Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam Sự Kiện J. Dupuis TS Nguyễn Xuân Thọ https://sachhiem.net/NGXUANTHO/BuocMoDau_09.php
Chương 8 - Sự Kiện J. Dupuis Và Những Cuộc Viễn Chinh Bắc Kỳ Của Pháp Sự chiếm đóng của Pháp trải qua một thời kỳ tương đối ổn định. Các Đô đốc - cầm quyền lo tổ chức tại Nam Kỳ việc cai trị các tỉnh vừa chiếm được. Nhưng chẳng còn gì nữa để giải quyết mối quan hệ giữa chánh phủ Pháp và chánh phủ Việt Nam. Hiệp ước 1862 mà người Pháp lâu nay vẫn căn cứ và vẫn nhìn nhận giá trị của nó khi Hiệp ước Aubaret bị xóa bỏ, thực tế đã mất hiệu lực vì sự chiếm đóng sáu tỉnh Nam kỳ, vi phạm các điều khoản của hiệp ước này và tước bỏ hết giá trị của nó. Ngay sau hành động bạo lực đó, chánh phủ Pháp tìm cách thuyết phục chánh phủ Việt Nam ký một hiệp ước khác để chứng nhận sự việc đã rồi… Đương nhiên, Huế tỏ ra không vội vàng vì đâu có muốn thừa nhận, về mặt pháp lý, việc Pháp đã dùng võ lực cưỡng bức để chiếm đóng sáu tỉnh Nam kỳ. Huế đặt nghi vấn, nghi vấn chính đáng về giá trị những hiệp ước đã trao đổi với Pháp, mặc dù những hiệp ước đó được ký kết và phê chuẩn. Thực ra từ 1867, mỗi ông Đô đốc - cầm quyền đến Việt Nam với toàn quyền hành động và ra sức thuyết phục triều đình Huế. Dù có mất cả miền Nam trong hai mươi năm, giữa Hiệp ước 1862 và cuộc tiến công đầu tiên của Pháp vào Bắc kỳ năm 1882, vẫn tồn tại một nước Việt Nam độc lập làm chủ vận mệnh mình và một phần lớn lãnh thổ của mình. Miền Bắc và miền Trung, cái nôi của đất nước và là những lò truyền thống của nền văn minh Việt Nam, vẫn nằm trong tay mình. Đứng trước sự chia cắt non sông do việc quân Pháp chiếm đóng miền Nam, theo Hiệp ước 1862, rồi sự thôn tính đơn phương năm 1867, miền Bắc và miền Trung đã phản ứng như thế nào? Mặc dù áp lực của Pháp, Huế vẫn kiên trì từ chối không thừa nhận vụ bạo lực năm 1867 và chuẩn y việc Pháp chiếm đóng các tỉnh miền Nam. Một chỉ dụ của vua Tự Đức công bố năm 1867 chứng rõ, đồng thời lòng yêu nước, một tâm trạng rất hoang mang. Nó chỉ rõ sự bất lực của nhà vua trong việc cổ vũ và lãnh đạo một phong trào đổi mới đất nước sâu rộng: “Chưa bao giờ có những sự kiện tai hại như ở thời đại chúng ta; chưa bao giờ có những bất hạnh lớn lao như trong năm này… Nhìn lên trên, Trẫm sợ mệnh trời và nhìn xuống dưới, lòng thương cảm đối với trăm dân khiến Trẫm ngày đêm đau khổ. Trong thâm tâm, Trẫm vừa run sợ, vừa xấu hổ. Trẫm luôn gánh nhận lấy mọi sự thù địch cho trăm họ khỏi chịu trách nhiệm và tai ương này chưa xong thì những tai ương mới đã tới. Quả thực, chẳng biết nói cách nào, làm cách nào để giúp đỡ cho thần dân đất nước… Trẫm thường dự các buổi tiếp tân nghi lễ nhưng chỉ là người nghi thức bên ngoài; ngồi một mình, lòng Trẫm nặng trĩu đau buồn, không lời nào tả xiết. Điều đó khiến cho Trẫm trở thành thiếu máu và mặt Trẫm trở nên xanh xao và gầy còm. Năm nay Trẫm chưa đến tứ tuần, mà tóc râu đã bạc chẳng khác gì một ông già. Trẫm sợ vì quá lo lắng trong lòng mà không còn có sức để sớm hôm thờ phụng tổ tiên... Giữa những mối lo âu chồng chất về công việc trị dân và những họa lớn lao đến với đất nước, tuy bất lực, Trẫm vẫn chăm đọc sách thánh hiền, đọc mà không biết vận dụng… Tấm lòng và sức lực của con người chỉ có một cái thân, lại bị hàng vạn ngàn công việc đè nặng lên đầu làm sao có đủ khả năng chịu đựng nổi gánh nặng này? Việc lớn của các người chủ gia đình, hôm nay là chống đỡ đất nước. Cả khối muôn vạn ngàn gia đình đoàn kết lại, cùng nhau một ý chí thì đó mới là biện pháp đúng đắn nhất để đi đến thành công… “Cái gì cũ kỹ, không hợp lý nữa hoặc tồi tệ, xấu xa thì phải xóa bỏ đi. Cái gì có lợi thì phải đi tìm cho được. Những bậc hiền tài hãy hiến kế, những người có sức hãy góp sức, những người giàu hãy góp của và những kẻ có một sở trường riêng, một nghề nghiệp, những kẻ có sáng chế, phát minh một vài điều có ích, phải sử dụng tài năng, nghề nghiệp đó phục vụ cho nhu cầu của quân đội, của giang sơn. Tất cả hãy tự nguyện và chủ động tự giới thiệu, đề xuất ý kiến, thử cách làm sao chuộc lại hoặc sửa chữa những sai lầm của chúng ta… Trẫm sẽ sung sướng biết bao nếu, trong nỗi đau thương sâu sắc của mình chuộc lại được những lỗi lầm quá khứ, làm được chút gì đáp lại công lao ngày trước của Tổ tiên! Đây là tất cả những lời nguyện của Trẫm, là đối tượng chính Trẫm thường xuyên ước vọng, mong chờ… Than ôi! Thế kỷ nào cũng đầy đau thương và con người hoàn toàn sống dưới gánh nặng của u buồn và kinh sợ! Đây là những tâm tư của Trẫm, Trẫm tỏ ra cho mọi người được biết. Khâm thử. Phụng mệnh.”(1) Trong bối cảnh chính trị, kinh tế và xã hội của nước Việt Nam, đang bị cơn khủng hoảng lúc này, lời kêu gọi của nhà vua không gây được mấy hồi âm. Nỗi Bất Bình Của Nhân Dân Việt Nam Những Cuộc Đảo Chính Ở Triều Đình Huế Cũng như trong những thời kỳ khủng hoảng mà Việt Nam từng trải qua trước kia, thời kỳ Lê Hoàn (980-1005) thay thế nhà Đinh (968-979), thời kỳ Hồ Quý Ly tiêu diệt nhà Trần (1225-1400), thời kỳ quân Tây Sơn chiếm kinh thành nước Đại Việt (1786); mở cơ hội cho cuộc xâm lăng của quân Tống, năm 981, quân Minh từ 1407-1427, hoặc quân Thanh từ 1788 - 1789; cuộc khủng hoảng lần này không bao lâu sẽ kéo theo sự mất độc lập dân tộc và biến thành thuộc địa của Pháp. Nguồn gốc cuộc khủng hoảng này phát sinh từ 1802, thời điểm Nguyễn Phước Ánh tự xưng vua và đóng đô tại Huế. Trước con mắt người Việt Nam, vua Gia Long thắng được kẻ thù của ông là nhờ dựa vào sự giúp đỡ của Tây phương và sức mạnh của vũ khí. Thắng được Tây Sơn(2) nhưng Nguyễn Phước Ánh không thu phục được lòng người dân Việt. Do đó, ngay lúc sinh thời, Gia Long còn phải đối phó với nhiều cuộc nổi loạn, ngày càng lan rộng thêm dưới thời các vua kế tiếp ông. Mặc dầu một cuộc đàn áp đẫm máu do những tay trung thành nhất của ông ta, Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường, ông ta thiết lập trên miền Bắc chế độ “Tổng trấn” (commanderie), và như vậy biến cái nôi của dân tộc Việt Nam thành một “thành” (citadelle), đặt tên là “Bắc thành”, rồi đóng đô của mình tại Phú Xuân (Huế), trấn Thuận Hóa. Bị đặt trước một sự trở mặt đột ngột như vậy, nhân dân miền Bắc sửng sốt, mất cả phương hướng. Chế độ “Tổng trấn” là một hình thức thống trị bằng hành chánh. Nó là một chế độ độc tài quân sự trong tay bọn tướng tá. Đối với người dân Bắc đã từng giúp đỡ ông ta trong những lúc khó khăn, Nguyễn Phước Ánh đã phản bội lòng tin của họ, vì đã phản bội nhà Lê (1428-1788). Giá như người cháu họ của ông vua cuối cùng nhà Lê ấy không hứa hẹn gì với dân, giá trong các công văn giấy tờ chính thức, ông ta không dùng “Niên hiệu Cảnh Hưng” thì chẳng ai trách ông ta về sự phản bội rõ rệt ấy làm gì(3). Một lý do nữa không kém phần quan trọng là Nguyễn Phước Ánh đã chọn Thuận Hóa để đặt kinh đô, mà theo quan điểm người đất Bắc, Thuận Hóa là một vùng đất mới không có quá khứ lịch sử, không có tài nguyên thiên nhiên gì và hiếm người tài giỏi. Chọn Thuận Hóa để đặt kinh đô tức là cố tình bỏ nước Văn Lang (Đất nước những người văn vật), với những cảnh quan hùng vĩ, một quá khứ lịch sử lẫy lừng đã bao lần chiến thắng kẻ thù đuổi bọn xâm lăng ra ngoài bờ cõi. Đối với người Việt Nam miền Bắc thì cách nhận xét đánh giá của họ được khẳng định qua sự thất bại của quân triều đình Tự Đức trước quân đội Pháp, trong trận Thuận An năm 1884; chỉ trong một ngày quân triều đình bị thua trận và phải đầu hàng giặc, trong khi ở miền Bắc, các đội quân của Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích đã đương đầu với quân Pháp suốt ba mươi năm liền mà không hề nhận được đồng tiền, một bát gạo cỏn con nào của triều đình Huế. Cho nên việc Nguyễn Phước Ánh đặt kinh đô mới tại Huế có một tầm quan trọng rất lớn đối với người dân đất Bắc, về phương diện chính trị cũng như về phương diện tâm lý. Lý do thứ ba của sự bất bình là sự bóc lột trắng trợn người dân đất Bắc của các quan lại triều đình Huế. Không một cơ sở kinh tế, hoặc xã hội nào được thiết lập do bàn tay chánh phủ. Ngược lại ở miền Bắc, con đê Văn Giang bị vỡ 18 năm liền mà chánh phủ không hề lưu tâm sửa chữa. Trong những điều kiện như vậy, người ta có thể hiểu một cách dễ dàng làm sao người dân miền Bắc lại không nổi loạn để cứu lấy mình cho được? “Trung quân ái quốc”, tinh thần người dân Việt Nam nói chung được cấu tạo bằng hai yếu tố đó bổ sung cho nhau. Chính hai yếu tố đó đã bảo vệ được cho đất nước trước sự đe dọa của Trung Quốc. Chính hai yếu tố đó đã ngăn cản nước Việt Nam khỏi bị tan vỡ, trong thế kỷ XVII và XVIII, thành hai hay thành ba mảnh, do hành động của những dòng họ đối địch và tham lam. Đối diện với nước Trung Quốc luôn luôn dòm ngó, dân tộc Việt Nam quyết không để cho đất đai mình bị chia nhỏ ra. Xuyên qua những cuộc bất đồng ý kiến chính trị, nó kiên trì chỉ muốn giao thác số phận mình vào tay triều đại nhà Lê, mà người sáng lập vào đầu thế kỷ XV, đã giải phóng cho nó khỏi ách thống trị của Trung Quốc, tuy không lâu dài nhưng đã để lại một vết tích khó xóa nhòa đi. Triều đại nhà Nguyễn tự đặt mình lên ngôi thống trị Việt Nam đầu thế kỷ XIX chẳng bao lâu phải đối diện với chủ nghĩa thực dân Pháp, không được sự ủng hộ của nhân dân. Họ thiếu một cái gì đó để dân chúng thừa nhận, để thực sự trở thành những biểu hiện sống của giang sơn: đó là cái uy tín của một sự nghiệp lớn vì Tổ quốc. Thực dân Pháp đã lợi dụng tình trạng “lòng người ly tán” ấy để tiến hành cuộc chinh phục của họ. Cái di sản mà Tự Đức thừa kế của cha ông đã nặng điều hăm dọa, đến nỗi trong lúc ông ta trị vì, ông đã chẳng làm được gì để gạt bỏ đi những điều hăm dọa đó; trái lại còn làm cho nó thêm trầm trọng hơn lên. Đó là nguyên nhân của tình trạng khủng hoảng và loạn ly ngày càng gia tăng mà hậu quả là đất nước mất độc lập và trở thành nô lệ ngoại bang. Giữa tình trạng hỗn độn ấy, ở Huế xảy ra ba cuộc đảo chính không thành. Cả ba cuộc đều do những người trong hoàng tộc khởi xướng: cuộc thứ nhất, do Hồng Bảo cầm đầu vào tháng 1/1851; cuộc thứ hai do Hồng Tập cầm đầu năm 1864; cuộc thứ ba do Đoàn Trưng, năm 1866. Mặc dù còn trẻ tuổi, nhưng là con trai người vợ chính thất của vua Thiệu Trị, nên Tự Đức được đặt lên ngôi vua năm 18 tuổi. Hồng Bảo, anh em cùng cha khác mẹ, tuy lớn tuổi hơn nhưng hạnh kiểm không ra gì mà học hành lại kém nên bị gạt ra. Tự cho là mình bị thất sủng một cách bất công, Hồng Bảo không ngần ngại liên hệ với các giáo sĩ để đạt mục đích. Âm mưu bị bại lộ năm 1854, Hồng Bảo bị bắt giam và thắt cổ tự tử. Cuộc đảo chính vì động cơ hoàn toàn cá nhân này, nếu thành công chỉ càng gây thiệt hại nhiều cho quyền lợi tối cao của dân tộc. Hai cuộc đảo chính kia xảy ra do triều chính của Tự Đức kém cỏi. Những người chủ trương đảo chính mong muốn có một sự thay chế độ vì lợi ích của nhân dân. Sau khi ký Hiệp ước Sài Gòn 1862 và bỏ rơi cho quân Pháp ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, triều đình Huế đã chứng minh cho dân tộc thấy rõ tư tưởng thất bại chủ nghĩa của nó. Cả đất nước sôi nổi bất bình, nhất là dân chúng Nam bộ. Trong lúc ở miền Nam, nhân dân chiến đấu kiên cường chống ngoại bang chiếm đóng, thì ở Huế, Tự Đức đã không giúp đỡ gì cho phong trào kháng chiến yêu nước, không quan tâm gì đến đau khổ hy sinh của dân, còn đổ bạc tiền ra xây lăng mộ Vạn Niên cho bản thân mình khiến cho nhân dân càng thêm oán giận vì phải bỏ bao công sức vào công việc xây lăng tẩm cho nhà vua. Vào lúc này, tại kinh thành Huế, ba anh em Đoàn Trưng, Đoàn Hữu Ái và Đoàn Tử Trực, cả ba đều còn trẻ và có học thức, thành lập một câu lạc bộ Văn chương “Sơn Đông Thi Tửu Hội” mà tôn chỉ, hoàn toàn có tính chất chính trị định đưa lên ngôi một người cháu năm đời của Gia Long, là Ưng Đạo. Đoàn Trưng là chồng của công chúa Thế Cúc, con gái Tùng Thiện Vương, mà Tùng Thiện Vương là chú của vua Tự Đức. Nhờ có quan hệ gia đình như vậy, mà ba anh em họ Đoàn đã liên kết được với một số tướng lĩnh và binh lính trong đội Phòng thành, trong số đó có các quan Tôn Thất Cúc, Lê Chính Trực, Bùi Văn Liêu, Nguyễn Văn Đệ, Trương Trọng Hòa, Phạm Lương Thanh. Ngày mồng 8, tháng 9, năm Bính Dần (1866), quân của Đoàn Trưng khoảng một nghìn người, gồm hầu hết là binh lính, thợ thuyền, lao công, thuộc công trường xây lăng Vạn Niên nổi dậy chiếm thành đánh vào cửa Tây. Vì thiếu vũ khí, phần lớn phải dùng những chày giã vôi làm giáo. Và vì vậy gọi là “giặc chày vôi”. Quân nổi loạn sắp sửa vào được bên trong nội cung để hạ sát Tự Đức thì Hồ Oai, người chỉ huy thị vệ đội của nhà vua kịp thời đóng cửa cung điện lại và tóm gọn cả đám loạn quân, cùng với thủ lĩnh của họ. Cuộc nổi loạn không thành vì mệnh lệnh không được nghiêm túc thi hành vì tổ chức kém. Những người cầm đầu bị hành hình và cuộc nổi dậy bị đàn áp. Cuộc đảo chính thứ ba do Hồng Tập cầm đầu. Hồng Tập là con trai của Hoàng thân Miên Ảo, một nhân vật được kính trọng trong hoàng gia, đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy tháng 12 năm Tự Đức thứ 17 ngay sau khi Hiệp ước Sài Gòn 1862 được ký kết. Theo “Đại Nam thực lục chính biên” thì Hồng Tập dự định tiêu diệt sạch những người Công giáo Việt Nam, bị coi như là loài “cỏ dại” (tứ dân) và ám sát Phan Thanh Giản và Trần Tiễn Thành mà ai ai cũng biết là thân Pháp và chủ trương chính sách hòa bình có hại cho nền độc lập dân tộc. Hợp với Trương Văn Chất và Nguyễn Văn Viên, Hồng Tập động viên được bốn đội quân. Một trong bốn đội quân này có lệnh bao vây Phòng thành bắt Phan Thanh Giản và Trần Tiễn Thành, rồi đến những làng giáo dân An Truyền, An Vân và An Hòa liên lạc với những đạo quân kia. Nhưng lúc đội quân thứ nhất được chỉ định để đi bắt Phan Thanh Giản và Trần Tiến Thành, gặp phải sự canh phòng nghiêm ngặt và bất ngờ của đội quân Phòng thành, họ bắt buộc phải rút lui nhưng không dám bắn súng báo hiệu như đã quy ước trước, khiến cho hai đội quân kia bố trí tại cầu Lim Luông không dám hành quân, phải tự giải tán. Cuộc nổi dậy bị thất bại, những kẻ âm mưu bị bắt. Sau Hồng Tập, Hồng Ty, con của Hoàng thân Vĩnh Tường (hay Miên Hoàng, con trai thứ năm của Minh Mạng), Lương Trinh, con trai của của Hoàng thân Kiến An (con trai thứ năm của Gia Long), cùng với một số Hoàng thân trong hoàng gia bị chém đầu. Cuộc đảo chính của Hồng Tập nhằm mục đích lật đổ Tự Đức, vị vua bị coi theo chủ nghĩa thất bại để thay vào một ông vua khác cương quyết hơn, nhằm tiếp tục đấu tranh chống xâm lăng ngoại bang, và chấn hưng kinh tế, xã hội và tinh thần dân tộc trong cơn khủng hoảng này. Giữa sự bất ổn chính trị mà chế độ quân chủ nhà Nguyễn đang trải qua, tình trạng kinh tế, tài chính, xã hội cũng suy đồi mọi mặt, đất nước rơi vào một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử. Năm 1848, tỉnh Hà Tĩnh rơi vào một nạn đói trầm trọng; năm 1850, từ Ninh Bình đến Bình Thuận, bệnh đậu mùa đã gây tử vong cho 60.000 người; năm 1852, Thừa Thiên (Huế) bị hạn hán nặng; năm 1853-1854, nạn hạn hán lan rộng khắp nước, lại thêm nạn châu chấu phá hoại mùa màng ở Bắc Ninh và Sơn Tây; năm 1856-1857, nhiều trận lụt lớn phá hoại đồng bằng Bắc kỳ; năm 1858, toàn miền Bắc lâm nạn đói kém; năm 1859-1860, nạn đói lan vào Quảng Nam; rồi năm 1863-1864 lan rộng khắp nước. Ngân khố hoàng gia kiệt quệ không cho phép Tự Đức thanh toán việc bồi thường chiến phí đã quy định trong Hiệp ước 1852; nhà vua phải dùng mọi biện pháp xoay xở tài chính. Năm 1861, nhà vua cho phép các phạm nhân được trả tiền mặt để chuộc lấy tự do. Năm 1864, nhà vua lại cho phép bỏ tiền ra mua chức tước và phẩm hàm: 1.000 quan chức cửu phẩm, 10.000 quan cho chức lục phẩm (1 quan lúc đó tương đương 1 francs). Năm 1864-1865, nhà vua sai các quan lại đi tìm và khai thác mỏ khoáng sản. Năm 1865, nhà vua ra lệnh cho Thượng thư Bộ Lại và Bộ Lễ thu hồi vàng bạc ở các đồ thờ trong cung điện: 72.000 lượng bạc góp được qua việc thu hồi này, trị giá 100.000 đồng (450.000 francs) vẫn chưa đủ để trả nợ. Tự Đức phái Trương Văn Uyển vào Nam kỳ, nhằm thu góp tất cả các bạc vàng, các ngân khố ba tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên được 720 lượng vàng, 2.200 lượng bạc và 10.000 đồng. Cũng chưa thấm vào đâu. Năm 1869, nhà vua thiết lập khoản “thuế người Minh hương”. Nhà vua cho người Tàu đóng 302.000 quan để làm đại lý thuốc phiện ở các tỉnh phía Bắc Quảng Bình, trong khi dưới các triều vua trước có lệnh cấm tuyệt đối không được mang thuốc phiện vào Việt Nam, ai vi phạm lệnh cấm sẽ bị tử hình. Với số tiền thu nhập bằng cách đó, Tự Đức chẳng làm gì để khôi phục nền kinh tế nước nhà cả, nhà vua không đưa hết cho quân Pháp - Tây Ban Nha mà giữ lại một phần lớn để xây lăng Vạn Niên; điều đó càng làm tăng nổi bất bình của quần chúng và đưa đến hậu quả là những cuộc nổi loạn ngay trong cung điện nhà vua do Đoàn Trung và Hồng Tập cầm đầu. Việc xây lăng Vạn Niên, người dân buộc phải làm những việc khổ sai quá sức người, ngày cũng như đêm, ròng rã trong suốt mấy năm trường, họ rất bất bình Tự Đức. Dân chúng có câu ca dao: “Vạn Niên là Vạn Niên nào, Thành xây xương lính, hào đào máu dân”. Để đối phó với những nhu cầu tài chính ngày càng tăng, Tự Đức đem bán phát mãi cả những tài sản quốc gia và những tài sản sung công quỹ của dân chúng. Dưới một chế độ như vậy, trải qua những nỗi khó khăn thử thách như vậy, người ta có thể hình dung được dân chúng khốn khổ đến mức nào và nhà vua bị dân chúng căm thù xa lánh đến mức nào. Người ta thấy tình trạng xã hội ấy được phản ánh lại trong tác phẩm của Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu và của nhiều người khác nữa. Tình hình ấy chỉ có lợi cho quân Pháp và càng khuyến khích họ xâm chiếm đất nước Việt Nam. Lợi dụng sự căm phẫn của toàn dân, tình trạng đình đốn kinh tế và rối loạn đó, tại vùng phía Nam và phía Đông sông Hồng, Bắc Bộ, các giáo sĩ cố duy trì cuộc nổi loạn của Tạ Văn Phụng đang lan rộng khắp nơi, lôi cuốn những đám nông dân bất bình: họ tấn công bọn quan lại, các kho hàng nhà nước. Ở miền Bắc, một yếu tố mới xảy ra làm tình hình chính trị khó khăn. Năm 1865 - 1866, những tàn quân của đảng Thái Bình còn sống sót bị đuổi ra khỏi Trung Quốc, đổ sang tị nạn tại các tỉnh bất an: Lào Cai, Cao Bằng và Tuyên Quang. “Thái Bình” có nghĩa là “Triều đại yên ổn”. Cái tên “Thái Bình” thiệt là mỉa mai khi người thấy đội quân ấy chỉ gieo chiến tranh, tàn sát, loạn ly; nó là một phái của Kitô giáo, do Hồng Tú Tuyền (Toàn) sáng lập năm 1851 tại tỉnh Quảng Tây, lấy tên là “Thái bình Thiên Quốc” (đất nước của Hòa bình thiên giới). Đó là một chuỗi chiến tranh và tàn sát đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại. Trong lịch sử giai đoạn này, không một cuộc xung đột nào trên thế giới dám “giành cái vinh dự rùng rợn” này với Thái bình Thiên quốc: từ 1851 đến 1854 sát hại khoảng 30 triệu người. Đội quân của nó chấp nhận bất cứ bọn bất mãn, bọn vô lương, du thủ du thực nào gặp. Nó có nhiều tham vọng thay đổi đất nước, tương tự như một số hệ tư tưởng cực đoan sau này. Tập hợp thành những đảng cạnh tranh nhau, “quân Cờ đen” và “quân Cờ vàng” tự thiết lập cho mình những vùng đất riêng biệt, theo như “đất phong” thời phong kiến, ít nhiều mang tính cách độc lập đối với triều đình Huế. Vì tự thấy bất lực không thể bắt chúng vào khuôn khổ, chánh phủ trung ương Việt Nam đành phải nhượng bộ: năm 1871, tướng Cờ đen là Lưu Vĩnh Phước được Tự Đức ban toàn quyền hành động trên địa hạt tỉnh Lào Cai mà thực tế ông ta đã nắm quyền kiểm soát. Gốc gác ở Phòng Thành (Quảng Đông) nhưng sinh ở Thượng Tư Châu (Quảng Tây) năm 1830, Lưu Vĩnh Phước, người của Thái bình Thiên quốc còn sống sót, do hoàn cảnh, phải phục vụ cho Việt Nam. Từ nay, trong các công văn giấy tờ gửi cho các chỉ huy quân sự Trung Quốc vùng biên giới, ông ta tự đặt cho mình chức vụ “Việt Nam Tam-tuyên Phó Đề-đốc Bảo thắng Phòng ngự sứ” (Phó tổng tư lệnh quân đội ba tỉnh Tuyên Quang, Lạng Sơn, Hưng Hóa và Ủy viên Quốc phòng Lào Cai của Việt Nam). Với sự phong chức của triều đình Huế cho tên nổi loạn người Trung Quốc này được toàn quyền hành động tại vùng thượng du Bắc kỳ, lại xuất hiện dưới một hình thức mới, trạng thái đối lập vốn có giữa người Kinh và người Thượng. Và Francis Garnier, mà chúng ta sẽ thấy xuất hiện đúng lúc, không cần phải chờ lâu để vạch rõ cho mọi người thấy những nhược điểm nội bộ của chế độ Việt Nam và sự bất lực của nó để tạo một ý chí duy nhất trước quân xâm lược ngoại bang và lãnh đạo một phong trào chấn hưng kinh tế quốc gia chân chính. Như chúng ta đã thấy, để hợp pháp hóa tình hình tạo nên do sự chiếm đóng tạm thời ba tỉnh miền Tây Nam bộ, các Đô đốc-cầm quyền Pháp đã mở những cuộc thương thuyết mới. Với sự cho phép của chánh phủ Napoléon III mà họ không nghĩ trở lại những “sự việc đã rồi”, họ đề nghị với triều đình Huế thừa nhận cho nước Pháp quyền sở hữu hợp pháp ba tỉnh miền Tây Nam kỳ đó và đổi lại, nước Pháp sẽ miễn cho Việt Nam một phần chiến phí đã được quy định năm 1862. Bằng nhiều đợt thanh toán, nước Pháp đã nhận gần một nửa số chiến phí ấy rồi. Số dư còn khoảng 11 triệu Francs, trong số đó một nửa là của Tây Ban Nha. Và nước Pháp cứ lần nữa để biết xem chánh phủ có thể nhất thời, chấp nhận sự “hy sinh tài chính” cho tới con số nào và nếu ngoài chuyện miễn trừ toàn bộ, hoặc một phần số chiến phí năm triệu rưỡi ấy, nước Pháp có phải chịu trách nhiệm thuyết phục Tây Ban Nha cũng miễn trừ cho Việt Nam số tiền tương tự mà họ có quyền được hưởng hay không. Bởi vì Tây Ban Nha đang trải qua những khó khăn lớn về ngân khố, chẳng có lý do gì để từ bỏ khoản bồi thường mà chánh phủ Huế phải trả cho mình, là nước đã tôn trọng đầy đủ mọi điều khoản Hiệp ước 1862. Ngay từ 13/8/1867, Lionel de Moustier, người kế chức Drouyn de Lhuys làm Bộ trưởng Ngoại giao, giao cho La Grandière được toàn quyền thương thuyết và ký kết một hiệp ước mới. Khi La Grandière nhận được sự ủy nhiệm này thì ông ta sắp sửa trở về Pháp nên không sử dụng. Còn ông Đô đốc Roze, tạm quyền một thời gian rất ngắn thì chỉ đủ thời gian giải quyết những công việc hằng ngày. Đô đốc Ohier thì ngược lại, cố gắng nối lại cuộc đàm phán vì ông nhận thấy triều đình Huế đang có vẻ “rất sẵn sàng”, do đó ông hy vọng sẽ lợi dụng hoàn cảnh thuận lợi nhất để đạt những kết quả tối đa. Nhưng rồi những cuộc thương lượng viễn vông của ông cũng chẳng đưa lại kết quả gì. Giữa lúc này, mối quan hệ Việt - Pháp dường như có sự hòa dịu biểu hiện khá rõ ràng tại triều đình Huế. Phe chủ hòa dường như chiếm ưu thế đến mức độ mà Tự Đức đã nghĩ đến chuyện lập một trường trung học kỹ thuật và ủy thác cho Giám mục Gauthier về Pháp lo sắm sửa sách vở và thiết bị cần thiết để xây dựng trường đó. Đầu năm 1870, La Grandière, tuy phải lưu lại Paris vì vấn đề sức khoẻ mà vẫn được coi như đương chức thống đốc Nam kỳ, từ chức; người thay thế ông là Đô đốc De Cornulier-Lucinière. La Grandière gởi cho Bộ trưởng Hải quân một công hàm “di chúc” trong đó ông dự kiến đặt một cơ quan chính trị lãnh đạo duy nhất cho cả Đông Dương và như vậy ông ta đặt nền móng cho chánh phủ toàn quyền Đông Dương, sau này không phải chờ đợi lâu, dự kiến của ông được Paris đem ra áp dụng. Cuộc Chiến Tranh Pháp-Đức (1870) Với Vấn Đề Nam Kỳ Một thời gian cắt quãng sắp sửa xảy ra: cuộc chiến tranh Pháp - Đức. Nếu cuộc chiến tranh này làm nổi bật mảnh đất thuộc địa mới này lên một cách hơi kỳ quặc, đồng thời nó cũng giảm thiểu những hoạt động và những chuyện thương thuyết xuống. Ngày 3/8/1870, một chiếc tàu thủy Anh quốc đi qua Vũng Tàu không dừng lại nhưng thả xuống một người quốc tịch Đức, người này thuê riêng một chiếc tàu hoa tiêu lên Sài Gòn. Ở đây, anh ta bí mật đến gặp lãnh sự Phổ… Tất cả các tàu Đức đang thả neo ở bến đều được thông báo trước tàu Pháp về việc hai nước Pháp-Đức tuyên chiến với nhau. Họ có thì giờ để chuẩn bị đề phòng: hai tàu chiến ẩn tránh vào vùng biển trung lập của Nhật Bản, còn các tàu buôn đang neo đậu ở cảng của Pháp đã có thì giờ “biến” đi không ai hay biết. Riêng có ba chiếc tàu của Hợp bang Bắc Đức bị quân Pháp bắt và bán đi như những chiến lợi phẩm. Chỉ đến ngày 6/8/1870, chiếc tàu “Sarthe” cập bến Sài Gòn, mới chính thức báo tin tuyên chiến. Một chiếc tàu được trang bị thành pháo đài nổi và đậu ở cửa sông Sài Gòn. Lệnh giới nghiêm được ban bố và các thương nhân người Đức bị trục xuất, số này khá đông. Chuyện “chiến tranh” (ở Việt Nam) chỉ có thế. Nước Phổ không có phương tiện cũng chẳng mong muốn gì can thiệp vào Viễn Đông. Ngày 21/10/1870, người ta được tin những trận đánh ở Sedan rồi sự sụp đổ của Đế chế; và trước khi trở về Pháp theo nguyện vọng của ông, Cornulier-Lucinière cho tuyên bố nền Cộng hòa “theo nghi thức thông thường” trước mặt quân đội. Cornulier-Lucinière giao phó một sĩ quan thông báo cho chánh phủ Việt Nam biết tin tuyên chiến. Ngày 29/10/1870, ông ta gửi một bức thư cho Thượng thư Bộ Ngoại giao triều đình Huế để thông báo cho Huế biết sự thay đổi chánh phủ Pháp. Tự Đức không tìm cách lợi dụng “cục diện chiến tranh châu Âu”. Rất có thể nhà vua có thể lợi dụng nó. Nước Pháp đáng lẽ phải biết ơn triều đình Huế về tinh thần trung thực của họ đối với Pháp. Chẳng những Pháp không phải huy động một người lính nào của mình tại Sài Gòn mà xứ thuộc địa Nam kỳ này được coi như hoàn toàn bảo đảm đến mức mà vào cuối tháng 8/1870, người ta vẫn để thường trực tại Brest một tàu chiến sẵn sàng chuyển qua Sài Gòn tất cả những kiệt tác nghệ thuật của Viện Bảo tàng Louvre, những kim cương hột xoàn của điện Hoàng gia Pháp và các lá cờ của Invalides đã di chuyển về Brest, nếu cảng này bị thủy quân Đức tấn công. Trong lúc này và cả về sau, chẳng những người Pháp không hề có một chút tình cảm hoặc một cử chỉ nhỏ nào gọi là biết ơn chánh phủ Huế đã đối xử lịch sự và thiện chí như vậy đối với mình, mà ngược lại họ còn có không ít những biểu hiện chống lại Việt Nam. Các giáo sĩ tham gia tích cực vào “bản hợp tấu” này. Tháng 9/1872, Giám mục Gauthier viết thư cho Thống đốc Nam kỳ: “… Những biến cố của nước Pháp đã có tiếng dội tận bên này và những bất hạnh của đất nước ta đã khơi lên lại những hờn căm và hy vọng của kẻ thù chúng ta. Vua Tự Đức tìm đủ mọi cách để thu hồi sáu tỉnh Nam kỳ do người Pháp chiếm đóng và sau đó sẽ thanh toán nốt những người Công giáo. Nhà vua tưởng có thể tìm một chỗ dựa vững chắc nơi nước Phổ. Một tàu chiến Phổ đậu ở bến đã được đón tiếp vui vẻ tưng bừng, các sĩ quan Phổ được nhà vua cho nhiều tặng vật. Người ta tin rằng quân Phổ hứa sẽ giúp Việt Nam đuổi Pháp ra khỏi nước với một vài điều kiện nào đó”.(4) Dĩ nhiên là người Việt Nam tìm đủ mọi cách để thu hồi các tỉnh đã bị Pháp dùng vũ lực chiếm đóng và rất vui lòng được thấy kẻ thù ra khỏi bờ cõi non sông mình. Nhưng chỉ cần xem xét một chút về những việc làm và thái độ chánh phủ Việt Nam là có thể vạch trần được sự vu khống rời rạc của những câu nói vu vơ mơ hồ trên đây của Giám mục Gauthier. Từ đầu chiến tranh, ngày 12, 19 và 26 tháng 8 và 30/9/1870, một tờ báo Anh tại Viễn Đông, tờ “Européen Mail”, có nói đến ý của Pháp muốn nhượng lại đất Nam kỳ cho Phổ khi hai bên ký hòa ước. Dù tiếng đồn ấy bắt nguồn từ đâu, dự kiến nhượng đất ấy vẫn có thực; vào tháng 10/1870, chính Hoàng hậu Eugénie đã lấy sự việc này làm đầu đề để mở cuộc thương lượng với thủ tướng Bismarck. Người ta vẫn nhớ rằng Hoàng hậu Eugénie de Montijo (vợ Napoléon III) đã đóng một vai trò nhất định trong cuộc viễn chinh Pháp - Tây Ban Nha tại Nam kỳ. Vốn là người gốc Tây Ban Nha, quen biết Giám mục Sanjujo, bị tác động với tư cách là một người Công giáo, bà đã khẩn khoản với Napoléon III yêu cầu Hoàng đế can thiệp. Vai trò chính trị của bà chỉ giới hạn ở mức đó thôi. Hơn nữa, bà chẳng qua chỉ là vợ của Hoàng đế và không có quyền bính gì. Và hình như bà cũng chẳng có khả năng đóng một vai trò nào cả, bởi vì theo Cornulier-Lucinière, nếu vị Hoàng đế của người Pháp đã có những biểu hiện “suy sụp về trí tuệ trước tuổi” thì sự sáng suốt của hoàng hậu cũng chẳng có gì đáng gây cho người ta ảo tưởng. Dù sao thì, trong thời gian vài ba ngày trải qua, từ lúc Napoléon III bị sụp đổ, đến lúc chế độ Cộng hòa được tuyên bố thành lập, Hoàng hậu Eugénie vẫn chính thức được giao quyền nhiếp chính. Bà bèn cố gắng hoạt động theo cương vị của mình. Một trong những hoạt động chính, chứng tỏ bà hoàn toàn không có khả năng chính trị, là bà đã tìm cách nhường Nam kỳ cho Phổ thay chỗ cho hai tỉnh Alsace-Lorraine! Bà định phái Francis Garnier, mà bà biết đánh giá công lao, thảo luận tình hình với Thống chế Bazaine và đưa tin tức cho ông này. Bà hy vọng Garnier sẽ tìm được cách vào trong thành bị bao vây… Nhưng Garnier không nhận được giấy triệu tập của Hoàng hậu. Sau đó, bà giao cho Théophile Gauthier đi tìm Bismarck để đưa những điều kiện hòa bình cuối cùng của bà. Chúng tôi chỉ kể chuyện này “vì tò mò” thôi, bởi vì lúc này, ngày 23/10/1870, chế độ Cộng hòa đã được tuyên bố thành lập và vị Hoàng hậu bị phế truất, trốn sang Anh và không còn quyền bính gì trên đất Pháp nữa.(5) Sau này, Théophile Gauthier kể lại buổi thăm viếng đó, như sau: “… Ông Rouher yêu cầu tôi mang sang đại bản doanh Đức một bức thư gửi cho vua Phổ (…) Hoàng hậu cảm thấy xung quanh mình toàn những dối trá, âm mưu và cạm bẫy. Bà muốn được rõ ràng, tìm đến ngọn nguồn và tìm để biết ngay từ phía Bá tước Bismarck. … Ngày 23/10, tôi đến Versailles; ngày 24, tôi được ông thủ tướng đón tiếp. … Tôi đã được ông Rouher cho phép trình với Thủ tướng Đức những điều kiện hòa bình, tóm gọn lại là những hy sinh tột cùng mà Hoàng hậu nhiếp chính có thể nhượng được, nhân danh nước Pháp. Các công sự thành lũy của Strasbourg sẽ được phá hủy đi… Strasbourg sẽ được công bố là một thành phố tự do… và sẽ có một chính quyền độc lập, giống như chính quyền độc lập của Francfort trước 1866 và của Hambourg hiện nay. Phần còn lại của tỉnh Bas-Rhin… và các tỉnh Haut-Rhin, Meurthe và Moselle vẫn thuộc của Pháp. Pháp sẽ trả cho Đức một số chiến phí là hai tỷ. Sau cùng, người ta đề nghị nhượng lại cho Đức xứ Nam kỳ: Đây là một thuộc địa rất phồn thịnh dưới sự cai trị của Bộ Hải quân, không những nó tự túc được về mặt tài chính mà còn góp phần thừa gửi về cho chính quốc. Nghe nói đến Nam kỳ, vị Bá tước, nãy giờ im lặng ngồi nghe tôi nói, không ngắt lời tôi một lần nào, bỗng nhún vai và thúc đẩy bởi tâm hồn tỉ mỉ của Phổ, mà tính đại vinh dự của đế chế Đức chưa kịp thay thế, nói với tôi với một giọng khiêm tốn: ‘Ô! Ô! Nam kỳ! Đó là một miếng khá to cho chúng tôi. Chúng tôi không đủ giàu có để tự dâng cho mình xa hoa thuộc địa’”.(6) Vậy là, trái với những lời khẳng định của các vị giáo chủ, và trái với ý định bị “chết yểu” của một vị nữ hoàng bị phế truất, không bao giờ có “Nam kỳ thuộc Đức” cả và Việt Nam thuộc Đức lại càng không. Tại Nam kỳ chẳng gì thay đổi, ngoại trừ lá cờ Pháp không còn mang phù hiệu con diều hâu đế quốc. Vị Đô đốc - cầm quyền đầu tiên của nước Cộng hòa Pháp tại Nam kỳ là Dupré đến Sài Gòn ngày 1/4/1871. Ông ta đã để lại Việt Nam một kỷ niệm đáng buồn, vì chính ông ta là người Pháp chiếm đóng Bắc kỳ. Trước kia ông ta đã hoạt động hết sức tích cực. Ông ta chẳng giấu giếm tham vọng của mình. Và trong lúc chờ đợi thời cơ để khen thưởng chánh phủ Việt Nam, theo cách của ông ta, về thiện chí của họ trong những ngày đen tối nhất của nước Pháp, ông ta lao vào thực hiện những biện pháp kinh tế và chính trị mới. Ông ta tổ chức lại chế độ hộ tịch của Việt Nam, mở trường sư phạm đầu tiên, thực hiện sự tiêm chủng bắt buộc, khuyến khích nền canh tác đa dạng. Về công chánh, ông thiết lập một hệ thống đường giao thông tàu thủy trên các kênh rạch, vẽ đồ án xây dựng những đường bộ mới và đường sắt. Nhưng, tất cả những công trình đó, đối với ông ta, chỉ là những “thức ăn phụ”. Nam kỳ là “căn cứ điểm của một đế quốc tương lai, sẽ được mở rộng sang tận biên giới Trung Quốc và tới sát bờ sông Cửu Long”, như ông ta tuyên bố hồi tháng 12/1872. Chẳng bao lâu, ông ta có dịp thực hiện ý định trong bối cảnh những cuộc loạn ly trên đất Bắc kỳ. Những Cuộc Loạn Lạc Ở Bắc Kỳ Năm 1864, chánh phủ Trung Quốc đã dẹp yên cuộc khởi nghĩa khủng khiếp của Thái bình Thiên quốc. Nhưng tàn quân của đảng phiến loạn, đứng đầu là Ngô Côn trốn tránh sang đất Việt Nam. Dưới bề ngoài quy phục chính quyền địa phương, những tốp quân Thái bình cuối cùng còn lại đã lao vào con đường cướp bóc và đốt phá làm cho điêu đứng những vùng chúng chiếm đóng. Quân đội Việt Nam tỏ ra bất lực không thể lập lại trật tự bình thường. Năm Mậu Thìn, niên hiệu Tự Đức thứ 21 (1868), Ngô Côn chiếm vị trí Cao Bằng. Triều đình Huế yêu cầu Bắc kinh gửi quân đội để đuổi tên phiến loạn ra khỏi nơi này. Họ gửi sang các tướng Tạ Kế Quí. Nước ta, Ông Ích Khiêm cũng mang quân tới. Được quân đội Việt Nam hỗ trợ do tướng Nguyễn Viết Thanh chỉ huy, họ đã đánh nhau với Ngô Côn một trận ở Thất Khê. Tháng 7 năm ấy, quân Việt - Trung thất bại ở Lạng Sơn; Nguyễn Viết Thanh bị trọng thương và tổng trấn Phạm Chí Hướng bị bắt làm tù nhân. Được tin thất bại, Tự Đức bèn cử Vũ Trọng Bình làm tổng trấn, kiêm chỉ huy quân sự vùng Thượng Du, với sứ mệnh mở những cuộc thương thuyết với Tổng đốc tỉnh Quảng Tây là Phùng Tử Tài nhằm tiễu trừ nạn cướp bóc do Ngô Côn gây ra. Năm 1869, quân đội Việt Nam chiếm Cao Bằng. Năm 1870, Ngô Côn đánh Bắc Ninh, nhưng quân của ông ta bị quân của tướng Ông Ích Khiêm đánh tan và ông bị tử trận. Tay chân của ông như Hoàng Sùng Ánh, quân Cờ vàng, Lưu Vĩnh Phước, quân Cờ đen, Lương Văn Lị (Lợi), quân Cờ trắng vẫn tiếp tục gieo tình trạng bất ổn tại vùng Tuyên Quang và Thái Nguyên. Kế triều đình Huế cử Doan Thọ làm chỉ huy quân sự vùng thượng du Bắc bộ. Ngay khi vừa mới đóng quân tại Lạng Sơn, ông ta đã bị giết chết trong một trận tấn công bất ngờ vào thành. Tin về Huế, chánh phủ liền phái ra Bắc các ông Hoàng Kế Viêm, Tôn Thất Thuyết, Lê Tuấn nhằm tổ chức trừ loạn. Sau đó ít lâu ở vùng thượng du, do đối địch nhau mà quân Cờ đen dưới quyền chỉ huy của Lưu Vĩnh Phước và quân Cờ vàng dưới quyền Hoàng Sùng Ánh trở giáo đánh nhau. Quân Cờ đen quy phục các nhà chức trách Việt Nam và được ở lại Lào Cai, được thu thuế và chống lại quân Cờ vàng… Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng là những bề tôi trung thành. Ngoài ra, còn thêm vào nhiều khó khăn khác, những sự quấy rối khác do tàn quân của Tạ Văn Phụng tiếp tục gây ra. Quân này được các giáo sĩ nuôi dưỡng. Để thỏa mãn tham vọng của mình, họ không ngần ngại xin viện trợ của tất cả các nước ngoài. Trong lúc xảy ra chiến sự ở Đà Nẵng (tháng 9/1858 đến tháng 2/1859), có một số người Công giáo Việt Nam phiêu lưu, tình nguyện đầu quân phục vụ cho quân đội Pháp - Tây Ban Nha; trong đó có tên Tạ Văn Phụng, sinh ở Đà Nẵng và được các giáo sĩ Pháp tại Xiêm nuôi dạy tại Poulo-Pinang. Sau khi quân Pháp rời bỏ Đà Nẵng, Tạ Văn Phụng ra Bắc kỳ và theo lời khuyên của các giáo sĩ, năm 1861, hắn tuyên bố tên hắn là Lê Duy Ninh, người “kế vị” dòng họ nhà Lê. Hắn tập hợp một số người Công giáo Bắc kỳ và khởi quân chống lại quyền hành của triều đại nhà Nguyễn ở Huế. Hắn vừa liên hệ với các giáo sĩ Tây Ban Nha, vừa yêu cầu viện trợ của quân đội Pháp. Hắn ta vào Đà Nẵng, gặp Đô đốc Rigault de Genouilly. Mặc dù viên đại tá Tây Ban Nha là Palanca rất muốn can thiệp mạnh mẽ vào Bắc kỳ, Rigault de Genouilly chỉ có vài lời hứa hẹn suông. Trở về Bắc, “ông Hoàng nhà Lê” (chức vị do các giáo sĩ khoác cho Phụng và sau này được một vài nhà sử học Pháp lặp lại) bèn liên kết với những chủ đảng khác, tên là Trương, Ước và Độ kêu gọi cả một số quân cướp biển người Tàu, lúc này đang làm sóng gió ở vùng duyên hải Bắc kỳ, giúp chúng chiếm lấy trấn Hải Ninh (Móng Cái). Hắn còn liên kết với một chủ đảng khác là Nguyễn Văn Thịnh – nổi tiếng dưới cái tên ”Cai tổng Vàng” – một người mới theo đạo. Nhóm quân Phụng - Thịnh nhờ sự ủng hộ mạnh mẽ của các giáo sĩ và giáo dân chiếm được cả miền Đông Bắc kỳ. Được thắng lợi địa phương cổ vũ, Phụng lại xin viện trợ lần nữa. Năm 1862, hắn gửi phái viên tới gặp Bonard vừa đến Sài Gòn thay cho Charner. Hắn đề nghị, đáp lại sự viện trợ sẽ nhận cho Pháp bảo hộ Bắc kỳ. Nhưng Bonard, cũng như người trước ông ta (Charner) có lẽ vì sợ Tây Ban Nha có dịp thực hiện vai trò của chính họ tại Bắc kỳ, hơn nữa cũng ngại vấp phải dư luận tại Pháp giữa lúc việc vây hãm thành Puebla (Mễ Tây Cơ) đang gặp nhiều khó khăn khiến cho dân chúng không ủng hộ cuộc viễn chinh Mễ Tây Cơ nữa, nên ngần ngừ không ủng hộ Phụng. Triều đình Huế quyết định quét sạch bọn nổi loạn tay chân của ngoại bang này, bèn cử Thống chế Nguyễn Tri Phương cầm quân ra Bắc. Chẳng bao lâu quân của Phụng bị tan vỡ trước sự tấn công của quân đội nhà vua, dồn dập và mãnh liệt, vì lúc này Hiệp ước Sài Gòn vừa mới ký kết. Tuy vậy, theo lời xúi giục của các giáo sĩ nên tấn công một trận cuối cùng vào chánh phủ trung ương, tên phiêu lưu người Công giáo ấy quyết định đánh một trận bất ngờ vào thành Huế. Không may cho hắn, một trận gió đánh dạt cả đoàn chiến thuyền của hắn vào bờ: con người mà các giáo sĩ đã đặt tên cho là “ông Hoàng” hay là “Người có quyền kế vị nhà Lê” ấy bị bắt sống đem về Huế. Theo luật lệ hiện hành đối với những tội nổi loạn, nhà vua ghép hắn vào tội lăng trì tháng 9/1867. Cái nhìn thoáng qua ấy đủ làm nổi bật lên những khó khăn dồn dập mà triều đình Huế phải đối phó với tình hình Bắc kỳ. Tình hình hỗn độn ấy làm tê liệt hầu hết những hoạt động mà triều đình có ý định phát huy ở các vùng khác của đất nước. Hơn nữa, vì Bắc kỳ là thuộc nước Việt Nam, cho nên trong chính giới Pháp, người ta đổ cho Việt Nam trách nhiệm về những sự lộn xộn và những hành vi quá khích xảy ra tại các tỉnh khốn khổ của miền Bắc Việt Nam. Vậy là đối với những người Pháp, cho rằng đất đai họ đã chiếm được chưa đáp ứng đủ lòng tham thì đây là một vài lý do thêm vào cho họ hành động. Họ có thể lấy cớ là họ cần phải mang lại hòa bình cho các tỉnh miền Bắc, thỏa mãn những đám dân bất mãn và thỏa mãn tham vọng của các giáo sĩ, vốn luôn luôn tự cho mình bị khủng bố, bạc đãi. Họ có căn cứ ở các cửa sông Cửu Long nhưng điều đó không làm hài lòng giới kinh doanh Pháp đang quan tâm đặc biệt đến việc buôn bán với Viễn Đông. Hơn nữa, từ năm 1868, phái đoàn Doudard de Francis Garnier đã khẳng định một cách chắc chắn rằng con sông Cửu Long không thể sử dụng được cho việc lưu thông. Khắp mọi nơi trên đất Pháp, những cuốn sách dày, in rất đẹp, do Francis Garnier và đồng bọn ông ta xuất bản, đã lôi cuốn sự chú ý của giới đại thương nghiệp, nói đến tác dụng, hầu như vô bổ, của sông Cửu Long và sự thuận lợi lớn lao của sông Hồng, về mặt giao thông với Hoa Nam. Phải được tự do đi lại trên con sông ấy và tự do ra vào các cửa biển Bắc kỳ. Trong ý thức bọn thực dân, việc xem xét lại bản Hiệp ước lỗi thời 1862 không nhằm chuẩn y việc chiếm đóng sáu tỉnh Nam kỳ, mà nhằm đạt được những ưu thế ở Bắc kỳ: cần phải làm cho triều đình Huế chấp nhận sự xem xét lại Hiệp ước 1862 bất cứ bằng cách nào, kể cả bằng võ lực. Tư tưởng này từ 1870 về sau, ngày càng lan truyền rộng rãi trong giới lãnh đạo Sài Gòn. Đô đốc Dupré tuyên bố: “Sự xâm nhập Bắc kỳ là một vấn đề sinh tử cho tương lai nền thống trị của chúng ta tại Viễn Đông”(7). Các nhà đàm phán liền “lên giá”, bắt đầu là Millot, cựu chủ tịch Phòng Thương mại Pháp tại Thượng Hải. Chánh phủ Huế rất lo ngại về chiều hướng tư tưởng đó của các Đô đốc-cầm quyền và không muốn cho việc xem xét lại hiệp ước đã mất hiệu lực ấy lại biểu hiện bằng những yêu sách mới. Họ tỏ ý định cử một phái đoàn sang Pháp. Họ đã gửi một phái đoàn rồi, sau 1862 lấy cớ là để chúc mừng Napoléon III và đã lợi dụng cơ hội để thử xem khả năng ký Hiệp ước Aubaret. Lần này, triều đình Huế muốn chào mừng chánh phủ Cộng hòa mới ra đời, thực ra cũng là điều hợp lý và họ hy vọng, nhân tiện đạt được một cách giải quyết công bằng hơn về những vấn đề đang tồn tại. Dĩ nhiên, Dupré không muốn cho phái đoàn Việt Nam sang Pháp. Ngày 27/2/1872, trong một bức công hàm gửi cho Huế, ông ta yêu cầu chủ yếu: “1) Chỉ cử sang Pháp một phái đoàn với những quyền hành cần thiết để chấp nhận ba điểm dưới đây: a/ Chấp nhận vùng lãnh thổ bị Pháp chiếm đóng (các tỉnh mới của Nam kỳ); b/ Trả chiến phí cho Tây Ban Nha; c/ Cam kết không nhượng cho bất cứ một nước ngoài nào một phần lãnh thổ của mình mà không có sự đồng ý của Pháp. 2) Xuống chỉ cho công giáo Bắc kỳ được tự do thực hiện những giáo lý của đạo mình, đúng như hiệp ước đã quy định. 3) Phải có những biện pháp ngăn chặn không để cho những tên phiêu lưu, bề ngoài với danh nghĩa là những người mang mệnh lệnh cùng chức tước triều đình Huế lợi dụng gieo rắc rối loạn vào châu thổ Nam kỳ. Để cho nước Pháp đặt một đại diện tại Huế và chánh phủ Huế đặt một đại diện tại Sài Gòn”(8). Rồi Dupré gửi thư cho Bộ trưởng Ngoại giao Pháp tại Paris, đề nghị can thiệp vũ trang vào Bắc kỳ, dưới chiêu bài giúp triều đình Huế khôi phục quyền hành của mình tại đó; thực ra là để ép buộc triều đình Huế phải chấp nhận bản hiệp ước và để bắt đầu đưa quân vào các tỉnh miền Bắc. Dupré đệ trình lên chánh phủ mình một bản kế hoạch, được ông ta mưu tính từ lâu và hoàn chỉnh, đã nhiều lần đề cập đến. Ông ta muốn ép buộc chánh phủ mình chấp nhận. Chính vừa lúc “sự kiện Jean Dupuis” xảy ra và trở thành cơ hội tốt mà ông Đô đốc-cầm quyền xiết bao mong đợi để can thiệp vũ trang vào miền Bắc Việt Nam. Chúng tôi đã nói đến Jean Dupuis và cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên giữa y với Francis Garnier, khi Francis Garnier vừa hoàn thành cuộc thám hiểm của hắn trở về qua con đường Trung Quốc và thừa nhận rằng: sông Cửu Long không phải là con đường lưu thông giữa Trung Quốc và Việt Nam, mà là con sông Kói, tức sông Hồng, một con đường lưu thông hoàn hảo. Dupuis, lúc này đang có một nguồn buôn bán làm ăn tốt, là cung cấp vũ khí cho thống chế Mã Như Long, gốc Hồi giáo, vừa mới đầu hàng chánh phủ Bắc Kinh chịu trách nhiệm mang quân đội đàn áp những người Hồi giáo nổi loạn. Nếu có cơ hội tốt thì chắc chắn y chẳng ngại gì mà không cùng cung cấp vũ khí cho người Hồi giáo chống lại Trung Quốc. Các thùng vũ khí do tàu thủy chở tới, rồi cho người vận chuyển từ cảng dỡ hàng cho tới vùng Tây Tạng. Những chuyến hành trình này rất dài, rất tốn kém, cũng lắm gian nan mạo hiểm. Giả sử y có thể tiết kiệm được 1.000 cây số, tính về cả mặt thời gian, chi phí và gian nguy. Vậy là đối với y, không phải do dự gì nữa. Năm 1871, y mạo hiểm làm thử chuyến đầu với tên đầy tớ người Tàu, y bèn xuôi con sông Hồng, trên một chiếc xuồng nhẹ từ Mạn Hảo đến những trạm hải quan đầu tiên của Bắc kỳ rồi xuôi thẳng về vùng châu thổ. Chứng cớ đã rõ ràng, con sông Hồng tàu bè qua lại được. Y về Paris, vừa để tổ chức việc mua bán vũ khí, vừa để tìm chỗ dựa và tìm người giúp việc. Y tuyển cả một “đạo quân viễn chinh”, bao gồm nào là thuyền trưởng duyên hải, nào là pháo binh. Y có một hạm đội nho nhỏ, nhưng quan trọng: hai tàu có trang bị đại bác, chiếc “Lào Kay” và chiếc “Hồng Giang”, có một tàu thủy, chiếc “Mạn Hảo”, một tàu nhỏ, chiếc “Sơn Tây” và những chiếc thuyền mành chở hàng. Những chỗ dựa của y thì có phần rụt rè hơn: họ dè dặt về phương án của y. Tuy nhiên, Đô đốc Pothuau, Bộ trưởng Hải quân, bị y thuyết phục, viết một bức thư cho Đô đốc-cầm quyền Nam kỳ gửi gắm y; chính Đô đốc Dupré sẽ biết sử dụng thư này: “Ngày 9 tháng 4 năm 1872, Thưa ông Thống đốc, Ông Dupuis, người được giới thiệu đặc biệt với tôi, hình như đã… tìm ra một con đường đi lại được cho tàu thủy và thuận lợi cho việc giao thông giữa Vịnh Bắc bộ với tỉnh Vân Nam giàu có. “Công việc buôn bán của châu Âu tại phần đất hẻo lánh ấy của Trung Quốc lâu nay không phát triển do những khó khăn về phương tiện giao thông. Ông Dupuis, bằng cách tìm ra một con đường cho phép các tàu thủy có thể đi vào tận vùng đất trung tâm của tỉnh Vân Nam, đã tạo ra điều kiện tốt để san bằng những khó khăn nói đó. Tay du hành này hình như đã đạt được những mối liên hệ với các nhà đương cục Vân Nam và tìm được những số vốn đầu tư cần thiết để thiết lập một tuyến đường giao thông cho các tàu thủy; chỉ cần sáu hay bảy hôm là có thể đi từ Sài Gòn đến thủ phủ Vân Nam. Để tiếp tục công trình, ông ta phải đến Huế xin phép chánh phủ An Nam được quyền đi qua lãnh thổ của họ. Và chỉ có thể giao thương hợp pháp với kinh đô Huế bằng những tàu chiến Pháp, ông ta xin chúng ta giúp, ông ta bằng lòng thanh toán mọi chi phí cho một pháo thuyền chở ông ta cho chuyến đi đó. Trong những điều kiện cùng với những dè dặt đặt biệt ấy, xét tầm quan trọng của phương án một khi thành công, tôi đề nghị ông hết lòng giúp đỡ ông Dupuis và cấp cho ông ta những phương tiện cần thiết cho cuộc hành trình đi Huế. T.B: Rất có thể xảy ra những điều không lợi nếu chúng ta dùng lá cờ của chúng ta để che đậy một việc làm thuộc loại này, cho nên tùy ông thống đốc tính toán xem có nên để cho ông ta sử dụng một pháo thuyền hay không”(9). Nếu như ông Bộ trưởng Hải quân không muốn đỡ đầu một cách chánh thức dự án Dupuis, Đô đốc Pothuau làm ít ra là bán công khai. Ông vẫn dè dặt và để cho Đô đốc Dupré tùy nghi quyết định cách giúp đỡ Dupuis thế nào cho thuận tiện nhất. Vừa trao cho Dupuis bức thư gửi gắm không lấy gì làm nồng hậu cho lắm ấy, ông Bộ trưởng vừa nói với y: “Trong hoàn cảnh nước Pháp hiện nay đang bị quân Đức chiếm đóng, chúng tôi chỉ có thể cầu chúc cho việc ông làm đạt được thắng lợi. Không can thiệp chính thức, ủng hộ hay chống đối trong việc này, chúng tôi sẽ bán chính thức làm những gì chúng tôi có thể làm được để giúp ông. Nếu ông gặp cản trở và tự thấy đủ vũ trang để vượt qua sự cản trở đó thì hãy cứ tự vạch cho mình một lối đi bằng vũ lực. Nhược bằng nếu ông hoặc người của ông có bị giết chết thì chúng tôi sẽ không can thiệp để báo thù cho ông”(10). Dupuis không đi Huế. Sau khi bổ sung đầy đủ thủy thủ đoàn và hàng hóa tại Hồng Kông, y tiến thẳng đến cửa sông Hồng. Lúc này, tại đây, thiếu tá Senez, được phái từ Sài Gòn ra với chiếc “Bourayne” đang cố gắng thương thuyết với Kinh lược Bắc kỳ, Lê Tuấn, để được phép ngược dòng sông Hồng. Vị Kinh lược không được ủy quyền giải quyết một vấn đề nguyên tắc quan trọng như vậy, nên xin ý kiến triều đình Huế. Một tháng sau vẫn chưa được Huế trả lời, Dupuis bèn quyết định tiếp tục chuyến đi cho đến Hà Nội. Trong thời gian này, Senez lợi dụng cơ hội dùng chiếc tàu “Bourayne” thăm dò địa thế đến tận Bắc Ninh. Vậy là ngày 4/12/1872, Dupuis đi Hà Nội. Ngày 22, y mới đến nơi sau bao nhiêu khó khăn. Y được dân Tàu tiếp đón tử tế nhưng người Việt Nam thì tỏ ra rất lạnh nhạt. Dupuis có một trợ lý là một quan chức Trung Quốc tên là Lí Ngọc Trì. Lí Ngọc Trì đưa giấy thông hành do tướng Mã Như Long cấp, trình với viên chỉ huy đồn lính Trung Quốc tại Bắc Ninh, Trần Đắc Quí. Trần Đắc Quí can thiệp cho Dupuis với nhà chức trách Việt Nam, tháng Giêng 1873. Vì lý do ấy, sau khi nhận được nhiều công văn của nhà chức trách Việt Nam, chỉ thị cho ông ta phải trục xuất Dupuis và đồng bọn, bị coi như quân tiên phong của “lũ cướp Sài Gòn”, Trần Đắc Quí, sau đó bị cách chức. Nhờ Trần Đắc Quí can thiệp, Dupuis rời được Hà Nội ngày 18/1/1873, quân đội Trung Quốc giữ quân Cờ đen không cho hoạt động gì được. Dupuis tiếp tục ngược dòng sông Hồng. Tháng 5, y được quân Cờ vàng tại Touen-Hia (?) tiếp đón tại tổng hành dinh của họ và sau đó, y đến Lào Kay, trung tâm hoạt động của quân Cờ vàng. Cuối cùng ngày 4/3/1873, y đến Mạn Hao thành phố của Vân Nam. Tại đây y quyết định rời khỏi sông Hồng. Chuyến đi đầu tiên vậy là thành công. Người đề xướng vô cùng hoan hỉ như các quan chức Vân Nam. Dupuis thu xếp công việc và chuẩn bị chuyến về. Y trở lại Mạn Hảo, thương lượng với một công ty Trung Quốc được công ty này tổ chức việc vận chuyển bằng thuyền bè trên suốt dòng sông Hồng và c cảnh qua tỉnh Vân Nam. Xong xuôi, với 12 chiếc thuyền mành và một đoàn hộ tống 150 người của đội vệ binh phó vương tỉnh Vân Nam, Sầm Dục Anh, Dupuis xuôi theo dòng sông trở về. Ngày 30/4/1873, y lại có mặt tại Hà Nội. Cho đến thời điểm này, các nhà chức trách Việt Nam tại Bắc kỳ vẫn tỏ ra khoan dung độ lượng đối với Dupuis. Tuy họ không trực tiếp giúp đỡ gì cho Dupuis, nhưng trên thực tế họ không hề cản trở Dupuis thực hiện các dự án của y, mặc dù những dự án này vi phạm luật lệ của đất nước. Nhưng khi Dupuis từ Vân Nam xuôi về lại trình diện một lần nữa với tàu chở đầy thiếc, do Mã Như Long nhượng lại; hơn nữa, trên đoàn thuyền của y lại có quân Cờ vàng; lập tức đoàn thuyền bị các nhà chức trách Việt Nam chặn lại. Dupuis bèn kéo cờ Pháp lên, điều mà y không hề được quyền làm (y thanh minh, một cách trái khoáy trong “Hồi ký” của mình rằng những cờ ấy không biết do ai treo lên trong lúc y vắng mặt), rồi y cử Millot, trợ lý của y, vào Sài Gòn xin “cứu viện”. Trong lúc chờ đợi, y ở ngay tại Hà Nội liên kết với hai người Tàu tên là: Bành Lị Kí và Quản Tả Đình để mua gạo, muối và chuyển vận lên Vân Nam. Một món lợi to cho tay lái buôn sành sõi ấy, bởi y đã tính chuyện cho quá cảnh, theo cách đó 3.000 tạ (mỗi tạ bằng 62 kg) muối, mua ở Hà Nội chỉ 3 francs mà bán ở Vân Nam được 120 francs. Dupuis thừa biết luật lệ Việt Nam cấm xuất khẩu muối sang Trung Quốc. Y nói là được các quan chức Trung Quốc cho phép, có nghĩa là theo y, có thể bất chấp luật lệ Việt Nam. Cả về vấn đề này nữa, Dupuis vờ không biết đến những mối quan hệ thực giữa hai nước. Tuy bề ngoài, Việt Nam có vẻ như một “chư hầu” của Trung Quốc, và cái gọi là “quyền bá chủ” của Trung Quốc, đối với Việt Nam, chỉ là một thứ ảo tưởng thôi chứ không thực chất chút nào, trên thực tế Việt Nam vẫn là nước hoàn toàn độc lập. Cụ thể Hoàng đế Trung Quốc, Hoàng đế “nước Trời” và là vị “con Trời”, do vị trí địa lý của đất nước ông ta, riêng biệt xa xôi các trung tâm văn minh khác, mà ông ta tưởng rằng mình là chúa tể của vũ trụ, rằng đế quốc của ông ta là một đế quốc toàn cầu? Phải chăng ông ta mang sẵn cái tư tưởng tuyệt đối đó, coi các nước láng giềng và tất cả các nước khác trên thế giới như những nước chư hầu lệ thuộc, và coi những món quà họ mang tặng ông ta, theo phép lịch sự, như những đồ cống nạp mà họ có nghĩa vụ dâng lên cho quyền uy tuyệt đối của ông ta? Nội dung bức thư của vua Càn Long (1736 - 1796) gửi cho vua nước Anh George III, sau khi George III gửi sang Bắc Kinh một sứ đoàn do Macartney dẫn đầu năm 1793, cùng với nhiều quà biếu nhằm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, đã xác nhận Càn Long mang nặng tư tưởng nói trên: “… Là chúa tể cả thế giới, Trẫm chỉ có một nguyện vọng: nghiêm túc làm tròn bổn phận của mình đối với quốc gia. Những đồ vật ngoại lai và quý báu không làm cho Trẫm quan tâm. Nếu Trẫm đã chỉ thị cho người ta nhận những quà dâng biếu mà ngài đã gửi đến cho Trẫm, chẳng qua vì Trẫm nể tinh thần tôn kính, hỡi Vua mà Ngài đã gửi biếu Trẫm những vật tặng ấy từ một đất nước xa xôi như vậy. Quả thực, triều đại của Trẫm đã rọi lên một hào quang chí tôn chói lọi, đến nỗi tất cả các dân tộc đều gửi tới cho Trẫm những đồ cống nạp quý báu nhất đời, mặc dù những đồ cống nạp đó phải vượt ngàn trùng núi cao biển rộng mới đi được đến nơi”(11). Dù thế nào đi nữa thì tất cả những món quà biếu của Việt Nam cho Trung Quốc không nhất thiết là dấu hiệu của sự phục tùng. Năm 1789, chẳng hạn ngay sau trận chiến thắng lẫy lừng ở Đống Đa của quân Nguyễn Huệ (một trong ba anh em Tây Sơn), đối với đạo quân Trung Quốc của tướng Tôn Sĩ Nghị thì Hoàng đế Quang Trung (Nguyễn Huệ lên ngôi lấy niên hiệu Quang Trung) đã cử ngay một sứ bộ với các tặng vật sang triều đình Bắc Kinh. Sứ bộ do Vũ Văn Dũng là một trong những tướng tài của Tây Sơn dẫn đầu và có nhiệm vụ xin trả lại cho Việt Nam hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây; đồng thời, để chọc tức vị Hoàng đế “con Trời”, sứ bộ xin “con Trời” gả công chúa cho Quang Trung làm vợ. Nguyễn Huệ hy vọng rằng, nếu Càn Long sợ hãi vì trận Đống Đa vừa qua mà chấp nhận các yêu sách trên thì Việt Nam sẽ thu phục lại được hai tỉnh nói trên mà không đổ máu. Ngược lại, nếu Càn Long coi đó là một sự sỉ nhục và nổi cơn thịnh nộ, ông ta phái một đạo quân sang Việt Nam, đạo quân Trung Quốc nhất định sẽ bị đánh bại và quân đội Việt Nam dựa trên “quyền đuổi theo” (luật quốc tế), nhân đà thắng lợi, sẽ kéo vào hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây và chiếm đóng vĩnh viễn. Ngoài ra, Vũ Văn Dũng còn nhận được lệnh phải ghi nhớ nhập tâm, trong cuộc hành trình qua đất Trung Quốc, địa hình, địa thế của những miền đất đã đi qua từ những con đường bộ, những dốc đèo, cho đến những chỗ đất đai bằng phẳng. Bởi vì tướng Vũ Văn Dũng coi như, ngay từ lúc này, đã được vua Quang Trung chỉ định mở cuộc hành quân của quân đội Việt Nam, trong trường hợp mà sứ bộ của ông không đạt mục đích mong muốn, đồng thời thực hiện một cuộc xâm nhập bất ngờ vào mảnh đất Hoa Nam. Sau nhiều tháng đi đường vất vả, sứ bộ đến triều đình Bắc Kinh, mang theo những tặng phẩm quý. Hàng đến Thiên triều lúc này đang bị ám ảnh vì những câu chuyện kể xung quanh sự thất bại thảm hại của quân mình tại Bắc Việt Nam, tiếp đón sứ bộ rất hậu. Vả lại, lịch sử vẫn còn đây để nhắc lại cho ông ta những cuộc thất bại đẫm máu của quân Mông Cổ và Trung Quốc tại các “quận huyện phía Nam đã được bình định và chinh phục” ấy. Càn Long trao cho Vũ Văn Dũng một bức phúc thư gửi cho Quang Trung: Hoàng đế Thiên triều bằng lòng gả cho một công chúa để làm vợ. Về việc đòi hai tỉnh Hoa Nam, Càn Long chỉ đồng ý cho tỉnh Quảng Tây. Đồng thời ông ra lệnh cho bọn quan lại địa phương phải đối đãi hết sức kính trọng đối với phái đoàn Việt Nam trong suốt cuộc hành trình trở về cho đến tận biên giới. Vũ Văn Dũng không còn có kịp thời giờ để báo cáo kết quả chuyến đi của sứ bộ với vua Quang Trung. Khi qua biên giới, ông được tin vua Quang Trung đã mất. Chuyến đi Bắc Kinh của Vũ Văn Dũng đã mang lại cho vua Quang Trung một thắng lợi ngoại giao quan trọng, ngang hàng với thắng lợi quân sự của Nguyễn Huệ tại Đống Đa.(12) Sau khi vua Quang Trung mất, dưới triều đại của Gia Long và các ông vua kế vị, nước Việt Nam lại một lần nữa rơi vào cảnh suy tàn và loạn lạc; chẳng còn ai dám đòi hỏi Hoàng đế Trung Quốc thực hiện lời hứa của mình. Trong những điều kiện mà Vũ Văn Dũng đã mang vật phẩm sang tặng triều đình Trung Quốc, không cho phép giải thích rằng đó là dấu hiệu Việt Nam quy phục Thiên triều. Nếu về sau Việt Nam vẫn tiếp tục mang tặng vật cho Hoàng đế Trung Quốc thì đó chẳng qua là một dấu hiệu lịch sự thuần túy trong truyền thống Á Đông và một biểu hiện của tình láng giềng thân thiện mà thôi. Nó không bao hàm cái ý nghĩa là nó đã mất chủ quyền chút nào. Nhất là sự tham vọng của Trung Quốc đặt tinh thần yêu nước của người Việt Nam luôn luôn trong tình trạng báo động. Ít nghĩ đến việc đụng đầu với Trung Quốc, Việt Nam luôn luôn tránh không để xảy ra một duyên cớ nào khả dĩ cho phép ông khổng lồ láng giềng ấy can thiệp vào đất nước mình. Vì vậy, khi nền độc lập mình được củng cố rồi, nước Việt Nam tìm cách xoa dịu sự kiêu căng cố hữu của ông bạn Trung Quốc. Vả lại Việt Nam chân thành quý trọng, yêu thích nền văn hóa Trung Quốc và mong muốn có những mối bang giao thân thiện với họ. Đó là lý do khiến cho các vua chúa Việt Nam quan tâm duy trì những mối liện hệ với các giới lãnh đạo, cũng như giới trí thức Trung Quốc; đồng thời duy trì một quan hệ “thần chủ” hoàn toàn danh nghĩa đối với các vị Hoàng đế thiên Triều. Trong quan hệ với họ, các vua chúa Việt Nam tự bằng lòng xưng mình là “Vương” (vua) và như vậy là chỉ tự cho mình một chủ quyền gần như là hạng dưới mặt pháp lý, nó có những điểm giống như tình hình những ông “reges” (vua) Clovis, hoặc Théodorie, đối với các “imperatores” (Hoàng đế) thời Trung cổ phương Tây vậy. Nhưng mà đối với bầy tôi và đối với bất cứ một cường quốc nào, ngoài Trung Quốc ra thì các nhà vua Việt Nam vẫn tự xưng là “Hoàng đế”. Cái tước hiệu hai chiều ấy mà người Trung Quốc rất biết, nhưng cứ phải nhắm mắt làm ngơ đi, rất có ý nghĩa. Nó vừa biểu thị ý chí người Việt Nam thực sự làm chủ đất nước mình mà vẫn biết mềm dẻo trước tình hình hiện thực và tất yếu chính trị. Nó vừa biểu hiện niềm tự hào của một dân tộc không bao giờ chịu khuất phục ngoại bang, nhưng một niềm tự hào không mang tính cách dân tộc hẹp hòi, kết hợp với một nguyện vọng thiết tha được sống trong hòa bình. Cũng cần nói thêm rằng người Việt Nam, quan tâm xoa dịu lòng kiêu căng của Trung Quốc, ít ra cũng biết duy trì tinh thần kiêu hãnh của mình. Đối với Trung Quốc, là nước luôn luôn mang ý đồ bá chủ hoàn cầu, Việt Nam tự khẳng định mình như một “quốc gia bàn đạp”, ít ra cũng như một “quốc gia vệ tinh”, và vì vậy cho rằng trên thế giới chỉ có hai quốc gia văn minh, tức có tổ chức, theo Khổng Tử và có chủ quyền thực sự: Trung Quốc và Việt Nam, “Bắc” và “Nam”. Vậy, nên các nhà chức trách Việt Nam bắt giữ hai người Tàu cộng tác với Dupuis, tịch thu những thuyền tàu chở gạo muối, sẵn sàng ngược Vân Nam của họ. Dupuis, mạo hiểm phô trương lực lượng mình, cho bắt hai viên quan lại Hà Nội và giam trên một chiếc tàu nhỏ. Được tin báo, triều đình Huế liền phái ngay ra Hà Nội ông Thứ trưởng Bộ Quốc phòng(!?) Phan Đình Bình và giao cho Thống chế Nguyễn Tri Phương chuẩn bị những biện pháp đối phó thích hợp. Nguyễn Tri Phương triệu tập Dupuis tới và nói cho y biết rằng: quan hệ giữa Pháp và Việt Nam xuất phát từ các điều khoản của Hiệp ước 1862 và việc y chuyển gạo, muối, lên Vân Nam là trái với hiệp ước và trái với luật nước, nếu không có giấy cho phép của nhà chức trách địa phương Việt Nam. Nhưng Dupuis cho rằng bản hiệp ước chỉ đáng cho y quan tâm khi nào nó có lợi cho bản thân y: y đặt bản hiệp ước dưới giấy phép của các quan chức Trung Quốc và ngang nhiên trả lời rằng, y chẳng cần đến giấy phép của các nhà chức trách Việt Nam. Nói đoạn, y đứng lên và đi ra, không đếm xỉa gì đến thái độ của y, đối với vị Thống chế. Về sau, y vẫn giữ thái độ thô bỉ hỗn xược ấy. Rồi y tiếp tục từ Hà Nội lo việc buôn bán kinh doanh của mình. Y từ bỏ không gửi số muối, gạo kia lên Vân Nam nữa, ít ra là trong lúc này; nhưng y vẫn vờ lên mặt không coi các nhà chức trách Việt Nam ra gì. Giữa lúc đó, ngày 13/7/1873, y bị thất vọng vì bức thư trả lời của Sài Gòn: y đã nhờ Millot vào Sài Gòn để yêu cầu giúp đỡ thì Sài Gòn lại trả lời y bằng thư ngỏ qua tay các nhà chức trách Việt Nam… Qua bức công hàm này, Dupré bảo y hãy theo yêu cầu phía Việt Nam và rút lui khỏi xứ Bắc kỳ, bởi y đã chở súng đạn lên Vân Nam và đã được trả bằng thiếc. Ông không ngần ngại thêm rằng, nếu Dupuis không thi hành đúng theo yêu cầu đó, người Việt Nam có thể áp dụng mọi biện pháp mà họ thấy thích hợp để tống đuổi y đi, và khi đó y sẽ tự trách mình về những hậu quả có thể xảy ra cho y và người của y. Vậy có phải chăng là một sự thay đổi ý kiến của ông Đô đốc-cầm quyền? Không! Đây là một thủ đoạn giả vờ để lừa các nhà đương cục Huế. Về phía mình, thiếu tá Senez, cũng đã chủ động viết thư về cho Paris, ngày 5/6/1873, xin với Paris “cho phép ông ta, tuy có nhiều khó khăn hiện tại, được dùng vũ lực để lập đồn trú ở vùng Châu thổ sông Hồng, nhằm một cuộc chiếm đóng lâu dài và vĩnh viễn”(13). Nhưng ở Paris, người ta chống đối chuyện đó. Bên lề báo cáo của Dupré ngày 17/3/1873, người ta đọc được lời ghi chú sau đây, do chính tay Bộ trưởng ngoại giao viết: “Ông Đô đốc cứ nhất định tiến hành chiến tranh và chúng ta sẽ khó lòng ngăn cản ông ta được. Tuy nhiên, vẫn cứ cần phải ngăn cản, và ngăn cản một cách cụ thể nhất”(14). Công tước De Broglie cũng có thái độ khẳng định như vậy, khi ông ta trả lời Senez: “Dù vì duyên cớ nào và do bất cứ động cơ nào cũng không được đưa nước Pháp dính líu vào Bắc kỳ!”(15) Tại Sài Gòn, Dupré và Millot đã hoàn toàn nhất trí với nhau, Millot tuyên bố rằng… “… Dupuis tự cho là có thể đuổi các quan lại Huế ra khỏi Bắc kỳ, khôi phục triều đại nhà Lê và đặt cả xứ ấy dưới quyền bảo hộ của Pháp, không phải tốn một đồng xu hay phải mất người lính nào. Nếu ngài Thống đốc muốn hành động lấy tự mình thì chỉ cần 200 quân là đủ để biến Bắc kỳ thành một thuộc địa Pháp”(16). Dupré đã tin tưởng từ trước. Ông ta quyết tâm ủng hộ Dupuis, bảo đảm cho y vay 30.000 đồng bạc và bảo Millot khuyên y nên kiên nhẫn trong khi chờ đợi ông ta can thiệp – và sự can thiệp đó sẽ xảy đến không đầy ba tháng sau. Ngày 28/7/1873, ông ta gửi về cho Bộ trưởng Hải quân một bức thư mật rất dài. Sau khi nhắc lại rằng mình đã nhiều lần khẩn khoản đề nghị đánh chiếm Bắc kỳ, Dupré nói đến cuộc thám hiểm của Dupuis, mà thắng lợi đã tạo nên một làn sóng quan tâm, ngày càng phát triển trong các giới thương nhân nước ngoài ở Hồng Kông; ông ta viết: “… Có nhiều thư thỉnh cầu gửi cho chánh phủ Hồng Kông đề nghị chiếm lấy một địa điểm trên bờ biển Bắc kỳ, với lý do là trước đây người Anh đã có một cơ sở đặt tại đó. Giới thương nghiệp Đức vẫn rình mò mọi cơ hội để mở rộng địa bàn hoạt động của mình, nhất định không khỏi báo cáo cho chánh phủ họ hay về sự phát hiện ra con đường giao thông tự nhiên và thuận lợi từ biển lên Vân Nam”. Sau cùng, cả các nhà chức trách Trung Quốc tại Vân Nam cũng đặc biệt chú đến những lợi ích to lớn mà con đường lưu thông mới mẻ và tương đối dễ dàng này sẽ làm tăng thêm giá trị những sản vật vốn rất phong phú của đất nước; họ dự định phái một đoàn viễn chinh vũ trang để chiếm lấy quyền tự do sử dụng… “Mặt khác, chắc ngài cũng biết rằng chánh phủ An Nam đã hai lần gửi thư cho tôi yêu cầu tôi can thiệp để buộc ông Dupuis rời khỏi Bắc kỳ. Quả tình, sự có mặt của ông ta tại Bắc kỳ là trái với những điều khoản của hiệp ước. Vả lại trong thời kỳ này, vì không biết những thủ đoạn hai mặt của các quan chức An Nam thường sử dụng trong các mối quan hệ của họ với ông Dupuis, tôi đã viết thư yêu cầu ông ta rời bỏ địa điểm mà ông ta không có quyền cư trú. Thông báo này của tôi đến tay ông ta qua trung gian chánh phủ An Nam chuyển đạt. Tôi đã báo trước ông Millot và ông Millot quả quyết với tôi rằng, ông Dupuis sẽ không thể tuân lệnh được và bắt buộc phải ở lại Hà Nội, do tình hình buôn bán của ông ta hiện nay”. Kết cuộc sẽ ra sao? Dựa vào sự đồng tình của tôi, liệu chánh phủ An Nam có can đảm và sức mạnh để buộc ông Dupuis rút đi hay không? Hay là vẫn theo thói quen do sự yếu đuối của họ chi phối, họ còn trì hoãn để rồi yêu cầu tôi can thiệp một lần nữa. “Trong giả thuyết thứ nhất, tôi sẽ nói rõ cho triều đình Huế biết rằng: tôi nhận được hai người đồng bào chúng ta những bản báo cáo hoàn toàn trái ngược với những lời họ đã kể cho tôi; rằng vì thiếu những bản báo cáo ngoại giao viết và hợp lệ, mà họ cứ một mực khước từ không chịu làm, tôi không có phương tiện nào khác để nắm được vấn đề một cách chính xác, ngoài một cuộc điều tra tại chỗ. Trong giả thuyết thứ hai, trái lại tôi sẽ trình bày rằng: vì ông Dupuis đã khước từ lời yêu cầu của tôi, tôi chỉ có thể buộc ông ta tuân phục bằng cách gửi ra Bắc kỳ một lực lượng vũ trang bắt buộc ông ta tôn trọng quyết định của tôi. Nhưng dù khẳng định của ông Millot có thế nào chăng nữa ta phải dự định trường hợp ông Dupuis sẽ tuân theo yêu cầu của tôi và tự ông ta rời bỏ Bắc kỳ. Khi ấy, ta sẽ tìm cách nào để xuất hiện tại Bắc kỳ mà không phải dứt hẳn mối quan hệ của chúng ta đối với những ông láng giềng quỷ quyệt ấy. Sự kinh tởm của họ đối với trường hợp các quan hệ ngoại giao bị cắt đứt sẽ tạo cho ta điều kiện dễ dàng để thực hiện cái ý đồ của chúng ta đó. Chỉ cần gợi ra cho họ thấy rằng; theo những báo cáo chính xác, được xác nhận do những hành vi đã làm, để đuổi một người bình thường thôi, chứng minh rằng Bắc kỳ đang ở trong tình trạng vô chánh phủ có thể gây niềm lo ngại rằng quyền uy của nhà vua, chẳng bao lâu sẽ bị lật đổ và do đó, đất nước rơi vào tay thống trị của ngoại bang; rằng sự biến đổi ấy sẽ làm cho chúng ta mất bao nhiêu lợi mà hiệp ước đáng lẽ phải mang lại cho ta, tức cho chúng ta vào buôn bán tại Bắc kỳ; sự biến đổi ấy sẽ đưa vào vòng nguy hiểm khôn lường năm trăm ngàn giáo dân mà chúng ta được giao trách nhiệm bảo vệ họ; nó sẽ phá hoại cùng một lúc cả nền an ninh và tương lai. Sự chiếm đóng của chúng ta tại miền nam Nam kỳ mà chúng ta đã phải chịu bao nhiêu hy sinh lớn lao mới xây đắp được lên; rằng đứng trước những điều bất trắc có thể xảy ra đó, chúng ta thấy cần phải nắm được những điều cam kết và chiếm đóng thành Kẻ Chợ, tức là Hà Nội, và một trong những điểm tại bờ biển, với nhũng lực lượng vũ trang đầy đủ để một mặt, chặn đứng quân nổi loạn, mặt khác, dẹp yên bọn cướp biển; rằng tôi rất tiếc buộc lòng phải làm như vậy mà không có sự thỏa thuận trước của chánh phủ An Nam; rằng tôi buộc phải hành động gấp rút, không chậm trễ vì những báo cáo đáng lo ngại mà tôi nhận được về tình hình phát triển của bọn nổi loạn, về những lời than oán của giáo dân và những trì trệ liên tiếp trong việc cử một đoàn đại diện toàn quyền vào Sài Gòn; rằng tôi sẽ duy trì sự chiếm đóng ấy cho tới khi nào có một hiệp ước đảm bảo cho tôi yên tâm về số phận những người đồng tôn giáo của chúng ta, trả lại tự do buôn bán và cho phép, ít ra cũng gián tiếp, chúng ta góp phần gìn giữ trật tự an ninh trong xứ sở loạn lạc sâu sắc và tai hại này; rằng tinh thần hữu nghị của tôi, vẫn y nguyên như họ có thể xác định được, bằng cách cử tới Sài Gòn một vị đại diện toàn quyền của họ. “Dù tôi có đặt vào giả thiết nào đi chăng nữa, thưa ngài Bộ trưởng, thì vẫn có đầy đủ lý do chính đáng để biện bạch cho sự hiện diện vũ trang của chúng ta tại Bắc kỳ” (…) Sau khi điểm sơ qua những hậu quả khả dĩ có thể xảy ra do sự can thiệp vũ trang vào Bắc kỳ, Dupré kết thúc bức thư của mình như sau: “Nếu còn tồn tại một mối ngờ vực nào trong tư tưởng của Ngài và của chánh phủ, tôi sẵn sàng lấy mọi trách nhiệm về những hậu quả của cuộc viễn chinh mà tôi dự định, sẵn sàng nhận một lời buộc tội, một sự triệu hồi, sẵn sàng mất một cấp bậc mà tôi nghĩ mình có quyền được hưởng. Tôi không đòi hỏi sự chuẩn y, cũng không yêu cầu viện trợ. Tôi chỉ yêu cầu Ngài cứ để mặc tôi làm, với điều kiện duy nhất là đừng lên án tôi, nếu những kết quả tôi đạt được không hoàn toàn như những điều tôi đã dự đoán trước với Ngài. … Một phút do dự có thể làm hư hỏng mọi sự. Tôi là người kiên định chờ đợi bao lâu mà tôi thấy không có nguy hiểm; nhưng giờ phút nghiêm trọng đã điểm. Nếu Ngài còn chút nghi ngờ thì hãy hoãn lại việc chuẩn duyệt của Ngài, nhưng hãy để tôi hành động, tôi tha thiết yêu cầu Ngài; kết quả quá tốt đẹp, quá có lợi cho Tổ quốc đau khổ của chúng ta; tôi sẽ không xứng đáng với Tổ quốc nếu tôi không sẵn sàng hy sinh tất cả để chứng minh điều đó”(17). Vì muốn ép buộc chánh phủ mình xâm chiếm cho được Bắc kỳ, bức thư này tự nó đã bộc lộ hùng hồn, tất cả mọi ý đồ toan tính trước của đại diện Pháp và cái mưu mô xảo quyệt của ông ta nhằm lừa dối mọi người, đổ cả trách nhiệm trong vấn đề này lên triều đình Huế. Đồng thời, Dupré cũng viết thư cho triều đình Huế, một mặt yêu cầu Huế, qua vị Thượng thư Bộ Ngoại giao, cho ông ta biết thêm những chi tiết rõ ràng về sự việc Jean Dupuis, mặt khác cho ông ta biết ý kiến về bản hiệp ước. “… Tôi sẽ không hà tiện lời chút nào để mang lại một vài ánh sáng trong nhận thức của Ngài. Chính vì nhằm đạt tới mục đích ấy một cách dễ dàng hơn, mà bao lâu nay tôi vẫn kiên trì đề nghị giải quyết một cách dứt khoát mối quan hệ giữa hai chánh phủ chúng ta, bằng một bản hiệp ước vững bền, mang nội dung hòa bình hữu nghị và liên kết… Vậy Ngài hãy nài xin vị Hoàng đế toàn năng cử vào đây một người… Người đó sẽ được chúng tôi đón tiếp thân tình và đối đãi thận trọng. Ngài sẽ thu lại toàn những điều có lợi và mãn nguyện tấm lòng; và nếu Ngài có một thái độ ngược lại thì điều đó chắc sẽ không khỏi gây ra những điều bất lợi và nguy hiểm. Ngài thấy rằng tôi đã thẳng thắn đáp lại lời kêu gọi của Ngài; tôi nói với Ngài đây với tư cách là một người bạn thân, một người anh em”(18). Sau bức thư mật gửi cho Bộ trưởng của mình, ta có thể nhận thức được theo con mắt của Đô đốc Dupré, những khái niệm thật thà hữu nghị, thân ái có một giá trị như thế nào! Ngày 2/9/1873, một sứ đoàn Việt Nam tới Sài Gòn. Sứ đoàn gồm Lê Tuấn, Chánh sứ, Nguyễn Văn Tường và Nguyễn Tăng Doãn; họ muốn sang Pháp xin chuộc lại các tỉnh Nam kỳ và thảo luận về vụ Jean Dupuis. Nếu vấn đề thứ hai này họ không hy vọng gì ở sự ủng hộ của Pháp thì họ nghĩ đến chuyện tìm một nước khác, Anh hoặc Tây Ban Nha. Ông Đô đốc tuyên bố với các sứ giả Việt Nam rằng: các ông không cần phải vất vả đi lại làm gì, bởi chính ông ta được giao toàn quyền về mọi vấn đề. Ông nêu lên cho họ thấy những lợi thế của một sự đồng minh với Pháp và thuyết phục họ chấp nhận ông Đô đốc – toàn quyền làm trọng tài, hứa hẹn sẽ cho trục xuất Dupuis ra khỏi Bắc kỳ và, theo trình tự màn kịch mà ông ta đã thuyết minh trước, dẫn họ dần dần đến chổ tự cho họ yêu cầu phái đến tận nơi một sĩ quan Pháp, nhằm mục đích cung cấp tài liệu cho vị trọng tài. Viên sĩ quan, sẽ đi Hà Nội với một đoàn tùy tùng vũ trang ấy, thay vì Senez vắng mặt, là Francis Garnier mà ông ta vừa cho gọi về Sài Gòn. Nhưng phái đoàn Việt Nam vẫn giữ nguyện vọng đi Pháp, họ không tin thiện ý của ông Đô đốc và những lời hứa hẹn của ông ta. Dupré thì muốn bất cứ bằng cách nào, đạt cho được việc ký kết bản “hiệp ước của ông ta” nên kiên quyết không cho họ lọt khỏi tay ông lần này. Ông ta coi thường, một cách có dụng ý, các nhà đương cục Huế và các phái viên của chánh phủ mà người ta đang muốn thương thuyết để ký với họ một hiệp ước. Ông ta bất chấp cả những quy ước cơ bản về quyền bất khả xâm phạm ngoại giao, chơi trò liều lĩnh cho bắt và giam họ ở Sài Gòn một cách ngang nhiên. Trong lúc đó, Đô đốc D’Hornoy, Bộ trưởng Hải quân, đã trả lời bức thư mật của Dupré bằng một bức thư đề ngày 12/9/1873, hết lời ca ngợi, nhưng rõ ràng là bất tán thành vì lý do là hoàn cảnh không cho phép, nước Pháp đang bị cô lập và nghèo sau khi bị bại trận: “… Đáng lẽ tôi đã mở đầu cuộc trao đổi ý kiến mật này sớm hơn, nếu tôi không bị dừng lại vì những dự án của ông mà tôi muốn biết rõ trước khi bàn bạc với ông… Những công hàm mới đây của ông đã giải trình rõ ràng và tôi rất hiểu cái mục đích cao cả mà ông đã tự đặt ra cho mình. Tôi còn nói hơn thế nữa; nếu vào một thời điểm nào khác với cái thời kỳ ảm đạm mà chúng ta đang sống hiện nay, chắc chắn là tôi đã hết lời ca ngợi ông và có thể ủy thác cho ông thực hiện những ý đồ chinh phục lớn lao ấy… Tôi e rằng, từ xứ Viễn Đông mà ông đang ở hiện nay, ông không nhìn rõ tình hình do đó mà đánh giá không được đúng đắn, cái việc chúng ta phải tránh, không tiến hành bất cứ một chuyện gì có thể gieo một chút lo ngại dù rất nhỏ cho nước ngoài. Ông cũng có ít nhiều ảo tưởng sai lầm về tình hình tài chánh của chúng ta. “Còn về chính sách ngoại giao hiện nay: ta không có một đồng minh nào cả!” Tôi hiểu hết tất cả những cái hấp dẫn của công việc chinh phục Bắc kỳ, thực chất nó là vấn đề thôn tính toàn cả nước An Nam. Rất có thể, trong tương lai cuộc chinh phục đó sẽ mang lại cho chúng ta một vương quốc tự trị như Ấn Độ thuộc Anh. Có thể và chắc chắn là với phương tiện của riêng ông, ông có đủ khả năng chiếm lấy Kẻ Chợ. Nhưng chiếm được không thành vấn đề. Tổ chức, gìn giữ và bảo vệ mới là vấn đề khó khăn, mới là vấn đề tốn kém. Nam kỳ, như chúng ta có hiện nay, đã phải tốn hai chục triệu francs. Ta thâu được mười lăm triệu. Vậy là còn năm triệu ngân sách của tôi phải cáng đáng… Giá dụ với dự án của ông, ông cho nó một quy mô không thể tránh được thì cuộc viễn chinh không giới hạn đó sẽ tốn kém thêm cho chúng ta bao nhiêu nữa, nhất là trong những năm đầu?... Ông sẽ gặp trên biên giới tỉnh Vân Nam của ông, một xứ hiếu chiến (hơn An Nam) và những người Tàu này, lính chiến thì không đáng sợ mấy, nhưng quân cướp rừng hay quân cướp biển thì cứ phải đi đàn áp thường xuyên. Phải tăng cường quản lý, phải xây dựng đủ mọi thứ cơ sở cần thiết, và phải có tiền… Đây vẫn chưa phải là điều trở ngại nghiêm trọng nhất, theo tôi, cái nguy hiểm hơn cả là sự ghen ghét của nước Anh và nước Đức, khi họ thấy quyền lực của chúng ta phát triển mạnh ở Viễn Đông. Và cũng nên sợ rằng, do cuộc viễn chinh này sẽ nảy sinh ra nhiều khó khăn phức tạp mà hậu quả sẽ diễn biến ngay tại châu Âu. Đây, ông Đô đốc thân mến của tôi ơi, là những lý do chính khiến cho chánh phủ không thể chấp nhận bất cứ một cuộc tấn công nào về phía ấy. Phải kiên nhẫn chờ đợi… Chúng ta cần phải biết khôn ngoan và biết hy sinh. Và đây cũng là một sự hy sinh mà tôi đòi hỏi ở lòng yêu nước của ông tấm lòng yêu nước mà tôi biết rõ: hãy hoãn lại những niềm hy vọng ấy… Hãy cố gắng, ông Dupré thân mến của tôi ơi, kiên nhẫn đợi chờ chút nữa, bên đó… Ông hãy tin chắc rằng tôi luôn luôn mang trong lòng một mối quan tâm sâu sắc đến vấn đề Nam kỳ và nhất là đến chánh phủ của nó hiện nay; rằng tôi luôn luôn sẵn sàng hỗ trợ ông trong mọi khó khăn và nếu tôi không giúp ông được, là vì tôi hoàn toàn không có khả năng làm việc đó.”(19) Mặc dù vậy, chắc chắn rằng không ai, trong hai vị Đô đốc ấy, mang một ảo tưởng nhỏ nào về hậu quả của việc từ chối đó cả. Dupré không che giấu rằng ông ta chỉ xin phép được hành động, cho lấy lệ mà thôi, chứ việc ông làm, ông cứ làm, dù được phép hay không được phép. Những Cuộc Viễn Chinh Của Pháp Tại Bắc Kỳ Francis Garnier còn đang nghỉ hè ở Trung Quốc thì, ngày 9/8/1873, tại Thượng Hải, hắn nhận được điện của Dupré gọi: “Đến ngay, tôi có chuyện quan trọng cần bàn với ông.” Garnier bàn bạc với Dupré sửa đổi lại chút ít kế hoạch hành động theo chiều hướng hòa bình hơn, rồi chính tay hắn thảo lấy những chỉ thị đưa cho Dupré ký và đề ngày 10/10/1873. Bởi vì, trong một bức thư mới, chính thức lần này đề ngày 21/9/1873, Đô đốc D’Hornoy, Bộ trưởng Hải quân trả lời ông Đô đốc cầm quyền như sau: “… Tôi hiểu rằng ông cần phải gửi cho Jean Dupuis một mệnh lệnh cương quyết buộc y phải tuân hành, nhưng tôi không thể chấp nhận một cuộc chiếm đóng vũ trang, vì nó sẽ kéo theo một cuộc chiến tranh đổ máu và một cuộc chiếm đóng thường trực mà những hậu quả tài chính không thể nào trù tính trước được. (…) Ông không được phép viện bất cứ một duyên cớ nào để chiếm đóng một điểm nào của xứ Bắc kỳ như ông nói; lại càng không được phép, bất cứ lý do nào, dự kiến cuộc chiếm đóng trường kỳ trong hiện tại cũng như trong tương lai; kể cả khi nền bảo hộ của ta được chấp nhận và thừa nhận, ta cũng vẫn không nên chiếm đóng Bắc kỳ. Nếu trong trường hợp này, chúng ta giúp triều đình Huế quét sạch được bọn cướp biển ra khỏi nước và trong tương lai, cả bọn trộm cắp đang cướp phá nước An Nam thì hoạt động của chúng ta cũng sẽ hoàn toàn là hoạt động ngoài biển và chỉ được tiến hành khi tối ư cần thiết mà thôi, bằng những chiến dịch cấp tốc và mãnh liệt, không đòi hỏi đặt cơ sở thường trực hay tăng cường lực lượng, nhất là không đòi hỏi gia tăng chi phí. Một lần nữa và trong mọi trường hợp, việc thực hiện nền bảo hộ ấy không thể là một cơ hội để bỏ ra những món tiền chi phí mới và tăng cường lực lượng của chúng ta. Chỉ trong những điều kiện đó, tôi mới đồng ý chuẩn y những hành động của ông, vì chánh phủ đã quyết định một cách dứt khoát không tiếp sức cho bất kỳ một cuộc hành quân nào tốn kém, hoặc bấp bênh…”(20) Quyết định của Paris rất rõ ràng và dứt khoát. Tuy nhiên, rồi cũng như mọi lần và chúng ta sẽ còn chứng kiến điều này nhiều phen nữa về sau, trong quá trình giao thiệp giữa nước Pháp và Việt Nam, chính là những “sáng kiến địa phương” có sức mạnh áp đặt và thắng lợi cuối cùng. Garnier rời Sài Gòn ngày 11/10/1873 với chỉ thị mà hắn tự thảo lấy. Trước ngày đi, trong một bức thư cuối cùng gởi cho anh, là Leon Garnier, đề ngày 8/10/1873, hắn viết: “… Đây là một cuộc viễn chinh nho nhỏ như tôi vẫn ưa thích. Về chỉ thị, hoàn toàn tự do. Đô đốc giao cả mặc tôi”(21). Garnier được hoàn toàn tự do, có nghĩa là những chỉ thị mà hằn gọi là “đã nhận” và do tự tay hắn thảo ra chỉ là hình thức, Dupuis tuyệt đối không thay đổi gì trong quan điểm của y. Mặc dù Paris không đồng ý, ông Đô đốc sẽ cứ tiến hành cuộc viễn chinh “của ông ta” và cuộc “chinh phục” của ông ta. Garnier sẽ làm gì tùy ý muốn, có nghĩa là theo ý muốn của Dupré. Đặt chân lên đất Bắc kỳ và được các nhà chức trách Việt Nam tiếp đón tử tế, ngày 26/10/1873, Garnier biên thư cho Dupuis: “… Tôi đến… với trách nhiệm chính thức là tiến hành một cuộc điều tra về những việc ông khiếu nại đối với chánh phủ An Nam và những lời phàn nàn của họ đối với ông. Nhiệm vụ của tôi không chỉ giới hạn ở chuyện ‘đó’. Đô đốc muốn chấm dứt tình trạng mập mờ về việc buôn bán của nước ngoài ở Bắc kỳ và tùy khả năng, góp phần vào cuộc bình định xứ ấy. Tôi trông chờ ở kinh nghiệm của ông về xứ này để giúp tôi giải quyết đúng đắn vấn đề khó khăn này (…) Nhưng ít nhất tôi cũng có thể báo trước để ông đề phòng những tin đồn đại sai sự thật mà người An Nam không khỏi tung ra về mục đích của việc tôi ra Bắc kỳ lần này; đồng thời, tôi có thể khẳng định một cách quả quyết rằng, Đô đốc sẽ không chịu bỏ qua một lợi ích thương mại đã được ký kết. Đô đốc cũng đã có những biểu hiện không chút mập mờ, về tình cảm của Đô đốc với công cuộc ông đang theo đuổi”(22). Tuy chính thức là được cử đi điều tra về Dupuis, Garnier vẫn không hề che đậy cảm tình của hắn đối với Dupuis, hơn nữa không ngần ngại liên kết với y. Garnier dùng thuyền mành qua vùng châu thổ, ngược lên Hà Nội. Dupuis, trên chiếc “Man Hao” (Mạn Hảo?) ra đón và tuyên bố chịu tự dựng mình cho kẻ tới phân xử mình, khẳng định hoàn toàn nhất trí với Garnier trong hành động. Ngày 5/11/1873, Garnier đến Hà Nội. Hắn được bọn đánh thuê của Dupuis tiếp đón hết sức long trọng; Việt Nam thì lạnh nhạt hơn nhiều. Thống chế Nguyễn Tri Phương vẫn có mặt tại đó, người anh hùng kiên cường trận tuyến Chí Hòa năm 1861, đã có dịp đương đầu với chính Garnier. Ngoài ra, còn có các con trai của Phan Thanh Giản. Chẳng ai trong số họ có một lý do gì để tin tưởng một cách quá đáng vào những người Pháp cả. Garnier được ủy nhiệm đến gặp họ, theo lời họ yêu cầu đến bất cứ vấn đề gì khác. Hơn nữa, để tránh khỏi sự hiểu lầm của công chúng, đối với vấn đề Garnier ở Hà Nội, ông cho dán nhiều biểu ngữ, nhằm công khai hóa mục đích chính thức của Garnier. Kế hoạch Dupré nhằm lợi dụng sự việc Dupuis để đe dọa và đạt thắng lợi mới cho Pháp, đã không thành công bởi Garnier đang phải đối đầu với những thủ lĩnh Việt Nam giàu lòng dũng cảm và nghị lực. Garnier bèn quyết định tự quyền hành động như chủ tại Hà Nội. Tuyệt đối không còn vấn đề Dupuis nữa.Trái lại, Dupuis và hắn liên kết với nhau hành động. Và bất chấp nhà đương cục Việt Nam, Garnier cho thi hành ngay những việc kinh tế và chính trị mà thực ra, hắn đến Hà Nội chính vì những việc đó với sự thỏa thuận của Dupré. Garnier mưu tính với Dupuis bắt cóc Nguyễn Tri Phương và gửi về giam tại Sài Gòn. Y nhận vào đội ngũ của mình những người tình nguyện Công giáo, theo Tạ Văn Phụng, bọn này sẽ hoạt động như “đạo quân thứ năm” trong các trận đánh vào thành Hà Nội. Được Giám mục Puginier, Khâm mạng Tòa thánh ở Bắc kỳ, tích cực giúp đỡ, Garnier luôn luôn liên hệ mật thiết với Puginier, dùng Puginier làm phiên dịch và làm liên lạc viên với nhà chức trách Việt Nam. Ngày 15/10/1873, hắn tự ý quyết định mở sông Hồng cho việc buôn bán, quyết định các hạng mục thuế quan theo ý riêng của hắn và thông báo cho Hồng Kông. Chánh phủ Huế, cũng như các quan chức Hà Nội không thể thông qua những hành động độc đoán, đơn phương, bất chấp luật lệ và chủ quyền đất nước không có một giá trị pháp lý nào, và trái với Hiệp ước 1862, như vậy. Triều đình Huế viết thư cho Garnier rằng hắn đã can thiệp vào một công việc không thuộc phạm vi của hắn và Huế sẽ báo cho các nước láng giềng (Hồng Kông) biết sự việc này. Trong lúc chờ đợi, Nguyễn Tri Phương xúc tiến việc chuẩn bị bố phòng, tổ chức bao vây kinh tế, tìm cách cản đường sông Hồng. Garnier thử một lần cuối cùng, dùng chính sách đe dọa gửi cho Nguyễn Tri Phương một bức thư láo xược, ngày 19/11/1873. “… Ngài ra lệnh rằng bất cứ đơn khiếu nại gì, phàn nàn gì, phải qua mắt Ngài trước khi đến tôi. Điều ấy không được đâu, thưa Ngài Thống chế. Tôi đâu phải là một tên đầy tớ của chánh phủ An Nam, đến Hà Nội để làm tên thừa hành thực hiện sự nghiệp cao cả của họ. Tôi đến đây, đại diện cho các lợi ích của văn minh và của nước Pháp để làm dịu bớt làn sóng bất bình của mọi người, hợp pháp hóa tình hình thương mại, đề phòng những chuyện phức tạp tương tự như những chuyện do việc ông Dupuis đến Hà Nội gây nên… … [triều đình Huế] đã để cho tôi lên tới đây: tôi sẽ ở lại đây. Tôi sẽ tự do xem xét tình hình mọi mặt và sẽ quyết định với ngài, hoặc không có Ngài, những biện pháp mà tôi thấy cần thiết nhằm trả lại sự phồn vinh và cuộc sống cho vùng này… Tôi tuyên bố với các thương gia rằng nước Pháp cam kết vĩnh viễn bảo hộ họ; rằng bàn tay nước Pháp sẽ không bao giờ rời khỏi họ; rằng nước Pháp sẽ chăm sóc quyền lợi cho của họ; duy trì chặt chẽ các quy chế và giá cả do ông Đô đốc định ra…”(23) Nguyễn Tri Phương rất biết quyền pháp của mình, đâu phải là người để cho những lời kia đe dọa. Đứng ở thế bề trên tên đại úy hải quân Pháp láo xược, ông Thống chế không trả lời bức thư, mà bình tĩnh chuẩn bị những biện pháp phòng vệ do tình thế yêu cầu và tiếp tục làm nhiệm vụ của mình là bảo vệ các tỉnh phía Bắc chống lại những vụ khiêu khích và những hành động tiếm quyền. Trước khi gửi cho các nhà đương cục Việt Nam bản tối hậu thư đòi giải giáp kinh thành, bảo Nguyễn Tri Phương phải ra lệnh cho tất cả các tỉnh trưởng phải tuân theo những quyết định của hắn; sau nữa, là cho phép Dupuis được tự do ngược lên Vân Nam; cái thời gian mà Garnier đặt ra trước khi hắn bắt tay hành động không phải là thời gian mất đi. Trong vòng 15 ngày, được sự hỗ trợ của Giám mục Puginier, hắn đã bí mật tổ chức việc cai trị miền đất Bắc. Các giáo sĩ đã hoạt động từ lâu. Do sự gửi gắm của họ, hắn đã chỉ định sẵn những tri phủ, những tri huyện để thay thế những quan lại trung thành với triều đình Huế. Hắn cũng lập ra một đội quân phòng vệ, tổ chức một đường dây liên lạc thư từ với nhiều tỉnh khác nhau. Xong hắn quyết định mở một cuộc tấn công bất thình lình vào kinh thành Hà Nội; ngày 20/11/1873, mặc dù quân Việt Nam bảo vệ thành, do Nguyễn Tri Phương đích thân chỉ huy đã quyết liệt kháng cự, thành Hà Nội, cũng như các đồn lũy xung quanh bị thất thủ. Hai người con trai của Phan Thanh Giản là Phan Thanh Tòng và Phan Thanh Tôn, đặc phái viên của nhà vua và cựu Thượng thư Ngoại giao Phan Đình Bình, bố chánh Võ Dương, đề đốc Đặng Siêu, lãnh binh Nguyễn Đăng Nghiêm bị bắt đưa vào Sài Gòn. Ngay hôm họ vừa tới (ngày 1/1/1874), Dupré liền đày hai người con của Phan Thanh Giản sang Pháp, và giữ những người kia lại để trả lại Huế theo yêu cầu của chánh phủ Việt Nam. Con trai của Thống chế, là Nguyễn Lâm, ghé Hà Nội thăm cha và bị giết chết trong cuộc chiến. Nguyễn Tri Phương bị thương nặng và bị bắt làm tù binh. Giám mục Puginier đến an ủi ông, người anh hùng Việt Nam còn đủ sức trả lời như sau: “Sao! Chính ông, thủ lĩnh các giáo sĩ Pháp, đến đây để thưởng thức cái giờ hấp hối của tôi ư? Ông không muốn để tôi chết được yên ổn ư? Chắc ông đã được hoàn toàn thỏa mãn, vì nhờ ông, nhờ những lời chỉ bảo của ông, mà lũ cướp người Pháp ấy đã lấy trộm mất của chúng tôi xứ Nam kỳ và sẽ còn lấy trộm cả xứ Bắc kỳ nữa. Nguyện vọng cao cả của tôi, sau bao nhiêu thảm họa, là được chết đi càng nhanh càng tốt!”(24) Sống đã chiến đấu anh dũng trên khắp mọi chiến trường như một anh hùng, chết, vị Thống chế cũng muốn chết như anh hùng. Sau Puginier, Nguyễn Tri Phương trả lời cho Francis Garnier: “Một chiến sĩ phải chết, và chết giữa chiến trận không phải là một cái chết nhục nhã.” Vị Thống chế 74 tuổi đó từ chối những câu an ủi, cũng như những ân huệ của kẻ thù, những sự chăm sóc thuốc men của chúng. Ông giật tung tất cả băng bó trên mình, rồi nhịn ăn mà chết. Triều đình Huế, khi được báo tin về những sự kiện nghiêm trọng xảy ra tại Hà Nội, liền phái ra Bắc Trần Đình Túc, Nguyễn Trọng Hiệp và Trương Gia Hội, có Giám mục Sohier và linh mục Dangelzer cùng đi để tiếp xúc với Garnier và dàn xếp mọi việc. Hoàng Kế Viêm, đang đóng quân tại Sơn Tây, được chỉ định làm chỉ huy tối cao các lực lượng quân đội tại Bắc kỳ, với nhiệm vụ tổ chức lại hệ thống phòng thủ đất nước, đề phòng mọi bất trắc. Lúc này, quân Cờ đen, dưới sự chỉ huy của Lưu Vĩnh Phước, trở lại hợp nhất với quân Việt Nam. Tự Đức cử Lưu Vĩnh Phước làm chỉ huy trong quân đội quốc gia, ra lệnh cho ông ta giúp quân Việt Nam, bằng mọi phương tiện, để chống lại sự tấn công của quân Pháp một cách có hiệu quả. Ngày 1/12/1873, Dupré viết thư cho Thượng thư Ngoại giao triều đình Huế để giải thích cuộc khủng hoảng Hà Nội, theo cách nhìn của ông ta, như sau: “Tôi vừa nhận được những tin tức rất nghiêm trọng ở Bắc kỳ. Ông Fr. Garnier, trước nguy cơ bị những lực lượng đông gấp bội tấn công mình, đã buộc lòng đánh vào thành Hà Nội. Tôi đã nghiên cứu tỉ mỉ sâu sắc bản tường trình của viên sĩ quan ấy. Tôi thấy là ông ta bị người ta thúc ép phải trục xuất Dupuis ra khỏi Bắc kỳ, rồi sau đó ông ta cũng phải rút đi ngay. Ngài biết ông ta đã nhận được những mệnh lệnh như thế nào: phải tìm hiểu thật chính xác mọi điều sai sót mà người ta đã phê phán Dupuis; phải đuổi Dupuis đi; phải cố gắng giải quyết tạm thời vấn đề buôn bán, trong lúc chờ đợi hiệp ước chính thức; sau nữa, ông ta phải ở Hà Nội cho đến khi nào vấn đề thương mãi này được giải quyết thỏa mãn xong xuôi, để ngăn cản, bằng sự có mặt của ông ta, không cho những tên phiêu lưu khác có thể bị cám dỗ, trước sự kiện Dupuis được lưu lại trên đất Bắc kỳ một cách dễ dàng như vậy, đến gieo thêm rối loạn và bất an. Từ đó, đúng là Ngài có yêu cầu tôi ra lệnh cho ông Garnier không được dính líu gì tới vấn đề buôn bán và phải rút lui ngay, sau khi Dupuis đi rồi. Và tôi đã trả lời Ngài rằng tôi sẵn sàng ra lệnh cho ông ta gác lại một bên vấn đề buôn bán, nhưng tôi không thể đồng ý cho ông ta rút lui trước khi vấn đề được giải quyết thật xong xuôi. Trong tình hình sự việc như vậy, rõ ràng ông Garnier, vì không biết Ngài đã yêu cầu tôi điều gì và tôi đã trả lời Ngài như thế nào, đã tự thấy bắt buộc phải tuân theo những chỉ thị đầu tiên của tôi mà ông ta đã nhận được. Rõ ràng là ông ta không thể nào tuân phục cái lệnh của các Ngài bắt ông ta phải đuổi Dupuis đi, rồi rút lui ngay tức khắc. Ông ta đến như một người bạn; người ta coi ông ta như kẻ lệ thuộc. Ông ta đã kịch liệt phản đối. Người ta không chịu nghe. Ngược lại, Thống chế Nguyễn đã công khai thực hiện chuẩn bị những biện pháp quân sự theo quy mô lớn và có tính chất hăm dọa; ông ta đã ra lệnh tuyển quân và tập trung quân về Hà Nội. Ông đã xúc tiến công việc bố phòng các đồn lũy, đã bắt đầu tại Phủ Hoài. Ông đã bắt giữ các thuyền lương thực dành cho người của chúng tôi. Ông ta đã nhiều lần đốt phá nhà Dupuis, và bỏ thuốc độc vào nước, dùng cho người Pháp… Ông Garnier, hết hy vọng làm cho ông ta nghe lẽ phải, tự thấy buộc lòng phải hành động để khỏi phải bị nghiền nát vài hôm sau đó. Ngày 20/11, lúc 6 giờ sáng, ông ta đã cho tiến công vào thành; bốn mươi lăm phút sau, ông ta đã làm chủ được tình thế; ông ta cho chiếm đóng luôn các công sự Phủ Hoài. Nếu Ngài không sớm ký hiệp ước thì chúng tôi sẽ phải kéo dài sự có mặt của chúng tôi tại Bắc kỳ, hoặc hoàn tất việc chiếm đóng của chúng tôi để tổ chức cai trị lấy một cách trực tiếp, hoặc là tìm trong hoàng tộc cũ [nhà Lê] một người nào có đủ tư cách pháp lý hơn cả, để tôn lên ngôi vua, rồi quân lực của chúng tôi ủng hộ ông vua mới đó.”(25) Bức thư này hoàn toàn phù hợp với những dự kiến mà ông Đô đốc đã giải trình với Bộ trưởng của mình và phù hợp với cách giải quyết, một trong hai, trường hợp có thể xảy ra mà ông ta đã dự kiến trước. Cùng ngày hôm ấy, Dupré gửi một công hàm cho Bộ trưởng Hải quân tại Paris báo cho biết đã chiếm được thành Hà Nội. Ông ta lặp lại y nguyên những lý do đã khiến Garnier phải dùng vũ lực đổ lỗi về phía các nhà chức trách Việt Nam. Có một điều ông ta giữ kín không nói, là cuộc chính biến vũ trang Hà Nội là điều ông ta từng ao ước lâu nay, nhằm buộc Tự Đức phải chấp nhận bản hiệp ước của ông ta, tuân phục những điều kiện và những ý muốn của ông ta. Sau thắng lợi bước đầu ấy, Garnier chỉ có thể là tiếp tục cuộc tấn công của hắn. Lợi dụng tình hình vô chánh phủ, lòng bất bình của dân chúng, tình thế chính trị và xã hội suy đốn; lợi dụng sự nâng đỡ của các cộng đồng toàn bộ vùng châu thổ. Tình hình ấy của Bắc kỳ đã được Giám mục Colomer, Khâm mạng Tòa thánh tại Bắc kỳ, miêu tả như sau: “Tất cả đều cuốn chảy theo dòng, tất cả đều sụp đổ… Những thảm họa đang vây chặt lấy xứ sở này, cứ tiếp tục xảy ra, hết thảm họa này đến thảm họa kia: nào lụt lội, nào loạn ly, nào cướp bóc hoành hành, cướp sông, cướp biển, nào bọn tàu ô bắt cóc trẻ em và đàn bà, nào trăm thứ thuế tùy tiện và cắt cổ, rồi chuyện chính các nhà chức trách làm phiền nhiễu nhân dân, rồi sự bất bình của mọi nơi, mọi chốn…”(26) Từ ngày 23/11 đến ngày 10/12/1873, Garnier chiếm Hưng Yên, Phủ Lý, Hải Dương, Ninh Bình và Nam Định. Tại đây, trái hẳn với các điều khoản của hiệp ước, hắn thiết lập một nền cai trị thường trực của Pháp. Ngày 19/12/1873, các phái viên của triều đình Huế đến Hà Nội, và bắt đầu thảo luận với Garnier. Lúc đó, Garnier được tin quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phước, tiên phong của quân đội Việt Nam, do Hoàng Kế Viêm làm tư lệnh, đã tiến về sát ngoại ô của Hà Nội. Trong cơn bồng bột “say sưa vì những chiến thắng vang lừng hắn vừa đạt được”, Garnier xông ra giáp trận với quân Cờ đen và bị bắn chết tức thời tại trận, ngày 21/12/1873.
TS Nguyễn Xuân Thọ Nguồn: (Alpha Books - Ebook) Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam 1858-1897 Trang Lịch Sử |