Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam

Hiệp Ước Harmand 1883

TS Nguyễn Xuân Thọ

https://sachhiem.net/NGXUANTHO/BuocMoDau_15.php

| ¿ trở ra mục lục| 13-Feb-2023

Chương 14 - Hiệp Ước Harmand 1883

Dư luận công chúng Pháp đã thay đổi. Nếu cái chết của Garnier không được dư luận đếm xỉa gì đến thì cái chết của Rivière lại là một làn roi quất vào mình.

Nhưng không nên quy cái quyết định của chánh phủ Pháp can thiệp một cách quả quyết vào Việt Nam như người ta thường nghĩ vào duy nhất tin Rivière bị chết. Lâu nay người ta sẵn sàng chấp nhận dư luận cho rằng trách nhiệm gây ra những cuộc chiến tranh ở phương Đông là những “sáng kiến địa phương” khiến cho chánh phủ không còn có thể nào “lùi chân trở lại được nữa”. Dư luận ấy không còn phù hợp với thực tế ngày nay nữa. Trách chiến tranh vượt quá Rivière nhiều. Nó “lên” đến tận Jules Ferry.

Nội các thứ nhất của ông ta phải bận bịu với vấn đề Tunisie và chính sách giáo dục. Nội các thứ hai bắt đầu từ tháng 2/1883, bị bế tắc ở châu Âu và sự thiết lập “Đồng minh bộ ba” (Triplice, gồm ba nước Đức, Áo và Ý do Bismack đề xuất năm 1882), ông ta bèn sung vào công cuộc bành trướng thuộc địa. Phe chống đối của “những người yêu nước trên đất liền” chỉ nhìn đến việc quốc kháng trên lục địa và việc trả thù không đụng chạm đến suy nghĩ của họ chút nào. Jules Ferry thấy cần thiết phải thực hiện một chính sách bành trướng hải ngoại vì những lý do chính trị, kinh tế và nhân đạo. Vậy là, cùng lúc với Tunisie, ông ta sẽ hành động ở Bắc kỳ nhằm đưa công cuộc chiếm đóng Bắc kỳ đến bước cuối cùng hoàn chỉnh và sẽ cố gắng xâm nhập Madagascar và Congo.

Bốn ngày trước khi Rivière tử trận, tức ngày 15/5/1883, trong một phiên họp thường lệ, Hạ viện biểu quyết, theo yêu cầu của Jules Ferry, bằng 351 phiếu thuận và 46 phiếu chống, một đạo luật quyết định gởi sang Bắc kỳ một đội quân viễn chinh quan trọng với một kinh phí phụ là 5.300.000 francs. Ở điều khoản của của đạo luật đó, có nói: “Việc quản lý cao cấp sẽ giao cho một vị tổng ủy dân sự của nước Cộng hòa chịu trách nhiệm tổ chức chế độ bảo hộ”.

Chẳng hề tham khảo ý kiến của Việt Nam là nước liên quan, người trong cuộc, nước Pháp vừa quyết định bằng một hành động độc đoán và đơn phương, chuyển đổi một quốc gia độc lập thành một “nước được bảo hộ”. Qua cuộc biểu quyết này, Bắc kỳ, được đưa vào chương 9, tiết thứ 2, của ngân sách nước Pháp.

Tuy nhiên, khi đăng lên “Công báo” thì đạo luật này không có điều 2 liên quan đến chế độ bảo hộ, điều khoản này đã bị Thượng viện tách ra chỉ vì nó đặt những nhà chỉ huy quân sự dưới quyền một ủy viên dân sự. Dù sao thì đại đa số Thượng viện cũng đã khẳng định ý chí thay vào nền chủ quyền độc lập của Việt Nam viễn tưởng một cuộc “bảo hộ” mà đương sự chẳng hề yêu cầu chút nào.

Trong lúc chờ đợi viện trợ, nước Pháp cấm các tàu bè buôn bán vũ khí và dụng cụ chiến tranh ra vào bờ biển Việt Nam. Sở dĩ có lệnh cấm ấy là do trong cuộc tấn công Hà Nội, người Việt Nam được trang bị bằng những vũ khí hiện đại nhất. Phần lớn vũ khí này là từ Trung Quốc sang bằng đường bộ. Nhưng cũng có nhiều loại sang bằng đường biển từ Trung Quốc, từ Mỹ, từ châu Âu hoặc từ các thuộc địa các nước châu Âu.

Nước Pháp không thể phong tỏa các cửa biển Việt Nam được vì làm như vậy thường có nghĩa là có cuộc chiến tranh quốc tế giữa các quốc gia độc lập. Mà Pháp đâu phải ở trong tình trạng chiến tranh có tuyên bố và vì nó đấu tranh cho cái gọi là “quyền bảo hộ quy ước” cho nên nó sẽ có lợi hơn nếu nó không coi Việt Nam như một nước quốc gia độc lập. Vả lại, một cuộc phong tỏa sẽ là vô hiệu, khả năng đâu mà duy trì một lực lượng hải quân đủ để cấm mọi tàu bè ra vào trên toàn bộ bờ cõi Việt Nam? Ngoài ra, một sự tuyên bố phong tỏa có thể sẽ thúc đẩy một vài cường quốc tuyên bố trung lập và thừa nhận cho Việt Nam cái quyền của những quốc gia tham chiến.

Vậy thì tốt hơn cả là gắng đạt mục đích đó bằng những lời tuyên bố ít trịnh trọng đồng thời thực thi những quyền mà Pháp tự cho là mình có với tư cách là một nước bảo hộ theo Hiệp ước 1874. Thế là nó can thiệp vào để lập lại trật tự ở Bắc kỳ; nó thay thế các nhà chức trách địa phương để thực hiện những sự cấm đoán mà bất cứ một nước nào tự chủ cũng có quyền ra lệnh trên toàn lãnh thổ nhằm bảo vệ chủ quyền của mình. Nó cấm nhập khẩu vũ khí và quân nhu, ai trái lệnh thì bị tịch thu hoặc bị trừng phạt cách khác. Muốn vậy, chỉ cần phong tỏa một vài cửa biển và kiểm soát những phần bờ biển còn lại nhằm đảm bảo một chỉ dụ về cảnh sát nội địa. Làm như thế chẳng sợ ai chỉ trích cũng chẳng sợ nước ngoài can thiệp, bởi đây là củng cố cho một điều cấm đoán có ghi trong Hiệp ước 1874 cho việc buôn bán của nước ngoài. Nhưng cần phải thông báo quyết định này cho các chánh phủ nước ngoài để họ phổ biến cho các thương nhân và các chủ tàu buôn.

Ngày 10/8/1883, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp gửi chỉ thị theo chiều hướng đó cho các đại diện của Bộ Ngoại giao, bên cạnh các cường quốc hàng hải, yêu cầu họ thông báo cho các chánh phủ đó những quyết định trên đấy của Pháp.

Tại Quốc hội, phe tán thành chinh phục Việt Nam ngày càng thắng thế và đã chiếm được đa số. Nhưng để đạt tới mục đích đó, có nhiều ý kiến khác nhau: người thì khuyên nên chiếm đóng miền Bắc Việt Nam bằng cách thâm nhập nhẹ nhàng theo kiểu “vết dầu loang”. Kẻ khác đề nghị trắng trợn hãy dùng vũ lực; một số nữa đi xa hơn, đặt vấn đề đánh chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam từ biên giới Trung Quốc cho đến mũi Cà Mau và chuẩn bị cả một cuộc tấn công vào Huế. Rheinart, đại diện lâm thời tại Huế là một trong những người tán thành sốt sắng nhất cách hành động này. Thomson, tại Sài Gòn, cũng gửi điện về yêu cầu Bộ Hải quân cho phép can thiệp vũ trang vào Huế.

Giữa lúc đó, Kergaradec tới Sài Gòn. Được tin quân Pháp thất bại và Rivière tử trận trước thành Hà Nội, ông ta đánh điện tín ngày 25/5/1883, về cho Bộ trưởng Hải quân để trình bày với ông Bộ trưởng ý định của ông ta muốn ra Bắc kỳ gặp Đô đốc Mayer.

Ngày 27/5, ông Bộ trưởng trả lời ông thống đốc như sau:

“Ghi vào nhật lệnh: kinh phí đã được Hạ viện nhất trí biểu quyết. Nước Pháp sẽ rửa hận cho những đứa con quang vinh của mình. Giữ Kergaradec tại Sài Gòn(1)

Và cuối tháng 5/1883, ông Bộ trưởng (Hải quân) điện cho tướng Bouet, chỉ huy quân đội tại Nam kỳ ra Bắc kỳ để nắm quyền tối cao chỉ huy quân đội tại đó và mang theo 500 quân lấy từ các trại lính Nam kỳ. Ông bảo Bouet ra lệnh cho thiếu tá hải quân Morel-Beaulieu, bất cứ bằng giá nào cũng phải giữ Hà Nội dù có bỏ Nam Định nếu cần. Ông xúc tiến cho đội quân tăng viện lên đường sớm; 700 lính thủy đánh bộ cùng với ba pháo đội hải quân, sẽ xuống tàu Toulon, thêm vào đó còn có hai đại đội lính thủy đánh bộ của Nouvelle-Calédonie. Cuối cùng, ông cử chuẩn Đô đốc hải quân Courbet làm tư lệnh một sư đoàn hải quân.

Trên tướng Bouet và Đô đốc Courbet là một ủy viên dân sự, có lẽ là để nhắc lại vai trò các “Ủy viên trong quân đội”, thời kỳ Quốc ước (Hội nghị Quốc ước - tức Quốc hội lập Hiến pháp từ 21/9/1792 - 26/10/1795). Vị ủy viên dân sự này ngay khi có điều kiện thuận lợi phải mở cuộc đàm phán với triều đình Huế và nắm lấy việc cai trị nước được bảo hộ. Trong lúc chờ đợi, ông ta sẽ “đại diện cho tư tưởng của chánh phủ bên cạnh các quân nhân” và “chịu trách nhiệm ngăn cản không cho các hoạt động quân sự đi chệch đường và vượt ra ngoài phạm vi đã vạch rõ trong các chỉ thị…”(2)

Paris từ bỏ cái sứ mệnh đã giao cho Kergaradec và trao cho Harmand, tổng ủy dân sự của nước Cộng hòa, những quyền hạn rất rộng, nắm lấy quyền lãnh đạo về đường lối chính trị của Pháp tại Việt Nam thay vào chức vụ của thống đốc Nam kỳ, từ đây chỉ còn tóm gọn lại trong việc cai trị xứ Nam kỳ và quan hệ với Campuchia.

Nguyên là bác sĩ trợ lý của hải quân Nam kỳ (1873-1876), Jules Harmand đã từng đi với Francis Garnier ra Bắc kỳ năm 1873; từ tháng 10/1881, ông ta làm lãnh sự Pháp tại Bangkok (Thái Lan).

Đổ bộ lên Bắc kỳ ngày 07/6/1883, tướng Bouet trước tiên lo hoàn chỉnh bố phòng Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng. Ông ta thiết lập một quân đội 600 người, tức “quân Cờ vàng”, do một viên sĩ quan cũ của Jean Dupuis, viên thuyền trưởng người Hy Lạp, Vlavianos (người Việt Nam gọi ông ta là “ông Kiều”). Đội quân này gồm toàn bọn du thủ du thực, không tuyên thệ cam kết điều gì và được trả lương hàng tháng, do ngân quỹ (từ 10 đồng bạc cho mỗi người lính, 50 đồng cho mỗi đại úy. Vlavianos lãnh 250 đồng). Người ta mở cho viên chỉ huy quân đội đó một khoản kinh phí 500 đồng để mua sắm thiết bị tại Hồng Kông; tại đây nhờ qua trung gian viên lãnh sự Pháp, họ mua được 500 súng Remington cùng với 250.000 viên đạn. Cơ quan hành chánh thanh toán các khoản chi này.

Ngày 4/10/1883, tại Bắc kỳ, lực lượng quân sự Pháp có 9.134 người và ở Huế có 737 người.

Đô đốc Courbet đến Bắc kỳ vài hôm sau tướng Bouet cùng với một phần hạm đội của ông, 25 tàu chiến.

Cùng lúc ấy, theo một kế hoạch đã vạch sẵn, Thomson đóng cửa lãnh sự quán Việt Nam tại Sài Gòn và trả ông Nguyễn Thanh Y về Huế: đây là hành động đầu tiên tuyên chiến công khai với Việt Nam.

Tự Đức Băng Hà Và Những Khó Khăn Trong Việc Kế Vị Thỏa Ước Harmand.

Trong khi, ở miền Bắc, quân đội Pháp vừa đổ bộ lên; ở miền Trung, kinh thành bị đe dọa trước cuộc tiến công quân sự sắp sửa xảy ra của quân thù; ngày 19/7/1883,

ở Huế người ta được tin vua Tự Đức băng hà, sau 36 năm trị vì. Tự Đức lúc này 55 tuổi.

Vì không có con ruột, Tự Đức đã lần lượt nuôi ba đứa cháu của mình: người lớn nhất Ưng Chân, hay Dục Đức(3) sinh năm 1851, thông minh, nhưng sa đọa; rồi Ưng Cơ, hay Mệ Trìu(4), Hoàng thân Chánh Mông; sau nữa là Ưng Đăng, hay Mệ Mến, Hoàng thân Dương Thiên, em ruột của Ưng Đăng.

Hai hôm trước ngày mất, tức ngày 14, tháng 6 âm lịch, năm Quý Mùi, Tự Đức cho gọi Nguyễn Văn Tường là Thượng thư bộ Tài chính kiêm cố vấn riêng của nhà vua, Trần Tiễn Thành và Tôn Thất Thuyết, là những Thượng thư ở triều đình và nhà vua tuyên bố chọn Dục Đức là người lớn tuổi hơn cả trong ba người cháu của nhà vua để kế vị và cử cả ba ông làm kẻ đỡ đầu của vua mới. Nhà vua trao cho họ bản di chúc, một bản chính thức cần phải công bố cho nhân dân, một bản riêng tư dành cho Dục Đức.

Ngay sau ngày Tự Đức mất, Dục Đức được mời lên ngôi vua. Để đảm bảo quyền uy của mình, Dục Đức cho 14 tên gia nhân đi theo mình. Trong số những người này, có hai tên là theo đạo Thiên chúa. Hai hôm sau, bản di chúc được tuyên đọc trước triều đình. Người ta ấn định chọn ngày 24 tháng đó để làm ngày đăng quang.

Song trong di chúc, Tự Đức có nói: “Ưng Chân (tức Dục Đức) đang ở tuổi thanh xuân cường tráng, rất thông thái, nhưng bản tính thiên về ở thói hư tật xấu và với tính cách như vậy khó mà trông chờ ở Dục Đức một sự trị nước, chăm dân, tốt đẹp được(5)”.

Dục Đức thấy uy tín của mình bị tổn thương, bèn giữ lấy bản di chúc chính đó và trao cho các vị quan lại Hình bộ, chỉ có một bản sao trong đó ông ta đã cắt bỏ đi cả đoạn phê phán nghiêm khắc nói trên.

Từ lâu, người ta dự đoán kẻ kế vị ngôi vua sẽ là Hồng Dật, hoàng tử Văn Lãng(6)(!), em của Tự Đức, được Thái hậu cùng với Tôn Thất Thuyết ủng hộ. Thuyết muốn đi đến đích của mình. Ông đi tìm Văn Lãng trong đêm 19 tháng 6 Âm lịch, chuẩn bị sẵn sàng mọi việc rồi sáng hôm sau triệu tập vào cung tất cả các võ quan cùng với các đạo quân của họ. Khi các quan đến họp cuộc họp thường kỳ tại “Tạ vụ” (phòng họp), Tôn Thất Thuyết đứng lên chất vấn họ: “Đối với các ngài, sự việc này có vẻ như thế nào? Các ngài thấy đó, Hoàng thân Dục Đức, nhờ ân đức Tiên đế chúng ta mà được cử lên kế vị ngai vàng chẳng những không biểu thị một chút gì thẳng thắn với tất cả chúng ta, như đúng ra phải biểu thị, trái lại còn cắt bỏ tờ di chúc của Hoàng thượng và lôi kéo theo mình những tên đầy tớ người Công giáo! Nếu chúng ta không đề phòng thì đất nước sẽ rơi vào tay những người châu Âu”.

Ông bèn ra lệnh bắt xiềng hết bọn đầy tớ. Đoạn quay về phía các quan, ông nói: “Các ngài thấy Dục Đức đã làm thiệt hại cho chúng ta như thế nào? Dục Đức xứng đáng bị phế bỏ!” Và ông cho đi tìm Văn Lãng. Văn Lãng đã chực sẵn, liền bước vào qua cửa giữa. Bọn lính gác giữ Văn Lãng lại, Văn Lãng liền quát: “Nếu chính ta không đi qua cửa này thì ai sẽ đi qua? Nó dành cho người nào khác đây?(7)

Người ta thảo bản phế ngôi, Văn Lãng là người ký đầu tiên. Tôn Thất Thuyết ký xong, hăm dọa chém đầu bất cứ ai không noi gương ông ta mà ký. Tất cả, các Hoàng thân cũng như các quan đều ngơ ngác, không biết nên quyết định như thế nào. Thấy Tôn Thất Thuyết mỗi phút mỗi thêm quyết liệt, Phan Đình Phùng, “Khoa đạo”(8) lên tiếng: “Tiên đế đã chỉ định cho chúng ta người kế vị của mình bằng lời cũng như bằng văn bản là Hoàng thân Dục Đức. Tiếng của người còn vang lên, mực Người viết còn chưa ráo; thần linh của Đức Tiên đế còn ở giữa chúng ta. Nếu Dục Đức đã phạm sai sót gì thì chúng ta hãy phê bình chỉ trích nhưng đi quá mức độ đối với Người sẽ là vi phạm đến sự tôn kính chúng ta cần có đối với Người”. Tôn Thất Thuyết thịnh nộ thét: “Hãy bắt trói lão già ấy lại và giam kỹ!”_ Vậy là các người khác tranh giành nhau mà ký vào cái văn bản bất công đó.

Văn bản phế vị được đưa trình Hoàng Thái hậu. Hoàng Thái hậu liền phê ngay “tán thành” chẳng chút do dự: “Đúng, Dục Đức bị phế truất là phải. Hãy thay y bằng một người khác, cũng như y, còn trẻ trung cường tráng!”

Tôn Thất Thuyết bèn tiến cử Văn Lãng:

“Đất nước đang khích động bởi những loạn lyvà đau thương đủ loại. Chúng ta cần một người đang tuổi tráng niên, miễn là có quyền lên ngôi báu. Nhưng trong số các Hoàng thân có quyền đó hỏi có vị nào đã đến tuổi tráng niên? Mệ Trìu, Mệ Mến còn đang là những đứa trẻ con; những người khác, ngược lại đã là những ông già. Chỉ còn hoàng tử Văn Lang; nếu Thái hậu đồng ý, chúng ta hãy thừa nhận Văn Lang làm vua!”

Bản thân Tôn Thất Thuyết bái chào Văn Lãng với cương vị Hoàng đế, mọi người khác noi theo gương ông. Sau đó, ông sai Tôn Thất Thái đuổi Dục Đức ra khỏi cung điện. Dục Đức ngồi trong một chiếc ghế khóa kín, có đầy lính bao vây, bị đưa trở về chỗ ở của mình và bị quản thúc. Ông chỉ làm vua được có ba ngày.

Văn Lãng được rước về hoàng cung với nghi lễ dành cho các bậc đế vương và văn bản tôn phong được ký ngày 20 tháng 6, tức ngày 23 tháng Bảy năm ấy, như đã quy định. Tôn Thất Thuyết ký trước văn bản. Ông tuyên bố: “Những ai ký xong sẽ được tự do rút lui, ai không ký sẽ được giữ lại đây!”

Việc tôn phong được công bố cho nhân dân biết và lễ đăng quang được tổ chức vào ngày 27/7/1883. Hồng Dật, hoàng tử Văn Lãng, lên ngôi vua, lấy niên hiệu Hiệp Hòa.

Tại Sài Gòn, người ta được tin Tự Đức mất và những khó khăn trong việc chọn người kế vị. Phải chăng đây là cơ hội tốt để tác động một cách quyết liệt đối với Việt Nam?

Tại Huế, Rheinart (Rheinard!?), từ năm 1880, đã chỉ rõ ra trong các bản báo cáo của mình rằng điểm nút của vấn đề Bắc kỳ là ở kinh đô Huế chứ không phải ở Hà Nội.

Được đặt trở lại vấn đề và được sự ủng hộ của Thomson, Harmand, Courbet và Tricou (đại sứ Pháp tại Bắc Kinh), những yêu cầu xin can thiệp vào Huế, cuối cùng đã tác động Paris.

Sau khi bàn bạc trong nội các, Bộ trưởng Hải quân, Brun, ngày 19/7/1883, trả lời cho Harmand:

“Tôi cho phép một hành động quân sự ở Thuận An dưới sự chỉ huy của Đô đốc Courbet với điều kiện là ông Đô đốc xét thấy đã cầm chắc trong tay thắng lợi(9)”.

Ngày 30/7, tại Hải Phòng, một Hội đồng quân sự được triệu tập; tham dự có Harmand, Courbet và Bouet. Hội đồng xem xét vấn đề về các mặt chính trị và quân sự. Người ta vừa được tin về những khó khăn xảy ra trong việc chọn người kế vị ngôi vua; cho nên cần tranh thủ, lợi dụng những vụ lộn xộn và âm mưu do việc nối ngôi gây ra để nhanh chóng đưa quân vào sông Hương, đánh chiếm các đồn phòng thủ khúc sông này và từ đó đặt ra các điều kiện.

Tại Bắc kỳ, Harmand muốn chiếm lấy Sơn Tây. Đặt vào chức vụ để nhằm chế ngự các quân nhân, thì trái lại, chính Harmand chủ động xúi giục họ. Nhưng tướng Bouet đắn đo trước những khó khăn, tuyên bố không thể nhanh chóng đánh chiếm Sơn Tây được và chỉ mở một cuộc tấn công vào phủ Hoài Đức. Cuộc tấn công không thành. Người Việt Nam đã phá đê sông Hồng làm ngập lụt cả vùng châu thổ. Harmand và Bouet ngày càng mâu thuẫn sâu sắc. Ông thầy thuốc (Harmand) thì chỉ trích ông nhà binh (Bouet) quá chậm chạp khiến cho quân Trung Quốc có đủ thời giờ tiếp viện cho quân Cờ đen ở Bắc Ninh và Sơn Tây; còn ông “tướng võ” thì lấy làm khó chịu khi phải phục tùng một ông “quan văn” trẻ măng, ba mươi tám tuổi đầu, ở một cấp bậc hạng thấp. Ông thầy thuốc-ủy viên liền gởi vị tướng quân về Pháp.

Ngày 18/8/1883, hạm đội của Courbet đến cửa sông Hương với hai thiết giáp hạm, một tàu tuần dương hạm, hai pháo thuyền, sáu trăm lính, và một pháo đội. Courbet và Harmand đi trên chiếc “Bayard”.

Lo ngại trước việc tập trung quân đó, viên chỉ huy các đồn Thuận An yêu cầu cho biết duyên cớ. Courbet trả lời bằng một tối hậu thư đòi phải nộp các đồn phòng thủ Thuận An trong vòng hai tiếng đồng hồ, không đúng thời hạn sẽ bị pháo kích. Cuộc tiến công xảy ra đúng cái thời hạn đặt ra đó. Các đồn bị thất thủ, sau ba ngày chiến đấu. Những viên chỉ huy đều bị tử thương hoặc tự tử.

Ngày 20/8, Trần Đình Túc và Nguyễn Trọng Hiệp, do triều đình phái đi cùng với Giám mục Caspas làm phiên dịch đến xin ngừng chiến hai ngày. Harmand đến Huế, cuộc điều đình tiếp tục.

Ngày 23, Harmand trao cho chánh phủ Việt Nam một dự án hiệp ước kèm theo một tối hậu thư:

“… Chúng tôi yêu cầu các ngài, bắt đầu từ ngày mai, trong thời hạn 48 tiếng đồng hồ, phải chấp nhận hoặc từ chối toàn bộ và không bàn cãi những điều kiện mà chúng tôi đề nghị với các ngài, với một tinh thần độ lượng cao cả. Nếu các ngài từ chối thì hãy sẵn sàng đón chờ những tai họa khủng khiếp. Hãy hình dung ra tất cả những gì mà khủng khiếp nhất các ngài vẫn còn rất xa với thực tế sẽ xảy đến cho các ngài. Nước An Nam, triều đại của nó, những nguyên lý của nó và cả triều đình, sẽ tự làm nên bản án của mình. Cái tên An Nam sẽ không còn tồn tại trong lịch sử nữa…”(10)

Các đại thần nhiếp chính phần thì hoảng sợ trước hành động bạo lực táo tợn ấy đối với Huế, phần thì quá bận tâm về những âm mưu ở triều đình, quá hoang mang trước một tình hình chính trị mập mờ và tình thế riêng tư của chính họ. Họ không còn đâu thời gian để thảo luận với Harmand về tính chất có căn cứ hay không của những lời phàn nàn quy cho chánh phủ họ.

Không thảo luận gì cả, các điều khoản ấy được các đại sứ toàn quyền chấp nhận. Ngày 29/8/1883, bản hiệp ước được ký kết tại sứ quán Pháp ở Huế.

Qua điều khoản 1, Việt Nam chấp nhận sự bảo hộ của Pháp, nắm quyền lãnh đạo ngoại giao, “kể cả Trung Quốc”. Vậy là Việt Nam mất cả quyền độc lập quốc gia. Harmand nghĩ rằng “lần này ông ta tránh được mọi sự mâu thuẫn và chặn kín được mọi lối thoát”(11).

Harmand còn vượt quá các chỉ thị mà mình đã nhận, tự quyền sát nhập tỉnh Bình Thuận vào Nam kỳ (điều 2).

Qua điều 4 và 5, Việt Nam cam kết sẽ gọi quân đội của họ ở phía Bắc về và lập lại trật tự ở Bắc kỳ bằng cách kêu gọi các quan lại cũ trở về nhiệm sở. Điều 8 đặt ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh dưới quyền cai trị của Pháp. Cũng qua điều khoản này, người Việt Nam giữ quyền nội trị ở miền Trung – trừ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ở phía Bắc, cùng Bình Thuận ở phía Nam, trừ thuế quan và công chính.

Hai cảng mới được mở cửa cho việc buôn bán của châu Âu, Đà Nẵng và Xuân Đài, ngoài Quy Nhơn (điều 7); một cây hải đăng sẽ được xây dựng; các đường sá sẽ được sửa chữa; một đường dây điện báo sẽ được thiết lập (điều 8, 9 và 10).

Một đại diện của nền bảo hộ Pháp sẽ đóng tại Huế và “sẽ có quyền” hội kiến riêng và cá nhân với vua An Nam (điều 11); phía Bắc, người Việt Nam sẽ giữ quyền nội trị của họ nhưng dưới sự kiểm soát của các công sứ Pháp; những điều khoản đặc biệt gồm mọi điều kiện cơ bản cần thiết cho sự thực thi một chế độ hữu hiệu. (điều 12-19).

Việc bảo vệ các công dân hoặc những người thuộc quốc tịch Pháp, đã được ghi rõ (điều 20); những đồn lũy quân sự có nhiệm vụ tạo một vành đai sắt và khi cần siết chặt lại xung quanh miền Trung cũng không bị bỏ quên. Nước Pháp đảm bảo sự nguyên vẹn của vương quốc, bảo vệ cho nó chống lại mọi cuộc tấn công từ bên ngoài và nổi loạn từ bên trong (điều 23).

Một loạt những điều khoản mà Harmand coi như “có lợi cho An Nam” và theo chính lời ông ta nói, phản ánh trung thành nền giáo hóa căn bản của mình “người thầy thuốc pha thêm vài chất ngọt cho liều thuốc bớt đắng”(12), bổ khuyết cho bản thỏa ước này: viện trợ kỹ thuật, quy chế pháp lý của người Việt Nam tại nước ngoài (nhất là ở Thái Lan); những món nợ được thanh toán (do việc nhượng tỉnh Bình Thuận), du nhập đồng bạc Mêhicô.

Hiệp ước ngày 25/8/1883 là công trình cá nhân của Jules Harmand.

Quan điểm của ông ta không được chánh phủ Pháp chuẩn y nguyên vẹn; từ bỏ chính sách 1862, chánh phủ Pháp lúc này đã hoàn toàn theo một chính sách cai trị gián tiếp và một công thức mềm dẻo hơn và ít tốn kém hơn tại Việt Nam cũng như tại Tunisie, là chế độ bảo hộ.

Hơn nữa, trong một cuộc đấu tranh mà nó đang chuẩn bị sẵn sàng để đương đầu với Trung Quốc, nước Pháp mong muốn loại trừ “mối họa Việt Nam” đi và đồng thời, cũng mong muốn thân thiện với triều đình Huế; với Huế, nó muốn tìm một quan hệ bạn bè hơn là một sự chèn ép hoàn toàn.

Vậy nên Paris từ chối chuẩn y Thỏa ước Harmand, đối với Paris là quá khắt khe và nó chẳng bao giờ được áp dụng.

Khoảng hai năm sau, trong vụ bạo động ở kinh thành Huế ngày 5/7/1885, đúng vào lúc ông ta sửa soạn rời bỏ hẳn đoàn y tế hải quân để sang công tác ngoại giao, ngày 15/7/1885, Jules Harmand gửi về Quai d’Orsay (Bộ Ngoại giao Pháp, ở số 37, Quai d’Orsay, Paris 7e, mà thường gọi tắt là Quai d’Orsay) như một chuyên gia đầy kinh nghiệm về những vấn đề Việt Nam, một bức công hàm mang tựa đề “Công hàm về cách phân phối lực lượng quân sự chúng ta tại Đông Dương”. Trong bức công hàm này, ông ta nêu lên những lý do đã thúc đẩy ông ta sát nhập tỉnh Bình Thuận vào Nam kỳ, và Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh vào Bắc kỳ. Quả thực là một bài biện hộ cho Thỏa ước 1883 mang tên ông ta. Ông ta viết:

“Chúng ta không nên bao giờ quên rằng dân tộc An Nam là một dân tộc mang một tính đồng nhất, không nơi nào bằng trong toàn châu Á. Nó làm thành một đơn vị thực sự đáng sợ cho một kẻ chinh phục ở rất xa căn cứ hoạt động của mình, một dân tộc mà từ ngàn xưa xa xăm cho đến ngày hôm nay, lịch sử của nó đã làm nổi bật lên trước con mắt của các nhà quan sát như một dân tộc có tinh thần yêu nước ở mức độ cao nhất, hay nói đúng hơn, có ý thức về nòi giống và đối với chúng ta sẽ là một điều cực kỳ nguy hiểm, nếu họ đoàn kết lại tất cả một lòng trong một mối thù chung mà chúng ta là đối tượng.

Tôi sẽ không bao giờ bỏ qua một dịp nào để đấu tranh chống lại một thành kiến chỉ dựa trên những nhận xét hoàn toàn hời hợt, trên một vài câu nói vô ý thức của những gã phiêu lưu vũ lực nào đó hoặc trên ảo tưởng của các nhà truyền đạo ngu dốt và cả tin… mà rồi, khốn nạn thay, đã bắt rễ vào đầu óc chúng ta!

Tôi muốn nói đến cái dư luận nó trình bày cho ta rằng dân tộc Việt Nam như phân chia thành hai nước thù địch nhau: Bắc kỳ và An Nam. Đây là một sai lầm tuyệt đối đã làm tai hại cho chúng ta không thể nào nói hết. Người ta phải tin chắc một điều là chỉ có một người An Nam, từ tỉnh Quảng Tây, cho đến biên giới Campuchia và Thái Lan; rằng tất cả mọi người An Nam đều có những ý nghĩ như nhau, những phong tục như nhau, những nguyện vọng như nhau, những hận thù như nhau, một tổ chức như nhau như họ có chung một ngôn ngữ như nhau và những luật lệ như nhau; rằng giữa người An Nam ở Bắc kỳ và người An Nam ở Nam kỳ ít có sự đối kháng hơn như ở xứ chúng ta, giữa một người ở miền Bretagne (Bắc) và một người ở miền Provence (Nam); nói riêng, không có một ‘người Bắc kỳ’ nào lại muốn thấy các quan lại An Nam bị thay thế bởi những ông ‘chủ’ người Pháp cả. Người ta nên biết một lần cuối cùng nữa là xứ Bắc kỳ cũng được cai trị y hệt như bất cứ nơi nào trên toàn đất nước và rằng nếu như các ông quan cai trị xứ Bắc kỳ không phải là người gốc Bắc kỳ, chỉ đơn giản vì người ta làm theo một quy tắc hành chánh từ Trung Quốc truyền sang. Chính là vì muốn tuân theo quy tắc đó – thực ra có khá nhiều ngoại lệ - mà các sĩ phu Bắc kỳ đi nhậm chức ở các tỉnh phía Nam và các đồng nghiệp phía Nam của họ lại ra làm quan ở các tỉnh phía Bắc. Theo cách trao đổi.

Một cuộc tổng nổi dậy – mà hiện tại dường như rất có khả năng xảy ra – sẽ rất nguy hiểm cho chúng ta, trước hết là ở hậu quả tức thời của nó: nó buộc chúng ta phải có những cố gắng phi thường, những món chi tiêu quá mức, đặt chúng ta vào thế phải dọn đi khỏi Bắc kỳ trong khi hòa bình hầu như đã được bảo đảm và phải duy trì chế độ quân sự một cách thường xuyên chưa biết đến bao lâu. Một cuộc nổi dậy như thế sẽ gây khó khăn cho việc tổ chức một nền cai trị hợp lệ hoặc ít ra sẽ cung cấp luận chứng cho những kẻ thù của chế độ dân sự, là chế độ duy nhất có thể cung cấp cho ta một ngân sách không ngừng gia tăng, do đó mà nó có thể đưa một đất nước ít kiên nhẫn, ít biết đến những quyền lợi thiết thân của mình như đất nước chúng ta, bỏ lỡ một cơ hội có lẽ là duy nhất để tạo dựng cho mình một đế quốc thuộc địa rộng lớn có khả năng phản ứng một cách có hiệu quả đối với nền chính trị châu Âu và đối với những cuộc cạnh tranh đang tung hoành ở đấy, nhưng mà kết thúc tại những chiến trường xa xôi.

Nhưng vả lại, một cuộc tổng khởi nghĩa như vậy dù có bị đàn áp, đập tan và trừng phạt nghiêm khắc bao nhiêu đi nữa với một ưu thế, phương tiện lớn hơn bao nhiêu đi nữa, đối với dân tộc, như dân tộc An Nam, vẫn mãi mãi như một mối hận lịch sử không gì xóa sạch nổi như một kỷ niệm vinh quang, một lời kêu gọi tập hợp, một niềm hy vọng, lần sau sẽ thành công hơn khi có hoàn cảnh thuận lợi hơn. Nó tạo nên cho mọi người An Nam cùng với ý thức sâu sắc về sự thống nhất và về sức mạnh của mình, tư tưởng của một sự báo thù luôn luôn chờ đợi.

Tại An Nam, không một sĩ phu nào, ngay cả không một đứa trẻ con nào học ở trường, một người thường dân nào là không biết những tên tuổi và những chiến tích anh hùng đã trở thành truyền thuyết, được gắn liền vào những bài vè và bài dân ca bản xứ của những ông vua và những lãnh tụ nghĩa quân đã trong bao nhiêu thế kỷ, phất cờ đại nghĩa, chống lại những kẻ thù xâm lược Trung Quốc và đã đuổi được chúng ra ngoài bờ cõi giang sơn. Cũng những sự kiện ấy đã xảy ra trước mỗi một hành động nhỏ của cuộc chinh phục Nam kỳ hay chiến dịch hiện nay của chúng ta. Đó là những triệu chứng mà một nhà chính trị không được phép coi thường.

Vì những lý do ấy mà chúng ta phải làm tất cả mọi cách để tránh xảy ra một cuộc khởi nghĩa toàn dân. Và cũng để chặn đứng những mối nguy cơ ấy lại hoặc giảm bớt quy mô của nó đi mà ngay từ đầu tôi đã khuyên rồi khẩn khoản yêu cầu chiếm đóng những nơi thuận lợi nhằm chia cắt đất nước An Nam ra thành nhiều mảnh, đặc biệt là làm cho nó cách ly với các tỉnh phía Nam xứ Bắc kỳ. Cũng vì lẽ đó mà tôi đã xin được chiếm đóng phía nam Bắc kỳ - lúc đó rất dễ dàng – và cắt tỉnh Bình Thuận, để sát nhập với Hạ Nam kỳ; mà tôi cũng đòi mở cửa và chiếm đóng vịnh Xuân Đài. Cái đã dẫn đường cho tôi nói về cửa biển này không phải là cái khả năng cập bến cho tàu bè rất tốt mà nhất là vì tôi biết cửa biển này đi sâu vào tận chân núi đại ngàn chắn ngang hoặc cho phép người ta kiểm soát được dễ dàng những việc giao thông giữa hai miền Nam và Bắc. Mục đích của tôi là phá cho tan vỡ khối gắn liền của An Nam có thể nói chia cắt nó ra từng mảnh nhỏ, rời rạc để không bao giờ nó có thể tập hợp được mọi lực lượng của nó chống lại chúng ta. Những sự kiện đang xảy ra hôm nay chứng minh nhận thức của tôi là hoàn toàn chính xác, khiến tôi xiết bao ân hận vì đã không được người ta hiểu được hết ý mình...(13)

TS Nguyễn Xuân Thọ

Nguồn: (Alpha Books - Ebook) Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam 1858-1897

Trang Lịch Sử