Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam Ý Đồ Phân Chia Xứ Bắc Kỳ của Pháp và Trung Quốc TS Nguyễn Xuân Thọ https://sachhiem.net/NGXUANTHO/BuocMoDau_14.php
Chương 13 - Từ Cuộc Viễn Chinh Rivière Đến Ý Đồ Phân Chia Xứ Bắc Kỳ Giữa Pháp Và Trung Quốc Đứng trước những mục tiêu của Pháp trên Bắc kỳ, chính sách của chánh phủ Trung Quốc là giữ vững quyền bá chủ của mình đối với Việt Nam, vừa ngăn cản không cho Pháp tiến sâu vào Vân Nam. Trung Quốc có nhiều nguồn lợi về kinh tế quan trọng ở phía Bắc Việt Nam: hầu hết các hầm mỏ nổi tiếng đều do người Trung Quốc hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây khai thác; phần lớn thương nghiệp cũng vậy. Hai phần ba số hàng hóa nhập khẩu của Bắc kỳ đều từ Trung Quốc sang. Ngoài ra, Bắc kỳ còn là con đường thuận lợi nhất và cũng gần nhất cho việc xuất khẩu hàng hóa của tỉnh Vân Nam. Nội dung các cuộc thảo luận trong nội bộ chánh phủ Trung Quốc phải chăng là vấn đề bảo vệ quyền lợi kinh tế của họ ở Bắc kỳ? Cho đến khi có bằng chứng ngược lại, căn cứ trên những tài liệu hiện có trong tay, chúng tôi có thể khẳng định rằng khía cạnh đó, của vấn đề Việt Nam, không phải là điều mà chánh phủ Trung Quốc nghiên cứu. Tháng 10/1881, Lưu Tưởng Dậu, toàn quyền Vân Nam - Quý Châu, đã đệ lên Hoàng đế một bản tường trình, lưu ý Hoàng đế đến những ý đồ của Pháp trên đất Bắc kỳ và mối nguy sẽ thấy một ngày nào đó người Pháp tìm cách xâm nhập sâu vào nội địa Vân Nam và Quảng Tây. Lưu Tưởng Dậu cho rằng nếu người Pháp xâm nhập được vào hai tỉnh này thì các tỉnh Triết Giang, Hồ Nam và Hồ Bắc, Trung Quốc cũng sẽ bị họ dòm ngó. Ít lâu sau, Tổng lý Nha môn nhận được một bản tường trình bằng điện của Tăng Kỉ Trạch, lúc này đang đi công tác đặc biệt ở Nga, để giải quyết vấn đề Kouldja báo cho biết rằng bộ Hải quân Pháp đã xin kinh phí cho một cuộc viễn chinh quân sự tại Bắc kỳ với ý định viện cớ tiểu trừ thổ phỉ mà thực hiện buôn bán với Vân Nam qua đường sông Hồng và đề nghị đó đã được Quốc hội Pháp thông qua. Trong những bản tường trình khác, ông đại sứ đặc mệnh toàn quyền Trung Quốc thông báo cho Tổng lý Nha môn biết rằng ông ta đã có những buổi hội kiến với chánh phủ Pháp để khẳng định chánh phủ Trung Quốc từ chối việc mở cửa Vân Nam cho nước ngoài vào buôn bán và để tuyên bố rằng… “Trung Quốc không thừa nhận Hiệp ước 1874, nhưng trong trường hợp nước Pháp chỉ nghĩ đến việc thỏa mãn quyền lợi buôn bán của mình mà thôi thì riêng việc đó, chánh phủ Trung Quốc có thể rộng lượng làm lơ đi. Chánh phủ Trung Quốc không muốn chạm lòng tự ái của nước Pháp mà công khai tuyên bố về tính chất bất hợp pháp của Hiệp ước 1874 ký kết mà Trung Quốc không được biết”(1). Trước sự đe dọa ngày càng tăng của Pháp đối với miền Bắc Việt Nam, Đinh Nhật Xương, tổng đốc Phúc Kiến, đã gợi ý Tổng lý Nha môn bàn bạc bí mật với các nhà chức trách Quảng Tây nhằm gởi một số quân sang Bắc kỳ với lý do là để tiễu trừ nạn cướp và tăng thuế nhập khẩu qua biên giới Trung Quốc đối với các hàng hóa của Pháp sang. Tăng Kỉ Trạch và Lý Hồng Chương, về phần họ, cũng đề xuất ý kiến rằng một hạm đội Trung Quốc di chuyển về phía Nam sẽ tăng sức mạnh tinh thần của người Việt Nam và giúp họ bảo vệ sự vẹn toàn của châu thổ Bắc kỳ. Tổng lý Nha môn, trong chỉ thị cho Tăng Kỉ Trạch lưu ý nội các Pháp về một điểm, yêu cầu triều đình ra lệnh cho các ủy viên quốc gia phụ trách thương mại tại các cảng phía bắc và phía nam, cho các Phó vương Lưỡng Quảng và Vân Nam - Quý Châu, cũng như cho tổng đốc Vân Nam biết rõ quan điểm của họ về đường lối chính trị nên đi theo. Ngoài ra, Tổng lý Nha môn còn đệ trình lên triều đình một bản báo cáo mật về những ý kiến đề xuất của Tăng Kỉ Trạch, chỉ thị cho “Nhà vua An Nam” từ đây không được xin viện trợ của Pháp và không được ký kết một hiệp ước nào với Pháp nữa. Đối với Tổng lý Nha môn, những gợi ý trên đây cũng có một vài điều bất lợi. Trước hết, nếu Trung Quốc cấm hẳn Việt Nam không được xin viện trợ của Pháp, có nghĩa là bản thân Trung Quốc phải giúp đỡ Việt Nam mỗi khi Việt Nam gặp khó khăn. Mà thực ra thì Trung Quốc đang ở trong tình thế không thể nào có khả năng thực tế để đáp ứng những yêu cầu giúp đỡ của Huế. Thứ hai, nếu Trung Quốc yêu cầu Việt Nam không được ký kết một hiệp ước nào với Pháp nữa, có thể là về mặt này nữa, Việt Nam bị Pháp đe dọa lại phải xin Trung Quốc giúp đỡ cho mình. Cuối cùng, sự cấm đoán thứ hai này cũng sẽ lại mang đến những hậu quả như sự cấm đoán trước. Tuy nhiên, Trung Quốc không thể nào giữ một thái độ hờ hững trước hành vi của Pháp ở Việt Nam, nó có nhiệm vụ bảo vệ nước chư hầu. Sau khi phân tích thiệt hơn như vậy, Tổng lý Nha môn bèn kết luận vấn đề bằng cách yêu cầu hỏi ý kiến các nhà lãnh đạo cao cấp các tỉnh để tìm một giải pháp cho phép bảo vệ lấy được những quyền lợi sống còn của đất nước. Tiếp theo hai bản báo cáo ấy, triều đình Bắc Kinh, ngày 6/12/1881 chỉ định Lý Hồng Chương, đại Quốc vụ khanh và là tổng đốc Tchili; Tả Tông Đường, tổng đốc Lưỡng Giang; Lưu Khôn Di, cựu tổng đốc Lưỡng Giang (Triết Giang và Châu Giang(?)); Lưu Tưởng Dậu, tổng đốc Vân Nam - Quý Châu; Trương Thụ Thanh, tổng đốc Lưỡng Quảng; Khánh Dụ, tổng đốc Quảng Tây và Đỗ Thụy Liên tổng đốc Vân Nam, để mật báo quan điểm riêng của họ về vấn đề Việt Nam. Lưu Khôn Di, trong báo cáo ngày 24/12/1881 và Khánh Dụ, trong báo cáo ngày 30 cùng tháng ấy, gợi ý nên cử Hoàng Quế Lan đến Lạng Sơn lấy cớ là đi tiễu trừ giặc cướp tại Bắc kỳ. Khánh Dụ đề nghị mật báo cho thủ lĩnh quân Cờ đen là Lưu Vĩnh Phước biết để chuẩn bị chiến đấu. Bắc Kinh, ngày 1/2/1882, chuẩn y đề nghị liên quan đến việc gửi tướng Hoàng Quế Lan nhưng không đồng ý sử dụng quân Cờ đen bởi chánh phủ Trung Quốc không tin ở Lưu Vĩnh Phước và sợ rằng sự xuất hiện của viên tướng này trên sân khấu sẽ làm cho tình hình thêm phức tạp. Vì nghĩ tới một tương lai xa hơn, chánh phủ Trung Quốc cũng ra lệnh cho tổng đốc tỉnh Quảng Tây phải chỉ thị cho các chính quyền địa phương từ chối mọi sự mua bán đất đai cho các giáo sĩ muốn xây dựng những cơ sở tôn giáo. Bắc Kinh còn cảnh giác các chính quyền tỉnh trước mọi sự sơ suất có thể dẫn đến những điều rắc rối về tôn giáo. Tất nhiên, những biện pháp Trung Quốc sử dụng đó không đủ để đẩy lùi một cuộc tấn công của Pháp vào Bắc kỳ. Vì vậy, tổng đốc Khánh Dụ, trong dịp đón tiếp đại sứ Việt Nam Nguyễn Thuật, đã được triều đình Huế phái đi mang tặng vật biếu Bắc Kinh và hôm nay trên đường về, thông báo cho Nguyễn Thuật biết những biện pháp chánh phủ Trung Quốc đã vận dụng và khuyên chánh phủ Việt Nam cố gắng khôi phục tình hình và “đừng rơi vào cạm bẫy của nước Pháp”(2). Theo ý Bắc Kinh, sự tăng cường lực lượng đồn trú của Trung Quốc tại Vân Nam là một biện pháp mang tính chất đơn thuần tự vệ. Chính sách Trung Quốc không nhằm mục đích nào khác là giữ nguyên tình trạng quốc tế tại Việt Nam. Chính sách này đã được chỉ ra rõ ràng trong báo cáo của Tổng lý Nha môn để trình lên triều đình ngày 6/12/1881. Đối với Tổng lý Nha môn, kể ra Trung Quốc cũng có thể thừa nhận Hiệp ước 1874 với điều kiện là Pháp từ bỏ ý định chinh phục Bắc kỳ. Đấy cũng là quan điểm của Lý Hồng Chương, đối với Lý Hồng Chương, Hiệp ước 1874 là một việc đã rồi và không thể coi nó là hoàn toàn vô hiệu được. Vậy, mục đích của Trung Quốc chỉ còn giới hạn ở chỗ làm sao buộc Pháp phải hứa hẹn không đánh chiếm Việt Nam. Chính là với ý định ấy mà ngày 12/12/1881, trong cuộc hội kiến đầu tiên của ông ta với đại sứ đặc mệnh toàn quyền Pháp tại Bắc Kinh, Bourée, Lý Hồng Chương đã đặc biệt nhấn mạnh rằng Trung Quốc sẽ không bàng quan để cho nước Pháp xâm chiếm Bắc Việt Nam. Sau lời cải chính dứt khoát của Bourée, Lý Hồng Chương viết thư cho Tổng lý Nha môn: “Bởi vì đây là một hiệp ước đã được ký kết, tôi sợ rằng Trung Quốc chẳng có quyền gì mà dám bác bỏ nó. Tuy nhiên, thái độ của đại sứ Pháp cho phép tôi nghĩ rằng trong lúc này đây, nước Pháp chưa nghĩ đến chuyện đánh chiếm Bắc kỳ. Theo ý tôi, chính sách phù hợp hơn cả, trong lúc này, là đừng có quá hăng cũng đừng nên lùi bước mà là tìm cách hòa hợp và sự trung gian hòa giải, tùy hoàn cảnh mỗi lúc”(3). Lý Hồng Chương đã cố giữ gìn Việt Nam bằng cách mở cửa Việt Nam cho việc buôn bán của nước ngoài nhằm làm trở ngại mọi hoạt động độc quyền và đập tan mọi ý đồ chinh phục của Pháp. Chính nhằm mục đích này mà giữa tháng 12/1881, ông ta đã cố thuyết phục đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Anh tại Bắc Kinh, Thomas Wade, đề nghị với bộ Ngoại giao Anh gửi người sang Việt Nam đàm phán, ký kết một hiệp ước thương mại. Nhưng Wade đã trả lời rằng, trong trường hợp nước Anh có ký kết với Việt Nam một hiệp ước thương mại chăng nữa thì hiệp ước đó cũng sẽ không vượt ra được ngoài khuôn khổ của Hiệp ước Pháp - Việt Nam năm 1874. Vậy là những đề nghị của Lý Hồng Chương không có kết quả. Trở lại chức vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Freycinet nhận được một bản báo cáo đề ngày 18/3/1881 của Bourée kể lại cuộc hội kiến của ông ta với Lý Hồng Chương. Theo lời ông đại sứ Pháp thì mặc dù lời lẽ của ông bạn Trung Quốc rất là đanh thép, chánh phủ Trung Quốc sẽ không ngăn cản Pháp thực hiện ý đồ của mình tại Việt Nam, miễn là Pháp giới hạn việc thi hành những quyền hành dành cho chánh phủ Pháp trong Hiệp ước 1874. Paris suy luận rằng không nên coi những vụ can thiệp của Tăng Kỉ Trạch như là biểu hiện trung thành những ý nghĩ của Bắc Kinh. Hơn nữa Trung Quốc, sau những Hiệp ước Nam Kinh (1842) Bắc Kinh (1860) và Kouldja (1881) không còn là một cường quốc nữa; nước Pháp có đủ lý do để coi Trung Quốc là một yếu tố không đáng quan tâm. Trước nguy cơ một cuộc xâm chiếm của Pháp tại Bắc kỳ ngày càng rõ ràng, một phái đoàn Trung Quốc được gửi tới Huế để lưu ý chánh phủ Việt Nam đến vấn đề nguy nan này. Phái đoàn này là hậu quả bản tường trình của Tăng Kỉ Trạch vào mùa thu 1881, thông báo rằng chánh phủ Pháp đã soạn thảo những dự án đánh chiếm Bắc kỳ lấy cớ là để quét sạch sông Hồng khỏi bọn “cướp Trung Quốc”. Ba quan chức Trung Quốc, trong đó có Mã Phục Bân, ủy viên vận tải muối, được đặt dưới quyền điều khiển của Đường Đinh Canh “đạo đài” (siêu giám đốc) của “Chiêu thương cuộc” (China Merchant’s Navigation Company - Công ty Thương mại Hàng hải Trung Quốc), ông này, cùng với một quan chức khác có lệnh vận chuyển gạo qua Việt Nam. Họ nhận lệnh của Trương Thụ Thanh, tổng đốc Lưỡng Quảng, hồi đầu năm 1882, phải đi Hà Nội và Huế nhằm thăm dò tin tức về những cuộc hành quân của Pháp. Đường Đinh Canh đồng thời được Lý Hồng Chương giao nhiệm vụ điều tra về những cuộc đàm phán Pháp - Việt và về những dữ kiện địa lý Việt Nam. Lúc lên đường đi Việt Nam, những người Trung Quốc được tin hai tàu chiến Pháp vừa vội vàng rời bến Hải Phòng đi Sài Gòn. Đoán biết Pháp sắp sửa tiến hành một hành động quân sự tại Bắc kỳ, Đường Đinh Canh liền phái một đồng sự của ông ta vào Sài Gòn để lượm lặt những tin tức quân sự. Ông ta cùng với ba người kia trong phái đoàn, cập bến Hải Phòng ngày 23/1/1882. Họ liên lạc với nhà chức trách Việt Nam và với một nhân viên lãnh sự Pháp nhưng không thu nhận được tin tức gì chính xác. Trong khi đi truy tìm một quan chức Trung Quốc tên là Lí Ngọc Trì, tên này liên kết với Dupuis tại Bắc kỳ và theo một vài tin tức, thì hắn có âm mưu với Pháp, ngày 20/1/1882, những người Trung Quốc này tới Hà Nội. Họ được tin rằng Pháp đang bí mật xếp đặt chỗ ở cho toán quân mới, sắp đến đây nay mai. Đường Đinh Canh để một nhân viên phái đoàn mình lại Hải Phòng và phái một người khác đi thăm dò ngược dòng sông Hồng tới Lào Kay. Ngày 11/2/1882, Đường Đinh Canh đến Huế, cùng với Mã Phục Bân, ông ta có một cuộc hội kiến bí mật với Nguyễn Văn Tường. Ông Thượng thư bộ Tài chính triều đình Huế yêu cầu chánh phủ Bắc Kinh viện trợ vật chất cho chánh phủ Huế nhằm phá tan những mưu đồ bành trướng của Pháp tại Việt Nam. Các quan chức Trung Quốc đáp lại rằng: Việc Việt Nam ký, giấu Trung Quốc, một hiệp ước với Pháp,“làm cho sự Trung Quốc giúp đỡ Việt Nam trở thành một việc rất đỗi khó khăn”(4). Trong những buổi hội kiến này, phía Việt Nam còn đề nghị Trung Quốc chấp nhận: “1. Cho Việt Nam được cử sang Bắc Kinh một vị đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam và gửi một số viên chức Việt Nam sang tập sự tại Tổng lý Nha môn để được tiếp xúc với những vấn đề quốc tế và ngoại giao; 2. Cho Việt Nam được cử các nhân viên ngoại giao sang Anh và sang Pháp, trong các sứ quán Trung Quốc, bên cạnh các đại diện Trung Quốc, để khẳng định những mối quan hệ truyền thống giữa hai nước; 3. Trung Quốc gửi chỉ thị cho Phó vương Quảng Đông và các nhà chức trách Quảng Châu, cho phép Lưu Vĩnh Phước đến đó để tiếp tế súng đạn, quân nhu”(5). Đầu tháng 3/1882, một báo cáo của phái đoàn này được gửi tới Tổng lý Nha môn qua Lý Hồng Chương. Những yêu cầu của chánh phủ Việt Nam không được phúc đáp. Lúc mà Henri Rivière đánh chiếm xong Hà Nội, ngày 25/4/1882, Bắc Kinh nhận được một báo cáo của Trương Thụ Thanh, tổng đốc Tchili, cho biết rằng quân Pháp đến Hải Phòng trên nhiều tàu chiến vào đầu tháng Tư đã công khai tuyên bố họ sắp sửa đánh chiếm Bắc kỳ. Ngày 12/5/1882, chánh phủ Trung Quốc gửi một thông tư bằng điện cho các nhà chức trách những tỉnh có trách nhiệm, ở vùng biên giới yêu cầu họ soạn thảo các dự án phòng thủ tổng quát bởi vì nếu Bắc kỳ rơi vào tay người Pháp thì sẽ mang lại nhiều hậu quả cực kỳ nghiêm trọng cho vùng biên giới Trung Quốc. Bắc Kinh còn ra lệnh cho Lưu Tưởng Dậu, Đỗ Thụy Liên phải ngày đêm chuẩn bị đối phó; cho Nhi Văn Úy, tổng đốc Quảng Tây và là người kế tục Khánh Dụ tiến hành một cuộc điều tra tình hình thực tế để có cơ sở thi hành những biện pháp cần thiết và hữu hiệu. Lúc này, các quan chức cao cấp Trung Quốc và các tầng lớp sĩ phu ưu tú gửi lên triều đình những lời khuyên rất khác nhau, đủ mỗi loại. Trương Bội Luân, trợ lý Đông cung giáo đạo, và Trương Văn Động, tổng đốc Chansi, trong báo cáo ngày 5/6/1882, khuyên nên tiến hành một cuộc đấu tranh kiên quyết với Pháp. Về phía mình, Trương Thụ Thanh, trong bản báo cáo ngày 28/5/1883, viết rằng: tình hình rất là khó xử vì để thực hiện ý đồ xâm lược Bắc kỳ, Pháp chỉ bắt buộc Việt Nam thi hành các điều khoản hiệp ước và cố tránh chiến tranh với Trung Quốc. Theo ý ông ta, Trung Quốc chẳng có lý do gì lại lao mình vào một cuộc chiến tranh chốngPháp, và “Trung Quốc không nên tin vào Việt Nam”. Kết luận, tổng đốc Trung Quốc khuyên nên gửi quân Quảng Tây và Vân Nam qua Bắc kỳ với lý do trừng phạt bọn cướp và củng cố hạm đội phương Nam đang tuần tra ngoài bờ biển Việt Nam. Tiếp thu những lời khuyên trên, ngày 30/5/1882, Bắc Kinh ra lệnh cho quân đội Trung Quốc tại miền Bắc Việt Nam phải củng cố vị trí của mình hoặc tiến lên, tùy trường hợp. Chánh phủ Trung Quốc còn đồng ý cho tướng Hoàng Quế Lan hành quân hướng về Hà Nội và cho Đô đốc Ngô Tuyền Mĩ tuần tra ngoài khơi đảo Hải Nam và thỉnh thoảng là ven bờ biển Việt Nam để thu lượm tin tức. Bắc Kinh còn chuẩn y việc gửi viện trợ cho đạo quân của tướng Hoàng Quế Lan và lệnh cho các nhà chức trách quân sự Trung Quốc ủng hộ các lực lượng của Lưu Vĩnh Phước. Tại Paris, tác động về việc Rivière đánh chiếm Hà Nội, ngày 6/5/1882 đại sứ Trung Quốc chuyển lời bằng văn bản và bằng đối thoại trực tiếp đến ông Bộ trưởng Ngoại giao Pháp những chỉ trích căn cứ trên quyền bá chủ của Trung Quốc đối với Việt Nam và yêu cầu cấp thiết gọi trở về những đội quân Pháp ở Bắc kỳ, “Như chánh phủ Pháp đã làm một cách thẳng thắn và chủ động năm 1873, khi một sĩ quan trẻ và dũng cảm, do quá nhiệt tình mà đánh chiếm, cũng thành trì này, trong thời bình và chẳng hề ai cho phép”(6). Bằng lời lẽ cứng rắn, ngày 31/5/1882, Freycinet trả lời cho Tăng Kỉ Trạch rằng đã hiểu sai lời ông nói liên quan đến những chuyện xảy ra tại Bắc kỳ. Hoạt động của chánh phủ Pháp chỉ nhằm mục đích bảo đảm việc thi hành Hiệp ước 1874 và do đó chỉ liên quan tới hai nước đã ký kết với nhau mà thôi. Vì vậy mà chánh phủ Pháp đã không phải giải thích gì cho chánh phủ Trung Quốc cả. Thái độ Paris đối với Bắc Kinh đã cứng rắn thêm biết bao! Nếu công hàm của nhà ngoại giao Trung Quốc đã làm cho ông trưởng đoàn ngoại giao Pháp khó chịu thì công hàm trả lời của nhà ngoại giao Pháp cũng làm cho người đại diện của Trung Quốc bất bình không kém. Ngày 14/6/1882, nhà ngoại giao Trung Quốc gửi một bức công hàm cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp, bác bỏ lý thuyết của ông Bộ trưởng Pháp liên quan đến vấn đề Bắc kỳ. Để kết thúc bức công hàm của mình, Tăng Kỉ Trạch viết: “… Nếu như một quyền bá chủ hàng trăm năm trên đất Bắc kỳ, một đường biên giới dài mấy ngàn dặm liền, một số dân đông đảo đã ở lâu trong nước, những quyền lợi buôn bán không kém thua bất cứ một nước nào, sự đi lại trên một con sông là đường tiêu thụ các sản phẩm của miền Tây Nam Trung Quốc; nếu, tôi xin nhắc lại, tất cả những danh nghĩa đó đọng lại, không mang tới cho chánh phủ Hoàng đế tôi cái quyền được quan tâm đến những chuyện xảy ra trên đất Bắc kỳ thì tôi sẽ rất hân hạnh được biết, thưa Ngài Bộ trưởng, cái gì mới mang lại được cái quyền tôi nói trên đây?”(7) Freycinet không trả lời bức công hàm ấy mà ông cho là “thiếu lịch sự” đồng thời ông yêu cầu báo cho Tổng lý Nha môn biết và lưu ý Tổng lý Nha môn, đừng ngạc nhiên nếu người ta không phúc đáp công hàm của phái viên Trung Quốc tại Paris ngày nào ông ta chưa thay đổi giọng điệu trong thư từ của ông ta. Đầu tháng 8/1882, Tổng lý Nha môn báo cho đại sứ Pháp tại Bắc Kinh, Bourée biết rằng, đứng trước những cuộc hành quân của quân đội Pháp xảy ra bên kia biên giới, chánh phủ Trung Quốc buộc lòng phải tăng cường những đồn biên phòng và cho quân họ sang cả về phía Bắc kỳ. Tổng lý Nha môn còn nói thêm rằng những biện pháp ấy chỉ để bảo vệ dân chúng Trung Quốc chống sự xâm nhập của các đảng cướp. Bourée nhận xét qua đó rằng thái độ của Tổng lý Nha môn là hoàn hảo. Ngày 26/12/1882, trong một bức thư gửi ông Bộ trưởng Hải quân, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp lưu ý rằng thái độ của Tổng lý Nha môn ôn hòa hơn thái độ của đại sứ Trung Quốc tại Paris. Hình như một vài thành viên của Tổng lý Nha môn, trong một cuộc nói chuyện riêng với người phiên dịch của phái đoàn Pháp, có nói rằng trong vấn đề Bắc kỳ, họ muốn trước hết là giữ thể diện và sẽ coi như được thỏa mãn nếu nước Pháp, ít nhất tôn trọng ngôi vua của Tự Đức. Tất cả những nguồn tin đó khuyến khích chánh phủ Pháp giữ một thái độ cứng rắn trước những lời phản kháng của nhà ngoại giao Trung Quốc. Ở Huế, cả triều đình vô cùng ngạc nhiên trước sự phản bội Hiệp ước 1874 của chánh phủ Pháp qua việc đánh chiếm thành Hà Nội. Trong số cận thần của Tự Đức, phái độc lập lại chiếm ưu thế. Triều đình ra lệnh cho Kinh lược Nguyễn Chinh và phó Kinh lược đem quân về Mỹ Đức, hợp với quân của Hoàng Kế Viêm chuẩn bị cho cuộc phản công có thể xảy ra. Trong lúc đó đại diện lâm thời Pháp, là Rheinart, giải thích với triều đình rằng, đấy không phải là một hành động mưu tính trước của Pháp, và yêu cầu chánh phủ Việt Nam cử các quan ra thu hồi lại kinh thành Hà Nội đã bị phá hủy một phần. Huế cử hai vị đại thần, với tư cách là đặc phái viên thứ nhất và thứ hai của nhà vua. Họ đến Hà Nội ngày 10/5/1882. Từ ngày 29/4/1882, Rivière đã đề nghị với quan án sát (quan phụ trách tư pháp) Hà Nội trả lại thành. Dự Án Phân Chia Bắc Kỳ Của Pháp Và Trung Quốc Tin đánh chiếm thành Hà Nội làm cho Le Myre de Vilers ngạc nhiên. Nếu công khai ông ta vẫn bênh vực cho nhân viên thừa hành của ông bằng cách xin thưởng cho Rivière Bắc đẩu bội tinh, thì về phía riêng tư ông ta phủ nhận việc làm của Rivière và không giấu giếm nỗi bất bình. Bởi vì hành động bạo lực của Rivière làm tai hại đến đường lối ngoại giao tinh vi của ông ta. Bị chánh phủ buộc phải “sửa chữa” lại hành vi bạo lực của mình, viên đại tá thấy bắt buộc phải đành trả lại thành cho nhà chức trách Việt Nam. Ông án sát yêu cầu hỏi ý kiến triều đình Huế. Khi các phái viên ra đến Hà Nội, họ nối lại một cuộc thương thuyết. Ngoài sự chiếm đóng chùa Hà Nội, Rivière đòi thêm bốn điều kiện mới: Việt Nam phải thừa nhận nền bảo hộ của Pháp; nhượng thành phố Hà Nội cho Pháp; thiết lập các trạm thuế quan tại Bắc kỳ; quyền quản lý thuế quan thuộc về nước Pháp. Khuôn khổ các cuộc đàm phán trước đã vượt quá nhiều. Các phái viên triều đình tỏ ra cứng rắn và có ý khước từ không muốn tiếp tục đàm phán. Huế bác bỏ bốn điểm Rivière áp đặt và gọi phái viên số một của mình về, phái viên thứ hai thì ở lại làm tổng đốc hai tỉnh Hà Nam và Ninh Bình. Triều đình đã xác định về sự thiếu thiện ý của người Pháp chỉ muốn xâm chiếm đất đai; triều đình không thừa nhận rằng Hiệp ước 1874 tạo nên một “nền bảo hộ” và một cái cớ để dùng bạo lực và sự thuyết phục để chiếm đóng đất nước Việt Nam và đặt nó dưới quyền thống trị của Pháp. Ngoài ra, Huế biết rất rõ ở Paris xảy ra những sự việc gì và ở Sài Gòn người ta đang mưu tính những chuyện gì. Từ ngày Hà Nội thất thủ trước cuộc tấn công của Rivière, Huế đã nhiều lần thông qua Phó vương Quảng Đông, kêu gọi Bắc Kinh can thiệp. Ngày 26/8/1882, Tăng Quốc Thuyên, chú của đại sứ Trung Quốc tại Paris Tăng Kỉ Trạch và là tổng đốc Lưỡng Quảng, nhận một “công hàm cầu cứu” đề ngày 29/7/1882 do Tự Đức gửi, yêu cầu ông thông báo cho chánh phủ Trung Quốc biết về việc quân Pháp đánh chiếm Hà Nội. Sau khi hỏi ý kiến của Tổng lý Nha môn, ông tổng đốc Trung Quốc trả lời cho Huế rằng ông ta không thể chuyển lên BắcKinh một bản báo cáo viết với lời lẽ chung chung như vậy và muốn liên hệ với Bắc Kinh cần phải tường trình chi tiết cụ thể về những sự việc xảy ra tại Bắc kỳ. Sau khi nhận được bức thư trả lời này ngày 30/11/1882, Tự Đức viết một bức thư thứ tư cho Tăng Quốc Thuyên, kể lại những sự việc đã xảy ra một cách chi tiết hơn. Nhà vua có nhắc đến bức thư của Dự Khoan, tổng đốc Quảng Tây, đã gửi cho nhà vua ngày 16/6/1882. Trong bức thư này, Dự Khoan có nói cho nhà vua biết rằng sau khi Hà Nội bị thất thủ, Tổng lý Nha môn có đệ trình Hoàng đế một bản tường trình để các nhà chức trách Quảng Tây và Vân Nam thực hiện những biện pháp đề phòng và Tổng lý Nha môn cũng đã can thiệp với đại sứ Pháp tại Bắc Kinh, đòi quân Pháp rút quân khỏi Hà Nội. Nhận được thư này ngày 27/12/1882, Tăng Quốc Thuyên viết thư cho Tự Đức thông báo đã chuyển công hàm của nhà vua lên cho Tổng lý Nha môn và vị ủy viên triều đình phụ trách các cảng miền Bắc và tuyên bố với nhà vua rằng Trung Quốc không hững hờ trước những sự kiện xảy ra tại Việt Nam. Trong một bức thư ngày 16/1/1880 gửi ông tổng đốc Trung Quốc, lần đầu tiên triều đình Huế gửi văn bản hòa ước và hiệp định thương mại ký kết với nước Pháp năm 1874, Tự Đức nhắc lại quá trình diễn biến những mối quan hệ Pháp - Việt, kể từ ngày Pháp đánh chiếm các tỉnh Nam kỳ cho đến ngày Hà Nội thất thủ, rồi kêu gọi Trung Quốc giúp đỡ. Ngay từ 3/6/1882, tổng đốc Vân Nam thông báo cho biết một đạo quân Trung Quốc sắp vượt sang lãnh thổ Việt Nam với sự đồng ý của chánh phủ Huế, để truy kích bọn quân Cờ đen. Tháng 8, một đội quân tiên phong gồm 400 quân chính quy vượt biên giới tại Lào Kay, xuôi mành theo dòng sông Hồng và đóng lại ở Tuyên Quang. Sự xâm nhập cứ tiếp tục ngày càng đông, không những từ Vân Nam tới mà cả Quảng Tây. Họ chiếm đóng cả tỉnh Lạng Sơn, đóng ở Bắc Ninh và cả vùng ngoại ô Hà Nội. Tự Đức đâu có ngờ rằng: với những đội quân “đồng minh”, vị Hoàng đế “bá chủ” và “bảo hộ” mong đợi ấy chẳng qua cũng chỉ là một tên buông câu nước đục! Nhà vua có biết đâu, sau ngày Hà Nội thất thủ, Tăng Quốc Thuyên đã đề nghị Bắc Kinh “nên lợi dụng tư cách láng giềng và sự yếu đuối của nước Việt Nam để chiếm đóng nước này dưới danh nghĩa là giúp Việt Nam tiêu diệt nạn cướp. Về sau, khi cơ hội cho phép, chúng ta sẽ chiếm lấy các tỉnh phía Bắc sông Hồng…”(8) Vậy là Bắc Kinh cứ thế điều quân sang gọi là tiễu trừ bọn phỉ người Tàu và giúp đỡ nước “chư hầu” của mình, họ đóng khắp mọi nơi trên lãnh thổ miền Bắc Việt Nam; về sau những đợt tăng cường quân được gửi đến không ngừng. Được biết có quân Trung Quốc tại Bắc kỳ, ngày 27/7/1882, LeMyre de Vilers viết thư cho Rivière: “… Chúng ta, những người có sức mạnh và có quyền thế, chúng ta sẽ không ứng xử theo những ấn tượng nhất thời. Chương trình của chúng ta đã định. Không vì lý do gì mà đi lệch ra ngoài. Chúng ta sẽ kiên nhẫn, chúng ta sẽ đợi chờ thời cơ thuận lợi; nhưng ông hãy yên trí, chúng ta sẽ làm đúng những điều chúng ta đã định. […] Chúng ta đang đứng trước vô số những quyền lợi mà chúng ta phải nhún nhường, bằng không sự nghiệp chúng ta sẽ bị tiêu tan…”(9) Nhưng chính là tình thế của Rivière đang trở nên nguy hiểm. Ngày 22/8/1882, y ra lệnh cho các pháo thuyền của Pháp đậu ở tại sông Lô, khi cần phải chống lại với tất cả mọi ý đồ của Trung Quốc muốn vượt qua sông Hồng. Ngày 30/8, theo lệnh của Paris, bảo y phải giữ “một thái độ khôn ngoan và dè dặt”, y phải hủy bỏ cái lệnh trên đây của y. Tại Huế, ngày 31/8/1882, Thượng thư Bộ Ngoại giao muốn tránh những lời khiếu nại từ phía người Pháp nếu có sự xung đột xảy ra, báo cho đại diện lâm thời Pháp biết về sự hiện diện của quân đội Trung Quốc tại Bắc kỳ; những đơn vị này có thể đi mua bán tiếp phẩm tại những vùng lân cận của quân đội Pháp. Ngày 8/9/1882, tổng đốc Hà Nội lưu ý Rivière về vấn đề sau đây: người Trung Quốc hùng mạnh; ông thấy không còn làm chủ được việc cai trị tỉnh mình nữa, cho nên ông yêu cầu viên sĩ quan Pháp hãy thận trọng và để cho người Trung Quốc muốn làm gì thì làm, tùy họ. Tại Bắc Kinh, Bourée được Paris giao trách nhiệm thu thập tin tức về sự vận chuyển của quân đội Trung Quốc. Ngày 17/10/1882, Bourée trực tiếp trao cho Tổng lý Nha môn một công hàm đề cập đến những cuộc vận chuyển các đơn vị quân đội Trung Quốc đóng rải rác dọc đường biên giới phía Nam Quảng Tây. Ông đại sứ Pháp lưu ý Tổng lý Nha môn rằng theo những báo cáo nhận được, quân đội Trung Quốc đã đóng các tiền đồn của họ đến tận cả vùng ngoại ô Hà Nội, để nối với Quảng Yên. Nếu những tin tức này là thực tế thì một phần ba lãnh thổ Bắc kỳ đã bị quân đội chính quy Trung Quốc chiếm đóng. Cho nên Bourée yêu cầu Tổng lý Nha môn cho Pháp biết có phải những biện pháp quân sự ấy do chánh phủ Trung Quốc xếp đặt và xuống lệnh thi hành hay không? Ông tuyên bố mong muốn Tổng lý Nha môn giải thích rõ ràng trong thời gian ngắn nhất. Hôm sau, Tổng lý Nha môn gửi công hàm trả lời rằng quân đội Vân Nam gửi sang Bắc kỳ để diệt trừ bọn cướp nhưng chẳng có một tên lính Trung Quốc nào gửi đến vùng xung quanh Hà Nội và quân Trung Quốc làm gì có chiếm đóng vùng này. Tổng lý Nha môn khẳng định rằng những đội quân ấy là do Bắc Kinh ra lệnh điều động tới; trong lúc này họ chưa định rút, nhưng Tổng lý Nha môn cam đoan với nhà ngoại giao Pháp họ sẽ không tiến thêm một bước nào nữa. Sự có mặt của quân đội Trung Quốc không cách Hà Nội bao xa làm cho Paris lo ngại nhiều, thúc đẩy chánh phủ Pháp muốn ngăn ngừa những chuyện phức tạp nguy hiểm có thể xảy ra, tìm cơ hội dàn xếp, đáp ứng cả quyền lợi lẫn uy tín của hai bên như nguyện vọng của ông đại sứ Trung Quốc đã giải bày với chánh phủ Pháp ngày 6/9. Theo chiều hướng đó, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp thảo ra hai đề nghị mà chỉ cần hai bên, Pháp và Trung Quốc, đồng ý là có thể mang lại kết quả mà cả hai bên mong muốn. “1. Chánh phủ Pháp cam kết sẽ không chiếm đóng một điểm nào trong vùng đất giáp giới phía Bắc với biên thùy Trung Quốc, phía Nam với một đường sẽ được quy định sau, thẳng tới sông Hồng về phía thượng lưu, phía trên Lào Kay; về phía họ, chánh phủ Trung Quốc cam kết sẽ không chiếm đóng một điểm nào, không hoạt động gì trong vùng đất nói trên, vùng đất này vẫn do chánh phủ Việt Nam quản lý và không có một đồn ải nào được dựng lên tại đây cả. Nếu có những bọn vũ trang tới đây ẩn náu hoặc nếu tại đây xảy ra những chuyện lộn xộn ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh các vùng lân cận thì các chánh phủ Pháp và Trung Quốc cùng nhau hoặc riêng lẻ, có thể đưa quân vào, sau khi nhất trí với nhau về mục tiêu và mức độ của cuộc hành quân. Những lực lượng ấy phải rút lui ngay sau khi mục tiêu đã đạt. 2. Thành phố Mạn Hảo trên sông Hồng thuộc tỉnh Vân Nam sẽ được mở cửa cho sự buôn bán của người ngoại quốc trong những điều kiện tương tự như đối với các thành phố hoặc cảng khác của nước Trung Quốc mà việc buôn bán được cho phép(10)”. Những đề nghị này cũng chẳng đưa lại kết quả gì hơn là những đề nghị khác. Và ông đại sứ Pháp tại Bắc Kinh được lệnh phải tìm cách nào để biết những ý đồ thực sự của chánh phủ Trung Quốc. Bourée bị tác động sâu sắc vì những hiện tượng bên ngoài thể hiện một sự chuẩn bị chiến tranh từ phía Thiên triều, rất lo sợ một cuộc xâm lăng quy mô lớn của Trung Quốc vào Bắc kỳ có thể diễn ra trong khoảnh khắc. Ít lâu sau, ông ta định đi Thượng Hải để ở đó trong mùa đông. Trước khi lên đường, ấn định vào ngày 11/11/1882, ông mới trao cho Tổng lý Nha môn, hơi muộn, bức thư của ông trả lời cho bức thư ngày 29/10/1882 của Tổng lý Nha môn về chuyện hiểu lầm giữa đại sứ Trung Quốc tại Paris với ông Bộ trưởng Ngoại giao Pháp. Nhà ngoại giao Trung Quốc có gửi công hàm cho Bộ trưởng Ngoại giao Pháp mà ông Bộ trưởng Ngoại giao Pháp không có phúc thư. Bourée lợi dụng bức thư trả lời này để đề cập tới điều mấu chốt của vấn đề Việt Nam và bày tỏ nguyện vọng hai bên sẽ gác qua không đề cập tới những quan điểm có tính nguyên tắc về những mối quan hệ của Pháp và Trung Quốc, đối với Việt Nam. Nhà ngoại giao Pháp đề nghị, thay vì đánh nhau, hai bên có thể cùng nhau dàn xếp một cách thỏa mãn có lợi cho cả hai bên. Bị tác động vì những đề nghị của Bourée mà Việt Nam sẽ chỉ phải một mình chịu đựng lấy mọi thiệt thòi, ông chủ tịch Tổng lý Nha môn đề nghị cử hai đại diện, một Trung Quốc và một Pháp, với những quyền hạn cần thiết, để ký kết một hiệp định giải quyết tất cả những vấn đề gì do cuộc xâm nhập vào Bắc kỳ của Pháp gây ra. Bourée vội vàng chấp nhận ngay về nguyên tắc nhưng yêu cầu cụ thể hóa những chủ đề cần phải giải quyết trong các cuộc thương lượng. Vương Văn Triều, thành viên quan trọng nhất trong Tổng lý Nha môn, trả lời rằng cần phải lo dàn xếp trước những điều cần ký kết để mở cửa bến cảng đã dự định, nghiên cứu những biện pháp cần áp dụng để bảo đảm cho an ninh các vùng biên giới phía Nam Trung Quốc, tìm một quy chế tốt nhất để tạo ra những điều kiện càng thuận lợi càng hay cho các tàu buôn và tàu chiến Trung Quốc qua lại trên sông Hồng, từ Vân Nam đến biển. Bourée phát biểu ý kiến rằng có thể chánh phủ Pháp sẽ chấp nhận cuộc thương thuyết trên cơ sở những điều trên. Trong một bản báo cáo gửi chánh phủ mình, Tổng lý Nha môn chỉ biết rằng ông đại sứ Pháp đã phủ nhận hành vi của ông thống đốc Nam kỳ nói về vấn đề Bắc kỳ, ông ta, (ông đại sứ) tán thành một giải pháp công bằng. Trung Quốc có thể chiếm đóng những tỉnh của Bắc kỳ nằm sát biên giới Trung Quốc. Tin tưởng ở lòng chân thành của nhà ngoại giao Pháp, sau những cuộc hội đàm ngày 7 và 10/11/1882, Tổng lý Nha môn gửi thư cho Lý Hồng Chương, yêu cầu Lý Hồng Chương dành một sự tiếp đón ưu tư cho ông đại sứ Pháp nếu ông ta đến trao đổi ý kiến về những đề nghị trên đây. Đến Thiên Tân ngày 13/11, Bourée tiến hành việc đo đạc dứt điểm những khoảnh đất “nhượng địa Pháp” và ký với Lý Hồng Chương một bản hiệp định. Sau đó, ông ta bàn bạc với Lý Hồng Chương về vấn đề Bắc kỳ. Họ thỏa thuận với nhau trong các cuộc hội đàm ngày 24 và ngày 26/11, gạt lại một bên những vấn đề lý thuyết về quyền bảo hộ và quyền bá chủ, để chỉ đề cập tới khía cạnh thực tế. Sau khi trao đổi quan điểm ngày 20/12/1882, Bourée đề nghị lấy điều sau đây làm cơ sở của hiệp định giải quyết vấn đề Bắc kỳ: Trung Quốc sẽ chiếm tả ngạn sông Hồng, còn hữu ngạn phần của Pháp. “1. Với điều kiện là quân đội Thiên triều rút khỏi những vùng đất đai mà họ đang chiếm đóng ngoài biên giới tỉnh Vân Nam và Quảng Tây và trở về lãnh thổ của mình, hoặc ít ra là không vượt ra ngoài biên giới quá bao nhiêu ‘lý’ đó, ông Bourée sẽ chuyển đạt tới Tổng lý Nha môn một bức công hàm, trong đó ông tuyên bố bằng văn bản rằng nước Pháp không theo đuổi một ý đồ chinh phục nào, một hành động nào chống lại chủ quyền lãnh thổ của nhà vua An Nam. 2. Nước Pháp tìm cách chủ yếu để mở một con đường thủy lưu thông từ Vân Nam đến biển để con đường thủy này mang lại lợi ích cho mình nó phải dẫn tới một điểm nào đó trên đất Trung Quốc, tại đó có thể thiết lập những cơ sở thương mại, những cửa hàng, những kho chứa hàng hóa, những bến cảng. Trước kia nơi đó là Mạn Hảo… Xuôi xuống ít nhiều trên đất Việt Nam và trên bờ sông Kói (tức sông Hồng) thì có thành phố Lào Kay. Lào Kay giàu có về tài nguyên hơn Mạn Hảo nhiều, lại có an ninh mà ở Mạn Hảo không có; sau nữa là sông ở đây, căn bản, sâu hơn. Nếu chọn Lào Kay làm điểm tận cùng của con đường giao thông ngược dòng sông Hồng thì chánh phủ Trung Quốc sẽ coi thành phố này như là thuộc về lãnh thổ Trung Quốc, do đó các trạm hải quan Trung Quốc sẽ được thiết lập lại và những sản phẩm nước ngoài vượt qua hàng rào này rồi sẽ chịu một chế độ chung bình thường như tất cả những sản phẩm khác đã nhập vào nội địa Trung Quốc qua các cửa biển đã được mở. Ngoài ra, chánh phủ Thiên triều sẽ tạo mọi điều kiện để các thứ hàng hóa nội địa dành cho xuất khẩu được xuôi về Lào Kay một cách dễ dàng (ví dụ trừ bọn thổ phỉ, chuyển về Lào Kay những khoản thuế quan biên thùy). 3. Để quét sạch khỏi đất Bắc kỳ những đảng trộm cướp tàn phá, cướp bóc làng mạc, nhân dân và đưa lại một nền cai trị hợp pháp, bảo đảm cho mọi người được sống trong trật tự và an ninh, hai chánh phủ sẽ thỏa thuận với nhau để vạch một con đường phân ranh giới, được xây dựng, đi qua giữa sông Hồng và biên giới Trung Quốc. Những đất đai ở phía Bắc đường ranh giới ấy sẽ được đặt dưới sự kiểm soát của Trung Quốc, vùng phía Nam đặt dưới sự kiểm soát của Pháp. Trung Quốc và Pháp cam kết với nhau, sẽ giữ nguyên tình trạng đã được hai bên thỏa thuận và khi cần, bảo vệ sự nguyên vẹn của Bắc kỳ, trong biên giới tự nhiên của nó, chống lại mọi âm mưu xâm phạm đến nó”(11). Trong quá trình đàm phán, Bourée điện về cho Paris và báo tin những thắng lợi của ông ta: “Chiến tranh với Trung Quốc trước đây dường như là không thể nào tránh khỏi, giờ đây tôi nghĩ rằng nguy cơ đã được loại trừ rồi. Trung Quốc đồng ý rút quân của họ ở Bắc kỳ về. Mệnh lệnh đã được gửi đi bằng công văn khẩn.”(12) Tóm lại là nhà ngoại giao Pháp ấy đã bàn tính với người Tàu để phân chia Bắc kỳ mà không cho biết và cũng chẳng thèm đếm xỉa gì đến người chủ của nó là Việt Nam, kẻ liên quan chánh. Bị tác động trước cuộc tràn xuống của quân lính Trung Quốc mà Hiệp ước Saint Pétersbourg năm 1881 vừa giải phóng, trước nguy cơ một cuộc chiến tranh Pháp - Trung tại Bắc kỳ mà ông ta muốn tránh, cuộc dàn xếp quá vội vàng ấy mâu thuẫn với chính sách của chánh phủ mình. Nếu Bourée nghĩ rằng những lợi mà ông ta đã đạt được với Trung Quốc có thể coi như những lợi khá to lớn thì ngược lại, chánh phủ của ông ta coi như chưa đủ để từ bỏ chính sách chinh phục và thiết lập chế độ thuộc địa tại Việt Nam. Theo ý người Trung Quốc, thì người Pháp có thể thỏa mãn, bởi vì Trung Quốc đồng ý rút quân họ ra khỏi Bắc kỳ. Họ nhận mở cửa Vân Nam cho sự buôn bán với nước ngoài, họ không nói gì đến quyền bá chủ của họ đối với nước Việt Nam, họ từ bỏ yêu sách đối với vùng đất ở phía Nam đường ranh giới dự định và như vậy, tất cả nguy cơ của một cuộc chiến tranh giữa hai nước đã được loại trừ. Nếu cuộc dàn xếp này được chấp thuận, Trung Quốc có thể coi như các mục tiêu mà họ theo đuổi đều đạt được một cách mỹ mãn. Người Pháp thì được thỏa mãn vừa vừa, riêng người Việt Nam phải chịu thiệt thòi tất cả! Cái ý kiến phân chia ấy thực ra không phải của Bourée: Le Myre de Vilers đã gợi ý cho Bourée và chính Le Myre de Vilers đã được Rheinart gợi ý. Tuy đã được những sự “đỡ đầu” đáng quý, cuộc “phân chia” này “Bắc kỳ-gạo” phần nước Pháp, “Bắc kỳ-mỏ” phần Trung Quốc chỉ mang đến một kết quả duy nhất là Bourée, “chưa bao giờ xin phép, và cũng không bao giờ nhận được phép tiến hành những cuộc thương lượng đó” bị cách chức sau đó ít lâu. Cả Jules Ferry, một tên “thực dân tận xương tủy” cả Challemel-Lacour, Bộ trưởng Ngoại giao của ông ta không hề nghĩ đến việc chấp nhận sự xâm nhập của Trung Quốc vào Bắc kỳ dưới bất kỳ dưới hình thức nào, lại càng không nghĩ đến chuyện từ bỏ những ý đồ thuộc địa của họ ở Việt Nam. Trong lúc những cuộc thương lượng giữa Bourée và Lý Hồng Chương đã đưa đến kết quả là một thỏa thuận tạm thời gồm ba điều khoản, ông đặc sứ toàn quyền Pháp tỏ với Tổng lý Nha môn nguyện vọng được thấy những cuộc điều đình Pháp - Trung sắp tới nhằm giải quyết vấn đề Việt Nam sẽ được tiến hành tại Quảng Đông. Về phía họ, chánh phủ Bắc Kinh mong muốn có sự có mặt của các đại diện triều đình Huế trong các cuộc điều đình. Bourée không chấp nhận cho các đại diện triều đình Huế trực tiếp tham gia vào các cuộc điều đình nhưng không từ chối việc hỏi ý kiến họ trong các cuộc thương thuyết. Không đề cập đến những cuộc thương thuyết đã dự định, Tổng lý Nha môn, thông qua trung gian của tổng đốc Lưỡng Quảng, mời triều đình Huế cử cho một hoặc hai vị quan cao cấp sang Thiên Tân để “được hỏi ý kiến”. Bức công hàm của Trung Quốc được tiếp nhận tại Huế ngày 16/1/1883. Tự Đức liền chỉ định Hình bộ Thượng thư Phạm Thân Duật và Quốc vụ khanh Nguyễn Thuật sung vào phái đoàn này. Ngày 17/3/1883, phái đoàn Việt Nam đến Thiên Tân. Do đường đi vất vả mệt nhọc, Phạm Thận Duật, 59 tuổi ngã bệnh. Nhưng thông điệp của vua Tự Đức đã được chuyển cho Lý Hồng Chương không chậm trễ. Đồng thời với những công hàm chính thức gửi cho bộ Lễ tân và cho Lý Hồng Chương để xin viện trợ của Trung Quốc, vua Tự Đứccòn có hai bức thư mật riêng cho Lý Hồng Chương đề ngày 26/1/1883, cùng với một bức thư thỉnh cầu, cũng đề ngày 26/1/1883 gửi cho tổng đốc Lưỡng Quảng, Tăng Quốc Thuyên. Hai bức thư mật của Tự Đức đáng cho chúng ta lưu ý, nhất là bức thứ nhất. Nó làm cho ta thấy rõ vừa về cái “Weltanschauung” (quan niệm về tình hình thế giới) và phương cách áp dụng chính sách trính trị quốc tế của triều đình Huế. Trong bức thư này, Tự Đức yêu cầu chánh phủ Trung Quốc, bằng một sự cố gắng liên tục và thận trọng, tìm những biện pháp thích hợp để giúp chánh phủ Việt Nam một cách hữu hiệu trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc Pháp để kêu gọi dư luận thế giới áp dụng các luật quốc tế và sự trọng tài của các cường quốc trong cuộc tranh chấp giữa Pháp và Việt Nam. Sau khi kín đáo tố cáo sự hững hờ của Tăng Quốc Thuyên trước những lời kêu gọi của mình, nhà vua Việt Nam viết: trong tất cả những cuộc ngoại xâm mà lịch sử ghi lại, không ai chối cãi được rằng cuộc xâm lăng của các nước phương Tây là tai hại nhất và của nước Pháp là nổi tiếng tham lam và tàn bạo hơn tất cả. Dân tộc Việt Nam bao đời nay được giáo dục theo đạo lý phương Đông quá hòa bình, không thể nào có được một cuộc kháng cự mạnh mẽ chống lại những ý đồ luôn luôn có tính chất xâm lược của kẻ thù. Trung Quốc do dân số đông đúc cho nên có thể có nhiều người tài giỏi. Nó lại khôn ngoan, đã biết mở cửa cho nước ngoài vào buôn bán, biết đặt quan hệ với phương Tây, cử các nhà ngoại giao ra nước ngoài, nghiên cứu học tập những nền kỹ thuật mới mẽ của phương Tây. Tất cả những điều đó là những biểu hiện của một nền chính trị đúng. Nó xứng đáng là người anh cả của các nước châu Á. Tự Đức phát biểu tiếp theo quan điểm của mình về phương Tây, tuyên bố rằng các nước Anh, Pháp, Đức, Nga và Hoa Kỳ là những cường quốc chính của phương Tây. Anh và Pháp tuy bề ngoài quan hệ thân thiện với nhau nhưng bên trong kình địch nhau. Pháp và Đức là hai kẻ thù của nhau. Còn Nga và Hoa Kỳ, tuy vẫn đứng ngoài cuộcxung đột giữa các nước khác nhưng vẫn tìm cách lợi dụng các cuộc xung đột đó. Nói về tình hình Việt Nam sau vụ bạo lực Hà Nội, Tự Đức nghĩ rằng đất nước của mình đang đứng trước một sự lựa chọn khó xử: hoặc chiến tranh, tức là chấp nhận chết chóc của bao nhiêu người và đau khổ cho bao nhiêu gia đình; hoặc ký kết hòa bình, tức là kích thích thêm tham vọng không đáy của nước Pháp. Cho nên nhà vua chỉ còn có một cách là kêu gọi Trung Quốc giúp đỡ để thắng được nước Pháp mà không phải đụng đến binh đao, bằng cách ủng hộ Việt Nam trong hiện tại và có những biện pháp thích ứng để đảm bảo tương lai. Về điểm này, điều Tự Đức muốn là phục hưng lại Việt Nam trên con đường hùng cường phồn thịnh. Chính là vì muốn đi theo hướng này mà Việt Nam đã ký kết hiệp ước thương mại với Tây Ban Nha. Tây Ban Nha không dám đem ra thực thi “vì sợ nước Pháp”. Tự Đức yêu cầu Trung Quốc tuyển dụng và gửi đến cho mình những kỹ thuật viên ngoại quốc (có lẽ là kỹ thuật viên nước Mỹ), những huấn luyện viên quân sự và những thiết bị và vật liệu cần thiết để chế tạo vũ khí và đóng tàu biển tại Quảng Nam, Hải Phòng và Hải Dương. Nếu những dự án này tỏ ra khó mà thực hiện được, Tự Đức yêu cầu chánh phủ Trung Quốc vui lòng nhận người Việt Nam vào các công trường và xưởng đóng tàu của mình và dạy cho họ những kỹ thuật hiện đại. Tự Đức còn yêu cầu Trung Quốc thuyết phục kín đáo những nước không có ý đồ đế quốc chủ nghĩa gửi đại diện của họ sang Việt Nam để điều đình và ký những hiệp định thương mại và đặt các lãnh sự quán tại những cảng đã mở cửa. Nhà vua hy vọng có thể bằng cách đó, dung hòa được các hoạt động của Pháp tại Việt Nam. Trong bức thư mật thứ hai, Tự Đức giãi bày với Lý Hồng Chương về cuộc hội kiến của mình với Đương (Đường!?) Cảnh Tùng. Là một Trưởng phòng công vụ, có lẽ ngán cảnh sống cô đơn điệu và không tương lai của một công chức cấp bậc không lấy gì làm cao mặc dầu đã đậu bằng tiến sĩ cách đây hơn mười năm, Đương Cảnh Tùng đã trình bày với chánh phủ những ý kiến của mình về vấn đề Việt Nam và tình nguyện đứng ra thuyết phục quân Cờ đen hoạt động phục vụ cho Trung Quốc. Bắc Kinh chấp nhận đề nghị của ông ta và phái ông ta tới thủ phủ Vân Nam nhận sự phân công công tác của Sầm Dục Anh. Trên đường đi Vân Nam, Đương (Đường!?) Cảnh Tùng đi vòng qua Huế để tìm hiểu về tình hình Việt Nam. Trong một cuộc hội kiến mà nhà vua Việt Nam đã vui lòng dành cho ông ta, Đương Cảnh Tùng có nói cho nhà vua biết rằng: muốn có hiệu quả những cuộc thương thuyết với Pháp nhất thiết phải đi đôi một cuộc kháng chiến vũ trang. Nhưng, trong trường hợp xảy ra một cuộc chiến tranh Việt - Pháp thì kinh đô Huế sẽ bị đe dọa và cửa Thuận An sẽ nằm trong tầm súng của hạm đội Pháp. Trong mục đích bảo vệ Huế, Tự Đức xin hạm đội Trung Quốc giúp sức mình. Sau trận ốm đau, Phạm Thận Duật đã phục hồi sức khỏe, ngày 24/3/1883 ông có một cuộc hội đàm trao đổi quan điểm với Lý Hồng Chương và Trương Thụ Thanh. Nhân danh nhà vua mình, đại sứ Việt Nam một lần nữa xin hạm đội Trung Quốc ủng hộ 20 nghìn quân Trung Quốc bảo vệ thành Huế. Trước yêu cầu cụ thể của phái viên triều đình Huế, phía Trung Quốc lẩn tránh, không bày tỏ lập trường phân minh xác định của mình, vẫn lặp đi lặp lại cái luận điệu cổ điển của họ để tránh không trả lời. Họ lại trách chánh phủ Việt Nam đã ký kết “sau lưng” họ, Hiệp ước 1874 với Pháp, điều đó theo họ, “khiến cho sự viện trợ của Trung Quốc trở thành khó khăn…” Theo Lý Hồng Chương thì các đại sứ Trung Quốc, còn nói cho ông ta biết rằng họ không hề thấy có quân lính Việt Nam trong thời gian họ ở lại Huế. Nếu ta căn cứ vào bản báo cáo mật của Tổng lý Nha môn gởi lên Hoàng đế về sự gợi ý của Tăng Kỉ Trạch nên cấm “vua An Nam” không được xin viện trợ nào nữa của Pháp, có thể đưa đến kết luận rằng Trung Quốc bất lực và không có khả năng giúp đỡ và viện trợ quân sự có hiệu quả cho Việt Nam, nếu Việt Nam yêu cầu và nếu ta căn cứ vào những buổi trao đổi ý kiến giữa Lý Hồng Chương với Bourée đã dẫn đến kết quả là sự phân chia khu vực chiếm đóng giữa Trung Quốc và Pháp thì ta có thể hiểu một cách dễ dàng tại sao Trung Quốc cứ tìm cách lẩn tránh trước mặt các vị đại sứ Việt Nam, không một thái độ rõ ràng không dám hứa hẹn một cách dứt khoát sẽ giúp đỡ và chi viện cho quân đội Việt Nam trong trường hợp bất trắc mà Huế bị tấn công. Sự bất lực của Trung Quốc đã được chứng minh. Sự thông đồng của Trung Quốc với Pháp để phân chia đất nước Việt Nam đã được xác nhận, ác ý của Trung Quốc đã bộc lộ rõ ràng. Tự Đức hoàn toàn chẳng biết gì về những âm mưu đang bao vây xung quanh nhà vua, thương hại thay, cứ vẫn tiếp tục đặt hy vọng vào “vị bá chủ toàn năng” của mình một cách mù quáng và nô lệ. Người Việt Nam chẳng mấy quan tâm đến các chi viện mà Trung Quốc mang lại cho họ trong công cuộc đấu tranh vì độc lập của mình, càng ít quan tâm hơn nữa đến vai trò của ông Phó vương Quảng Đông Tăng Quốc Thuyên, trung gian được ủy nhiệm giữa Bắc Kinh và Huế, nếu người ta biết rằng nhân vật lỗi lạc này, một trong những cổ đông chính của “China Merchant’s Navigation Company” (Công ty Hàng hải Trung Quốc), trước tiên chỉ là một gã thương nhân và những quyền lợi cá nhân của ông ta được đặt lên trước những quyền lợi đất nước. Cái công ty này chuyên việc lo lót, mua chuộc quyền thế, cứ mỗi lần nhà vua Việt Nam định yêu cầu, một cách rụt rè, một sự viện trợ gì của Trung Quốc là nó đặt vào làm trung gian. Phần lớn những cuộc thương thuyết liên quan đến mục đích nào như vậy đều do công ty này tiến hành cả. Cái công ty Trung Quốc này gây nhiều tiếng tăm ồn ào, bao giờ nó cũng tìm đứng trước với hy vọng sẽ được một số nhượng bộ về thương mại của phía chánh phủ Việt Nam. Nó có một sự tồn tại bán chính thức chánh phủ Trung Quốc là một cổ đông của nó, hầu hết các vị quan to (trong đó có Lý Hồng Chương, Trương Thụ Thanh và Tăng Quốc Thuyên) cũng vậy. Mấy ông quan nhỏ làm công tác kiểm tra vềphía nhà nước đến Huế với điệu bộ “sứ giả” và đóng vai trò quan trọng là những nhân viên chánh thức của nhà Trung Quốc trong các cuộc thương lượng với các nhà chức trách Việt Nam về những biện pháp thích hợp nhằm bảo vệ “nước chư hầu”. Trong thực tế, những cuộc hội kiến “ngoại giao” ấy đã diễn ra giữa Nguyễn Văn Tường với các phái viên Trung Quốc không phải nhằm một sự viện trợ cụ thể nào cho Việt Nam như người ta có quyền hy vọng mà nhằm những chuyện buôn lậu trái phép, ví dụ độc quyền chuyên chở gạo mà Tường dành cho công ty Hàng hải trong những điều kiện rất tốn kém cho Việt Nam và rất có lợi cho công ty Trung Quốc, đó là chưa nói đến việc nhập lậu tiền đồng làm cho nền tài chính Việt Nam bị lũng đoạn. Vậy là sự có mặt của các đại diện Việt Nam tại Thiên Tân không còn lý do tồn tại: Phạm Thận Duật và Nguyễn Thuật chỉ còn việc là trở về nước. Lúc này, Bourée sắp sửa bị gọi về Pháp. Những bản báo cáo của Bourée về các cuộc điều đình với chánh phủ Trung Quốc về đến Paris, vào ngày 31/11/1883 giữa lúc đang có cuộc khủng hoảng nội các, sau ngày nội các Duclerc từ chức. Fallières, chủ tịch hội đồng phụ trách lâm thời công tác ngoại giao giới hạn hoạt động của mình ở chỗ báo tin cho Bourée biết vào ngày 14/2/1883 rằng việc cứu xét bản dự án thỏa hiệp với Lý Hồng Chương sẽ được hoãn lại. Ngày 21/2/1883, Jules Ferry lại thành lập một nội các (thứ hai) mới, nội các này tồn tại lâu nhất của nền Đệ tam Cộng hòa, 25 tháng. Nhờ sự giải hòa của phe Cộng hòa cánh tả sau khi Gambetta rời khỏi chính trường (hai nhóm, thuộc phe đa số tại Hạ viện, chiếm 370 ghế). Kể từ 1870, sự bành trướng thuộc địa của Pháp hầu như là liên tục. Chủ nghĩa lạc quan của thế kỷ XVIII, “Chủ nghĩa tiên tri thế tục”, của năm 1789, khích lệ những người theo hướng thực dân, mong muốn truyền bá khắp thế giới bản Phúc âm về quyền con người, thể hiện trong nền Cộng hòa Pháp đó. Vậy, nếu không có một giải pháp kế tục giữa sự bành trướng thực dân dưới Đệ nhị đế chế và sự bành trướng nền Đệ tam Cộng hòa thì chắc chắn rằng giai đoạn lớn của chủ nghĩa đế quốc Pháp, tức giai đoạn 1880-1885, bắt đầu với Jules Ferry, mà Gambetta là người đầu tiên gợi ý. Là người vùng Vosges, có tinh thần chiến đấu cao và là một người Cộng hòa sôi nổi, Jules Ferry đã lựa chọn giữa “rặng núi Vosges xanh lam và thế giới bao la rộng lớn.” Ông tuyên bố đứng về phía một “chính sách bành trướng, tất nhiên là bành trướng khôn ngoan, ôn hòa” nhưng thực ra ông đang khẩn trương theo đuổi công cuộc chinh phục thuộc địa, tại châu Phi da đen tại Madagascar và tại Bắc kỳ (1883-1885) bảo vệ quyền lợi của Pháp tại Ai Cập và đóng một vai trò quan trọng tại Hội nghị Berlin (11/1884-2/1885), nơi đã sinh ra nước Congo độc lập và đặt ra những quy tắc cho việc chiếm lĩnh đất đai tại châu Phi. Tuy trong nội các thứ nhất của mình (9/1880-11/1881), ông ta đã chinh phục Tunisie cho nước Pháp, chính sách thuộc địa của Jules Ferry dường như đã trước tượng đài năm 1882 trong khoảng thời gian ngắn ngủi dành cho suy tư, sau khi ông từ chức thủ tướng chánh phủ. Trong bài ông viết cho cuốn sách của Alfred Rambaud, tháng 1/1892, nội dung về “Những vấn đề Tunisie” ông có nói tới tương lai thuộc địa của nước Pháp và có liên hệ không phải chỉ đến cuộc viễn chinh Tunisie, cả đến vấn đề Bắc kỳ. Bằng một sự tổng hợp công phu, Jules Ferry đã phát ra nội dung chính sách thuộc địa của Pháp. Chính sách đó, ông đã phát triển ra trong ba bài tựa ông viết năm 1882, 1890 và 1891 về các khía cạnh chính trị, kinh tế và nhân đạo. Về chính trị, sự bành trướng thuộc địa là một cách bồi đắp lại cho sự thất bại năm 1870. Jules Ferry chống lại cái lý thuyết nói rằng mọi cuộc bành trướng thuộc địa sang hướng châu Phi đều là “cái bẫy của Đức chăng ra để gài chúng ta”. Về kinh tế, chính sách thuộc địa là cần thiết cho những nước cần xuất khẩu. “Ở đâu có ưu thế chính trị, thì ở đó có ưu thế về sản phẩm, ưu thế về kinh tế…” Về mặt nhân đạo, Jules Ferry nói rằng: “Các dân tộc châu Âu đối với người bản xứ, phải có một nhiệm vụ cao cả là khai hóa văn minh”. Theo ý ông, “nòi giống thượng đẳng, tức giống da trắng, không đi chinh phục vì thú vui chinh phục, với ý đồ bóc lột nước yếu, mà chính là để văn minh hóa cho nước yếu, và nâng nước yếu lên ngang hàng với mình.”(13) Với việc Jules Ferry hùng hổ trở lại cầm quyền, trùng hợp với sự xuất hiện của những nước vừa đến, là Đức và Hoa Kỳ, kéo theo họ cả một đợt sóng bành trướng kinh tế và một chủ nghĩa tư bản cạnh tranh, một cuộc đấu tranh giành giật nhau những nguồn nguyên liệu, những khu vực ảnh hưởng, không bỏ quên dư âm và hình bóng những sự kiện còn đọng lại trong tâm trí bao người ngay trên đất Pháp, do những bài viết của các lý luận gia như Leroy-Beaulieu, người chủ thuyết của“đảng Thuộc địa” do các bài viết diễn văn của các chính trị gia như Clémenceau, do những hồi ký các nhà quân sự như Francis Garnier và do một nền văn học bình dân phong phú, trong đó có tên tuổi nổi bật như Jule Verne(14) sắp mở ra cho nước Pháp một kỷ nguyên đế quốc mới. Kỷ nguyên “Tạm ước” tại Bắc kỳ đã dẫn đến ngày kết thúc. Nhiều người đã lên tiếng phản đối dự án phân chia Bắc kỳ do Bourée đề xướng. Người ta chỉ trích Bourée đã từ bỏ “Bắc kỳ-mỏ” để chỉ giữ lại cho Pháp “Bắc kỳ-gạo”. Người ta đề xuất rằng ngoài châu thổ Bắc kỳ là nơi chỉ có trồng lúa, còn có những vùng mỏ vô cùng giàu có: 5 mỏ bạc tại Thái Nguyên, 2 mỏ đồng tại Hưng Hóa; một mỏ đồng khai tại Tuyên Quang; thiếc và đồng ở Thái Nguyên và cả vùng mỏ Quảng Yên do Fuchs phát hiện. Tất cả các thứ đó có thể mở thông cửa cho nền thương mại và nền công nghiệp mới của nước Pháp. Chính là do vì không muốn bỏ rơi “Bắc kỳ-mỏ” và nói gọn là không bỏ rơi “Bắc kỳ” mà những người liên quan, bao gồm những nhà tài chính, cũng như những nhà quân sự như Victor Roque và Đô đốc Mayer đã chống lại thỏa ước Bourée - Lý Hồng Chương. Theo văn bản chính thức, thì Bourée là “người đã không xin phép, cũng không hề được phép tiến hành những cuộc thương lượng” đã bị cách chức. Theo Henri Cordier, việc cách chức Bourée không hoàn toàn do đường lối chính trị của ông ta tại Bắc kỳ mà do một vài người Pháp tại Thượng Hải, đứng đầu là Millot, phụ tá của Francis Garnier trong cuộc viễn chinh Bắc kỳ thù địch với Bourée. Millot, có những thế dựa mạnh mẽ tại Quốc hội Pháp qua những “thế dựa” đó đã buộc Bộ trưởng Ngoại giao Challamel-Lacour phải triệu hồi Bourée, “mà có lẽ đã được quy định trước theo nguyên tắc”. Và Cordier nói thêm: “Ta hết sức ngạc nhiên khi thấy rằng, ở Paris, người ta gán cho quá nhiều quan trọng những kẻ mà ở ngoại quốc họ chỉ giữ một địa vị quá thấp kém trong giai cấp xã hội.”(15) Theo Semallé, tiếp theo sự sụp đổ của nội các Duclerc trong khi trong nội các Ferry, người ta nghĩ chọn Challemel Lacour để thay thế thì phe cực tả đặt ra một điều kiện “bất di bất dịch” là muốn được sự ủng hộ của họ phải lập tức triệu hồi Bourée. Lý do vì bản dự án phân chia Bắc kỳ(16). Về phía Bourée, ông ta cho rằng nguyên nhân việc triệu hồi ông là do âm mưu của cựu thống đốc Nam kỳ, Le Myre de Vilers. Trong cuộc hội kiến với Lý Hồng Chương tại Thiên Tân ngày 29/3/1883 trên một chiếc tàu thủy, Bourée giải thích rằng việc triệuhồi ông về là do những người có nhiều quyền lợi ở Bắc kỳ gây ra. “… Tại Pháp ông ta nói, có những người chẳng có lương tâm, trong số đó có một ông bác sĩ và một tay môi giới buôn rượu, đã sáng lập ‘Công ty mỏ Bắc kỳ’, họ cho rằng tại Bắc kỳ có những mỏ kim loại chất lượng tốt. Nhiều đại biểu quốc hội đã mua cổ phần công ty ấy. Nhưng sông Hồng còn bị phong tỏa và những hầm mỏ Bắc kỳ có khai thác cũng không thể vận chuyển đi được. Tỷ giá có các cổ phần của ‘Công ty Mỏ Bắc kỳ’ bị sụt xuống. Muốn nâng tỷ giá ấy lên trở lại người ta tuyên truyền về sự giàu có của những hầm mỏ đó và người ta tuyên bố sự cần thiết phải chinh phục Bắc kỳ… Ngay khi Challemel-Lacour vừa nắm chức Bộ trưởng Ngoại giao, người ta đã nói rõ cho ông biết rằng muốn giữ vững cương vị thì phải nghe theo lời họ…”(17) Thế là việc triệu hồi Bourée đã được quyết định. Những quyền lợi tài chính của một số người nằm trong các hầm mỏ Bắc kỳ kèm theo chính sách thuộc địa của Jules Ferry đã góp phần tạo nên một đà phát triển mới cho chính sách đế quốc của Pháp tại Việt Nam. Trong khi, theo yêu cầu của chánh phủ Huế, nhiều đơn vị quân đội Trung Quốc tiếp tục chiếm đóng tại miền Bắc và đã đến cạnh Hà Nội thì trong khắp cả nước, những hội kín, đặc biệt là “Thiên địa Hội” (Hội Trời và Đất) đã bắt đầu hoạt động lại từ hè 1881 và gieo kinh hòang khắp nơi. Được các quan của triều đình nâng đỡ, cấp cho bằng “sĩ quan”, và động viên dân chúng làm quân cho họ, họ tàn sát và hăm dọa giết những người cộng tác với Pháp, họ mạo hiểm đánh úp những đồn lẻ và là chủ những vùng này mà bấy lâu nay chẳng hề được bình định. Từ 1859 đến 1867 muốn giữ được 800.000 dân ba tỉnh Nam kỳ, Pháp phải sử dụng 8.000 quân, tức 1 quân/100 dân. Cuối 1882, Pháp phải duy trì quân số 3.500 người, cho 1.500.000 dân, tức 1 quân/500 dân. Trước một phong trào nổi dậy mãnh liệt như vậy, nước Pháp khó lòng mang lại được sự bình định và phồn thịnh hằng mong muốn. Muốn “nắm” được cái khối 18 triệu người với tỉ lệ là 1 quân/500 dân, cần phải có một đội quân 36.000 người. Đạo quân ấy hoạt động xa chính quốc 13.000 km sẽ tốn cho ngân sách khoảng 2.000 francs/người, tức 40.000 triệu(!). Còn về quản lý, dân sự hay quân sự, tại Nam kỳ, thì phải tốn 12 francs/người, tức tối thiểu mỗi năm là 40 triệu. Là chuyện liều lĩnh, nếu người ta hy vọng rằng nước Pháp sẽ được bù đắp, ít ra là buổi đầu, bởi những món tiền thu nhập công cộng. Người ta đâu có thu thuế được một nước đang có chiến tranh và nổi loạn. Với việc đồn trú quân đội, xây dựng các bệnh viện, và đường sá giao thông, những việc không thể nào trì hoãn được đó đòi hỏi một số kinh phí ít nhất là 80 triệu francs. Căn cứ trên những tính toán ấy, triều đình Huế muốn lôi cuốn nước Pháp vào những món chi tiêu vô định tại Việt Nam bằng cách duy trì một tình trạng thiếu an ninh kéo dài. Người ta không thể loại trừ việc người Pháp tuyển dụng những người lính bản xứ hoặc để giữ trật tự tại Nam kỳ hoặc có thể để chiếm đóng Bắc kỳ. Những quân “tân binh” (partisans) này mà mọi người khinh bỉ, những tên “lính tập” này nếu buông lỏng họ, để tự lấy họ như sau này họ được buông lỏng trong những cuộc hành quân, chẳng bao lâu họ sẽ ra tay áp bức dân chúng. Và người ta cũng thừa đoán được rằng chánh phủ thuộc địa sẽ làm ngơ trước những hành vi quá quắt đó để lấy lòng hạng người “hợp tác” (collabos) này và trả lương họ rẻ mạt. Việt Nam không phải là không biết tình hình chính trị tài chính của Pháp, dư luận công chúng của nó dễ bị chi phối, Quốc hội của nó thiên về cắt giảm chi tiêu. Không dám nghĩ đến một ưu thế quân sự. Việt Nam tìm cách làm cho cả một đạo quân, ít nhất cũng đông đến 20.000 người của Pháp ở Viễn Đông phải án binh bất động trong một thời gian khá dài và bắt ngân sách Pháp phải chịu gánh hằng năm một số kinh phí khoảng 50 triệu francs, với hy vọng gây chán nản cho dư luận công chúng và Quốc hội Pháp. Vả chăng, đây cũng là ý nghĩ của Le Myre de Vilers: “Vấn đề Bắc kỳ, chủ yếu là vấn đề chính trị và hành chánh: đây là một sự nghiệp nhẫn nại và kiên trì.” Dù sao mặc lòng, Việt Nam vẫn chuẩn bị chiến tranh. Tháng 12/1882, triều đình cho lệnh phải chuẩn bị sẵn sàng chiếc tàu chiến đang sửa chữa ở Singapour trong một thời hạn ngắn nhất. Tổng trấn Bình Thuận được thông báo là 40.000 quân Trung Quốc hiện đang ở Bắc kỳ sẽ lên đường ngay lập tức để vào Nam kỳ. Ông tổng trấn cùng các quan tỉnh phải để cho họ đi qua tự do và giúp đỡ họ. Các lãnh sự tại Sài Gòn phải cung cấp những tin tức về số quân cũng như số tàu chiến của Pháp. Tháng 1/1883, Thượng thư bộ Hình Phạm Thận Duật đi sứ Trung Quốc để gặp các thành viên chánh phủ Trung Quốc và yêu cầu họ một sự viện trợ tích cực chống quân Pháp. Sau đó, ông sẽ đi qua Hồng Kông, tìm cách lưu ý chánh phủ Anh quan tâm đến vấn đề Việt Nam. Tại Hồng Kông, ông sẽ liên lạc với một người Việt Nam, vốn đã có hơn hai năm nay những mối quan hệ tốt với thống đốc thuộc địa và sẽ tìm gặp ông đại sứ đặc mệnh toàn quyền Anh tại Bắc Kinh. Triều đình Huế còn giao trách nhiệm cho một linh mục Việt Nam, cha Thơ, nguyên là phiên dịch của phái đoàn đi Paris năm 1878, huân chương Bắc đẩu bội tinh, ra Bắc kỳ, quan sát những cuộc hành quân của quân đội Pháp rồi đi Hồng Kông và sang Pháp, dẫn theo bốn sinh viên. Tại Paris, phe chinh phục thuộc địa lặp lại lý luận quen thuộc của họ. Chúng ta đã thấy Jean Dupuis đã tạo ra cơ hội cho cuộc viễn chinh Henri Rivière thế nào? Lần này, ngày 15/12/1882, y yêu cầu phòng Thương mại Paris “hãy góp tiếng nói có trọng lượng của nó vào với tất cả những tiếng nói cất lên ủng hộ sự thiết lập một chế độ bảo hộ nghiêm túc và vĩnh viễn trên mảnh đất phụ thuộc ấy, của Nam kỳ(18)”. Ngày 3/1/1883, phòng Thương mại đã nhất trí chuẩn y bản tường trình và những kết luận của tiểu ban xuất khẩu của nó và yêu cầu Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Thương mại, trước chánh phủ, ủng hộ đề nghị của phòng Thương mại về việc thiết lập chế độ bảo hộ tại Bắc kỳ “mà chiếm được thì có lợi cho Pháp về bao nhiêu phương diện.” Sự xác định lập trường đối với chính sách thuộc địa của phòng Thương mại bị chi phối vì những cuộc vận động của Dupuis ít hơn là vì cái đà phát triển mới của kinh tế trước những nhu cầu mới của xã hội tư bản tại Pháp và tại châu Âu, và cuộc khủng hoảng kinh tế mới những năm 1881-1882, mở đầu một thời kỳ suy thoái kéo dài mãi đến năm 1889 mới dứt. Trước khi rời bỏ Bộ Hải quân và Thuộc địa lấy lại chương trình hoạt động năm 1880 của mình ra áp dụng, ngày 21/10/1882, Jauréguiberry xin một khoảng kinh phí 10 triệu francs và 6.000 quân cho Bắc kỳ. Trở lại chính sách Dupré, ông ta định dùng áp lực bắt Việt Nam phải xen vào Hiệp ước 1874 một điều khoản về sự thừa nhận công khai chế độ bảo hộ của Pháp trên đất nước Việt Nam, giai đoạn đầu của một cuộc thôn tính tương lai. Sau một cuộc tranh luận gay gắt tại Hội đồng Bộ trưởng, tháng 12/1882, trong đó thủ tướng nội các Grevy phản đối mãnh liệt sau khi Jauréguiberry dọa từ chức thì người ta dàn xếp ổn thỏa với nhau và 700 quân được gửi sang Việt Nam. Ngày 29/12/1882, đoàn quân xuất phát từ đất Pháp lên đường. Nam kỳ vừa mới thay thống đốc Le Myre de Vilers không hợp ý với ông Đô đốc Bộ trưởng đã bị triệu hồi và thay thế bởi Thomson, ngày 7/11/1883. Thomson đến Sài Gòn ngày 12/1/1883 với những chỉ thị của Bộ trưởng: nào chiến dịch ngoại giao và quân sự, nào tổ chức lại đất nước về mặt hành chánh. Một bước dài đã thực hiện nhằm thôn tính đất nước Việt Nam một cách nhẹ nhàng, một vi phạm trắng trợn đối với Hiệp ước 1874. Nhưng chưa đầy 15 ngày, sau khi Thomson đến Sài Gòn thì Jauréguiberry từ chức khi đội quân mà ông ta đã cử đi vừa đến Sài Gòn vào ngày 24/2/1883. Cũng đúng vào lúc ấy, những cuộc vận động hối gấp của Công ty Hàng hải Trung quốc yêu cầu Việt Nam nhượng cho họ mỏ than Hòn Gai tại vịnh Hạ Long, ngày càng bộc lộ rõ ràng khiến các thương gia Pháp lo ngại. Thomson bèn thúc đẩy Rivière khẩn trương hành động: Rivière liền cho chiếm Hòn Gai ngày 12/3/1883 và dựng lên tại đó một đồn lính. Rồi y đem quân nhanh chóng chiếm cả vùng châu thổ sau khi gửi tối hậu thư cho các tổng trấn. Nam Định bị chiếm ngày 27/3. Cùng hôm Rivière chiếm Nam Định, quân Cờ đen hợp quân với đạo quân nhà vua, do Hoàng Kế Viêm chỉ huy và mở một cuộc tấn công vào Hà Nội, lúc này đã trống hết cả quân. Quân Cờ đen đâu phải là quân cướp như các nhà viết sử và các công chức Pháp thường thi nhau lặp đi lặp lại. Có thể vì không có phương tiện nào hay hơn nên họ sống bằng nghề buôn lậu thuốc phiện và vũ khí, nhưng thực tế họ là một đội quân “lê dương(19)” bao gồm cả một số không ít người Pháp. Họ có một số “đồng lõa” là những thương gia lớn, người Âu châu, ở Thượng Hải và Sài Gòn. Những người này thông tin cho họ biết trước về các cuộc hành quân của Pháp về những biện pháp đã được quyết định hoặc bị bác bỏ. Vậy là họ biết rất rõ mọi dự định của Rivière. Về phần Thomson, ông ta ganh tỵ những thắng lợi của các thống đốc trước ngày 21/3/1883, ông ta xin Paris cho thêm viện trợ và xinphép đánh chiếm lấy Huế. Ngày 24/3, ông ta nhận được điện của Bộ trưởng Hải quân yêu cầu ông ta hãy chờ đợi, một dự án luật sẽ được trình Quốc hội tại khóa họp sau. Ngày 2/4/1883, Paris yêu cầu Đô đốc Mayer, chỉ huy đoàn Hải quân Pháp tại Hồng Kông di chuyển các chiến hạm của mình xuống vịnh Bắc kỳ để hỗ trợ cho Rivière. Ngày 3/4, Bộ trưởng Hải quân lại điện cho Thomson bảo phải kiên nhẫn và “ra lệnh cho Rivière giữ nguyên hiện trạng”. Mất Hòn Gai và Nam Định, dĩ nhiên triều đình Huế đau buồn. Hoàng Kế Viêm thử một cuộc nghi binh vào Hà Nội nhưng không thành. Sự phản ứng tự nhiên ấy, người Pháp coi đó là “thiếu trung thực rõ rệt và làm phật ý người Pháp.” Đứng trước các sự kiện như vậy, Thomson nghĩ rằng phái bộ Pháp tại Huế có thể bị đe dọa nghiêm trọng cho nên đã khuyên Rheinart hãy lên ở trên một chiếc tàu Pháp đậu ở cửa Thuận An nhưng vẫn giữ liên lạc với chánh phủ Huế. Triều đình Huế tỏ ra rất lo ngại trước thái độ như vậy, coi nó như một sự tuyên chiến trá hình của chánh phủ Pháp. Ngày 6/8/1883, chiếc tàu “Perseval” bất thần về Sài Gòn với ông đại diện lâm thời, toàn bộ nhân viên và những hồ sơ lưu trữ của phái đoàn. Về phía y, Rivière tuyên bố sự có mặt của phái đoàn Pháp tại Huế là “một phiền phức cho y và là một sự cản trở tinh thần”(20). Mặc dầu các lệnh của Paris bảo phải thận trọng và trì chí, người ta thấy rằng các đại diện tại chỗ của Paris vẫn tự do hành động theo ý muốn của họ. Tuy nhiên để khỏi bị trách cứ, ngày 7/4/1883, Thomson vẫn đề nghị Paris lên án và chỉ trích một cách nghiêm khắc Rheinart và Rivière và yêu cầu cử ngay một đại diện lâm thời khác tới Huế hoặc tranh thủ thời gian để hưởng lợi từ cuộc ra đi của phái đoàn Pháp. Ông ta còn nói thêm rằng ông ta thích giải pháp thứ hai này hơn, điều đó rất dễ hiểu, khi người ta biết rằng ông ta đang dự định tấn công Huế. Sau khi Rheinart đi, chánh phủ Việt Nam cử vào Sài Gòn hai phái viên hỏi Thomson giải thích về những sự kiện vừa diễn ra tại Bắc kỳ và việc ra đi của Rheinart. Ông thống đốc chẳng vội gì tiếp họ. Để tranh thủ thời gian, ông ta tuyên bố phải đợi có những tin tức chính xác về việc chiếm thành Hà Nội mới có thể trả lời được. Ngoài ra, Paris đã quyết định Kergaradec sẽ đi Huế với tư cách là một phái viên bất thường có nhiệm vụ “thông báo những ý định của chánh phủ Pháp” và “chuẩn bị cho việc ở vĩnh viễn sắp tới của Pháp tại Bắc kỳ”. Rivière đã chiếm Nam Định cùng với 190.000 đồng bạc của ngân khố, tổng trấn Vũ Trọng Bình bỏ trốn. Lãnh binh Lê Văn Diêm bị chết. Án sát Hồ Bá Ôn bị trọng thương. Rivière tổ chức thuế quan, thiết lập các đại lý thuốc phiện, mỗi tháng thu nhập cho ngân quỹ 7.000 francs. Y tuyên bố tình trạng giới nghiêm và yêu cầu Đô đốc Mayer tăng viện. Ngày 26/4/1883, Paris đánh điện cho y cho phép đánh chiếm Bắc Ninh và Sơn Tây nếu cần và thông báo sẽ gửi cho y hai ngàn quân viện trợ. Quân đội Việt Nam với đạo quân Cờ đen đi tiên phong, không ngừng vây hãm thành Hà Nội và bắn cả đại bác vào thành ban đêm. Ngày 10/5, Lưu Vĩnh Phước cho dán lên các ngã đường thành phố một bức tối hậu thư đầy tính chất hăm dọa. Cùng ngày hôm đó, Rivière nhận được của Mayer những viện quân chờ đợi. Ngày 19/5/1883, y muốn phá vòng vây thoát ra ngoài thành; với sự sơ hở đã từng làm cho Francis Garnier trước đây thiệt mạng, coi thường kẻ địch của mình, y xông lên với một toán quân vừa đông vừa quyết chiến. Và cũng như Francis Garnier, y bị thương ngã xuống, bị bắt làm tù binh, y bị quân Cờ đen giết chết. Đến đây chấm dứt “sự song đôi” giữa Rivière với Garnier. Nếu Garnier gần như bị phủ nhận, nếu những lãnh thổ hắn chinh phục đã được trả lại cho Việt Nam thì về phần Rivière, y đã bị đánh giá là không cẩn thận, nhất là bởi Rheinart, mà người ta bỗng ngạc nhiên thấy trở thành người “từ tốn và biết tôn trọng pháp luật!” “Tôi tôn trọng những người đã khuất,” Rheinart viết, “và khâm phục những người đã ngã xuống một cách dũng cảm. Nhưng họ gieo giống nào thì gặt giống ấy và số phận mỗi người nhất định cứ phải kết thúc bi thảm như nó đã bắt đầu không hay theo kiểu Anh, nghĩa là một cách bất chính. Người ta đã tiến công người Việt Nam, một cách phạm pháp, và khi họ định thần trở lại tìm cách bảo vệ thì người ta hô hoán lên là ‘họ sát nhân!...(21)” Nhưng chánh phủ Pháp, ngày 27/5/1883, gửi một bức điện cho đội quân viễn chinh: “Nước Pháp sẽ trả thù cho những người con vinh quang của mình…(22)” Rồi họ gửi sang những đạo quân tiếp viện quan trọng.. TS Nguyễn Xuân Thọ Nguồn: (Alpha Books - Ebook) Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam 1858-1897 Trang Lịch Sử |