Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam

Pháp Đánh Chiếm Bắc Kỳ

TS Nguyễn Xuân Thọ

https://sachhiem.net/NGXUANTHO/BuocMoDau_13.php

| ¿ trở ra mục lục| 13-Feb-2023

Chương 12 - Cuộc Đánh Chiếm Bắc Kỳ Của Pháp

Cuối năm 1877, một nội các Cộng hòa lên cầm quyền tại Pháp. Vấn đề chế độ chính trị đã được giải quyết; những người “Cộng hòa ôn hòa”, những người “cơ hội chủ nghĩa”, do nguồn gốc xã hội của họ, theo dõi những câu chuyện của giới kinh doanh với một cảm tình; họ quan tâm đến việc bành trướng thuộc địa; họ gắn bó với giới tài chánh cao cấp, với những kẻ “đầu cơ chứng khoán”.

Chủ nghĩa đế quốc Pháp, trong khía cạnh đặc biệt của nó, mang trước tiên một tính chất cho vay nặng lãi. Các tư bản Pháp chủ yếu đầu tư khu vực tài sản quốc gia, một phần vào các thuộc địa và, sau cùng, ở một mức độ rất thấp vào các xí nghiệp công nghiệp. Sự chuyển hướng đường lối chính trị của Pháp, ngay từ 1879 là tiếp theo một sự thay đổi trong chính sách tài chánh của một vài ngân hàng quan trọng, trong đó sáng kiến đầu tiên thuộc về ngân hàng “Crédit Lyonnais”. Ngân hàng này, ngay những năm sau chiến tranh Pháp - Đức, đã tiến hành xuất khẩu tư bản sang các nước thuộc địa và các nước lệ thuộc.

Một “đảng Thuộc địa” thật sự đã thành hình, được củng cố vững vàng hơn cả những năm 1862 - 1864 và được một trong những người kiên quyết nhất của phe bành trướng thuộc địa, một trong các thủ lĩnhphe Cộng hòa, là Jules Ferry, giúp đỡ tiến hành một chiến dịch rất có hệ thống, nhằm xét lại Hiệp ước 1874 mà người ta coi như còn có nhiều điều thiếu sót.

Các thương gia Pháp tại Bắc kỳ, hòa điệu với bản hợp xướng này, tháng 4/1880, đã đệ trình một bản thỉnh cầu theo chiều hướng đó. Với sự cạnh tranh luôn luôn gia tăng của các cường quốc, nó gây ra trong thời kỳ khủng hoảng và suy thoái này một cuộc chạy đua như điên, đi tìm thị trường buôn bán, tờ “Nhật báo các phòng Thương mại” tháng 5/1883 đã lập lại những luận cứ biện hộ cho cuộc chinh phục vũ trang.

Chính là trong hoàn cảnh chính trị, kinh tế và tài chính này, mà dự án xâm chiếm Bắc kỳ của Pháp được hình thành; một vài sự kiện mà thống đốc Nam kỳ gọi là “nghiêm trọng” (như việc bắt giữ một người Việt Nam phục dịch phái đoàn Pháp tại Huế; việc bắt giữ một người Việt Nam, công dân Pháp vì tội nhập lậu tiền đồng) và sự hiện diện của quân đội Trung Quốc tại miền Bắc Việt Nam… đã trở thành những duyên cớ cho cuộc xâm chiếm này.

Sau nhiều lần bị Quốc hội bác bỏ, lần này những chi phí mà Bộ Hải quân và Bộ Ngoại giao cùng kết hợp xin đã được Quốc hội biểu quyết thông qua hồi tháng 7/1881.

Ngay tức thời, Đô đốc Cloué, Bộ trưởng Hải quân cùng Le Myre de Vilers, đang nghỉ hè tại Pháp, tiến hành một cuộc can thiệp vào Bắc kỳ. Không cần đợi ông thống đốc trở về, ông Bộ trưởng gửi luôn cho tướng Trentinian tạm quyền thống đốc ở Sài Gòn các chỉ thị:

“… Khôi phục lại uy tín của chính quyền Pháp, đã bị giảm thấp do những yếu đuối và do dự của chúng ta, nhưng trước hết tránh lao vào những phiêu lưu của một cuộc chinh phục quân sự; bảo hộ một cách công khai lợi ích và an ninh của người châu Âu tại các vùng này, đó là mục tiêu mà chúng ta phải đạt trong chính sách của chúng ta ở Bắc kỳ.

Vậy cần phải có một thái độ và lời lẽ như thế nào đối với triều đình Huế, để họ hiểu rằng đã đến lúc cần nghiêm túc thực hiện những điều đã ghi trong hiệp ước mà lâu nay, do đường lối chính sách xảo trá quanh co của họ, đã hóa thành những lời suông vô hiệu. Muốn được chấp nhận thì thái độ ấy cần phải dựa vào một sự biểu dương vật chất, không mang tính một hành động quân sự nhưng vẫn đủ sáng tỏ để triều đình Huế hiểu rằng chúng ta có đầy đủ phương thức để buộc họ phải tôn trọng ý muốn của nước Pháp. Cái cớ chính mà chúng ta dựa vào để đặt ra các yêu sách của chúng ta và lý giải cho những lời lẽ nghiêm khắc của chúng ta, là sự bất thi hành các Hiệp ước 1874. Còn chỗ dựa cần thiết để các yêu sách của chúng ta có hiệu lực là việc điều động tới bờ biển Bắc kỳ, tất cả hạm đội mà các ông có thể có. Các ông sẽ xác định lấy thời điểm nào là thuận lợi nhất, về phương diện chính trị, cũng như về phương diện thời tiết, cho cuộc biểu dương lực lượng này.

Sự cần thiết phải tiêu trừ bọn cướp phỉ - bọn này di chuyển chỗ này qua chỗ khác chứ không phải là giảm bớt, đảm bảo cho các thương nhân được tự do buôn bán trên sông Hồng, xác nhận tính chất(1) mặt hiệp ước của việc biểu dương lực lượng(2)... của chúng ta vào dòng nội địa của sông Hồng.

Để làm chỗ dựa cho cuộc biểu dương thủy quân (vẫn theo một trình tự suy nghĩ ấy), các ông có thể nếu cần, tăng cường thêm số quân đồn trú ở Hà Nội, và Hải Phòng; việc tăng quân đó, Nam kỳ có thể cung cấp cho các ông mà không ảnh hưởng gì đến sự an ninh của mình. Nó phải tiến hành từng đợt nhỏ, lặng lẽ, không ai thấy, sao cho đến một ngày nhất định, chúng ta có trên bộ một số quân đông gấp đôi hiện nay. Chẳng hạn, chúng ta có thể đưa vào 100 mà chỉ rút ra 50.

Còn chuyện tìm ra một duyên cớ để ngược sông Hồng thì chắc chắn các ông thừa khả năng. (…)

Tôi cũng hy vọng rằng đối với Tây Ban Nha, chúng ta làm được cho họ trở nên bàng quan trước vấn đề (và chúng ta cần phải làm cho họ trở nên bàng quan trong một thời gian sớm nhất) thì họ sẽ đồng ý thu gọn vai trò của họ tại Bắc kỳ tới mức độ không trở ngại gì đến việc thi hành các quyền của chúng ta.”(3)

Vậy là hoàn toàn rõ ràng, Paris đã ra những mệnh lệnh cụ thể nhằm chuẩn bị tích cực cho một cuộc xâm chiếm Bắc kỳ: biểu dương lực lượng thủy quân, tăng cường quân số hiện có. Cộng thêm vào những việc chuẩn bị đó là một sự khiêu khích cố ý: ngược dòng sông Hồng.

Còn đối với Tây Ban Nha, để làm cho họ không phản ứng, LeMyre vừa trở lại Sài Gòn triệu tập ngay Hội đồng Thuộc địa để biểu quyết, ngày 10/12/1881 một khoản tạm ứng, nhằm trả cho đồng minh cũ của mình số tiền mà Việt Nam còn nợ họ. Trả hết nợ là người ta tránh được việc Tây Ban Nha, có thể viện cớ Việt Nam chưa trả hết nợ cho mình, đòi tham gia cuộc viễn chinh của Pháp tại Bắc kỳ.(4)

Không để mất thì giờ, Le Myre de Vilers quyết định tăng quân số các đơn vị bảo vệ lãnh sự quán tại Bắc kỳ lên gấp đôi.

Để thừa hành nhiệm vụ đó, ông ta chọn đại tá Henry Rivière, người đã nổi tiếng “khéo giải quyết những vấn đề tế nhị. Người ta có thể tin rằng viên sĩ quan này sẽ không làm cho tình hình trở nên rắc rối thêm do thiếu mềm dẻo và khôn khéo”. Hơn nữa, Henry Rivière đã từng được giao trách nhiệm đi đàn áp cuộc nổi dậy của người Canaques tại Tân – Calédonie hai năm về trước. Lúc này ông ta đang là đại tá hải quân tại Sài Gòn.

Ngày 17/1/1882 Le Myre de Vilers chỉ thị cho Rivière như sau:

“… Tôi đã phải phản đối nhiều lần với chánh phủ An Nam và yêu cầu họ đuổi bọn lính đánh thuê Trung Quốc, gọi là quân Cờ đen do họ trả lương ra khỏi lãnh thổ. Không khước từ đề nghị của tôi, nhưng triều đình Huế lấy cớ rằng những đội quân không chính quy ấy đã giúp cho triều đình nhiều việc thực ra chính là do triều đình bất lực và đã không đáp ứng được yêu sách của tôi. Họ chỉ trả lời rằng họ sẽ cách ly những nhóm quân ấy đi thật xa.

Mặt khác, tôi vừa được biết rằng Lưu Vĩnh Phước vừa qua Trung Quốc, dọc đường được chào đón như một vị tướng quân và mang theo mình những số tiền cực lớn, chắc chắn để tuyển thêm quân mới. Đồng thời, những vụ hải quan tịch thu hàng hóa, chứng tỏ người ta đang tiến hành một cuộc mua sắm quy mô lớn những vũ khí bắn nhanh và dụng cụ chiến tranh.

Trong những trường hợp này, tôi thấy cần phải đặt quân đội chúng ta vào chỗ an toàn, không bị phục kích và tôi đã quyết định tăng gấp đôi số quân đồn trú tại Hà Nội.

Ông hãy chỉ thị cho chiếc ‘Drac’ chuẩn bị sẵn để nhổ neo… tối thứ Năm và chuyển ra Bắc kỳ hai đại đội bổ sung. Tôi muốn chính ông sẽ chủ trì cuộc hành quân này.

Ông đã biết quan điểm của chánh phủ nước Cộng hòa chúng ta. Chánh phủ không muốn bằng bất cứ giá nào tiến hành một cuộc chiến tranh chinh phục tại một xứ sở cách xa nước Pháp bốn ngàn dặm. Chúng ta phải mở rộng và củng cố ảnh hưởng của chúng ta tại Bắc kỳ và An Nam bằng chính trị một cách hòa bình và thông qua phương pháp hành chánh. Biện pháp mà chúng ta áp dụng ngày hôm nay căn bản là một biện pháp đề phòng; cho nên ông chỉ được dùng sức mạnh trong trường hợp tuyệt đối cần thiết và tôi trông chờ ở sự khôn ngoan của ông để tránh được mọi bất ngờ, tuy rằng không chắc chắn có thể xảy đến.

Ở Hà Nội chúng ta không có đủ doanh trại để lưu trú cho 450 người; ông hãy xây dựng lấy một chỗ ở tạm thời cho họ.

“… Như ông biết, các trạm thuế quan nội địa do quân Cờ đen thiết lập, đóng trên dòng sông Hồng và các nhánh của nó trái với các hiệp định. Ông sẽ kiểm soát con sông và tôi nghĩ ông nên đặt một đồn công sự tại cửa sông Lô, sẽ là điều rất có ích…

“Chúng ta sẽ nói chuyện với các nhà chức trách Việt Nam để xin nhượng một mảnh đất cần thiết, nhất định họ sẽ có những nhận xét, đắn đo; họ sẽ đặt vấn đề hỏi ý kiến triều đình… để trì hoãn. Ông sẽ bước qua cả chuyện ấy đi nếu một khi thời cơ tỏ ra thuận lợi. Vả lại tôi vẫn tin là ông sẽ không vấp phải một sự chống đỡ nào đáng kể.

Ông không được có những cuộc tiếp xúc nào, trực tiếp hoặc gián tiếp, với quân Cờ đen… Trong trường hợp, không chắc chắn lắm, gặp các đội quân ‘Thiên triều’, thì ông hãy cẩn thận tránh mọi xung đột (…)

Tất cả ý kiến của tôi có thể tóm lại trong một câu này: tránh tiếng súng, nó chẳng giúp ông được việc gì mà chỉ gây ra những điều phiền toái”(5)

Nói cách khác là Rivière phải chinh phục Bắc kỳ một cách im lặng, tránh quân Trung Quốc được càng nhiều càng tốt, đừng khơi động sự nghi kỵ của các nước.

Viên đại tá Henry Rivière, người được giao cái trách nhiệm khó khăn tế nhị ở Bắc kỳ này là ai vậy? Vì sao Le Myre de Vilers lại không gọi đến người khác, chẳng hạn như Kergaradec hoặc Rheinart, hai sĩ quan giàu kinh nghiệm, có ưu thế là đã làm việc tại chỗ nhiều năm nay? Là vì đối với ông, một người mới đến như Rivière (chưa đầy bốn tháng ở Sài Gòn), không biết ngôn ngữ, phong tục tập quán của nước đó thì sẽ không có định kiến và có nhiều cơ may tuân theo nghiêm túc các chỉ thị của ông hơn, nghĩa là sẽ giữ được một “thái độ hòa bình”. Le Myre de Vilers biết Rivière từ lâu, ông “quý trọng trí tuệ mềm mỏng, tinh thần cảnh giác và tính điềm tĩnh đúng mức của Rivière có khả năng chống lại sự say sưa quá đáng, trước những thắng lợi thuần túy quân sự”(6).

Thế nhưng, nếu quả đó là ý nghĩ của ông thống đốc, thì ông ta đã lầm to. Trong thực tế, Henry Rivière, nhà viết tiểu thuyết tùy lúc, “vừa lính thủy, vừa nhà văn ấy đang ấp ủ hai tham vọng: chiếc áo màu xanh lá cây(7) và những ngôi sao Đô đốc”. Tuổi đã năm mươi tư và nóng lòng muốn đạt được mục tiêu sớm sủa, ông ta nghĩ rằng những thành tích quân sự có thể tăng thêm cơ may được bầu vào Viện Hàn lâm. Lúc rời nước Pháp ra đi, ông ta viết thư cho một người bạn: “Tôi đi, qua Bắc kỳ, đến Viện Hàn lâm Pháp.”

Lời lẽ trong các chỉ thị cho Rivière, như người ta thấy, chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Freycinet vừa chuẩn y những chỉ thị “rất ôn hòa” của Le Myre de Vilers vừa tỏ ra đôi chút ngạc nhiên.

Trên thực tế, ngày xuất phát của Rivière bị hoãn chậm lại, nội các Gambetta không muốn tiến hành một cuộc viễn chinh chiếm thuộc địa khi chưa tổ chức xong một đạo quân thuộc địa và chưa giải quyết xong vấn đề Ai Cập. Nội các hoãn lại việc gửi quân sang Bắc kỳ chỉ khi nội các đổ rồi do một vấn đề nội trị, xảy ra sau đó không bao lâu, thì dự án mới được đem ra thi hành.

Trở lại Bộ Hải quân trong nội các mới, Freycinet Jauréguiberry, đúng như người ta nghĩ và mặc dù ông ta cho rằng bản dự án của LeMyre de Vilers còn có những thiếu sót, ông vẫn duyệt y ngày 4/3/1882, và ngày 18/3 thì được thủ tướng nội các chấp thuận. Henri Rivière với một nhóm quân nhỏ rời Sài Gòn ngày 26/3/1882.

Lần này, khác với khi Francis Garnier lên đường, chính ông Bộ trưởng đi tìm kiếm cuộc chinh phục mà không cần phải dè dặt gì về phương tiện, trong khi ông thống đốc Nam kỳ thích dùng những cáchthức không “chói lọi” để buộc Huế phải thừa nhận cuộc chiếm đóng tuy có chậm chạp hơn một ít.

Ngày 13/3/1882, vài hôm trước khi Rivière xuất phát, Le Myre de Vilers viết cho vua Tự Đức một bức thư:

“Tâu Bệ hạ, Bệ hạ biết rõ những tình cảm của tôi đối với đấng chí tôn. Bệ hạ biết tôi là con người hòa bình và từ hai năm nay, tôi đã làm hết sức mình để duy trì giữa nước An Nam và nước Pháp những mối quan hệ hữu nghị mà tôi cho là cần thiết cho lợi ích của hai nước. Cho nên cúi mong Bệ hạ sẽ không hiểu sai những ý kiến mà sự hiểu biết của tôi buộc tôi phải phân trần với Bệ hạ.

Tâu Bệ hạ, người ta đang dẫn triều đại của Bệ hạ tới chỗ suy vong. Pháp luật không được tuân thủ. Đâu đâu cũng có chuyện cướp bóc và lộn xộn diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật. Dân chúng bị bóc lột tận xương tủy, do bàn tay của chính những người có trọng trách phải bảo vệ nhân dân. Tài sản đất nước tiêu tan và đói khổ lan rộng.

Tại Bắc kỳ, những du khách người Pháp có hộ chiếu hợp lệ bị những bọn đánh thuê người Tàu tiến công. Bọn này, một lũ côn đồ thực sự, chúng đã làm bị thương một trong những người du khách Pháp và các nhà chức trách địa phương đành bất lực trong việc bảo vệ cho người nước của chúng tôi.

Ngay ở Huế, đại diện của nước Pháp bị xúc phạm nghiêm trọng; vậy mà phải mất mười hai ngày và phải có sự can thiệp của Bệ hạ, mới được xét xử thỏa đáng.

“Tên tướng cướp Trung Quốc, Lưu Vĩnh Phước, ngăn cản ông lãnh sự tại Hải Phòng, De Champeaux và ông Fuchs, kỹ sư trưởng hầm mỏ, không cho họ tiếp tục cuộc hành trình của họ, lại còn trở giọng hăm đe nặng lời.

“Chánh phủ Cộng hòa Pháp không thể nào chấp nhận một tình hình như vậy và tôi rất lấy làm tiếc thấy mình bắt buộc phải thi hành những biện pháp phòng bị, hòng bảo vệ an ninh cho người nước chúng tôi.

Nhưng tôi cần thấy phải tâu bày lại với Bệ hạ rằng, nước Pháp không muốn gì chuyện chiến tranh và chúng tôi chỉ sử dụng đến vũ khí trong tình thế bị cưỡng bức phải sử dụng. Nói tóm lại, chúng tôi sẽ trông vào thái độ xử lý của chánh phủ An Nam tại Bắc kỳ mà quy định thái độ xử lý của chúng tôi”(8).

Khi người ta biết rõ, những ý định thực sự của chánh phủ Pháp, đúng như chúng tôi đã trình bày, qua công hàm qua lại giữa những nhà lãnh đạo, người ta có thể nhận ra rằng bức thư này còn khác xa với những ý định nói trên khá nhiều. Ngược lại, nó biện hộ cho cuộc can thiệp vũ trang mà chánh phủ Pháp đang chuẩn bị triển khai, nhằm chinh phục Bắc kỳ. Bằng cách lập lại chiến dịch đã được tiến hành cách đây chín năm trước thành Hà Nội, cuộc viễn chinh của Henry Rivière lần này, không nghi ngờ gì nữa, chính là sự nối tiếp tự nhiên, cuộc viễn chinh của Francis Garnier. Khác một chút là những ý định thoáng qua của Pháp năm 1873 trước kia giờ đây đã biến thành những tất yếu cấp thiết.

Trước hết những nguyên nhân do sâu xa của cuộc viễn chinh Henri Rivière là do đâu?

Trong một bản báo cáo ngày 7/2/1882 gửi cho triều đình Bắc Kinh và nhận được ngày 20/4 về bề trái của chính sách tại Bắc kỳ, đại sứ đặc mệnh toàn quyền Trung Quốc tại Paris nói cho chánh phủ Trung Quốc biết rằng, dưới chiêu bài buôn bán giữa Vân Nam và Bắc kỳ, Jean Dupuis chính ra đã thực hiện kế hoạch của Đô đốc Dupré, nhằm đánh chiếm miền Bắc Việt Nam. Không thành công trong việc đó, Dupuis đã mất vài triệu francs. Trở về Pháp, y đòi chánh phủ Pháp trả cho y một số tiền bồi thường. Chánh phủ Pháp hứa với y sẽ trả số tiền đó, ngay sau khi Pháp chiếm được Bắc kỳ. Năm ấy, Tăng Kỉ Trạch viết: Dupuis biên thư cho những người liên doanh với y ở Quảng Đông, và ở Thượng Hải, bảo họ đến Paris nhận lãnh số tiền bồi thường đó; nhưng khi đến Paris rồi, bọn họ chẳng nhận được gì cả và đành phải trở về không.

Những tài liệu này được cung cấp cho nhà ngoại giao Trung Quốc, qua viên thư ký – phiên dịch người Anh của ông ta là Mac Cartney. Tăng Kỉ Trạch có thể suy luận rằng trong lúc này chánh phủ Pháp tạm gác bỏ dự định can thiệp vũ trang vào Bắc kỳ của họ.

Quả vậy, Dupuis đã vận động các nhà chức trách, trước là ở Sài Gòn, sau là ở Paris, để xin một số kinh phí. Ngày 24/2/1881, Hạ viện cuối cùng đã thông qua những kết luận của tiểu ban Bouchet, theo đó Dupuis có quyền được hưởng một số tiền bồi thường của chánh phủ Việt Nam và một số nữa của chánh phủ thuộc địa. Sau cuộc biểu quyết này, Dupuis có thể đòi hưởng một số tiền trợ cấp của chánh phủ Pháp. Đó là những cuộc vận động mà Tăng Kỉ Trạch đã kể lại. Nhưng Jules Ferry, giờ đây là thủ tướng nội các, khuyên Dupuis gắng đợi khi những vấn đề chính trị của Bắc kỳ được giải quyết xong, ông còn bảo y là người ta có thể tìm thấy tại đó những yếu tố đầy đủ để bồi thường cho y mà không cần phải lấy vào kho bạc nước Pháp. Vậy Dupuis và Millot, cộng sự của y, có thể hy vọng trở lại Bắc kỳ vào cuối năm 1882.

Nhưng muốn tiến hành cuộc viễn chinh Bắc kỳ cần phải có kinh phí. Theo như Semallé, đại diện lâm thời của Pháp tại Bắc Kinh, chứng nhận thì trước hôm xảy ra cuộc xung đột Pháp - Trung, thiếu tá Fournier – người mà sau này sẽ ký kết bản thỏa hiệp ngày 11/5/1884 với Lý Hồng Chương – đã kể với ông ta rằng: muốn được Hạ nghị viện biểu quyết cấp cho kinh phí thì ông ta phải, cùng với Dupuis, đi thăm các trụ sở hội kín “Franc Maconnerie” (Hội kín chính trị dựa trên tinh thần tương trợ và lẽ phải) quan trọng, của nước Pháp, điều kiện tối cần cho việc biểu quyết các kinh phí cần thiết(9).

Theo những tài liệu vừa của Pháp vừa của Trung Quốc đó, ta có thể khẳng định rằng cuộc viễn chinh Henri Rivière, thực tế là kết quả hoạt động của Dupuis, Millot và Fournier.

Sự có mặt bất ngờ của Rivière tại Hà Nội ngày 3/4/1882 với một đoàn tháp tùng quan trọng gồm hai đại đội – trong khi Hiệp ước 1874 chỉ thừa nhận cho Pháp được quyền có một lực lượng tối đa là 100 người – làm cho các nhà chức trách Việt Nam lo ngại, rất chính đáng: Họ lại sắp sửa tiến hành một vụ Jean Dupuis nữa chăng? Cảm thấy bị đe dọa, các nhà đương quyền quân sự Hà Nội chuẩn bị phương tiện đối phó, phòng hờ một cuộc tấn công bất trắc. Nỗi lo sợ của họ hoàn toàn có căn cứ.

Lúc này tại miền Bắc, có 54.750 lính chiến Việt Nam; ở miền Trung có 40.100, cùng 9.100 không phải lính chiến phục vụ nhà vua, ở Huế; 20.250 lính chiến miền Nam, và 33.350 không phải lính chiến, trong cả nước, gọi là “lính lệ” phục vụ tại các phủ, huyện(10). Quân đội Việt Nam trang bị kém, luyện tập yếu, giá trị chiến đấu không bảo đảm.

Về phía Pháp, người ta tập họp lại tại Hải Phòng, như đã dự kiến, “toàn bộ lực lượng thủy quân có trong tay” gồm có 9 tàu chiến và tại chỗ, 450 lính thủy đánh bộ, 20 hải quân pháo binh với 3 đại bác, cộng với bộ phận trực thuộc của “nhượng địa” gồm 20 lính Việt Nam bổ sung của quân đội Pháp, 130 lính thủy, một đại bác 12 ly và một đại bác 4 ly.

Ngày 24/4/1882, khi mọi lực lượng đã được tập họp lại tại Hà Nội, trước sự kinh ngạc của người dân Việt Nam, Rivière tuyên bố bị đe dọa bởi những “việc chuẩn bị chiến tranh” của Việt Nam; ngày 25/4, y gửi tối hậu thư đòi tổng đốc Hà Nội giao thành cho y đúng giờ sáng, cùng với toàn bộ các quan lại văn võ của đô thành này.

Trong bản báo cáo ngày 13/5/1882, Rivière nói rõ với cái giọng đểu giả:

“… Tôi bèn gửi tối hậu thư của tôi cho ông tổng đốc. Tôi gửi vào lúc 5 giờ sáng và chỉ để cho ông ta có ba tiếng đồng hồ để trả lời… Đến khoảng 7 giờ 30, ông ta xin tôi cho hoãn thêm một ngày. Tôi không trả lời mà vả lại, tôi cũng không cho… Đến 8 giờ, tức giới hạn cuối cùng mà tôi đã ấn định, ông tổng đốc không đến, vậy là tôi cứ việc hành động…”(11)

Vậy là Rivière gửi đi một tối hậu thư không thể nào chấp nhận được đối với một vị tư lệnh chỉ huy bảo vệ thành và ấn định một thời hạn quá ngắn ngủi, đến mức độ không ai có thể thỏa mãn được những điều kiện ông ta đặt ra cả khi ông tổng đốc có thể chấp nhận về nguyên tắc đi nữa. Không thể có vấn đề kéo dài thời hạn ấy nữa, Rivière đang nóng lòng vào Viện Hàn lâm Pháp.

Vậy là cuộc “viễn chinh hòa bình” đã bị “Kết xử”.

Thành Hà Nội bị tấn công vào hồi 8 giờ sáng ngày 25/4/1882, và 11 giờ 15 phút trưa thì thất thủ. Tổng đốc Hoàng Diệu thắt cổ tự tử để trừng phạt mình về tội để mất Hà thành, như Phan Thanh Giản trước đây.

Liền ngay sau đó, Rivière tính đến chuyện “mở rộng sự nghiệp hòa bình” của mình. Viết thư cho Alexandre Dumas-Con (1824-1895) kể chiến công của mình ở Hà Nội, Rivière viết:

“… Tôi nghĩ chúng ta cần phải chiếm thêm hai, hoặc ba thành nữa, đang án ngữ con sông lớn của Bắc kỳ…”(12)

Ngày 20/6/1882, Jauréguiberry nhiệt liệt khen ngợi “sức mạnh và nhiệt tình hăng hái đã được phát huy trong khi tiến hành công việc này”(13). Việc vi phạm trắng trợn các quyền con người chứa đựng trong cuộc can thiệp vũ trang vào Bắc kỳ đó không làm cho ông Bộ trưởng bối rối chút nào. Nhưng cái làm cho ông Bộ trưởng bối rối hơn là những chuyện rắc rối có thể xảy ra giữa lúc tình trạng khủng hoảng của Ai Cập đang phát triển mạnh. Không nên như vậy. Và “kẻ đóng vai chính trong kế hoạch can thiệp” trong một thời gian, ngả theo cách nhìn của Le Myre de Vilers, vì cũng như Le Myre de Vilers, ông cho rằng một hành động giới hạn ở mức độ “cảnh sát tầm cao” và “quản lý thuế quan” cũng đủ để khiến triều đình Huế phải điều đình thỏa hiệp. Vậy là trước mắt, Le Myre de Vilers chỉ giao cho đại diện của mình, một hiệu lệnh duy nhất, là tránh mọi xung đột và “tranh thủ thời gian”.

Freycinet lên cầm quyền lần thứ hai, đã quyết định gửi tàu chiến Pháp qua Alexandrie, bên cạnh các tàu chiến Anh. Sau đó ít lâu, ông ta lại gửi trở về vì Quốc hội từ chối và nội các ông ta đổ sau một cuộc tranh luận sôi nổi về sự tham gia của nước Pháp vào công cuộc bảo vệ kênh đào Suez.

Trong lúc này, vào đầu mùa mưa lũ của sông Hồng, Rivière thực hiện một cuộc thăm dò trên sông Lô, từ ngày 6 đến 8/6, nhằm chọn địa điểm đặt một đồn lính tại ngã ba sông nhằm bảo đảm cho sự qua lại tự do trên sông Hồng. Sự việc này đủ để “báo động” Lưu Vĩnh Phước. Lưu Vĩnh Phước liền xin đầu hàng với điều kiện là cắt cho Phước một “mảnh đất phong” khá quan trọng ở vùng châu thổ sông Hồng. Hoặc, do vì không được phép điều đình với quân Cờ đen hoặc vì đề nghị của Lưu Vĩnh Phước đi trái với ý đồ của y (chẳng phải là nên khẳng định rằng cuộc viễn chinh này nhằm mục đích quét sạch con sông Hồng sao?)

Rivière không trả lời và Lưu Vĩnh Phước đã trở thành kẻ thù không đội trời chung của quân Pháp.

TS Nguyễn Xuân Thọ

Nguồn: (Alpha Books - Ebook) Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam 1858-1897

Trang Lịch Sử