Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam

Phản Ứng Của Quốc Tế

TS Nguyễn Xuân Thọ

https://sachhiem.net/NGXUANTHO/BuocMoDau_11.php

| ¿ trở ra mục lục| 13-Feb-2023

Chương 10 - Sau Hiệp Ước 1874 Những Phản Ứng Của Quốc Tế Và Của Việt Nam

Hiệp ước, ký kết giữa Pháp và Việt Nam, ngày 15/3/1874 gây ra nhiều phản ứng khác nhau. Nó chứa đựng nhiều điểm mâu thuẫn.

Người đầu tiên chỉ trích bản hiệp ước là Krantz, người kế vị Đô đốc Dupré.

Trong bản báo cáo ngày 11/8 gửi Bộ trưởng Hải quân, ông nói một cách không giấu giếm rằng bản hiệp ước này không được hoàn hảo, có nghĩa là “nặng sóng gió địa phương” và rối ren phức tạp về mặt quốc tế. Đối với ông Thống đốc mới của Nam kỳ, điều cần thiết là “vị toàn quyền có lỗi” tức là người trước ông, Đô đốc Dupré phải trở lại Sài Gòn “để thè lưỡi ra mà liếm sạch một con gấu lông lá xồm xoàm”. Và Krantz viết tiếp:

“Nước An Nam không muốn và sẽ không bao giờ muốn chấp nhận chữ ‘bảo hộ’ và các đại sứ An Nam đã từng chối từ, không thừa nhận tính ưu thế của văn bản bằng tiếng Pháp;nếu Trung Quốc mang quân đến Bắc kỳ, các ngài sẽ xử trí như thế nào khi một công dân Đức bị lãnh sự của chúng ta tại Bắc kỳ kết án, kêu gọi sự can thiệp của chánh phủ anh ta? Ngài làm sao có thể trả cho Tây Ban Nha số tiền bồi thường chiến tranh mà nước An Nam còn nợ họ, bằng cách chiết đi một nửa số tiền thuế hải quan tại ba cảng đã mở cửa, bởi vì những chi phí hải quan đó bao giờ cũng nhiều hơn số tiền lời, khi việc buôn bán với Vân Nam bấp bênh và có khi hoàn toàn vô hiệu vào mùa khô khan? Chúng ta cần gì phải mở rộng sự ‘bảo hộ’ của chúng ta, trong khi sự chiếm đóng của chúng ta tại Nam kỳ, đáng lý ra phải thu hẹp lại?”(1)

Bản hiệp ước chính trị này chưa kịp được chuẩn y thì, ngày 29/7/1874, chánh phủ Anh quốc trao cho Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, thông qua đại sứ Anh tại Paris một bức công hàm phản đối liên quan đến hai bản hiệp ước nói trên.

Nhưng chủ yếu hiệp ước thương mại làm cho chánh phủ Luân Đôn lưu ý hơn cả. Ngày 15/11/1874, một bức giác thư của Anh trao cho chánh phủ Paris: nội dung bức thư này phản đối những quyền tài phán của các lãnh sự Pháp cho phép họ định đoạt mọi quyết định về những khó khăn có thể xảy ra giữa những người ngoại quốc với cơ quan hải quan, sau nữa những đặc ân quy định một cách có lợi cho những tàu buôn chở hàng hóa từ Sài Gòn đi hoặc đến Sài Gòn.

Trong khi tại châu Âu, nước Pháp đang tìm kiếm đồng minh để đối phó trước sự đe dọa bất thần của ông láng giềng phía đông, sau khi mà Nữ hoàng Victoria vừa ủng hộ nước Pháp, trước sự chuẩn bị chiến tranh của Bismark, bằng một bức thư riêng gửi cho Guillaume I, thì sự phản đối của chánh phủ Anh đáng được chánh phủ Pháp lưu ý một cách đặt biệt.

Công tước Decazes, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp tìm một lối dàn xếp ổn thỏa. Đối với một bản hiệp ước chính trị đã ký kết ngoài phạm vi hoạt động của ông, do một ông “lính thủy” đóng vai một “nhân viên ngoại giao cơ hội” (diplomate occasionnel), Thống đốc Nam kỳ, ký kết, Decazes không thiết tha cho bằng ông đồng nghiệp hải quân, nhạy cảm hơn đối với những khiếu nại về cảng Sài Gòn, ông Bộ trưởng Ngoại giao xóa bỏ, bằng lối giải thích đặc quyền độc tài xét xử ấy dành cho Pháp qua Hiệp ước 15/3/1874, một đặc điểm của chế độ bảo hộ trá hình.

Trong khi trả lời cho chánh phủ Luân Đôn, ngày 24/3/1875, ông Bộ trưởng Ngoại giao Pháp nhấn mạnh tính chất tạm thời của Hiệp ước 1874, thừa nhận tính chất không bắt buộc về quyền tài phán của các lãnh sự Pháp, chấp nhận nguyên tắc có thể nhận tạm thời những lãnh sự nước ngoài, duy nhất được quyền xét xử đồng bào họ vào các cảng mở cửa. Những điều chỉnh mà Luân Đôn đòi hỏi, như vậy đã được thỏa mãn, nhưng chánh phủ Paris không bao giờ quan tâm đến những chuyện đó. Dù sao, đó cũng là một lỗ trống đầu tiên của Hiệp ước 1874 có thể lo ngại sẽ có nhiều ảnh hưởng ngoại quốc kình địch xâm nhập vào Việt Nam. Những người đeo đuổi theo một chính sách cứng rắn cần phải nhớ điều đó.

Người Anh không tìm cách bước qua cái lỗ hổng này. Nhưng các nước khác tỏ ý lợi dụng ngay cơ hội. Người Đức, đầu tiên thông báo cho biết họ muốn đặt lãnh sự quán tại Bắc kỳ.

Từ 1874, chủ nghĩa đế quốc Anh đã củng cố vị trí của mình tại Đông Nam Á bằng sự thiết lập chế độ bảo hộ Anh trên các tiểu vương quốc bán đảo Malacca và những lời phản đối của triều đình Saint-James với Paris, nằm trong khuôn khổ chính sách mở rộng thuộc địa của nước Anh, trùng hợp với thời kỳ khủng hoảng và suy thoái tại châu Âu, giữa những năm 1870 - 1880. Về phía mình, nước Đức mà nền kinh tế quốc dân, năm 1873, đã tới một khủng hoảng công nghiệp, đang đi tìm những thị trường mới, không thể không quan tâm tới Việt Nam và để cho nước Pháp một mình thâu tóm mọi mối lợi buôn bán trong khu vực này.

Song song với những yêu cầu trên với Paris, các cường quốc cố hành động ngay tại chỗ. Trong lúc chánh phủ Pháp vừa nhận được giácthư của chánh phủ Anh, thì Brooke-Robertson, lãnh sự Anh tại QuảngĐông, đến Hà Nội. Về phía họ, Đức cũng không bỏ cơ hội tìm cách tiếp xúc với các nhà chức trách Việt Nam. Ngày 6/4/1875, chiếc tàu hộ tống Đức “Wolf” đến Hải Phòng. Tại Đà Nẵng, thuyền trưởng tàu liên lạc với các quan chức Việt Nam; các quan chức Việt Nam báo cáo ngay lên cho chánh phủ biết viên thuyền trưởng có nguyện vọng đến Huế, hoặc bằng tàu thủy của ông vào cửa Thuận An, hoặc bằng đường bộ để gặp nhà vua và đàm phán thương mại.

Trước khi trả lời yêu cầu ấy, triều đình Huế thấy cần nên hỏi ý kiến viên đại diện Pháp tại kinh đô. Viên đại diện khuyên triều đình nên đón tiếp chiếc tàu với một thái độ đúng đắn, hợp nghi thức đối với các nước ngoài trong thời bình và giao cho các nhà chức trách Đà Nẵng tiếp viên thuyền trưởng, với tư cách là đại diện của triều đình. Nếu viên thuyền trưởng yêu cầu nhiều hơn thì phải bảo ông ta trình bày rõ mục đích cuộc thăm viếng hay công tác của ông ta trong một bức thư gửi cho quan Thượng thư Ngoại giao Việt Nam để quan Thượng thư có thể trả lời cho ông ta.

Viên thuyền trưởng trả lời các quan chức địa phương rằng ông ta chỉ có nhiệm vụ đến thăm các nhà đương cục nước Việt Nam, rồi ông ta rời Đà Nẵng để đi Quy Nhơn. Cũng trong lúc này, đại sứ Pháp ở Berlin, ông De Saint-Vallier có nhiều hội kiến với Thủ tướng Bismarck về vấn đề Bắc kỳ.

Tháng 11/1878, trong một cuộc trò chuyện thân mật, Bismarck nói cho Saint-Vallier biết những chuyện khó tính, cho ông ta về ý đồ hăng hái muốn chiếm thuộc địa của bọn chủ tàu buôn và thương nhân ở các cảng lớn của Đức như Hambourg, Brême, Stettin. Hoàng thân (Bismarck) tâm sự với đại sứ Pháp rằng ý kiến cá nhân ông là chống sự thiết lập thuộc địa Đức ở hải ngoại. Ông thấy điều đó là một nguy cơ và là một nguồn tổn phí lớn và ông đã từ chối một vài đề nghị mới đây, đặc biệt là đề nghị của vị Sultan (Quốc vương) Maroc định bán cho ông một hòn đảo trong quần đảo Antilles. Nhưng ông không thể không biết rằng một cường quốc có một nền kinh tế phát triển và một nhu cầu bành trướng rộng lớn như nước Đức ắt phải cần tạo ra cho mình, tại các chi nhánh hãng buôn và các thương mại của mình ở những miền đất xa xôi. Mặt khác, ông lấy làm tiếc khi nhìn thấy luồng di cư hết sức to lớn dân Đức sang Hoa Kỳ mà không mang lại lợi ích gì cho Tổ quốc.

Những suy nghiệm ấy đưa ông đến chỗ chấp nhận nên đặt các thương điếm Đức ở một vài miền xa xôi, tại châu Đại dương, tại châu Á, có thể tại Nam Phi và ông nói tiếp về Việt Nam như sau:

“... Nhiều nhà thám hiểm Đức giục tôi nên nhanh chóng lợi dụng thời cơ mà mảnh đất còn trống để thiết lập những cơ sở buôn bán tại Bắc kỳ và trên bờ sông Hồng. Họ hình dung cho tôi con sông Hồng như con đường thủy duy nhất đi lại được cho phép mang hàng hóa của chúng tôi đến tận trung tâm mà lâu nay không làm sao đến được của miền Hoa Nam.

Tôi đã phản đối lại mấy nhà thám hiểm của tôi rằng Bắc kỳ, đối với tôi dường như đã nằm trong quỹ đạo tự nhiên của các thuộc địa Pháp tại Nam kỳ, hơn nữa mới cách đây vài năm một hiệp ước giữa nước Pháp và nước An Nam (Hiệp ước 1874), thừa nhận cho nước Pháp ‘cái quyền’ thiết lập nền ‘bảo hộ’ của nó trên Bắc kỳ.

Nhưng các nhà ‘du khách của tôi’ đáp lại rằng Pháp không thi hành hiệp ước này, rằng dường như Pháp đã từ bỏ mọi dự định đối với Bắc kỳ và Pháp đã hờ hững vấn đề này đến mức độ để cho bọn cướp biển người Trung Quốc chiếm hữu sông Hồng và đóng cửa con đường giao thông cho sự buôn bán.

Theo họ, chỉ cần một cuộc viễn chinh không tốn kém bao nhiêu cũng đủ để quét sạch bọn hải tặc này ra khỏi con sông Hồng, mở lại thông thương cho sự buôn bán của châu Âu và đảm bảo an ninh cho nó bằng cách thiết lập một vài đồn lũy hai bên bờ.

Những gợi ý ấy, tôi không niềm nở đón nhận cũng không gạt bỏ đi, vì tôi muốn nhất trí với ông [ông ta nói với vị đại sứ] trước khi quyết định.

Tôi không muốn cạnh tranh với ông, cũng không muốn đi ngược lại quan điểm của ông. Vậy tôi đề nghị ông hỏi ông Waddington, dưới một hình thức thân mật và riêng tư, xem thử chánh phủ của ông có định dựa vào hiệp ước này để nắm ưu thế đối với nước An Nam, và thi hành những điều khoản liên quan đến Bắc kỳ hay là chánh phủ ông lờ hẳn xứ sở này đi, từ bỏ ý định thiết lập nền bảo hộ của mình đối với Bắc kỳ, cùng sự bảo đảm an ninh và quyền kiểm soát sông Hồng. Câu trả lời của ông sẽ quyết định cách xử lý của chúng tôi...”(2)

Bằng một bức thư đặc biệt, nhằm giữ kín mối liên lạc mà Bismarck muốn giữ trong khuôn khổ tuyệt đối cá nhân và bí mật, Saint-Vallier kể lại câu chuyện tâm sự đó của ông Hoàng thân với Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, Waddington.

Cũng dưới hình thức ấy, ông Bộ trưởng trả lời ông đại sứ, giao cho ông trách nhiệm cảm ơn nhiệt liệt vị Hoàng thân và nói cho ông ta biết rằng: “Nước Pháp coi việc chiếm lấy Bắc kỳ là cần thiết cho an ninh và phát triển xứ thuộc địa Nam kỳ. Chánh phủ Pháp vẫn luôn luôn muốn thi hành hiệp ước với Việt Nam và giải phóng sông Hồng bằng cách tiễu trừ bọn hải tặc người Tàu; nhưng chánh phủ chưa có thể cho biết sẽ thực hiện việc đó vào lúc nào, nhưng chắc chắn là rất gần thôi”.

Ông Hoàng thân không phản đối câu trả lời đó, mà chỉ cho biết một dự bị:

Trong trường hợp mà nước Pháp, sau này từ bỏ các dự định của mình tại Bắc kỳ, và từ chối những quyền lợi mà Hiệp ước 1874 đem lại thì ông Hoàng thân có thể lại sử dụng quyền tự do hành động của mình.

Bismarck không đề cập đến vấn đề ấy với Saint-Vallier nữa, nhưng đã mấy lần những văn kiện không chính thức của nội các Đức, biên soạn theo gợi ý của ông ta, có những bài viết mà kết luận là: “Trước tình trạng trì trệ bất động của nước Pháp để cho sông Hồng bị bọn cướp người Tàu quấy nhiễu, nước Đức cần phải giành lấy con đường giao thông ấy cho thương mại của mình, bằng cách diệt trừ bọn cướp kia và thiết lập những thương điếm đồn bót nhỏ trên hai bờ sông Hồng.”

Về sau khi được giao phụ trách vấn đề chính trị tại Bộ Ngoại giao, Saint-Vallier trở lại vấn đề này nhiều lần, trong những bức thư riêng gửi các Bộ trưởng kế tiếp của ông ta, Waddington, Freycinet, Barthélemy de Saint-Hilaire, từ 1879 đến 1881.

Trong thực tế, nếu các thương nhân Đức sẵn sàng đặt chân lên đất Bắc kỳ thì Bismarck lại chẳng làm gì để ngăn cản sự bành trướng của nước Pháp hải ngoại. Trong tư tưởng ông ta, điều đó có cái lợi là làm cho nước Pháp quên đi, không nghĩ tới hai tỉnh Alsace-Lorraine và có thể làm cho Pháp đối lập với Anh.

Ngày 26/7/1880, Freycinet, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, có thể tuyên bố một cách cụ thể với Jauréguiberry, ông bạn Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa của ông ta, như sau: “Nước Đức đã cho tôi biết rằng họ sẽ không ganh tị gì nếu chúng ta đặt nền thống trị trên đất Bắc kỳ”.

Nước Đức chịu trách nhiệm, một phần nào, về sự phát triển thuộc địa của Pháp. Hơn nữa, vị thủ tướng Đức đã chẳng tuyên bố: “Tôi để cho nước Pháp quyền lãnh đạo tất cả mọi đường biên giới, trừ đường biên giới sông Rhin”, đó sao?

Những phản ứng của nước Anh trước Hiệp ước 1874, những thèm muốn của nước Đức đối với Bắc kỳ và cả sự chiếm đóng của nước Pháp trên đất Việt Nam, đều là kết quả của sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các cường quốc châu Âu, trong cuộc chạy đua tìm kiếm những thị trường buôn bán. Người ta đi tìm những miền đất mới có nguồn tài nguyên phong phú, nhân lực rẻ và dồi dào, thuận tiện cho việc xuất khẩu vốn, ở đó người ta có thể dễ dàng tự bảo vệ mình chống lại sự cạnh tranh ngoại quốc, nói tóm lại là có thể thiết lập tại đó sự độc quyền của riêng mình. Các nước xa xôi và chưa phát triển, trong đó có Việt Nam, là những mảnh đất thuận lợi nhất cho sự khai thác này. Trong cuộc chạy đua này, Pháp và Anh, chẳng bao lâu sẽ nắm giữ ưu thế. Tây Ban Nha, từ cuộc viễn chinh đến nay, vẫn đứng ngoài lề đang quan tâm đến đề nghị của Pháp mở các lãnh sự quán. Thông qua viên lãnh sự của họ tại Sài Gòn, chánh phủ Madrid thông báo cho ông thống đốc Nam kỳ biết ý định của mình về việc ký kết một hiệp ước thương mại với Việt Nam và bảo đại diện của mình yêu cầu đại diện của Pháp giúp đỡ cho, trong việc thương lượng với triều đình Huế để mở cuộc đàm phán.

Lâu nay nước Pháp đã chiếm lấy hầu hết phần lợi quan trọng cho mình trong các cuộc đàm phán với Việt Nam; người đồng minh khốn khổ của Pháp, Tây Ban Nha đã dần dần bị lãng quên; dĩ nhiên Tây Ban Nha nên được hưởng một ít đặc ân của nước Pháp, hơn là Anh và Đức.

Hiệp ước thương mại này cũng chẳng có giá trị gì nhiều cho lắm, sẽ ký ngày 27/1/1880. Đó là cuộc tiếp xúc duy nhất giữa Tây Ban Nha - Việt Nam.

Ngày 27/2/1875, công tước Decazes, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, gửi chỉ thị cho bá tước Rochechouart, đại sứ đặc nhiệm toàn quyền của Pháp tại Bắc Kinh, yêu cầu thông báo cho chánh phủ Trung Quốc biết Hiệp ước 1874.

Vị Bộ trưởng Ngoại giao mới của Pháp, vừa thay cho công tước de Broglie, quyết định theo đuổi một chính sách ngoại giao khôn khéo, trong lúc chờ đợi kinh tế chấn hưng lại để nước Pháp hàn gắn những vết thương của chiến tranh 1870 và khôi phục lại địa vị của mình. Hai chữ “bảo hộ” không có ghi trong bản hiệp ước, cũng như trong bức thư của ông ta gởi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Pháp tại Bắc Kinh.

Ngoài ra, ông còn nhấn mạnh tới điều khoản II của hiệp ước, quy định rằng nước Pháp thừa nhận chủ quyền của vua Tự Đức và độc lập của nhà vua đối với tất cả các nước ngoài và hứa hẹn sẽ giúp đỡ và viện trợ cho nhà vua. Decazes yêu cầu Rochechouart nhấn mạnh với Tổng lý Nha môn (Tsong Li-yamen)(3) về những cái lợi mà Trung Quốc có thể được hưởng do việc mở cửa thông thương sông Hồng, từ biển đến Vân Nam. Ngoài ra, ông còn yêu cầu ông đại sứ Pháp cố gắng đánh tan mọi nghi ngờ của ông Tổng lý Nha môn trong chừng mực mà hoàn cảnh triều đại đổi thay cho phép.

Quả vậy, vua Quang Tự (1872-1908), 4 tuổi, vừa mới lên ngôi. Trong lúc vua còn thơ ấu, một bà mà, sau này từ 1860 đến 1908, năm bà ta mất, tính cách phi thường đã in một dấu ấn sâu đậm vào lịch sử Trung Quốc, bà Thái hậu Từ Hy nắm giữ trong tay mọi quyền bính của đứa cháu còn thơ ấu mà bà ta đã đặt lên ngôi, khi con trai của bà, Hoàng đế Đồng Trị chết.

Trong bức thư ngày 24/5/1875, gửi cho Tổng lý Nha môn, kèm theo văn bản Hiệp ước 1874, đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Pháp tại Bắc Kinh tuyên bố chủ yếu:

“… Nước Pháp có trách nhiệm chăm đến sự an toàn và độc lập của vua Tự Đức, chánh phủ Trung Quốc nên hiểu rằng, để duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa Pháp và Trung Quốc, chánh phủ Trung Quốc cần phải xuống lệnh rất nghiêm khắc cho nhà chức trách Vân Nam, buộc họ, không những phải ngăn cản những toán người Trung Quốc mới xâm nhập vào vương quốc An Nam mà còn gọi cả những người hiện đang làm những hành động hung tàn ở An Nam về.”(4)

Ngoài ra, ông ta còn yêu cầu mở những cuộc điều đình để mở sông Hồng cho việc buôn bán ngoại quốc.

Trả lời nhà ngoại giao Pháp, ngày 13/6/1875, Cung Thân vương, chủ tịch Tổng lý Nha môn lưu ý ông ta rằng, trong bản hiệp ước nói trên, không có điều khoản nào đề cập tới vấn đề mở cửa Vân Nam cho việc buôn bán của nước ngoài, rằng quân đội Trung Quốc, đóng ở Bắc kỳ, đã được phái sang, theo yêu cầu của chánh phủ Việt Nam, nhằm trừ loạn cướp bóc: cuối cùng rằng Việt Nam là nước chư hầu của Trung Quốc.

Trong các buổi hội kiến giữa chủ tịch Tổng lý Nha môn với đại sứ Pháp tại Bắc Kinh về vấn đề quyền bá chủ của Trung Quốc đối với Việt Nam, có một chỗ phiên dịch sai, khiến ông đại sứ Pháp hiểu lầm rằng Trung Quốc đã từ bỏ quyền bá chủ của mình đối với Việt Nam. Cung dường như đã tuyên bố rằng: “Nước An Nam, còn gọi là Việt Nam, từ bao giờ vẫn là chư hầu của Trung Quốc”; câu đó được phiên dịch thành: “An Nam là vùng cũng gọi là ‘Yué Nan’ (Việt Nam), nó đã từng là chư hầu của Trung Quốc”. Nói cách khác, là “Việt Nam không còn là chư hầu của Trung Quốc nữa”. Dựa vào câu phiên dịch sai lầm đó, ông đại sứ Pháp kết luận rằng Trung Quốc đã từ bỏ quyền bá chủ của mình đối với Việt Nam. Cho nên, trong bức thư ngày 19/6/1875 gửi cho Decazes, Rochechouart viết rằng: “Ông Thân vương chỉ nói đến địa vị chư hầu của An Nam đối với Trung Quốc trong quá khứ và điều đó có nghĩa là một sự thừa nhận tự nhiên tình trạng hiện nay.”

Ông viết thêm:

“Dầu sao, tôi tưởng rằng vua Tự Đức nên thông báo cho chánh phủ Trung Quốc bản hiệp ước này để cho Tổng lý Nha môn không còn nghi ngờ gì nữa về sự hiện diện của hiệp ước này…”(5)

Hiệp ước Pháp - Việt 1874 đã thành mục tiêu của những cuộc thảo luận gay go giữa hai chánh phủ Pháp và Trung Quốc và giữa các luật gia. Nó đã đóng một vai trò lớn trong cuộc tranh luận Pháp - Trung đưa đến cuộc xung đột vũ trang năm 1884-1885 diễn ra trên mảnh đất Bắc kỳ.

Trung Quốc, lúc đó đang gặp nhiều khó khăn về phía nước Nga (vấn đề Kouldja(?)) và với Nhật Bản (vấn đề Triều Tiên). Họ không quan tâm gì đến Hiệp ước 1874 và không phản kháng đáng kể sau khi hiệp ước được thông báo. Chỉ sau khi hiệp ước Kouldja được ký kết (1881), khi hầu tước Tăng Kỉ Trạch được cử làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Paris và khi nghe tình hình Bắc kỳ trở nên nghiêm trọng, chánh phủ Trung Quốc mới bắt tay hoạt động ngoại giao lại để phản đối Hiệp ước 1874.

Hơn nữa ở Paris, Thiên triều bị coi như “không đáng kể”, về phương diện quân sự và ngoại giao.

Trong số các cường quốc quan tâm hơn cả đến Hiệp ước 1874, chỉ có phản ứng của nước Anh là được chánh phủ Pháp ít nhiều lưu ý một cách nghiêm túc. Nước Anh được thỏa mãn ngay về những điểm mà họ lên án. Và Anh cũng dừng lại ở đó; lúc này, họ đang chủ tâm về Cận Đông: vấn đề ưu thế kinh tế trên vùng kinh Suez, vấn đề củng cố các vị trí của mình ở miền Đông Địa Trung Hải.

Phản Ứng Của Việt Nam

Sau khi Hiệp ước 1874 đã ký kết, người ta thấy rõ rằng sự tồn tại của Việt Nam, với tư cách là một quốc gia, đang bị lung lay và nền độc lập dân tộc đang bị đe dọa nghiêm trọng. Nỗi lo sợ ấy được thành hình trong nhân dân Việt Nam; nó được sự biểu đồng tình, ít nhất của những người có ý thức, trong số các nhân vật có trách nhiệm điều hành việc nước.

Đồng thời với những sự kiện quan trọng đang tiếp diễn dồn dập, đe dọa tương lai của đất nước Việt Nam, trong dân chúng xuất hiện một trào lưu “canh tân”, làm cho triều đình Huế lo ngại. Nhật Bản nêu gương sáng canh tân, năm 1868, năm khởi đầu của “kỷ nguyên Minh Trị”, (1868-1912) kỷ nguyên của tiến bộ được Việt Nam noi theo; tại Trung Quốc, sau thất bại 1895 Khang Hữu Vy và Lương Khải Siêu cũng noi theo và đề xướng phong trào cải cách.

Được khích lệ bởi nhiều người đầy tâm huyết như Phan Thanh Giản năm 1864; Nguyễn Trường Tộ năm 1866; Đinh Văn Điền năm 1868; Phạm Phú Thứ năm 1874; hoặc về sau, Phan Kiếm năm 1881; và bao nhiêu người khác… nhiều phương án cải cách, đáng chú ý đã được thảo ra từ ngòi bút của những nhân vật lịch duyệt, đi nhiều và sống nhiều ở nước ngoài, ý thức được sự hèn kém cũng như sự lạc hậu của nước mình so với các nước châu Âu và thành thật mong muốn khôi phục và nâng cao địa vị của Tổ quốc, nhưng hại thay, những phương án, những bản điều trần đó không được các nhà lãnh đạo chấp nhận một cách trân trọng như đáng ra nó phải được.

Trong số những đại thần của triều đình chỉ có Phan Thanh Giản và Phạm Phú Thứ là thật sự mang một tinh thần mới và chủ trương một cuộc đổi mới đất nước thật sự. Vì đã từng có dịp đi sang châu Âu và chứng kiến sức mạnh và sự giàu có phồn vinh của nền văn minh phương Tây, Phan Thanh Giản muốn cho đất nước mình biết khai thác nền văn minh đó một cách có lợi, thì đáp lại triều đình lại tình nghi ông, một cách sai lầm, là “thân Pháp”. Phạm Phú Thứ, người đã cùng đi Pháp và Tây Ban Nha với Phan Thanh Giản, tháng 3/1865, đệ dâng lên vua Tự Đức một bản điều trần, đề nghị nhà vua cho sáng lập các trường Hải quân dạy tiếng nước ngoài, phát triển kỹ nghệ, khai thác các hầm mỏ và tài nguyên đất nước. Năm 1873 rồi 1874, ông lại đề nghị triều đình tổ chức lại, không chậm trễ, quân đội, theo những kỹ thuật hiện đại, mở cửa cho việc buôn bán với nước ngoài, tìm bạn đồng minh, trong số các cường quốc châu Âu, đặt một lãnh sự quán tại Hồng Kông để tiện việc giao thiệp với nước ngoài.

Chỉ duy nhất có quan Thượng thư bộ Binh Trần Tiễn Thành triệt để ủng hộ những ý kiến mới mẻ của Phan Thanh Giản và Phạm Phú Thứ. Ngoài ra, Trần Tiễn Thành còn ủng hộ cho những sĩ phu đệ trình lên triều đình những phương án cách tân và hiện đại hóa đất nước đáng chú ý.

Năm 1866, Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đình phân lập quyền hành chánh với quyền tư pháp, đưa vào chương trình giáo dục những môn khoa học chính xác, gửi sinh viên đi du học nước ngoài, thăm dò và khai thác mỏ, hiện đại hóa nông nghiệp, phát triển công nghiệp và thương mại, tổ chức lại quân đội, xây dựng đường bộ và đường sắt. Để có kinh phí, ông dự trù cải cách nền tài chánh quốc gia, dựa trên cơ sở chế độ bảo vệ và chế độ tư pháp hải quan. Là một người Công giáo, sinh tại Nghệ An, Nguyễn Trường Tộ đã theo Giám mục Gauthier đi Hồng Kông, rồi sang Pháp; năm 1861 ông về Việt Nam.

Một sĩ phu người Ninh Bình, Đinh Văn Điền, năm 1868, đệ trình một bản điều trần về vấn đề khai thác mỏ vàng, xây dựng đường sắt, tuyển dụng các kỹ sư và giáo sư người châu Âu để dạy kỹ thuật hiện đại. Một sĩ phu khác người Thái Bình, Bùi Viện đề nghị mở cửa cho việc buôn bán với nước ngoài; ông được vua Tự Đức phái sang Trung Quốc để đặt quan hệ thương mại.

Nhưng ở triều đình, lại có những người một mực cự tuyệt tất cả những dự án cải cách đó. Đó là Võ Trọng Bình, Trương Đăng Quế, Nguyễn Tri Phương và bà Thái hậu.

Điều trở ngại quan trọng nhất, đối với những chủ trương cải cách chính là cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Pháp. Phe đối lập gần hầu hết là những bề tôi cũ của nhà vua, do bà Thái hậu chỉ đạo đã tìm trong cuộc chiến tranh này một duyên cớ để gạt ra khỏi đất nước bất cứ cái gì có thể làm cho đất nước tiếp cận với “lũ man di phương Tây” ấy. Đó là lý do khiến cho triều đình gạt phăng đi toàn bộ những cái gì có thể mang đến cho Việt Nam những lợi ích của nền văn minh châu Âu.

Nguyễn Hiệp, đại sứ Việt Nam tại Xiêm (Thái Lan), cũng từng nếm mùi thất vọng như vậy. Khi từ Bangkok trở về năm 1879, ông ta cố phân tích cho triều đình thấy những cái lợi mà nước Xiêm, do khéo ngoại giao đã rút được cho mình từ cuộc cạnh tranh Anh - Pháp, nhằm củng cố nền độc lập của Tổ quốc họ; lời trình bày của ông cũng bị gác ngoài tai. Với Lê Dinh cũng thế; Lê Dinh từ Hồng Kông về, muốn chỉ cho triều đình Huế thấy những cái lợi mà Việt Nam có thể thu về, nếu theo gương Nhật Bản và Trung Quốc; hai nước đó đã mở rộng cửa cho phương Tây nhập vào và trao đổi buôn bán.

Những trở ngại cho việc hiện đại hóa đất nước càng có cơ hội gia tăng, do chỗ xã hội nông nghiệp Việt Nam không có một giai cấp tư sản làm giàu bằng thương mại, được hình thành làm áp lực các giới lãnh đạo để trao đổi mậu dịch quốc tế và mở cửa đất nước.

Còn về dư luận quần chúng, thì nhân dân và phần lớn các nhà trí thức, hầu như hoàn toàn chẳng biết gì về những sự kiện xảy ra bên ngoài biên giới của đất nước. Phương tiện thông tin không có. Các nước phương Tây, theo con mắt họ chỉ là những “quân man di” vì họ mang chiến tranh vào Việt Nam.

Đề thi Hội năm 1876 tại Huế: “Sự hiện đại hóa đã mang lại lợi ích cho Nhật Bản hay không?” đã được hầu hết các thí sinh phân tích theo chiều hướng tiêu cực, đó là một bằng chứng khá hùng hồn về trạng thái tinh thần của Việt Nam lúc bấy giờ.

Vì chịu ảnh hưởng quá sâu sắc của nền văn hóa Trung Quốc, phần đông các sĩ phu và các quan chức triều đình, những kẻ chưa từng bao giờ bước chân đi ra nước ngoài, hoàn toàn không biết gì về những tiến bộ kỹ thuật và khoa học đã thực hiện tại các nước châu Âu. Họ không thể nào quan niệm nổi một nền văn minh khác với nền văn minh của thế giới Trung Quốc.

Nền văn minh Trung Quốc tách rời hẳn kiến thức với thực hành. Tầng lớp trung gian, những nhà kỹ thuật và khoa học không có. Trí thức rất được trọng dụng, nhưng căn bản là trí thức lý thuyết; người “kẻ sĩ” (tức những người có học chữ) để móng tay dài, không bao giờ động tay động chân vào việc gì. Những cuộc thi của nhà vua mở ra thường chỉ chú trọng đến nội dung tán tụng những văn từ cổ điển và hình thức trau chuốt về văn chương; trong chương trình thi cử, không hề có một bộ phận nào gọi là khoa học hay kỹ thuật cả. Mãi đến thế kỷ XIX, chương trình giáo dục cổ điển chính thống vẫn chưa có cả môn số học yếu lược. Về đại thể, một nền giáo dục như vậy tất yếu phải dẫn tới sự đánh giá quá cao những giá trị và nguyên lý, còn phần thực hành vật chất cụ thể thì bị coi thường và bị thiệt thòi.

Tình trạng sự việc đó giải thích sự phản ứng khá “kỳ cục” của tầng lớp kẻ sĩ Việt Nam cũng như Trung Quốc, khi họ lần đầu tiên tiếp xúc với phương Tây. Và niềm tin bất biến vào một phương thức cai trị đã từng tạo nên một sự ổn định ngàn năm này cũng góp phần giải thích cái tính cố quyết, do tự hủy mình của các nhà trí thức quan lại, từ chối sự cần thiết phải có những cuộc đổi thay, mặc dù đã bao lần họ có dịp chứng nghiệm sức phá hoại ghê gớm của vũ khí phương Tây. Đối với họ, chấp nhận nền kỹ thuật và phương thức tổ chức của phương Tây, tức là chia quyền bính của mình mà giáo dục cũng như thói quen suy nghĩ của phương Tây, hoàn toàn khác biệt với họ. Điều đó cũng có nghĩa không những là làm giảm sút sức mạnh và uy thế của họ, mà còn là từ bỏ cái ưu thế của nền giáo dục cổ điển nhờ đó mà các quan lại đạt được uy tín của mình.

Những sự lùi bước dồn dập của chánh phủ Huế làm cho cả nước bất bình. Nếu Tự Đức cùng các quan lại nặng tư tưởng thất bại chủ nghĩa, là những người chịu trách nhiệm về tình trạng nô lệ và suy đồi của đất nước thì một số khá đông các sĩ phu, có lòng yêu nước nồng nàn, sống giữa lòng nhân dân đã khước từ không ra làm quan, để lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa chống lại nhà vua và triều đình(6). Đảng “Văn Thân” thành lập tại Nghệ An từ tháng 3/1874, dưới sự lãnh đạo của Trần Tấn và Đặng Như Mai tập hợp được ba nghìn sĩ phu cầm vũ khí đứng lên chống lại triều đình Huế. Họ phản đối Hiệp ước 1874 và hoạt động của họ là cùng một lúc chống lại những “người phương Tây”, và “tà đạo”. Họ chiếm được Hà Tĩnh nhưng bị tiêu diệt sau một cuộc đàn áp đẫm máu do Nguyễn Văn Tường chỉ huy.

Tháng 7/1874 lại bùng nổ một cuộc nổi dậy của “tay chân nhà Lê” tại tỉnh Hải Dương. Chính Tôn Thất Thuyết đã đưa quân ra đàn áp cuộc nổi dậy này và phá tan những cuộc nổi dậy ở Cổ Loa và Sơn Tây.

Cũng trong thời kỳ này, quân Cờ vàng, lâu nay đóng ở Tuyên Quang, bây giờ về đóng ở Vĩnh Tường; chúng tiếp tục cướp bóc dân chúng và quấy nhiễu gây lộn xộn nhiều vùng. Quân đội Việt Nam, do Tôn Thất Thuyết chỉ huy, năm 1875 đánh một trận quyết định vào bọn phiến loạn bắt được tướng của chúng là Hoàng Sùng Anh. Toán cướp ấy phân tán đi. Dần dần miền thượng lưu Bắc kỳ thoát khỏi sự quấy nhiễu của bọn cướp, yên ổn trở lại.

Nhưng năm 1878, bọn cướp người Tàu, dưới sự chỉ huy của Lý Dương Tài, lại cướp phá vùng Lạng Sơn. Tướng của chúng là một người Tàu gốc Việt, tự xưng là con cháu dòng họ nhà Lý (chứ không phải nhà Lê). Nhờ có một gia tài đồ sộ, Lý Dương Tài có dưới quyềnanh ta một đạo quân phục vụ cho Hoàng đế Trung Quốc mà trước kia anh ta chỉ huy, lại thêm những đảng cướp cho nên đạo quân của anh ta, theo như người ta nói, lên tới 100.000 người đóng dọc đường biên giới Bắc kỳ.

Để tiêu diệt bọn này, nhà đương cục Huế không xin viện trợ của Pháp như hiệp ước đã quy định. Và chắc chắn không phải vì nước Pháp không có nhiều hoạt động chính thức mà họ không muốn nhờ. Họ thấy việc hợp lý nếu họ yêu cầu viên chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Đông là Phùng Tử Tài gửi quân sang tiêu diệt “đồng sự cũ” của ông ta. Lý Dương Tài bị quân Việt Nam bắt năm 1879,và nộp cho Trung Quốc.

Mặc dù đã trở thành quốc gia độc lập, Việt Nam vẫn luôn luôn giữ thói quen mang tặng vật dâng biếu các hoàng đế Trung Quốc như chúng ta đã thấy, đây chỉ là một “nhiệm vụ” lịch sử có mục đích duy nhất là duy trì những quan hệ láng giềng tốt đẹp với nhau thôi. Truyền thống này đã tồn tại thế hệ này qua thế hệ khác, Tự Đức vẫn giữ, bất chấp hiệp ước ký kết với Pháp năm 1874, Việt Nam dựa trên điều khoản “nước Pháp thừa nhận nền độc lập trọn vẹn của Việt Nam”.

Sau bài học đau xót năm 1874, đáng lẽ phải tìm chỗ dựa về phía nhân dân, phải tổ chức lại đất nước bằng cách mở cửa chào đón những kỹ thuật phương Tây, theo gương Nhật Bản thì Tự Đức lại tiếp tục hướng về nước Trung Quốc phong kiến, mặc dầu Trung Quốc vừa bị người phương Tây cho những đòn thất bại “vang lừng”. Việc quân chính quy Trung Quốc của các tỉnh biên giới giúp Việt Nam đàn áp các đảng cướp của Lý Dương Tài, hoặc quân Cờ vàng của Hoàng Sùng Anh, đã chứng minh điều đó.

Tự Đức Hướng Nhìn Về Trung Quốc

Năm 1875, sau khi Hoàng đế Trung Quốc Đồng Trị chết và Quang Tự lên ngôi, Tự Đức thông báo cho các nhà chức trách Lưỡng Quảng mà các quan hệ Việt - Trung tùy thuộc về ý định muốn cử một sứ đoàn mang cống vật sang, vừa để chia buồn vừa để chúc mừng Trung Quốc. Dựa theo báo cáo của tổng đốc Lưỡng Quảng, Bắc Kinh khuyên Tự Đức đừng.

Tự Đức vẫn duy trì ý định, năm sau lại báo cho tổng đốc Quảng Tây biết đã đến lúc mang cống vật, bốn năm một lần, sang tặng Hoàng đế Trung Quốc và hỏi xem lúc nào sứ đoàn Việt Nam có thể được đón. Được sự đồng ý của Bắc Kinh, một sứ đoàn Việt Nam do Bùi Văn Di dẫn đầu qua biên giới Trung Quốc ngày 18/9/1876 tại ải Nam Quan(7). Sứ đoàn đến Bắc Kinh đầu năm 1877 và ra về vào cuối năm.

Cử chỉ này hoàn toàn phù hợp với Hiệp ước 1874, nhưng nhà chức trách Pháp cho là một “hành động xảo quyệt” và sẽ là một trong những duyên cớ mà họ sẽ viện ra năm 1882, để tiến hành một hành động bạo lực nữa chống lại nền độc lập Việt Nam. Cử chỉ này nhân dân Việt Nam không tán thành.

Được tin có một sứ bộ Việt Nam phái sang Bắc Kinh, ngày 20/9/1876, lãnh sự Pháp tại Hà Nội, Kergaradec, viết thư cho Đô đốc Duperré, thống đốc Nam kỳ, lưu ý ông về vấn đề nghiêm trọng này và tỏ ra lo sợ rằng:

“... vì đây là phái bộ đầu tiên của Việt Nam cử sang Bắc Kinh từ khi ký Hiệp ước 1874, cho nên cách xử trí, dù đúng hay sai, của sứ thần có thể, sau này, coi như những tiền lệ.”(8)

Đô đốc Duperré chuyển thư này cho ông đại sứ đặc mệnh toàn quyền Pháp tại Bắc Kinh, Tử tước Brenier de Montmorand và nói thêm trong bức thư của ông, ngày 28/10/1876:

“… Ông De Kergaradec nêu lên một vấn đề nghiêm trọng, vấn đề những mối quan hệ mới sẽ tồn tại giữa Việt Nam và Trung Quốc.

… Nếu điều II (của Hiệp ước 1874) nói là nước Pháp thừa nhận nền độc lập trọn vẹn của Việt Nam đối với tất cả các nước ngoài, dù là nước nào thì điều III cũng nói rằng nhà vua An Nam cam đoan sẽ không thay đổi gì trong quan hệ ngoại giao của mình hiện nay. Mâu thuẫn quá rõ ràng và nếu chúng ta dựa trên điều II để phá mọi dấu vết mối quan hệ cũ giữa Trung Quốc và Việt Nam thì liệu chúng ta có thể có nguy cơ vấp phải một sự phản đối cụ thể từ phía một trong số các chánh phủ có liên quan hay cũng có thể là tất cả các chánh phủ đó, nếu họ căn cứ trên điều III hay không?”(9)

Duperré không chia sẻ nỗi lo sợ của Kergaradec. Ông ta không đếm xỉa gì đến cái “hành động có tính chất thuần túy xã giao, không mang ý nghĩa thắt chặt mối quan hệ chư hầu đã mất đi từ lâu rồi ấy.”(10)

Nếu thống đốc Nam kỳ không màng quan tâm đến chuyện Việt Nam cử sứ đoàn sang Trung Quốc thì ông Bộ trưởng Ngoại giao Pháp lại có ý kiến khác.

Công tước Decazes coi sự có mặt của quân đội Trung Quốc có trách nhiệm chiếm đóng các huyện biên giới, theo yêu cầu của chánh phủ Việt Nam, có thể làm nảy sinh những mối nghi ngờ đối với thực trạng tình hình mà nước Pháp muốn thiết lập tại Bắc kỳ và có vẻ đối lập một cách không lợi với những lời tuyên bố của Pháp, nhằm xóa bỏ mọi dấu vết chế độ chư hầu của Việt Nam đối với Trung Quốc. Ông tự hỏi xem sự thờ ơ của Trung Quốc trước sự việc xảy ra tại Nam kỳ xa xôi có thể như thế hay không, nếu lần này xảy ra tại nước láng giềng kế cận với bọn Bắc kỳ, mà quân đội của họ, hơn nữa năm ngoái được phép đi lại tự do?

Muốn biết rõ về điểm này để hướng ông ta chọn một đường lối chính trị liên quan, ông Bộ trưởng Ngoại giao yêu cầu đại sứ toànquyền Pháp tại Bắc Kinh gởi về cho ông những giải thích rành mạch.

Nếu Công tước Decazes căn cứ trên nền độc lập của Việt Nam nghĩ rằng khi Việt Nam giải phóng khỏi quan hệ chư hầu với Trung Quốc rồi Pháp sẽ dễ dàng áp đặt cho Việt Nam đường lối chính trị mà họ muốn, còn Đô đốc Duperré thì không lo ngại gì về những mối quan hệ giữa Huế với Bắc Kinh, là vì ông ta luôn luôn tin ở một nền bảo hộ lý tưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam.

Cả Brenier de Montmorand cũng khuyên nên thận trọng. Trong thư trả lời ngày 30/9/1877 cho Bộ trưởng Ngoại giao, ông nói rằng: nếu Trung Quốc không hề phản đối gì, cũng không yêu cầu một lời giải thích nào về Hiệp ước 1874 thì nên tìm hiểu lý do của sự im lặng đó, không phải một sự im lặng có nghĩa là đồng ý mà có thể là vì họ không muốn gây chuyện rắc rối cho mình, lúc này hoặc giả vì họ chưa nắm được tầm quan trọng cũng như nội dung ý nghĩa của chữ “bảo hộ”

Dựa trên lời tuyên bố của Cung Thân vương, chủ tịch Tổng lý Nha môn, ông cho rằng: “Trung Quốc không thể từ chối giúp đỡ và bảo vệ một chư hầu của mình”, đại sứ toàn quyền Pháp tại Bắc Kinh lưu ý rằng Việt Nam dường như, trên thực tế có hai nước bảo hộ: Pháp và Trung Quốc. Sau đó, trong bức thư ngày 25/3/1878, báo cáo với Bộ trưởng Ngoại giao, Waddington về việc phái đoàn ngoại giao Việt Nam đã về nước, Brenier de Montmorand phát biểu ý kiến như sau:

“Phải chăng có gì kỳ quặc cho bằng việc một Quốc trưởng từng bắt chúng ta coi như một vị Hoàng đế, như một vị Hoàng thân trị vì, mà chúng ta đã đặt một sứ quán bên cạnh, mặt khác lại tiếp tục đóng vai trò một ông vua hạng nhì đối với Trung Quốc, vì đã chịu lễ thụ phong từ Trung Quốc, mà từ 1879 không những ông ta không hề dám công khai và trịnh trọng phản đối một lời nào, lại còn tiếp tục nhận nhiệm vụ từ Trung Quốc giao phó.”(11)

Người Pháp không phải là những người duy nhất chê trách thái độ đó của Việt Nam đối với Trung Quốc và sự thần phục nô lệ mù quáng đó của triều đình Huế. Chính người Việt Nam là những người liên quan nhiều nhất cũng rất phẫn nộ.

Hơn nữa thái độ kiên trì của Tự Đức chỉ biết nhìn về phía Trung Quốc phong kiến rất nguy hiểm về nhiều phương diện khác nhau: trước hết từ cuộc “chiến tranh nha phiến” lẫy lừng, Trung Quốc không còn là một cường quốc mà Việt Nam sùng bái nữa; nhưng mặt khác, những hành vi có hệ thống đó chỉ có hại cho họ, làm cho người Pháp lo sợ, và vô tình góp phần xúc tiến một hành động bạo lực mới của Pháp. Việc quân đội chính quy Trung Quốc xâm nhập vào Việt Nam với sự cho phép của Tự Đức nhằm phối hợp với quân đội Việt Nam tổ chức diệt trừ bọn Lý Dương Tài và các đảng cướp làm cho Paris lo ngại.

Ngày 30/12/1870, Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa Pháp viết cho Bộ Ngoại giao một bức thư tay, có ghi chú “tối mật để chánh phủ Tây Ban Nha khỏi biết trước các dự định của chúng ta và tìm cách ngăn cản”, ông nói về tình hình Bắc kỳ như sau:

“Tình hình chúng ta tại Bắc kỳ đã gây nhiều điều lo lắng thường xuyên và chính đáng cho hai bộ của chúng ta; và chúng ta đã nhiều lần phàn nàn về sự thiếu chính xác và về lỗ hổng của bản hiệp định đã ràng buộc chúng ta với triều đình Huế về phương diện này.

Quả thật, bản hiệp ước ấy, về mặt liên quan tới chúng ta mà nói thì nó chứa đựng phần lớn những nhiệm vụ thuộc phận sự của một nước nhận vai trò bảo hộ mà thực ra chẳng thu được một lợi ích nào, từ vai trò ấy. Trong khi nước An Nam có thể yêu cầu sự giúp đỡ của chúng ta để chống lại những điều nguy hiểm nội địa hoặc cả bên ngoài, đe dọa chủ quyền của họ thì tại Việt Nam chúng ta lại không thể viện dẫn vai trò đó để đòi hỏi quyền ưu thế ngoại giao.

Hậu quả của tình thế mập mờ đó là nó đã thúc đẩy nước Anh, rồi nước Đức đòi hỏi được đặt các lãnh sự chính thức bên cạnh vua Tự Đức, ngang hàng với chúng ta. Tây Ban Nha, vượt quá cả những yêu cầu ấy, hôm nay đang toan hòng buộc chúng ta phải chấp nhận cho nhân viên của họ, khi cần có thể thay nhân viên chúng ta thu thuế hải quan.

Tôi cần nói rằng: tình thế này, sở dĩ xảy ra là do Hiệp ước 1874 tuy rõ ràng là được soạn thảo nhằm mục đích đặt nền bảo hộ của chúng ta lên Bắc kỳ nhưng lại không hề nói đến chữ ‘bảo hộ’. Kết quả là các đại diện của chúng ta, tuy có một lực lượng vũ trang làm chỗ dựa, có cái chức vị lãnh sự, nhưng, vì họ chưa được chính thức trao quyền hành cho nên trên thực tế họ không phải là nhân viên của một nền bảo hộ mà họ đang thực thi một phần, cũng không phải những nhân viên lãnh sự, bởi họ không có quyền tài phán.

Những sự kiện xảy ra mà Bắc kỳ, hôm nay là sân khấu (quân Trung Quốc đóng tại biên giới Bắc kỳ), lại tạo nên một sự phức tạp mới nữa, làm cho chúng ta đã gặp khó khăn phức tạp, lại càng phức tạp khó khăn hơn và chúng ta sẽ không làm sao tránh khỏi được sự cần thiết phải nghĩ đến những hậu quả tai hại mà một cuộc nổi loạn nghiêm trọng có thể mang đến cho đường lối chính trị của chúng ta tại xứ này.

“Ai cũng biết vương quyền của nước An Nam bị chống đối kịch liệt tại Bắc kỳ, và những phương tiện mà đất nước này đang có, sẽ đưa nước chư hầu này ngày càng chìm sâu vào những sự loạn lạc, đảo lộn thường xuyên. Dù những cuộc nổi loạn đó do bọn tự xưng con cháu nhà Lê xúi giục hay do bọn phiêu lưu người Tàu ở Vân Nam quấy nhiễu, khi trên đất Thiên triều, khi trên các tỉnh phía Nam thì nó vẫn luôn luôn tìm được những thức ăn nuôi dưỡng nó về phía những người dân Việt Nam bất bình và bất phục. Cho nên khó lòng ai biết được một cuộc bạo động như cuộc bạo động đang xảy ra trong hiện tại, sẽ kết thúc như một cuộc nổi dậy bình thường hay phát triển tới quy mô một cuộc cách mạng? Vậy là có khả năng rất hiện thực, là một ngày nào đó chúng ta bỗng thấy bị bao vây bởi một cuộc cách mạng toàn thắng.

Trong trường hợp bất trắc ấy, thái độ của chúng ta sẽ như thế nào cho đúng? Và phải chăng chúng ta nên nhanh chóng nắm lấy cơ hội đầu tiên, mà hoàn cảnh có khả năng làm nảy sinh ra để thoát khỏi một tình thế, trong đó nhân phẩm chúng ta có thể bị xúc phạm? Đây là vấn đề được đặt ra một cách hầu như tự nhiên và tôi muốn hỏi ý kiến Ngài. Mối quan tâm lớn lao gắn liền với việc giải quyết vấn đề này sẽ dẫn chúng ta, nếu như Ngài cũng quan niệm nó theo cùng một quan điểm như tôi, đến chỗ phải đưa nó ra trước Hội đồng Bộ trưởng, bởi nó liên quan tới những điểm rất tế nhị trong chính sách ngoại giao của Pháp.

“Trong tư tưởng của tôi dù Việt Nam vì bất lực trong việc bảo vệ uy quyền của mình phải nhờ đến sự can thiệp vũ trang của chúng ta nhằm bảo vệ và củng cố quyền lực của họ, hay dù bọn nổi loạn có bằng một hành động nhanh chóng và kiên quyết làm chủ được tình hình Bắc kỳ, khiến chúng ta phải điều đình với chúng đi chăng nữa thì tôi nghĩ việc thiết lập chế độ bảo hộ có hiệu lực của chúng ta phải được xuất phát từ một trong hai giả thuyết, nói trên.

Sau đây là những lợi chính mà chúng ta sẽ thu được;

  1. Thuế hải quan sẽ được duy trì và thu cho chúng ta, sau khi đã trả xong cho Tây Ban Nha số nợ của họ và chúng ta phải tìm đượcở sở thuế hải quan đủ mọi phương tiện để chi phí cho sự chiếm đóng của chúng ta.

  2. Chúng ta sẽ độc quyền giải quyết các quan hệ ngoại giao của cả nước, và đại diện các nước phải trình uỷ nhiệm thư được chúng ta chấp nhận.

Nhân viên của chúng ta sẽ chịu trách nhiệm xử lý pháp luật đối với người Pháp và người nước ngoài, cũng như với những người bản xứ trong quan hệ của họ với người Pháp và người nước ngoài.

Vả lại luôn luôn trung thành với đường lối chính trị rộng rãi, chúngta vẫn tiếp tục thực hiện lâu nay tại Viễn Đông, chúng ta sẽ tiếp tục bảođảmcho các quốc gia châu Âu thường qua lại miền này, những lợi thế đã được quy định cho chính đồng bào chúng ta. Lập trường mới của chúng ta chỉ tăng thêm những sự đảm bảo đã có, về phương diện này đối với người nước ngoài…”(12)

Rõ ràng không nghi ngờ gì nữa, bức thư này chứa đựng mầm mống một vụ bạo lực mới tại Việt Nam; Hiệp ước 1874 vừa được ký kết giữa Pháp với Việt Nam và mới được hai chánh phủ chuẩn duyệt, kể từ bây giờ có thể coi như một hiệp ước chết ngay lúc mới sinh.

Sau khi mất các tỉnh miền Nam, Tự Đức biết rất rõ, trước sau rồi những tỉnh phía Bắc cũng sẽ mất. Hiệp ước 1874 chỉ để cho nhà vua một phút nghỉ ngơi mà rồi nhà vua cũng không biết lợi dụng; dân chúng rất bất bình. Rốt cuộc nhà vua không còn biết xử trí như thế nào… Quá yếu đuối, nhà vua không còn lấy một chút nghị lực nào để đứng vững nữa. Bên cạnh nhà vua, toàn là những hàng quan lại hèn kém, khiến nhà vua mất cả phương hướng chính trị, tuy nhiên vẫn cứ khăng khăng muốn thu hồi các tỉnh đã mất. Nhà vua thử vận may một lần cuối cùng: kêu gọi sự thương cảm của ông đại diện chánh phủ Pháp tại Huế, với hy vọng ông ta sẽ can thiệp hộ nhà vua với chánh phủ của mình: bởi người đại diện của nước Pháp, lúc bấy giờ là Philastre, kẻ đã phá kế hoạch của Garnier, đã ký quyết định trả lại Hà Nội cho Việt Nam. Vua Tự Đức tưởng lầm rằng vị đại diện ấy, hành động như trên, là do có tinh thần bảo vệ công lý và có cảm tình với nhân dân Việt Nam và vua nước Việt Nam. Vì vậy mà nhà vua đã viết một bức thư tay cho Philastre, bàn với ông ta chuyện chuộc lại sáu tỉnh miền Nam. Bức thư này kết thúc như sau:

“… Đối với nước Pháp, tôi chỉ có những ý nghĩ thiện chí! Nhưng nếu có một chút bóng nghi ngờ làm cho quan hệ giữa chúng ta bị u ám lại là vì, ngoài những vấn đề khác biệt về phong tục, tập quán mà Ngài đã đánh giá đúng mức, còn có những nỗi buồn cuối đời của tôi.

Vì những nguyên nhân khác nhau trong đó giữa các điều lầm lỗi của tôi, tôi đã làm suy giảm mất cả cơ đồ sự nghiệp của ông cha để lại, tôi cảm thấy cuộc đời tôi đã đi đến ngày tàn mà không có hy vọng gì sửa lại lỗi lầm. Vì sao, sau khi đã góp sức vào gây dựng nên sự nghiệp, nước Pháp lại phải đi đến chỗ đang tâm phá hoại nó đi? Ngài giàu lòng nhiệt tình công lý, thưa Ngài đại diện và giàu lòng chân thực. Ngài đã nghiên cứu các tư tưởng đạo lý của chúng tôi và biết đánh giá nền đạo lý ấy. Vậy không còn cách nào sửa chữa cái điều không may đã xảy ra sao?”(13)

Đáp lại bức thư ngày 10/3/1879 ấy của vua Tự Đức, ngày 10/4 Philastre trả lời:

“Theo quan điểm của mình, nước Pháp không cố chấp đặt vấn đề lợi quyền vật chất. Trái lại nước Pháp chỉ lưu tâm đến những hậu quả tự nhiên của những nhiệm vụ thuộc phận sự mình gánh vác và chỉ lo lắng hoàn thành nhiệm vụ ấy mà thôi.

...

Những lý lẽ trên đây giải thích rõ vì sao, tuy không muốn gì cái chuyện áp bức nước Việt Nam một cách trái với công bằng, nước Pháp vẫn không thể đồng ý cho người ta nói đến chuyện ‘chuộc’ lại các tỉnh đó.”(14)

Tự Đức có biết đâu rằng bức thư này, ông Thượng thư Nguyễn Văn Tường đã đọc trước cả nhà vua.

Số là ngày 8/4, Philastre đã bí mật mời Nguyễn Văn Tường đến cho xem thư để biết, trước khi chính thức gửi đi.

Nhân dịp có cuộc triển lãm thế giới năm 1878, Tự Đức lợi dụng cơ hội gửi một sứ đoàn sang Paris. Sứ đoàn do quan Thượng thư bộ Lại (tức Nội vụ) Nguyễn Tăng Doãn dẫn đầu; nó có nhiệm vụ mang tặng vật sang biếu thống chế Mac-Mahon, chủ tịch nước Cộng hòa (Pháp) và đề nghị xin chuộc lại sáu tỉnh Nam bộ. Đến Paris ngày 7/3/1878, sứ đoàn được ông chủ tịch nước Cộng hòa, rồi ông Bộ trưởng Ngoại giao Waddington tiếp. Khi vị đại diện Việt Nam trình bày với ông Bộ trưởng Ngoại giao về mục đích chuyến đi, thì Waddington đáp lại bằng một sự không thừa nhận rất kiên quyết, nhất là lúc này không khí chính trị của nước Pháp đang trên đường đổi mới.

Nước Pháp đã bắt đầu trở lại tin tưởng ở mình; đảng Cộng hòa cầm quyền lúc này muốn cho hiệp ước được song phương thực hiện.

Sứ đoàn rời Paris, đến Madrid ngày 10/5 và trở lại Sài Gòn ngày 9/9/1878.

TS Nguyễn Xuân Thọ

Nguồn: (Alpha Books - Ebook) Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam 1858-1897

Trang Lịch Sử