết một cách sôi nổi những khoản chi phí quân sự, trước mắt ông, là đã làm tròn cái bổn phận trước nhất của mình. Mặc dù trong vấn đề Việt Nam, thái độ Bismarck hết sức khôn ngoan và dè dặt, người ta vẫn không khỏi nghi ngờ ông ta có ấp ủ một ác ý đối với Pháp. Ngay từ trước năm 1883, người ta đã tố cáo ông tìm dịp cách ly nước Pháp ra khỏi châu Âu và hướng nó sang châu Phi và miền Đông châu Á. Phe đối lập trong Quốc hội Pháp luôn luôn coi thủ tướng Đức như là kẻ gợi ý cho chính sách thuộc địa của chánh phủ Pháp và coi Jules Ferry như kẻ bị lừa của Bismarck. Vậy là Đức có đóng một vai trò quan trọng trong vấn đề Việt Nam. Tâm lý người Pháp thời kỳ này đã bị tâm lý của ông bạn láng giềng phía Đông chi phối. Xung quanh Hiệp ước Francfort, người ta đã bị chia rẽ về mặt nhận thức (và tình cảm). Dư luận công chúng Pháp mang nhiều sắc thái phức tạp “giai cấp tư sản Pháp bị pha loãng vào những giai cấp mới” như Hanotaux nói. Một thứ tinh thần phiêu lưu làm cho tầng lớp trí thức ưu tú Pháp hăng say lên và văn học đã chịu ảnh hưởng tinh thần phiêu lưu này(18a)(18b). Các nhóm văn hóa cũng có những nhận thức không giống nhau về tương lai đất nước, một khuynh hướng mới hình thành: chủ nghĩa hướng ngoại. Người ta thấy Pierre Loti(19) tham gia trận bắn phá Thuận An và Henri Rivière ở Hà Nội để chuẩn bị “bước vào viện Hàn lâm Văn học Pháp”. Đất nước Việt Nam gây hứng thú cho khách kinh doanh cũng như cho khách văn chương. Trung Quốc muốn rằng khu trung lập kéo dài xuống tận Quảng Bình chứ không phải dừng lại ở Cao Bằng và Lạng Sơn như nước Pháp muốn. Nội các Bắc Kinh nhận thấy trong sự nhượng bộ của Pháp lời hứa hẹn một sự đầu hàng trọn vẹn hơn. Họ đang tính toán đầu cơ sụp đổ của Jules Ferry. Các cuộc điều đình Pháp - Trung đi vào ngõ cụt. Quân đội Trung quốc cứ tiếp tục xâm nhập Bắc kỳ ngày một đông hơn trước nữa. Quân đội chính quy của Trung Quốc và quân đội của Pháp chẳng bao lâu sẽ chạm nhau trên lãnh thổ Việt Nam mà không hề có tuyên chiến giữa Paris với Bắc Kinh. TS Nguyễn Xuân Thọ Nguồn: (Alpha Books - Ebook) Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam 1858-1897 Trang Lịch Sử |