Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam Hiệp Ước 1874 TS Nguyễn Xuân Thọ https://sachhiem.net/NGXUANTHO/BuocMoDau_10.php
Chương 9 - Hiệp Ước 1874 Năm 1873 Từ năm 1864, việc xem xét lại và thay thế Hiệp ước 1862 đã trở thành nhật lệnh. Mỗi ông thống đốc mới Pháp sang đều mang theo đủ mọi quyền hành; họ đưa ra những đề nghị mới cho chánh phủ Huế với nhiều lời khích lệ. Chánh phủ Huế đáp lại bằng sự chỉ định những đại diện toàn quyền của mình; thế rồi mỗi bên đều tuyên bố không thể nào chấp nhận được những đề nghị của bên kia. Trong lúc chờ đợi thì Hiệp ước 1862 thực chất là không còn lại chút gì được coi như có hiệu lực. Chánh phủ Pháp là kẻ đầu tiên viện dẫn đến nó mỗi khi thấy có điều gì có lợi cho mình, dù rất nhỏ mọn. Đô đốc Dupré vừa mới đến đã báo cho chánh phủ Huế biết rằng ông ta được thẩm quyền điều đình và ký kết và ông ta rất mong muốn làm việc đó. Vẫn không kết quả gì hơn trước mặc dù mỗi bên đối phương đều ngày càng thấy rõ cần phải một lần dứt khoát với nhau cho xong. Một sứ đoàn của Huế vào Sài Gòn với ý định đi tiếp sang Paris đã bị ông Đô đốc-cầm quyền bắt giam. Sau nhiều lần hội kiến với sứ đoàn bị bắt, ngày 11/9/1875, Đô đốc Dupré viết về cho Đô đốc D’Hornoy, Bộ trưởng Hải quân Pháp, tại Paris, như sau: “… Tôi đã được hân hạnh báo cáo cho Ngài biết về việc phái đoàn Việt Nam đã đến Sài Gòn. … Tôi đã cố khuyên răn họ không nên tiếp tục chuyến đi. Chánh phủ đã yêu cầu họ đàm phán với tôi về một số điểm không phải không quan trọng. … Tôi đã không tài nào làm cho họ bộc lộ điều suy nghĩ trong thâm tâm của họ; họ quá sợ sệt và đa nghi. … Mục đích của tôi là làm sao cho họ chịu yêu cầu: sự bảo hộ của nước Pháp, do đó mà họ bắt buộc không được tiếp nhận bất cứ một nhân viên ngoại giao hoặc lãnh sự nào của nước ngoài; sự hiện diện của một đại diện của ông thống đốc tại Huế; sự có mặt tại kinh đô hoặc tại một hay nhiều cảng Bắc kỳ và Trung kỳ, của một nhân viên người Pháp, với một đội quân vũ trang đủ mạnh để bảo vệ an toàn cho anh ta; tự do buôn bán tại những nơi đó; bỏ thuế hải quan và mọi cản trở đối với việc buôn bán trên các biên giới đường bộ; mở sông Hồng cho việc thông thương buôn bán của Pháp, Việt Nam và Trung Quốc, với điều kiện trả một lệ phí vừa phải tại bờ biển và tại biên giới Trung Quốc; tự do thờ phượng cho người Công giáo Việt Nam và hủy bỏ cái gì cản trở giáo dân hành đạo. Sau cùng cũng là tất yếu, là trả nợ cho Tây Ban Nha số nợ còn lại. Với việc thực hiện đầy đủ và trung thực những điều kiện đó, nếu từ đây đến đó không xảy ra sự kiện gì lộn xộn, không có những cuộc nổi dậy ở ba tỉnh liên quan, chánh phủ Pháp có thể sẽ cam kết trả lại cho vua Tự Đức việc cai trị ba tỉnh nói trên sau… năm, kể từ ngày trao đổi chữ ký chuẩn y hiệp ước. Chánh phủ Pháp sẽ giữ lại tại Vĩnh Long, Châu Đốc và Hà Tiên một công sự và một lực lượng vũ trang đủ bảo đảm an ninh cho các giáo dân và cho tất cả những người Việt Nam đã phục vụ chúng ta một cách trung thành, bảo đảm cho các quyền lợi của người Campuchia, sự khai thông tất cả các đường bộ, đường sông, kênh rạch và các đường giao thông nói chung. Để bù đắp cho những chi phí của chúng ta tại các tỉnh,chánh phủ Việt Nam sẽ trả cho chúng ta một số tiền là… trăm nghìn đồng bạc (Đông Dương). Về phần mình, chánh phủ Pháp cam kết sẽ bảo vệ vua Tự Đức chống lại mọi sự tấn công từ bên trong, cũng như từ bên ngoài; sẽ giúp nhà vua kinh nghiệm lãnh đạo về chính trị và hành chánh; sẽ cung cấp cho nhà vua những chuyên viên để ổn định lại nền tài chính, ổn định lại việc thu thuế má và tổ chức một cơ quan hải quan; những huấn luyện viên quản trị để tổ chức một quân đội; những vũ khí cải tiến, những tàu bè tốt đóng sẵn, với những khẩu đại bác đầy đủ, những kỹ sư và những thợ lành nghề để chỉ huy các công trình.”(1) Bên cạnh những cuộc hội đàm gọi là chính thức, còn có những cuộc trao đổi riêng giữa các đại sứ Việt Nam và phiên dịch Philastre. Về những cuộc trao đổi riêng này, Dupré có viết trong một bức thư, ngày 23/9/1873, gửi cho Bộ trưởng Hải quân: “… Những cuộc điều đình sơ bộ đã tiến hành với họ không mang lại những tiến bộ rõ ràng trong hai tuần lễ vừa qua. Nó gặp rất nhiều trở ngại, phần vì do họ quá lo sợ có căn cứ vì chưa tìm hết cách để buộc chúng ta chấp nhận những yêu sách của chánh phủ họ thì họ không dám chịu nhượng bộ một điểm nào phần vì tình trạng bệnh tật có thực của trưởng phái đoàn Lê Tuấn. Tiếp theo cuộc hội kiến thứ hai của chúng tôi, là một cuộc trao đổi kéo dài rất lâu giữa các phái viên Việt Nam với Philastre…, mà tôi có thể tóm tắt như sau: 1. Trả lại ba tỉnh miền Tây cho họ, họ sẽ bồi thường lại cho ta những chi phí xây dựng. 2. Giữ nguyên tình hình buôn bán như cũ. 3. Pháp cam kết giúp đỡ vua Tự Đức. 4. Trả lại việc học chánh cho các quan chức Việt Nam. Từ cuộc thảo luận về vấn đề này, ông Philastre đã biết chắc là hai điều khoản 1 và 2 chỉ lặp lại một cách hình thức và những kẻ đối thoại với ông ta không có ảo tưởng gì về chuyện trả lại không bao giờ có thể có ấy.”(2) Những điều kiện hai bên đưa ra hoàn toàn trái ngược nhau; bên nào cũng cố giữ quan điểm của mình ít ra là trong lúc này, không thể nào có sự thỏa thuận được. Vậy là các cuộc hội đàm đều bị ngưng lại giữa chừng, trong thời gian các cuộc hội kiến tay đôi đó, các phái viên Việt Nam có trao cho đại diện toàn quyền Pháp một bản giác thư: “Điểm 1: Nếu ông thống đốc để cho chuộc lại ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường thì việc trả không lại ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên cho chúng tôi là điều hợp lý. Nhưng nếu ông thống đốc đòi hỏi chúng tôi phải bồi hoàn lại những chi phí đã dùng cho các việc xây dựng tại ba tỉnh này thì chúng tôi xin bồi hoàn theo từng hạn định hằng năm là bao nhiêu. Nước Đại Nam xin chấp nhận điều kiện đó. Điểm 2: Nước Đại Nam còn nợ chiến phí hai triệu đồng, theo điều kiện của hiệp ước đã ký kết giữa ba nước. Nhưng nếu như Đô đốc La Grandière làm trái hiệp ước, đem quân đến chiếm luôn ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, ông Đô đốc còn nói thêm rằng: nếu nước Đại Nam đồng ý nhượng cho Pháp ba tỉnh đó thì ông ta sẽ thu xếp để rút bớt cho một triệu sáu trăm ngàn đồng vào số tiền bồi thường chiến phí. Hơn nữa ông còn hứa hằng năm ông sẽ cho một chiếc tàu thủy đi kiểm tra bọn cướp biển. Nhưng nước Đại Nam không muốn chấp nhận sự nhượng bộ này, vì vậy mà sự bồi thường đó cho đến nay vẫn chưa được giải quyết. Hiện nay, nếu ông thống đốc chấp nhận điểm thứ nhất mà chúng tôi vừa trình bày trên đây và trả lại ba tỉnh miền Tây cho nước Đại Nam, thì nước chúng tôi sẵn sàng trả đầy đủ số tiền bồi thường đó. Điểm 3: Tại điều khoản IV Hiệp ước 1862 có nói: ‘Nếu sau này nước Đại Nam ký kết với các nước khác và muốn nhượng một phần lãnh thổ cho một nước khác, lúc đó nếu Hoàng đế người Pháp thỏa thuận cho sự nhượng đất ấy thì nước Đại Nam có thể cứ làm; bằng không thì thôi’. Chúng tôi coi những lời trên đây là không hợp lý vì rằng lãnh thổ nước Đại Nam là do Hoàng đế nước Đại Nam quản lý; quyền đánh giá và quyết định là quyền của Hoàng đế Đại Nam. Nếu trong bất cứ việc gì, Hoàng đế Đại Nam cũng phải có sự hội ý với Hoàng đế nước Pháp thì luật tương giao đòi hỏi khi nước Pháp muốn ký kết với bất cứ một nước nào, nó cũng phải hội kiến với Hoàng đế Đại Nam. Đó là một điều bất khả, bởi vì hai nước khác đều là những nước độc lập, họ ký kết với nhau thoải mái mà không có điều khoản nào tương tự xen lẫn vào các hiệp ước của họ. Cho nên chúng tôi yêu cầu hủy bỏ điều khoản ấy đi. “Tháng 5, ngày 25”(3) Những yêu cầu đó, tuy rất hợp lý và công bằng, không được ông Đô đốc Pháp lưu ý đúng mức. Người ta dự đoán có thể Dupré từ chối, nhưng là từ chối một cách lịch sự hơn kia! Trong bức thư ngày 23/9 gửi Bộ trưởng Hải quân, ông đã viết: “… Tôi cho biết đã nhận được bức giác thư bằng cách tuyên bố rằng: Tôi chẳng cần phải xem xét những quan điểm chính trị và lịch sử mà họ căn cứ vào cho những yêu cầu này; sau nhiều lần nhắc đi nhắc lại lời tuyên bố dứt khoát với ông Thượng thư Ngoại giao của vua Tự Đức, tôi nói: tôi thất lễ với những mệnh lệnh cụ thể được nhắc đi nhắc lại nhiều lần của chánh phủ tôi nếu tôi chấp nhận thảo luận những yêu cầu đó. Tôi nói với họ là tôi rất tiếc… Họ cũng đoán trước tôi sẽ từ chối, nhưng họ không ngờ là họ sẽ nhận được một lời từ chối khô khan đến thế…”(4) Gạt qua một bên việc điều đình, Dupré bình thản chờ đợi sự tiến triển kế hoạch của ông ta, một kế hoạch được nghiên cứu rất khoa học: chuyến đi Bắc kỳ của Garnier, những sự kiện tiếp theo. Tùy kết quả của sứ mạng mà ông ta đã giao cho Garnier trọn quyền hành động, do đó sẽ quyết định có nối lại hay không những cuộc điều đình với phái đoàn chánh phủ Huế và xem xét những yêu cầu mới của họ. Trong lúc đó, vài hôm trước khi Garnier đến Hà Nội (5/11/1873), Dupré viết thư cho Bộ trưởng Hải quân, ngày 27/10/1873, về vấn đề đàm phán và ký kết hiệp ước mà ông luôn luôn quan tâm: “… Như Ngài sẽ thấy, những bảo đảm mà tôi dự định đòi hỏi là những điều sau đây: 1. Cam kết sẽ không tiếp một nhân viên ngoại giao hoặc thương mại nào của nước ngoài; 2. Tại mỗi điểm có nhân viên của chúng ta, sẽ có mặt một lực lượng quân sự đủ để bảo đảm cho nhân viên của ta được kính nể; 3. Trao lại toàn bộ công tác hải quan cho các nhà cai trị Pháp và khi cần, chúng ta tịch thu khoản thu nhập hải quan đó, là những thu nhập thuộc loại cao nhất của nhà vua; … Toàn bộ những điều cam kết đó, theo tôi, cho chúng ta nắm lấy nước Việt Nam, như bức điện ngày 22/10 bắt buộc… Tôi không dám đảm bảo triều đình Huế sẽ tán thành phương án hai điểm này mà không có một vài sự bồi đắp trở lại. Sự đầu tiên, tôi sẽ để cho nhà vua quyền sở hữu những mảnh đất rộng nằm trong các quận ở Sài Gòn và Gò Công, trên đó có mồ mả xưa của tổ tiên nhà vua, tương tự như cuộc thu xếp với nước Anh về ngôi mộ của Hoàng đế [Napoléon I] ở Sainte-Hélène. Nếu điều kiện ấy không đủ, tôi sẽ quyết định một cách miễn cưỡng trả lại cho nhà vua việc cai trị tỉnh Vĩnh Long, sau một số năm nào đó, sẽ quy định sau, mà trong thời hạn ấy, Việt Nam đã làm tròn nhiệm vụ đối với chúng ta một cách trung thực. Dĩ nhiên là chúng ta sẽ tiếp tục chiếm đóng thành Vĩnh Long và giữ quyền tự do đi lại, trên bộ cũng như dưới biển trên toàn bộ lãnh thổ đã nhượng cho họ… Nhưng nghĩ lại, tôi tưởng rằng không thể nào chúng ta nhượng lại được tất cả quyền hành của chúng ta trên hai tỉnh Châu Đốc và Hà Tiên, là cửa ngỏ để chúng ta thông thương với Campuchia đặt dưới quyền chúng ta bảo hộ…”(5) Biết được rằng phái đoàn đàm phán của Huế đang ở Sài Gòn, nhận thấy những dự án đề nghị, trong thơ đề ngày 11/9/1872, của Dupré đáng quan tâm; có lẽ thành tâm, thật sự muốn đàm phán với Việt Nam vì tình hình hiện tại của Pháp, ngày 22/10/1873, Đô đốc d’Hornoy gửi cho Dupré bức điện: “Cho phép điều đình theo cơ sở bức thư ngày 11/9 của ông. Chế độ bảo hộ mà Huế chấp nhận để được trả lại ba tỉnh phải thật sự, nếu không thì dĩ nhiên là một sự chiếm đóng nước An Nam. Điều kiện này là tuyệt đối và ông chỉ chấp nhận khi nào tất cả mọi bảo đảm về vấn đề này đã được thực hiện. Quy định một khoản tiền trả định kỳ hằng năm, càng tương đương với số tiền thu nhập của ba tỉnh càng hay, không kể các chi phí.”(6) Việc cho phép ông Dupré điều đình này là tiếp theo việc trao trách nhiệm toàn quyền, do chủ tịch Thiers ký ngày 6/11/1872, thay thế những văn bản chánh phủ Đế chế đã ký trước đây. Hôm sau, 23/10, tiếp theo thư của Bộ trưởng Hải quân gửi thống đốc Nam kỳ: “Tôi hân hạnh được xác nhận với ông bức điện ngày 22 tháng này, với nội dung: ‘Cho phép điều đình… không kể các chi phí.’ Bức điện này mà nội dung lời văn đã được trao đổi nhất trí với ông phó chủ tịch, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, trước sự hiện diện và với sự thỏa thuận của chủ tịch nước Cộng hòa, chứa đựng quan điểm của chánh phủ về những cuộc điều đình mà ông sắp sửa tiến hành với phái đoàn của vua Tự Đức, lúc này tại Sài Gòn. Những chỉ thị này chỉ nhằm mục tiêu triển khai quan điểm đó, theo đúng nguyện vọng mà ông đã trình bày và vạch ra một đường lối cần theo, để đạt một kết quả có thể vừa thỏa mãn được lòng kiêu hãnh xứng đáng của nước Pháp và những quyền lợi tài chính cũng như thương mại của chúng ta, đồng thời thỏa mãn sự mở rộng ảnh hưởng chúng ta tại Viễn Đông. Những thông tin liên tiếp của ông mà tôi đã nhận được về tầm quan trọng ngày càng tăng của một sự can thiệp của nước Pháp vào Bắc kỳ, những bằng cứ ông đã dùng để biện luận cho việc ông xin phép được hành động cấp tốc bằng vũ lực đối với xứ này, không phải không gây cho tôi một ấn tượng mạnh mẽ; và nếu tôi đã chống lại những yêu cầu mãnh liệt như vậy là vì tôi cảm thấy hai điều này: một mặt là tình hình của chúng ta bắt buộc tôi phải hết sức dè dặt đối với vấn đề này; mặt khác là một kết quả tương tự có thể chúng ta sẽ đạt được bằng phương tiện hòa bình. Những cuộc điều đình đang tiến hành trong lúc này, mở ra cho chúng ta con đường thứ hai và chánh phủ sẽ không ngần ngại theo ông, nếu như việc chấp nhận một hình thức bảo hộ cho nước An Nam có thể tạo ra cho chúng ta một cách thực tế và không khó khăn gì, một vị trí ưu thế và bảo đảm cho lá cờ của chúng ta có một đường đi thẳng tương đối dễ dàng tới Vân Nam, cho phép chúng ta tham gia một phần quan trọng vào nền thương mại của tỉnh Vân Nam giàu có này. “Một kết quả tương tự đòi hỏi về phía chúng ta phải có một vài nhân nhượng và chánh phủ cho phép ông nghiên cứu, xem xét có thể bằng cách trả lại cho Tự Đức việc cai trị ba tỉnh Vĩnh Long, Châu Đốc và Hà Tiên, buộc nhà vua phải đồng ý nhường cho những cái lợi nào đó, khả dĩ đền bù được những hy sinh lớn lao của chúng ta. Nếu ông đi đến chỗ xác định được rõ ràng những điều kiện cho một thứ quyền bá chủ tương tự như những quyền bá chủ đã có tại một vài nơi ở Viễn Đông thì chánh phủ sẽ sẵn sàng làm theo những ý kiến của ông, về mặt tài chính, quân đội và hải quan. Tôi không thể, trong phạm vi bức thư này, nêu lên nhiều chi tiết tỉ mỉ hơn được; tôi sẽ lưu ý đến việc này tùy theo sự tiến triển của cuộc điều đình. Tôi nói điều này chủ yếu về phương diện quan hệ ngoại giao. Nhưng ông có thể, ngay từ bây giờ, hứa với An Nam sẽ giúp đỡ họ chống lại Trung Quốc. Chúng ta coi như xóa hết cái phần bồi thường chiến phí họ còn nợ nước Pháp. … Tôi duyệt y hoàn toàn những biện pháp đề phòng ông đã dự định thực hiện nhằm trả lại, sau một thời hạn mấy năm sẽ quy định sau và tùy theo thái độ thi hành hiệp ước có trung thành hay không, ba tỉnh đã bị Đô đốc La Grandière đánh chiếm. … Chế độ bảo hộ làm nảy sinh những trách nhiệm mới cho chúng ta, và nhu cầu chính trị không cho phép chúng ta rút bớt lực lượng quân sự. Vậy cần thiết phải yêu cầu chánh phủ An Nam phải đóng góp vào những chi phí cần thiết cho cuộc bảo hộ mà chính họ là người được hưởng. Ông đã chỉ ra như một điều kiện cần đòi hỏi, là việc trả một khoản tiền càng tương đương với số tiền thu nhập của ba tỉnh được hòan trả lại càng tốt, không kể những chi phí cần thiết cho việc thanh toán đó… Về vấn đề bồi thường chiến phí, cái phần còn thiếu cho Tây Ban Nha phải được thanh toán nguyên vẹn…”(7) Chúng ta vừa đọc thư của Dupré trả lời cho bức thư này của ông Bộ trưởng Hải quân. Lời lẽ trong bức thư của Đô đốc d’Hornoy không chỉ là lời lẽ của ông Bộ trưởng Hải quân, cấp trên trực tiếp của ông Đô đốc-cầm quyền Nam kỳ, mà là lời lẽ của chính tư tưởng chánh phủ Cộng hòa. Đáp lại mong muốn của chánh phủ Pháp thiết lập một chế độ bảo hộ tại Việt Nam, sẵn sàng hy sinh một vài quyền lợi nhỏ, ví dụ việc trả lại cho triều đình Huế quyền cai trị ba tỉnh miền Tây Nam kỳ. Về phần Dupré, ông ta gạt đi những quan điểm hợp lý, hợp tình đó, của ông Bộ trưởng, không nói gì đến trong bức thư ngày 27/10 của ông ta. Ông ta còn nói công khai rằng còn lâu mới tán thành chuyện trả lại ba tỉnh đó cho triều đình Huế. Có thể là tình hình nước Pháp sau cuộc chiến tranh Pháp - Đức, với những khó khăn tài chính, những khốn khổ, nhục nhã, chiếm đóng… đã để lại một ảnh hưởng tốt trong thái độ ứng xử của các nhà lãnh đạo Pháp, do đó mà họ có được một tâm hồn rộng rãi, như bức thư của Đô đốc d’Hornoy làm nổi bật lên. Nếu như phái đoàn Việt Nam có thể sang Pháp như người ta mong ước ở Huế, để điều đình trực tiếp với Paris chớ không bị kềm lại để điều đình tại Sài Gòn, thì Lê Tuấn có thể hoàn toàn thành công như Phan Thanh Giản trước đó. Và bốn hôm sau vụ bạo động của Garnier ở Hà Nội, ngày 24/11/1873, trong một bức thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao, Dupré viết: “… Ông Garnier đang ở Hà Nội, không có chống đối… Dân An Nam không tìm cách trục xuất Garnier như đã trục xuất Dupuis, vì sự có mặt của Garnier tại Hà Nội đảm bảo cho Bắc kỳ khỏi có những cuộc mạo hiểm mới và cho cuộc đàm phán của chúng ta một điểm tựa tuyệt vời. Nếu họ đòi trục xuất Garnier thì tôi sẽ trả lời bằng một yêu cầu ký kết hiệp ước. Về vấn đề này tôi không dự tính sẽ không xảy ra chuyện gì phức tạp, không cần thiết phải tăng cường chi phí, không cần gửi thêm quân đến Nam kỳ. Tôi chờ đợi cấp trên ngợi khen tôi đã đặt chân lên được đất Bắc kỳ, theo yêu cầu của chánh phủ An Nam..”(8) Cho đến đây, mọi việc đã diễn biến đúng như Dupré đã dự đoán Garnier đặt được cơ sở tại Hà Nội. Với anh ta, có một chiếc tàu “Scorpion” và chiếc tàu “Espingole”, chiếc “Decrès” thì sắp sửa từ Hồng Kông trở về. Anh ta chỉ còn chờ những phái viên Việt Nam: trước mắt không có gì là đáng ngại… Khi nghe tin Hà Nội bị Pháp chiếm, tuy là một tay say sưa chinh phục nhưng Dupré cũng bắt đầu thấy lo sợ một cách sâu sắc. Garnier và ông ta đã hành động trái với quan điểm chánh phủ Pháp. Có phải là đi quá nhanh chăng? Một sự mở rộng quá mau quyền bá chủ của Pháp như vậy tại Bắc kỳ, liệu có kéo theo một hành động nguy hiểm, từ phía người Việt Nam và một sự tuyên chiến mà bản thân ông ta sẽ chịu trách nhiệm chăng? Một lần nữa, Dupré muốn ký kết với Huế. Phái đoàn Việt Nam vẫn còn ở Sài Gòn, ông Đô đốc bèn lợi dụng sự có mặt của họ để nêu trở lại vấn đề đàm phán mà ông ta đã cố tình để cho bấc lụi đèn tàn. Phái đoàn Việt Nam chấp nhận nối lại cuộc điều đình không khó khăn gì lại còn bảo đảm với ông ta về thiện ý của chánh phủ Việt Nam. Họ hứa hẹn sẽ cho mở cửa sông Hồng và thiết lập tự do buôn bán tại miền Bắc. Nhưng họ nói, làm sao đàm phán hòa bình được nếu người Pháp gây chiến tranh? Trước những điều kiện thuận lợi như thế, Dupré cho rằng sự can thiệp đã đạt được mục đích, ít ra là hiện tại vừa gửi viện quân ra Bắc, ông ta vừa phái ra Huế một sĩ quan, nhằm trình thẳng lên triều đình những điều khoản cơ bản của một cuộc dàn xếp dứt khoát và chấm dứt một tình trạng ngày càng mang một tính chất đe dọa nghiêm trọng, đối với ông ta. Viên đại úy thủy quân Philastre, thông dịch viên trong tất cả các cuộc đàm phán này được chọn làm nhiệm vụ đó. Trưởng đoàn đại diện Việt Nam là Lê Tuấn, lúc này đang bị bệnh nằm lại Sài Gòn. Ông phó trưởng đoàn Nguyễn Văn Tường được giao trách nhiệm đi cùng viên sĩ quan Pháp ra Huế, đồng thời nhận chỉ thị mới của triều đình. Trong chỉ thị cho Philastre, ngày 6/12/1873, Dupré viết: “Phù hợp với nguyện vọng của các đại sứ [Việt Nam] đã giải bày, ông ra Huế trao lại cho Đức vua các ông… bị bắt giam tại Hà Nội. Ông xuống tàu ‘Décrès’ sẽ xuất phát ngày Chủ nhật mồng bảy tháng này và sẽ đổ bộ ông xuống Đà Nẵng, cùng với các quan chức nói trên. Ông phó trưởng phái đoàn ra [Huế] xin phép chính thức cần thiết để đàm phán và ký kết. Nhiệm vụ của ông là một nhiệm vụ hòa bình và hòa giải. Ông sẽ dùng hết quyền lực của mình để ủng hộ công việc của ông Nguyễn Văn Tường…”(9) Trong một bức thư gửi cho Tự Đức, sau khi thông báo cho nhà vua về việc cử một sĩ quan mang những “lời thỉnh cầu cung kính” ra dâng lên vua, ông viết thêm: “… Tâu Bệ hạ, cho tôi được hy vọng rằng ông ta sẽ trở về nay mai báo cho tôi tin mừng rằng không có gì cản trở nữa trong việc ký kết bản hiệp định mà ý nghĩa và mục đích là thắt chặt mối tình hữu nghị bất diệt muôn đời giữa nước Pháp với nước An Nam.”(10) Tại Huế, Philastre được đón tiếp lạnh nhạt: làm sao có thể vừa điều đình, vừa cưỡng bách được? Sau khi nghe tin về sự việc vừa xảy ra tại Hà Nội và những hành động của F. Garnier mà ông ta cho là tai hại, ông tự ý quyết định ra Hà Nội và gặp các phái viên của Huế đang thảo luận với Garnier. Như vậy, ông ta có thể kiềm chế Garnier lại và áp dụng những chỉ thị đã nhận được. Nguyễn Văn Tường đi với ông ta. Vừa đến cửa sông Hồng, Philastre hay tin Garnier đã chết. Ông ta liền thay vào chỗ viên trung úy Hải quân Esmez, người tạm thay Garnier để tiếp tục việc điều đình. Cái chết của đồng sự làm cho ông ta sửng sốt và chắc chắn là rất xúc động. Nhưng bản thân ông ta rất phản đối những biện pháp Garnier đã dùng ở Bắc kỳ. Trước đó ít lâu, ông ta có viết cho Garnier: “… Anh có nghĩ đến cái nhục sẽ đổ xuống trên đầu anh và trên đầu chúng ta, khi thiên hạ biết rằng người ta cử ra để đuổi một tên lưu manh nào đó, và để giải quyết ổn thỏa với các nhà đương cục An Nam thì anh lại đi liên kết với tên du thủ du thực ấy mà bắn vào những người không hề tiến công anh và không có phương tiện để tự vệ.”(11) Ngày 20/12/1873, Dupré đã gửi cho Garnier những chỉ thị cụ thể bảo anh ta tạm đình hoặc hủy bỏ đi những biện pháp thương mại mà anh ta đã đặt ra, và giữ Bắc kỳ trong tình trạng đóng kín chờ ký hiệp ước mới. Những chỉ thị ấy không bao giờ được thi hành. Đến Hà Nội ngày 3/1/1874, dĩ nhiên cũng mang theo những chỉ thị ấy, Philastre ký quy ước với Nguyễn Văn Tường, ngày 5/1 và 6/2 để rút quân Pháp ra khỏi thành Ninh Bình, Nam Định và Hà Nội và trả lại những thành phố đó cho nhà chức trách Việt Nam. Ngày 16/2/1874, ông ta rời Bắc kỳ. Giữa lúc Philastre và Nguyễn Văn Tường đang trên đường đi ra Bắc, Dupré nhận được tin Garnier bị giết. Ông Đô đốc hốt hoảng. Tin đồn đại về một tòa án binh đang đè nặng lên đầu ông ta. Ngày 4/1/1874, trong một bức thư gửi Bộ trưởng Hải quân, ông ta cố tình trút trách nhiệm xuống đầu Garnier. Tuy sứ mệnh của Philastre và Nguyễn Văn Tường, ở Huế, đạt được một phần thắng lợi, tuy về phía mình, vua Tự Đức cũng chờ đợi cuộc đàm phán và lợi dụng cơ hội để chứng tỏ “lòng biết ơn” của mình đối với Dupré - nếu quả có sự biết ơn thật, theo cách riêng của nhà vua, là gửi tặng Dupré một tấm huân chương bằng vàng, Dupré vẫn không thể nào hoàn toàn vui sướng. Qua cái tang của Garnier và những trường hợp đã diễn ra cái chết này, xác của Garnier bị chặt đầu, rất lâu sau những trận chiến đấu đẫm máu mới tìm được, đã làm kế hoạch của ông Đô đốc bị đảo lộn, những điều kiện khắc nghiệt mà ông ta hằng mơ ước áp đặt (cho Việt Nam) bị tan thành mây khói, ngoài mối nguy cơ có thể bị đưa ra tòa án binh; nhưng rồi bản hiệp ước của ông cuối cùng ông cũng ký kết được. Và nếu như ông Đô đốc-cầm quyền rất lo sợ trước những sự kiện nối tiếp nhau quá nhanh thì chánh phủ Pháp còn lo sợ gấp mấy. Chánh phủ đã thông báo sự phản đối của mình đối với mọi hành động quân sự; như thường lệ chánh phủ cứ để cho dùng quyền lực nhẹ nhàng nếu tóm vén gọn gàng không tiếng tăm. Nhưng lần này không phải như vậy. Sau khi đã báo điện cho các cấp trên biết việc chiếm thành Hà Nội, rồi cái chết của Garnier, ngày 10/1/1874, Dupré gửi một bản báo cáo chi tiết kèm theo đề nghị khen thưởng(12). Nhưng bức điện ấy đi giữa đường thì bức điện khác của ông Bộ trưởng Hải quân, ngày 7/1/1874, đến: “Sự kiện đáng buồn mà ông vừa thông báo xác minh những nỗi lo sợ mà tôi đã bày tỏ trước đây với ông về nhiệm vụ của phái đoàn cử ra Bắc kỳ mà tôi đã không ngăn cản được họ lên đường. Trước sự việc đã rồi, tôi chỉ muốn hy vọng rằng cái chết của các sĩ quan ta hôm nay đã được trả thù và những quyền lợi về danh dự cũng như ảnh hưởng của chúng ta, đã được bảo vệ bằng một sự trừng phạt khẩn trương và nghiêm khắc. Tôi nhắc lại ông rằng, trong tất cả mọi trường hợp cần phải hành động hợp lực với các đại diện triều đình Huế. Bằng tất cả mọi phương tiện, ông hãy cố gắng ký kết ngay một hiệp ước, mà kết quả phải là sự rút quân ra khỏi thành Hà Nội,bởi vì tôi xin nhắc lại với ông rằng, chánh phủ bắt buộc một cách tuyệt đối, không thể có vấn đề một cuộc chiếm đóng lâu dài, càng không thể là một cuộc chiếm đóng vĩnh viễn, trên một bộ phận nào của đất Bắc kỳ.”(13) Paris vẫn luôn luôn tán thành đàm phán để ký kết với Huế một hiệp ước, theo những điều kiện hai bên có thể chấp nhận được và phù hợp với hoàn cảnh của nước Pháp lúc này tại châu Âu. Những sự kiện vừa xảy ra tại Bắc kỳ càng xác nhận ý định này và xúc tiến quyết định này. Dù muốn hay không muốn, lần này Dupré phải cúi đầu tuân lệnh. Vậy là giờ đây, mọi người đều tuyên bố đồng ý: không có một cuộc chinh phục nào ở Bắc kỳ và phải giải quyết dứt khoát bản hiệp ước đã quá nhiều lần đình hoãn lại ấy. Tất cả mọi người, không! Bởi các giáo sĩ không đồng ý và theo đuổi tham vọng chiếm đóng Bắc kỳ. Ngày 25/12/1873, Giám mục Puginier được tin rút quân, phản đối kịch liệt qua một bức thư gửi cho Dupré: “… Ông Garnier vì mục đích muốn tránh những loạn ly và giữ gìn yên tĩnh. Đã khẩn trương tổ chức lại những vùng ông ta đã chiếm theo yêu cầu của ông ta, một số rất đông người An Nam tự nguyện ra làm những chức vụ khác nhau hoặc lập một đội dân vệ… Do đó, chính những người này, cũng như một phần lớn nhân dân, đã bị chánh phủ An Nam nghi kỵ. Nhất là các giáo dân… Nhiều làng mạc của họ bị cướp phá và thiêu hủy… Đa số dân chúng đã vui mừng đón chào sự xuất hiện của lá cờ Pháp, báo hiệu một kỷ nguyên hòa bình và thịnh vượng. Uy tín của nước Pháp đã lớn và vẫn còn lớn. Nhưng để duy trì uy tín đó, cần phải đảm bảo cho tất cả những người dân bị nghi kỵ đó được bảo vệ một cách tuyệt đối vĩnh viễn… Nếu nước Pháp rút lui hoặc không hành động theo nhu cầu cấp thiết của hoàn cảnh hiện tại, thì điều đó có thể dẫn tới sự tan vỡ của toàn bộ những người dân Kitô giáo và sự đảo lộn cực kỳ nguy hiểm trên đất nước này. Tất cả dân ấy đã vô cùng phấn khởi khi phái viên của Ngài đến, sẽ mất hết lòng quý yêu khâm phục nước Pháp và lòng quý yêu của họ có thể biến thành lòng căm thù, nếu niềm tin tưởng họ đã đặt vào nơi nước Pháp, không may kết thúc bằng một nỗi thất vọng chua cay… Trong hoàn cảnh loạn ly và đe dọa hiện nay của đất nước, muốn cho sự bảo vệ có hiệu quả thực sự thì cần thiết phải dựa trên một quân số đáng kể, khoảng 1000 người và hai tàu thủy. Mục đích của đội quân này không phải là để chiến tranh, mà chỉ để trùng phạt những phần tử gây ra tình trạng mất an ninh…”(14) Sự chấm dứt đột ngột chiến dịch Bắc kỳ, cuối cùng, cho Pháp người ta lo đến chuyện ký kết hiệp ước. Vả lại Dupré cũng quyết tâm ký cho được hiệp ước “của ông ta”. Là một người đầy tham vọng muốn cho tên tuổi mình gắn vào với Việt Nam một cách chói lọi, muốn khi sắp trở về chính quốc, khi mà mọi đe dọa “tòa án binh” đã không còn lo ngại nữa, ông ta sẽ được thêm một sao thứ ba (lên cấp), trong lúc chờ đợi, ông ta kết thúc năm thứ ba và năm cuối cùng của nhiệm kỳ thống đốc của ông ta bằng một thất bại hầu như hoàn toàn. Mặc dầu, khoác lác và những khẳng định với các Bộ trưởng rằng “ông ta sẽ hành động một mình sẽ thắng lợi”, rốt cuộc tình thế tổng kết lại chẳng “chói lọi” chút nào, chẳng có Bắc kỳ nào như ông ta đã hứa hẹn; sự tự do đi lại trên sông Hồng chỉ thu gọn lại trong một câu tuyên bố. Để khỏi tay không về nước ông ta chỉ còn khả năng cuối cùng: là người ký kết hiệp ước. Các sự việc Bắc kỳ đã dàn xếp khá ổn thỏa. Rheinart được phái ra Hà Nội thay Philastre. Philastre cùng Nguyễn Văn Tường trở về Sài Gòn; ngày 21/2/1874, họ đến nơi. Ngày Dupré lên tàu trở về Pháp đã định, người thay ông cũng đã được chỉ định, Dupré chỉ còn cách là “đặt gươm vào hông” các đại diện toàn quyền của Việt Nam. Vả lại hoàn cảnh cũng thuận lợi. Mặc dầu phần kết của bản hiệp ước liên quan đến sự kiện Garnier làm cho nhà vua thỏa mãn, Tự Đức rất lo lắng: những thắng lợi nhanh chóng đầu tiên của vài tên phiêu lưu há chẳng làm cho người ta sợ một hành động vũ trang khác nữa, dù chỉ để gọi là “bảo toàn danh dự” đó sao? Ngay cả một cuộc tiến công Huế chẳng phải là cũng có khả năng xảy ra đó sao? Nhà vua đồng ý chỉ thị cho các đại diện triều đình phải có thái độ mềm dẻo hòa hoãn hơn. Và phái đoàn Việt Nam đề nghị với phái đoàn Pháp: Hoàn toàn bãi bỏ các khoản bồi thường chiến tranh; bỏ điều khoản liên quan đến những quan hệ ngoại giao mà họ gọi là “Đoan hành tắc hành”; đưa về lại Sài Gòn một số tàu thủy đang ở Bắc kỳ; rút một số đơn vị quân đội đang chiếm đóng ở Bắc kỳ; cử một lãnh sự Việt Nam tại Sài Gòn. Ngày 24/2/1874, Dupré trả lời rằng không thể bỏ điều khoản liên quan đến việc quan hệ ngoại giao; rằng ông ta sẵn sàng trả lại gần toàn vẹn lãnh thổ tỉnh Vĩnh Long, tức phần giới hạn giữa các sông Hàm Luông, Ba Thác và Nha Mân. Nhưng chánh phủ Việt Nam phải trả cho nước Pháp 36.000 đồng bạc mỗi năm. Thành Vĩnh Long sẽ do một công sứ Pháp và một đội quân đồn trú chiếm đóng để kiểm tra các quan lại Việt Nam trong việc cai trị tỉnh này. Nó sẽ được trả lại nguyên vẹn cho chánh phủ Huế khi nào chánh phủ Huế trả hết cho Tây Ban Nha một triệu đồng bạc còn nợ và thực hiện đầy đủ mọi điều khoản của Hiệp ước. Tại Hà Nội, Rheinart sẽ có một đội quân 40 binh lính; hai trăm quân khác sẽ đóng tại Hải Phòng. Ba tàu chiến sẽ ở lại Bắc kỳ. Tại Nam kỳ, nơi nào có mồ mả gia đình họ hàng nhà vua sẽ để lại cho một vùng đất xung quanh từ một đến tám mẫu. Đáng lẽ nhận việc trả lại Vĩnh Long như Dupré đã đề nghị và đòi trả luôn các tỉnh kia, các ông đại diện toàn quyền Pháp bị hấp dẫn bởi những đề nghị của Pháp sẽ tặng chánh phủ Huế năm chiếc tàu chiến, yêu cầu ông Đô đốc hãy giữ lấy Vĩnh Long mà cai trị; về số tiền 1.500.000 francs thuế hằng năm của Vĩnh Long, Trà Vinh và Mỏ Cày, các đại diện Việt Nam yêu cầu ông Đô đốc giữ lấy 500.000 francs để chi tiêu các khoản, còn một triệu thì trả cho Tây Ban Nha về khoản chiến phí, như vậy khoản chiến phí này sẽ được thanh toán dứt sau 5-6 năm. Trong các cuộc hội đàm đó, riêng vấn đề giáo dân là gây nhiều sôi động. Giám mục Colombert đòi được đích thân điều đình lấy. Ông Phó Giám mục Sài Gòn bác bỏ điều khoản buộc các quan lại Kitô giáo phải tuân theo các nghi lễ triều đình Huế: các đại diện Việt Nam đành phải cắt bỏ điều khoản này đi mà để lại những khoản nào có lợi cho các giáo sĩ. Đúng vào lúc các cuộc thương thuyết vừa kết thúc và bản hiệp ước chính trị vừa được ký kết (ngày 15/3/1874) thì ngày 17/3, hồi ba giờ sáng, người ta thấy ông trưởng đoàn Việt Nam, Lê Tuấn chết tại nhà khách của phái đoàn. Tiếng đồn là ông ta uống thuốc độc tự tử. Vậy là bản hiệp ước đã ký: Đô đốc Dupré đã thắng được thời gian. Nếu hiệp ước này không phải là một thành công hoàn toàn của ông Đô đốc thì ít ra đối với ông cũng là một thành tựu không đến nỗi quá nhỏ nhoi. Ông ta có thể tự hào một cách xứng đáng. Nước Pháp thấy nền bá quyền của mình trên ba tỉnh miền Tây Nam kỳ chiếm đóng trái với hiệp ước trước từ năm 1867, được thừa nhận; hai cảng miền Bắc và một cảng miền Trung, được mở cho việc buôn bán, mỗi nơi một lãnh sự Pháp bảo vệ do một đội quân nho nhỏ. Sau nữa, tại Huế, có một “công sứ” Pháp. Để đáp lại tương xứng, chánh phủ Việt Nam có thể đặt một đại diện tại Paris và một đại diện tại Sài Gòn có quyền hạn ngang hàng với công sứ Pháp tại Huế. Về sau, Dupré chỉ chấp nhận một lãnh sự tại Sài Gòn: Nguyễn Văn Y sẽ được cử vào chức vụ này cùng với một phó lãnh sự, Phan Khiêm Ích; hoạt động của họ rất hạn chế; họ không ở lại đó được lâu. Việc tự do thờ phượng của Kitô giáo ngày càng được bảo đảm hơn. Sự đối xử rộng rãi hơn đó được chấp nhận ngày 11/3 sau những phiên họp căng thẳng nhất của cả thời gian điều đình do công lao của Giám mục Colombert. Theo điều khoản VIII, những hành động phản bội của những tên thù của Tổ quốc được triều đình Huế hợp pháp hóa chính thức; ngoài ra người ta còn thừa nhận cho chúng cái quyền hợp pháp được “cộng tác” với kẻ thù. Vấn đề bồi thường chiến phí mà hai bên tranh chấp nhiều cũng được giải quyết. Để làm cho phái đoàn Việt Nam không đòi trả lại ba tỉnh Vĩnh Long, Châu Đốc và Hà Tiên, vấn đề tha thiết nhất không phải của riêng triều đình, mà của cả nước, trong phiên họp ngày 10/3, Dupré hứa sẽ tặng chánh phủ Huế năm tàu chiến. Còn về vấn đề ngoại giao, lý do tồn tại của một nước có chủ quyền, các đại diện Việt Nam cam kết sẽ theo chính sách ngoại giao của Pháp. Trong những điểm bề ngoài dường như có lợi cho Việt Nam, điều khoản III ghi rõ ràng Việt Nam sẽ không thay đổi trong chính sách ngoại giao hiện nay của mình, có nghĩa là mối quan hệ và địa vị “nước nhỏ” với tính cách trừu tượng của nó, đối với Trung Quốc, sẽ không bị tổn thất gì (sau này, các nhà chức trách Pháp sẽ giải thích điều khoản này theo hướng hoàn toàn ngược lại). “Chủ quyền” của Việt Nam và nền “độc lập hoàn toàn” của nó được thừa nhận. Không còn có vấn đề chiếm đóng Bắc kỳ; ở Hà Nội chỉ còn một lãnh sự Pháp, Rheinart với đội quân 40 người. Và chẳng hề có vấn đề bảo hộ. Chúng ta không quên huân chương “Đại Bắc đẩu bội tinh” trao tặng vua Tự Đức, ngày 13/4/1874, nhân việc trao đổi văn bản chuẩn y hiệp ước. Lần này nữa, chính sách của Pháp khéo kết hợp dùng võ lực với đàm phán: Garnier và Philastre về hành động bạo lực rồi tạo ra bản hiệp ước; một tạm ước bề ngoài có tính chất lùi lại với những mục tiêu ban đầu. Một chính sách như vậy thành tựu được chỉ vì ngay trong lòng chánh phủ Việt Nam luôn luôn bị đe dọa bởi những cuộc nổi loạn, đã tồn tại sẵn một tư tưởng thất bại chủ nghĩa, sẵn sàng chấp nhận một thỏa hiệp như thế. Chánh phủ Pháp được Dupré nhắc đi nhắc lại nhiều lần, Dupré vì sự kiện Bắc kỳ nên không phải là người được ưu đãi (person grata) nữa, rốt cuộc phê chuẩn hiệp ước này lợi cho Pháp hơn những dự kiến lúc đầu. Nước Pháp được một thắng lợi ngoại giao quan trọng; tháng 8/1874, trước Quốc Hội, trong lúc trình bày lý do dự án luật phê chuẩn hiệp ước, chánh phủ có thể kết luận: “… Văn kiện này, chính thức hóa chủ quyền của nước Pháp trên đất Nam kỳ, chấm dứt mọi bấp bênh mọi mặt đã đè nặng trên thuộc địa chúng ta từ 1867. Sau những quan hệ mang dấu vết tư tưởng thù địch và ngờ vực, hiệp ước này đem lại sự thành thực hòa bình và hữu nghị giữa nước Pháp với triều đình Huế. Bằng cách mở cho việc buôn bán với nước ngoài một cảng của miền trung Nam kỳ, một cảng và cả thủ đô của Bắc Kỳ, cùng với sự thông thương từ biển cho đến biên giới Trung Quốc, trên dòng sông Hồng mà dường như là cái cửa tự nhiên của một vùng đất hết sức rộng lớn của Trung Quốc, nó biến cho mọi nước nhiều thuận lợi quan trọng mà tương lai sẽ chứng minh. Sau cùng, nó bảo đảm cho những người An Nam cùng tôn giáo với chúng ta một sự đối xử như sự đối xử mà luật lệ của nước họ dựng cho người dân của nhà vua An Nam; nó để cho các giáo sĩ một sự tự do mà ở Nhật Bản họ không có được, mà ở Trung Quốc thì bị ràng buộc bởi nhiều điều kiện và hạn chế…”(15) Đô đốc Krantz, thống đốc Nam kỳ trong vài tháng, sau Dupré, bổ sung hiệp ước chính trị đó bằng một hiệp ước thương mại, cũng đàmphán tại Sài Gòn với một phái đoàn ấy và Nguyễn Văn Tường ký ngày 31/8/1874. Hiệp ước này gồm 29 điều khoản và một điều khoản phụ thêm, theo yêu cầu của Pháp liên quan đến quyền thu thuế hải quan, thả neo và hải đăng tại ba cửa biển đã mở là Quy Nhơn, Hải Phòng và Hà Nội được quy định cho mười năm; đồng thời nó quy định điều kiện buôn bán quá cảnh lên Vân Nam qua con sông Hồng. Đó là hoạt động duy nhất của Đô đốc Krantz trong thời gian ông ta ở Sài Gòn. Còn Dupuis mà người ta không còn sử dụng được nữa thì hoàn toàn bị bỏ quên và biến khỏi một sân khấu mà y đã chiếm giữ quá lâu, với sự đồng lõa của Sài Gòn. Philastre tịch thu đội thuyền của y, tài sản của y bị niêm giữ. Trở về Sài Gòn, y còn cố gắng, một lần nữa, sau hiệp ước đã ký, trở lại Bắc kỳ, đóng lại ở Hải Phòng rồi quyết định trở về Pháp. Điều đó không có nghĩa là y đã từ bỏ ý đồ “chăm sóc đến Việt Nam” , như chúng ta sẽ có dịp chứng kiến sau này, thu hồi lại gia tài mà tạm thời y bị mất và còn làm giàu thêm nữa trên lưng người Việt Nam. Về phần hai người con trai của Phan Thanh Giản thì trong một bức thư ngày 14/9/1874 gửi Thượng thư Ngoại giao tại Huế, Đô đốc Krantz báo cho ông Thượng thư biết rằng ông Đô đốc đã xin chánh phủ Pháp ân xá cho hai người và nay mai sẽ trở về nước. TS Nguyễn Xuân Thọ Nguồn: (Alpha Books - Ebook) Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam 1858-1897 Trang Lịch Sử |