Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam Pháp Xâm Nhập Bắc Kỳ TS Nguyễn Xuân Thọ https://sachhiem.net/NGXUANTHO/BuocMoDau_08.php
Chương 7 - Pháp Xâm Nhập Bắc Kỳ Và Cuộc Thám Hiểm Sông Cửu Long (Mékong) “Tôi muốn tạo cho đất nước tôi một đế quốc thật sự tại Viễn Đông. Tôi muốn nền văn minh Thiên Chúa giáo của chúng ta có thể tìm thấy trong vùng đất đai mới chinh phục ấy một cơ sở đồ sộ, từ đấy tỏa ánh ra khắp mọi nơi của cái xứ sở tồn tại bao nhiêu tập quán bạo tàn. Nhiều người còn nghi ngờ khả năng đạt tới mục đích, nhiều kẻ khác lại lo về vấn đề kinh phí. Sau cùng, tôi còn nhiều khó khăn phải khắc phục, nhưng tôi có niềm tin. Tôi bước đi như chắc sẽ thành công. Cái lâu đài lộng lẫy mà tôi mơ ước, tôi sẽ không được chứng kiến lúc hoàn thành, nhưng tôi sung sướng đã khai nền đắp móng”(1). Những dòng viết trên đây nằm trong chương trình của Chasseloup-Laubat, ngày 14/2/1862. Tháng 1/1865, vẫn Chasseloup-Laubat viết: “Tất cả suy nghĩ của tôi đều hướng về những vùng đất này… Tôi chỉ thương hại cho những kẻ chỉ tóm lại mọi điều bằng một chữ ‘phải’ và chữ ‘có’, mà không hiểu rằng, thường thường nội dung của một lo toan lớn, chủ yếu là ở sự tận tụy và những hy sinh chịu đựng vì sự nghiệp của văn minh”(2). Ở đấy nữa, người ta thấy Chasseloup-Laubat không bao giờ ngừng đặt tất cả sự quan tâm sáng suốt vào cái thuộc địa mới ra đời này của ông, “đứa con được nuông chiều của ngài Bộ trưởng”, như người ta nói trong bộ Hải quân. Có thể nói ông đã chủ trì sự ra đời của nó; ông đã bế nó trên bồn nước rửa tội; ông đã theo dõi những bước chập chững đầu tiên của nó với một sự săn sóc ân cần, nặng tình máu mủ cha con, và tất nhiên ông mong muốn nó chóng trưởng thành, vì vinh quang của nước Pháp. Trong một quyển sách xuất bản năm 1865 viết về tình hình Nam kỳ, ký tên G. Francis - một thanh tra trẻ tuổi “việc bản xứ”, lúc ấy phụ trách cai trị thành phố Chợ Lớn, 25 tuổi, khá tên tuổi, tên là Francis Granier, viết: “Việc sở hữu ba tỉnh của chúng ta vẫn chưa đầy đủ và trở thành nguy hiểm nếu ta không bổ sung thêm trong một thời gian ngắn, bằng cách đánh chiếm phần đất Nam kỳ còn lại. Người An Nam luôn luôn coi sáu tỉnh như một tổng thể không thể phân chia. Việc người An Nam chiếm đất Biên Hòa của người Campuchia đã đưa họ tất yếu đến việc chiếm toàn bộ miền châu thổ… Các hiệp ước bắt buộc chúng ta phải để cho những nhân viên triều đình Huế qua lại trên lãnh thổ chúng ta. Chúng ta không thể ngăn cản họ tìm cách tuyển quân và ấn tượng bực bội để lại trong lòng những người An Nam, khi họ thấy những quan lại cũ của họ đi qua. Bao lâu tình trạng địa lý này còn tồn tại, thì chúng ta sẽ còn phải chịu sự thù ghét ngấm ngầm và thường xuyên của các tầng lớp trên, cũng như sự do dự hoài nghi tai hại của quần chúng. (…) Những điều bất lợi ấy cũng có nhiều về phương diện mậu dịch. Ta có thể tin chắc đã nắm thị trường tiêu thụ Campuchia, khi ta chỉ mới chiếm được có một trong những nhánh sông ít quan trọng nhất hay không? (…) Chiếm được ba tỉnh kia lập tức sẽ rút ngắn biên giới chúng ta lại được 70 dặm kênh rạch rất khó bảo vệ. Cuộc chinh phục này, tiến hành cho khéo léo, có thể ít đổ máu xương hơn một số trận đánh không nước mắt thời xưa. (…) Nói tóm lại, việc chiếm hữu sáu tỉnh, việc tổ chức, nếu không được một chánh phủ dân sự, thì ít ra một hệ thống hành chánh địa phương đặc biệt, thích hợp với kiểu thuộc địa, sự phát triển sản phẩm nông nghiệp và ảnh hưởng thương mại của chúng ta trên đất Đông Dương, tôi thấy rất có khả năng thực hiện được, ngay từ bây giờ mà chẳng phải tăng thêm chi phí và bằng những phương tiện địa phương thuộc địa hiện nay của chúng ta. Càng sớm tranh thủ thời gian để tạo cho nó một địa bàn ổn định, chúng ta có thể tránh được những bước dò dẫm để tìm một đường lối chính trị mịt mù và không dứt khoát, của một chánh phủ những người quá dễ đổi thay và không ổn định”(3). Dĩ nhiên là trước những thành công dễ dàng, lại được sự trợ giúp của một sự phục tùng ngoan ngoãn của chánh phủ Huế, chẳng một người Pháp nào, dù làm công chức hay làm nghề nào khác ở thuộc địa, mà lại không mơ đến sự chiếm đóng cả Nam kỳ. Francis Garnier là một trong những người đó và tuy là một nhà cai trị còn trẻ măng, ông ta đã bắt đầu lo lắng một cách nghiêm túc đến “tương lai” của thuộc địa mới này. Trong những năm tiếp theo, chúng ta sẽ nghe nói đến ông ta càng nhiều. Lẽ tất nhiên, trong số những người tai mắt hy vọng được thấy nước Pháp thôn tính cả sáu tỉnh, người ta sẽ gặp lại Đô đốc La Grandière, mặc dù ông luôn luôn cam kết với chánh phủ Việt Nam bảo đảm hòa bình. Ngày 17/1/1865, ông viết thư cho bạn ông, đại úy Mauduit-Duplessis: “Lòng mong muốn của anh được thấy chúng ta sở hữu sáu tỉnh, như lòng mong muốn của tôi. Nhưng muốn được như vậy, chúng ta phải biết chờ đợi, chọn đúng thời cơ và củng cố chắc chắn lực lượng chúng ta ở ba tỉnh mà chúng ta đã chiếm. Mọi sự khác sẽ tự nó đến, do quy luật của sự việc. Tôi không tin rằng chúng ta có thể nghĩ đến việc đó trước thời gian một năm… Ý định của tôi là thi hành theo Hiệp ước 1862, cho đến khi nào hoàn cảnh cho phép chúng ta xé nó đi để trừng phạt. Nhưng chúng ta hãy trung thực và có thiện ý với những dân tộc không trung thực và thiếu thiện ý. Tôi xem việc này như một điều chắc chắn sẽ tới trong một thời gian không lâu, cho nên không để hỏng và phải làm sao cho pháp lý thuộc về chúng ta”(4). Những điều cụ thể ấy được nói lên qua những từ “lịch sự” hoa mỹ biết bao! Không còn chối cãi được rằng âm mưu thôn tính cả Nam kỳ của Pháp đã có từ trước và tự bộc lộ rõ ràng. Cái ý định của chánh phủ Pháp giữ Hiệp ước 1862 nói cho cùng chỉ là tạm thời bởi vì chẳng bao lâu nó sẽ xé tan, như họ dự định… trong khoảng hai năm sau. Còn về khái niệm “lòng trung thực” và “thiện ý”, phải thừa nhận rằng có thể nó rất khác biệt ở một vài môi trường xã hội phương Tây với các môi trường thuộc nền văn minh châu Á. Và những nền văn minh châu Á, phải chăng là có lỗi, khi họ không muốn mô phỏng theo nền văn minh của ông Đô đốc-cầm quyền? Ngoài những chứng lý đạo đức ấy, mấy trang viết vừa kể trên của ông Đô đốc chứng minh rằng, ngay từ khi thông báo Hiệp ước Aubaret không được phê chuẩn, thì hiệp ước này cũng không bị chôn chặt hoàn toàn. Từ những trang viết đó, toát ra ý đồ mở rộng phạm vi chinh phục của người Pháp. Cái thời hạn “ban ơn” mà do thiện ý, do trung thực, hay do cái tất yếu của một đường lối chính trị cao cả mà La Grandière muốn chiếu cố cho Nam kỳ, thực tế sẽ kéo dài hai năm, từ 1865 đến 1867. Trong cùng thời kỳ ấy, phía Bắc, bọn cướp biển người Trung Quốc quấy nhiễu cả vùng, cuộc nổi loạn của Tạ Văn Phụng vừa mới bị quân triều đình dẹp yên, Hiệp ước Sài Gòn 1862 vừa được ký kết; ở miền Trung, những bộ tộc Mọi ở Đá Vạch, Quảng Ngãi từ núi kéo xuống đang cướp phá và giết chóc dân chúng; thì ở Huế lại có một âm mưu đảo chính mới, tạo nên một không khí sợ hãi, lo âu. Hoàn cảnh hoàn toàn không có gì gọi là thuận lợi cho triều đình Huế có thể có một thái độ hung hăng đối với Pháp. Hai năm đã qua, La Grandière cho rằng sự tạm nghỉ như vậy là vừa. Bây giờ phải tìm một duyên cớ. Trong tường trình tổng quát ngày 10/11/1867, ông ta báo cáo về sự nhẫn nại của mình và những lý do buộc ông phải cho thực hiện một cuộc xuất quân tức khắc: “Triều đình Huế đã đặt tôi vào tình thế yếu phải nhắc nhở họ lưu ý đến những sự trừng phạt mà họ sẽ đương đầu, nếu họ khuyến khích, bằng cách này hay cách nọ, những người An Nam cầm đầu các vụ nổi loạn. Những người cầm đầu này, do tính ưa loạn lạc và cướp bóc, đồng thời thù ghét sự thống trị của chúng ta, đã a dua nhập theo một tên phiêu lưu, nổi lên chống lại nhà vua của một nước được chúng ta bảo hộ (Campuchia). Những lời phản kháng ôn hòa, những câu phải lẽ của tôi, chỉ được đáp ứng một cách hời hợt mỉa mai. … Đáp ứng lời đề nghị của tôi mở cuộc đàm phán để xét lại Hiệp ước 1862, người ta chỉ có những câu trả lời lẩn tránh mà tôi đành phải coi như là một sự thú nhận bất lực hoặc một sự từ chối không làm vừa ý tôi. Vậy nên tôi thông báo cho chánh phủ An Nam rằng tôi không bị ràng buộc gì nữa về những điều khoản của một hiệp ước mà chính họ lẩn tránh những điều quy định căn bản; rằng tôi không bị mắc lừa, lâu hơn nữa về những sự phản đối có lễ phép đối với bản hiệp ước ngoại giao ấy; họ đã sử dụng hiệp ước như một vũ khí chiến tranh, bằng cách cho cư trú trên lãnh thổ của mình, những bọn gây loạn lạc mất an ninh, cho tất cả những ai là kẻ thù nền thống trị của ta. Và tôi tuyên bố với họ rằng: tôi sẽ dành cho tôi cái quyền, khi cần, đến ngay trên lãnh thổ của họ để truy nã những kẻ thù của chúng ta mà họ để cho hoạt động trên lãnh thổ của họ”(5). Chúng ta thấy La Grandière rất kiên trì trong tư tưởng của mình: chờ đợi thời gian cần thiết để cho nước Pháp chiếm quyền sở hữu sáu tỉnh; nắm lấy những thời cơ thuận tiện; duy trì hiệp ước cho đến khi hoàn cảnh cho phép xé bỏ nó đi để trừng phạt. Những ý đồ đã được khẳng định một cách hết sức chính xác trong bức thư gửi cho Mauduit-Duplessis ngày 17/1/1865, đã được áp dụng một cách chặt chẽ và liên tục. Vậy là, “sau năm năm kiên trì chờ đợi và nhẫn nhục”, La Grandière quyết định xóa bỏ Hiệp ước 1862, cũng như đã xóa bỏ Hiệp ước 1864, và từ tháng 3/1867, ông ta đã chuẩn bị sẵn sàng. Thời điểm này trong năm không thuận lợi lắm cho các cuộc hành quân; kênh rạch không đủ mức nước cần thiết. Ông ta đợi mùa mưa, hai tháng nữa. Như vậy ông ta có thể di chuyển các pháo thuyền tới gần các mục tiêu và tránh được những cuộc hành quân bộ trên những điều kiện địa hình phức tạp. Ngày 15/6/1867, tất cả chuẩn bị đã sẵn sàng; ông công bố nhật lệnh xuất quân. Chiến dịch diễn ra không lâu lắm. Ngoài ra tầm cỡ tương đối quan trọng của lực lượng tấn công của Pháp, trong đó có 17 pháo thuyền tham gia: Triều đình Huế như phía quân xâm lăng đã dự đoán trước, hoàn toàn không có khả năng gửi quân viện trợ tới, do tình hình khó khăn nội bộ. Các doanh trại Việt Nam nhanh chóng bị đánh bại, trong vòng có mươi ngày: Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên rơi vào tay quân Pháp. Những giám đốc các “Vụ bản xứ” đã được chỉ định trước để cai trị các tỉnh mới chiếm, thay vào vị trí bỏ trống của các quan Việt Nam trốn chạy; trong đó, dĩ nhiên, chẳng có vị nào nghĩ đến chuyện nhận làm việc cho các nhà chức trách Pháp. Hành vi độc đoán này, người Việt Nam coi như một sự phản bội. Lại thêm một lần nữa, chúng ta sẽ thấy Napoléon III và chánh phủ ông ta mất kiểm soát bởi hành động của Đô đốc-cầm quyền, đã áp dụng những biện pháp trái ngược, nhưng cuối cùng cũng đành chấp nhận như “sự đã rồi”, bởi nó có lợi cho nước Pháp. Trong thời gian đó, tháng 7/1867, Đô đốc Rigault de Genouilly thay thế Chasseloup-Laubat làm Bộ trưởng Hải quân. Rigault de Genouilly ít hăng hái bằng ông Bộ trưởng trước. Ông ta còn giữ ít nhiều kỷ niệm khó khăn mọi mặt mà ông ta đã vấp phải những năm đầu ở Việt Nam. Ngay từ khi nhận chức Bộ trưởng, Rigault de Genouilly biết những ý định mà La Grandière chẳng hề che giấu chút nào sẽ chiếm thêm những đất đai mới. Ngày 28/2/1867, ông ta cho phép người kế chân ông tại Sài Gòn tiến hành một cuộc “biểu dương vũ trang nhằm ép triều đình Huế phải điều đình”, một cuộc biểu dương, mà theo ý của ông, sẽ không vượt quá những cuộc biểu dương ông ta đã chỉ đạo khéo léo trong cuộc viễn chinh Pháp - Tây Ban Nha. Sau đó, dự đoán là La Grandière sẽ không ngừng lại ở đây, ngày 16/5/1867, ông đã chỉ thị “phải tránh tất cả những gì có thể làm cho triều đình Huế phải lo ngại” và chờ đợi ông ta cho phép hoặc “nhằm nối lại những cuộc thương thuyết với triều đình Huế, hoặc áp dụng những biện pháp hăm dọa chống lại nó”(6). Chương 7 PHÁP XÂM NHẬP BẮC KỲ VÀ CUỘC THÁM HIỂM SÔNG CỬU LONG (MÉKONG)“Tôi muốn tạo cho đất nước tôi một đế quốc thật sự tại Viễn Đông. Tôi muốn nền văn minh Thiên Chúa giáo của chúng ta có thể tìm thấy trong vùng đất đai mới chinh phục ấy một cơ sở đồ sộ, từ đấy tỏa ánh ra khắp mọi nơi của cái xứ sở tồn tại bao nhiêu tập quán bạo tàn. Nhiều người còn nghi ngờ khả năng đạt tới mục đích, nhiều kẻ khác lại lo về vấn đề kinh phí. Sau cùng, tôi còn nhiều khó khăn phải khắc phục, nhưng tôi có niềm tin. Tôi bước đi như chắc sẽ thành công. Cái lâu đài lộng lẫy mà tôi mơ ước, tôi sẽ không được chứng kiến lúc hoàn thành, nhưng tôi sung sướng đã khai nền đắp móng”(1). Những dòng viết trên đây nằm trong chương trình của Chasseloup-Laubat, ngày 14/2/1862. Tháng 1/1865, vẫn Chasseloup-Laubat viết: “Tất cả suy nghĩ của tôi đều hướng về những vùng đất này… Tôi chỉ thương hại cho những kẻ chỉ tóm lại mọi điều bằng một chữ ‘phải’ và chữ ‘có’, mà không hiểu rằng, thường thường nội dung của một lo toan lớn, chủ yếu là ở sự tận tụy và những hy sinh chịu đựng vì sự nghiệp của văn minh”(2). Ở đấy nữa, người ta thấy Chasseloup-Laubat không bao giờ ngừng đặt tất cả sự quan tâm sáng suốt vào cái thuộc địa mới ra đời này của ông, “đứa con được nuông chiều của ngài Bộ trưởng”, như người ta nói trong bộ Hải quân. Có thể nói ông đã chủ trì sự ra đời của nó; ông đã bế nó trên bồn nước rửa tội; ông đã theo dõi những bước chập chững đầu tiên của nó với một sự săn sóc ân cần, nặng tình máu mủ cha con, và tất nhiên ông mong muốn nó chóng trưởng thành, vì vinh quang của nước Pháp. Trong một quyển sách xuất bản năm 1865 viết về tình hình Nam kỳ, ký tên G. Francis - một thanh tra trẻ tuổi “việc bản xứ”, lúc ấy phụ trách cai trị thành phố Chợ Lớn, 25 tuổi, khá tên tuổi, tên là Francis Granier, viết: “Việc sở hữu ba tỉnh của chúng ta vẫn chưa đầy đủ và trở thành nguy hiểm nếu ta không bổ sung thêm trong một thời gian ngắn, bằng cách đánh chiếm phần đất Nam kỳ còn lại. Người An Nam luôn luôn coi sáu tỉnh như một tổng thể không thể phân chia. Việc người An Nam chiếm đất Biên Hòa của người Campuchia đã đưa họ tất yếu đến việc chiếm toàn bộ miền châu thổ… Các hiệp ước bắt buộc chúng ta phải để cho những nhân viên triều đình Huế qua lại trên lãnh thổ chúng ta. Chúng ta không thể ngăn cản họ tìm cách tuyển quân và ấn tượng bực bội để lại trong lòng những người An Nam, khi họ thấy những quan lại cũ của họ đi qua. Bao lâu tình trạng địa lý này còn tồn tại, thì chúng ta sẽ còn phải chịu sự thù ghét ngấm ngầm và thường xuyên của các tầng lớp trên, cũng như sự do dự hoài nghi tai hại của quần chúng. (…) Những điều bất lợi ấy cũng có nhiều về phương diện mậu dịch. Ta có thể tin chắc đã nắm thị trường tiêu thụ Campuchia, khi ta chỉ mới chiếm được có một trong những nhánh sông ít quan trọng nhất hay không? (…) Chiếm được ba tỉnh kia lập tức sẽ rút ngắn biên giới chúng ta lại được 70 dặm kênh rạch rất khó bảo vệ. Cuộc chinh phục này, tiến hành cho khéo léo, có thể ít đổ máu xương hơn một số trận đánh không nước mắt thời xưa. (…) Nói tóm lại, việc chiếm hữu sáu tỉnh, việc tổ chức, nếu không được một chánh phủ dân sự, thì ít ra một hệ thống hành chánh địa phương đặc biệt, thích hợp với kiểu thuộc địa, sự phát triển sản phẩm nông nghiệp và ảnh hưởng thương mại của chúng ta trên đất Đông Dương, tôi thấy rất có khả năng thực hiện được, ngay từ bây giờ mà chẳng phải tăng thêm chi phí và bằng những phương tiện địa phương thuộc địa hiện nay của chúng ta. Càng sớm tranh thủ thời gian để tạo cho nó một địa bàn ổn định, chúng ta có thể tránh được những bước dò dẫm để tìm một đường lối chính trị mịt mù và không dứt khoát, của một chánh phủ những người quá dễ đổi thay và không ổn định”(3). Dĩ nhiên là trước những thành công dễ dàng, lại được sự trợ giúp của một sự phục tùng ngoan ngoãn của chánh phủ Huế, chẳng một người Pháp nào, dù làm công chức hay làm nghề nào khác ở thuộc địa, mà lại không mơ đến sự chiếm đóng cả Nam kỳ. Francis Garnier là một trong những người đó và tuy là một nhà cai trị còn trẻ măng, ông ta đã bắt đầu lo lắng một cách nghiêm túc đến “tương lai” của thuộc địa mới này. Trong những năm tiếp theo, chúng ta sẽ nghe nói đến ông ta càng nhiều. Lẽ tất nhiên, trong số những người tai mắt hy vọng được thấy nước Pháp thôn tính cả sáu tỉnh, người ta sẽ gặp lại Đô đốc La Grandière, mặc dù ông luôn luôn cam kết với chánh phủ Việt Nam bảo đảm hòa bình. Ngày 17/1/1865, ông viết thư cho bạn ông, đại úy Mauduit-Duplessis: “Lòng mong muốn của anh được thấy chúng ta sở hữu sáu tỉnh, như lòng mong muốn của tôi. Nhưng muốn được như vậy, chúng ta phải biết chờ đợi, chọn đúng thời cơ và củng cố chắc chắn lực lượng chúng ta ở ba tỉnh mà chúng ta đã chiếm. Mọi sự khác sẽ tự nó đến, do quy luật của sự việc. Tôi không tin rằng chúng ta có thể nghĩ đến việc đó trước thời gian một năm… Ý định của tôi là thi hành theo Hiệp ước 1862, cho đến khi nào hoàn cảnh cho phép chúng ta xé nó đi để trừng phạt. Nhưng chúng ta hãy trung thực và có thiện ý với những dân tộc không trung thực và thiếu thiện ý. Tôi xem việc này như một điều chắc chắn sẽ tới trong một thời gian không lâu, cho nên không để hỏng và phải làm sao cho pháp lý thuộc về chúng ta”(4). Những điều cụ thể ấy được nói lên qua những từ “lịch sự” hoa mỹ biết bao! Không còn chối cãi được rằng âm mưu thôn tính cả Nam kỳ của Pháp đã có từ trước và tự bộc lộ rõ ràng. Cái ý định của chánh phủ Pháp giữ Hiệp ước 1862 nói cho cùng chỉ là tạm thời bởi vì chẳng bao lâu nó sẽ xé tan, như họ dự định… trong khoảng hai năm sau. Còn về khái niệm “lòng trung thực” và “thiện ý”, phải thừa nhận rằng có thể nó rất khác biệt ở một vài môi trường xã hội phương Tây với các môi trường thuộc nền văn minh châu Á. Và những nền văn minh châu Á, phải chăng là có lỗi, khi họ không muốn mô phỏng theo nền văn minh của ông Đô đốc-cầm quyền? Ngoài những chứng lý đạo đức ấy, mấy trang viết vừa kể trên của ông Đô đốc chứng minh rằng, ngay từ khi thông báo Hiệp ước Aubaret không được phê chuẩn, thì hiệp ước này cũng không bị chôn chặt hoàn toàn. Từ những trang viết đó, toát ra ý đồ mở rộng phạm vi chinh phục của người Pháp. Cái thời hạn “ban ơn” mà do thiện ý, do trung thực, hay do cái tất yếu của một đường lối chính trị cao cả mà La Grandière muốn chiếu cố cho Nam kỳ, thực tế sẽ kéo dài hai năm, từ 1865 đến 1867. Trong cùng thời kỳ ấy, phía Bắc, bọn cướp biển người Trung Quốc quấy nhiễu cả vùng, cuộc nổi loạn của Tạ Văn Phụng vừa mới bị quân triều đình dẹp yên, Hiệp ước Sài Gòn 1862 vừa được ký kết; ở miền Trung, những bộ tộc Mọi ở Đá Vạch, Quảng Ngãi từ núi kéo xuống đang cướp phá và giết chóc dân chúng; thì ở Huế lại có một âm mưu đảo chính mới, tạo nên một không khí sợ hãi, lo âu. Hoàn cảnh hoàn toàn không có gì gọi là thuận lợi cho triều đình Huế có thể có một thái độ hung hăng đối với Pháp. Hai năm đã qua, La Grandière cho rằng sự tạm nghỉ như vậy là vừa. Bây giờ phải tìm một duyên cớ. Trong tường trình tổng quát ngày 10/11/1867, ông ta báo cáo về sự nhẫn nại của mình và những lý do buộc ông phải cho thực hiện một cuộc xuất quân tức khắc: “Triều đình Huế đã đặt tôi vào tình thế yếu phải nhắc nhở họ lưu ý đến những sự trừng phạt mà họ sẽ đương đầu, nếu họ khuyến khích, bằng cách này hay cách nọ, những người An Nam cầm đầu các vụ nổi loạn. Những người cầm đầu này, do tính ưa loạn lạc và cướp bóc, đồng thời thù ghét sự thống trị của chúng ta, đã a dua nhập theo một tên phiêu lưu, nổi lên chống lại nhà vua của một nước được chúng ta bảo hộ (Campuchia). Những lời phản kháng ôn hòa, những câu phải lẽ của tôi, chỉ được đáp ứng một cách hời hợt mỉa mai. … Đáp ứng lời đề nghị của tôi mở cuộc đàm phán để xét lại Hiệp ước 1862, người ta chỉ có những câu trả lời lẩn tránh mà tôi đành phải coi như là một sự thú nhận bất lực hoặc một sự từ chối không làm vừa ý tôi. Vậy nên tôi thông báo cho chánh phủ An Nam rằng tôi không bị ràng buộc gì nữa về những điều khoản của một hiệp ước mà chính họ lẩn tránh những điều quy định căn bản; rằng tôi không bị mắc lừa, lâu hơn nữa về những sự phản đối có lễ phép đối với bản hiệp ước ngoại giao ấy; họ đã sử dụng hiệp ước như một vũ khí chiến tranh, bằng cách cho cư trú trên lãnh thổ của mình, những bọn gây loạn lạc mất an ninh, cho tất cả những ai là kẻ thù nền thống trị của ta. Và tôi tuyên bố với họ rằng: tôi sẽ dành cho tôi cái quyền, khi cần, đến ngay trên lãnh thổ của họ để truy nã những kẻ thù của chúng ta mà họ để cho hoạt động trên lãnh thổ của họ”(5). Chúng ta thấy La Grandière rất kiên trì trong tư tưởng của mình: chờ đợi thời gian cần thiết để cho nước Pháp chiếm quyền sở hữu sáu tỉnh; nắm lấy những thời cơ thuận tiện; duy trì hiệp ước cho đến khi hoàn cảnh cho phép xé bỏ nó đi để trừng phạt. Những ý đồ đã được khẳng định một cách hết sức chính xác trong bức thư gửi cho Mauduit-Duplessis ngày 17/1/1865, đã được áp dụng một cách chặt chẽ và liên tục. Vậy là, “sau năm năm kiên trì chờ đợi và nhẫn nhục”, La Grandière quyết định xóa bỏ Hiệp ước 1862, cũng như đã xóa bỏ Hiệp ước 1864, và từ tháng 3/1867, ông ta đã chuẩn bị sẵn sàng. Thời điểm này trong năm không thuận lợi lắm cho các cuộc hành quân; kênh rạch không đủ mức nước cần thiết. Ông ta đợi mùa mưa, hai tháng nữa. Như vậy ông ta có thể di chuyển các pháo thuyền tới gần các mục tiêu và tránh được những cuộc hành quân bộ trên những điều kiện địa hình phức tạp. Ngày 15/6/1867, tất cả chuẩn bị đã sẵn sàng; ông công bố nhật lệnh xuất quân. Chiến dịch diễn ra không lâu lắm. Ngoài ra tầm cỡ tương đối quan trọng của lực lượng tấn công của Pháp, trong đó có 17 pháo thuyền tham gia: Triều đình Huế như phía quân xâm lăng đã dự đoán trước, hoàn toàn không có khả năng gửi quân viện trợ tới, do tình hình khó khăn nội bộ. Các doanh trại Việt Nam nhanh chóng bị đánh bại, trong vòng có mươi ngày: Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên rơi vào tay quân Pháp. Những giám đốc các “Vụ bản xứ” đã được chỉ định trước để cai trị các tỉnh mới chiếm, thay vào vị trí bỏ trống của các quan Việt Nam trốn chạy; trong đó, dĩ nhiên, chẳng có vị nào nghĩ đến chuyện nhận làm việc cho các nhà chức trách Pháp. Hành vi độc đoán này, người Việt Nam coi như một sự phản bội. Lại thêm một lần nữa, chúng ta sẽ thấy Napoléon III và chánh phủ ông ta mất kiểm soát bởi hành động của Đô đốc-cầm quyền, đã áp dụng những biện pháp trái ngược, nhưng cuối cùng cũng đành chấp nhận như “sự đã rồi”, bởi nó có lợi cho nước Pháp. Trong thời gian đó, tháng 7/1867, Đô đốc Rigault de Genouilly thay thế Chasseloup-Laubat làm Bộ trưởng Hải quân. Rigault de Genouilly ít hăng hái bằng ông Bộ trưởng trước. Ông ta còn giữ ít nhiều kỷ niệm khó khăn mọi mặt mà ông ta đã vấp phải những năm đầu ở Việt Nam. Ngay từ khi nhận chức Bộ trưởng, Rigault de Genouilly biết những ý định mà La Grandière chẳng hề che giấu chút nào sẽ chiếm thêm những đất đai mới. Ngày 28/2/1867, ông ta cho phép người kế chân ông tại Sài Gòn tiến hành một cuộc “biểu dương vũ trang nhằm ép triều đình Huế phải điều đình”, một cuộc biểu dương, mà theo ý của ông, sẽ không vượt quá những cuộc biểu dương ông ta đã chỉ đạo khéo léo trong cuộc viễn chinh Pháp - Tây Ban Nha. Sau đó, dự đoán là La Grandière sẽ không ngừng lại ở đây, ngày 16/5/1867, ông đã chỉ thị “phải tránh tất cả những gì có thể làm cho triều đình Huế phải lo ngại” và chờ đợi ông ta cho phép hoặc “nhằm nối lại những cuộc thương thuyết với triều đình Huế, hoặc áp dụng những biện pháp hăm dọa chống lại nó”(6). Ngày 18/7/1867, Rigault de Genouilly biết được rằng La Grandière không chú ý gì đến những chỉ thị của ông, đã thực hiện toàn bộ những chiến dịch mà ông Đô đốc-cầm quyền đã dự định từ lâu nay. Cùng ngày hôm ấy, ông Bộ trưởng biểu thị sự ngạc nhiên và sự bất tán thành của ông ta: “… Cái tin nghiêm trọng này càng làm tôi vô cùng ngạc nhiên vì tình hình Nam kỳ, theo như những công hàm ông đã gửi cho tôi trước đây, đối với tôi, dường như đã làm tiêu tan đi trong tư tưởng của ông mọi ý định lợi dụng tức khắc cái tự do hành động mà bức công hàm ngày 20/2 đã đặt vào tay ông. Vả lại, lúc bấy giờ tôi đã khuyên ông nên chiếm Vĩnh Long trước, sau đó mới chiếm Châu Đốc và Hà Tiên. Và những chiếm đóng liên tiếp ấy đã chỉ thị cho ông như những phô trương lực lượng quân sự, nhắm làm kiệt quệ chánh phủ Tự Đức để đi đến sự nhường cho ta ba tỉnh kia. Sự chiếm đóng trọn vẹn cả vùng đất đai ấy mà ông thông báo, theo tôi, là một hành vi tôi không thể nào chấp nhận được. Tình hình chính trị châu Âu bắt tôi có bổn phận phải hết sức cẩn thận tránh mọi rắc rối khó khăn. Vì vậy tôi đã bộc lộ cho ông thấy, ngày 10/5, tôi đã xiết bao bằng lòng được nghe ông bảo đảm, ngày 29/3 sẽ hoãn lại mọi cố gắng dàn xếp với triều đình Huế. Tôi đợi mãi không nhận được tường trình của ông. Giờ đây, tôi chỉ có thể khuyên ông, một lần nữa, hãy dè dặt và từ tốn, trong lúc chờ đợi những chỉ thị mà tôi sẽ gửi cho ông, sau khi đã nắm được những công việc đã lỡ làm”(7). Bản tường trình của La Grandière, nhận được ở Paris ít lâu sau, được chuyển lên cho Napoléon III, trong một cuộc họp hội đồng Bộ trưởng. Chắc chắn bản tường trình ấy rất có sức thuyết phục; tình hình đã trở nên khả quan hơn. Dù sao Napoléon III, tuy rằng tiếc hành động nói trên của Bộ trưởng Hải quân cho là không đúng lúc nhưng vẫn quyết định, theo thói quen, sẽ phê duyệt cái “sự đã rồi” và nhận ba tỉnh mới của Nam kỳ đó. Giờ đây, nước Pháp là kẻ đã xé tan Hiệp ước Sài Gòn 1862, trong khi miệng vẫn tuyên bố hết sức tôn trọng nó, chỉ còn đi tìm một hiệp ước mới để hợp pháp hóa những đất đai mới chiếm. Nó không để mất thì giờ. Ngày 13/8/1867, Bộ trưởng Ngoại giao mới, De Moustier thay chân Drouyn de Lhuys, ủy nhiệm cho La Grandière được trọn quyền để đàm phán với chánh phủ Huế. Nhưng hiệp ước ấy chưa hề ký kết, chưa hề được bàn bạc, mặc dầu những chỉ thị của ông Bộ trưởng gửi cho ông Đô đốc-cầm quyền. Trước sự tan rã của quân đội Việt Nam và chiến thắng quá dễ dàng của quân Pháp, chánh phủ Huế không còn thời giờ và khả năng để phản ứng một cách có hiệu quả. Huế đành phải thừa nhận bại trận và sau đó để cho Pháp chiếm toàn bộ Nam kỳ. Nhưng sự kiện đột ngột này làm cho dư luận Việt Nam quá đau đớn. Giám mục Sohier, người kế tiếp Giám mục Pellerin, lúc đó đang ở kinh đô, viết ngày 26/12/1867: “… Chúng tôi đã trải qua giai đoạn khủng hoảng mà tôi hằng lo sợ lâu nay: việc chiếm đóng ba tỉnh bao quanh thuộc địa, ông Đô đốc đã chiếm không một khó khăn trở ngại nào. Khi tin ấy đến kinh đô, nó gây nên một cảm giác rất nặng nề và một cơn giận dữ dội. Ấy là đúng vào thời kỳ mà các vị, sĩ tử họp nhau tại kinh thành để chuẩn bị thi, khoảng năm ngàn người. Người ta hăm dọa dữ tợn. Người ta nói người ta sẽ giết hết chúng tôi, thiêu sống chúng tôi, người ta đã định ngày cho số mạng chúng tôi, người ta nói thà là chết hơn là chịu phải một cách nhục như thế, nhưng trước khi khởi chiến, phải loại trừ những phần tử Kitô giáo theo Pháp, phải phân tán chúng nó, phải giam cầm chúng nó, và thủ tiêu chúng nó. Các sĩ phu viết thơ nặc danh lên án nhà vua và các quan lại là hèn nhát, vì đã để cho tan nát giang sơn. Để làm thỏa lòng những người yêu nước đó, nhà vua ra chỉ dụ cho lệnh tuyển ở khắp các làng xóm, một đạo vệ quân quốc gia đông đảo, và rèn đúc vũ khí. Những người Công giáo bị loại ra khỏi đội vệ binh ấy tưởng đâu người ta rèn vũ khí để tiêu diệt họ... Nhưng nhờ ơn Chúa, chúng tôi chỉ phải trải qua một phen sợ hãi. Dần dà, phong trào sôi nổi ấy lắng dịu xuống, và người ta chẳng làm hại chúng tôi điều gì cả”(8). Trong suốt cả giai đoạn này, cái thuộc địa sẽ tìm cách “tiêu” những đất đai mới chinh phục được. Không phải là những kẻ chiếm đóng tự cho mình mãn nguyện, họ chỉ mãn nguyện khi nào họ chiếm được toàn bộ lãnh thổ Việt Nam và các nước láng giềng, nhưng trước khi toan nhảy một bước mới nữa, họ cần phải xoa dịu dân cư vùng mới bị chiếm, “đưa họ vào khuôn khổ”, tổ chức đất nước để thu lợi đầu tiên và nếu cần có thể để cho quân đội và hạm đội họ thực hiện được mọi cuộc hành quân cần thiết. Để cho việc khai thác thuộc địa được tiến hành theo chiều hướng tốt, phụ thêm vào việc sáng lập cơ quan “Thanh tra việc bản xứ và dân sự Nam kỳ” do Bonard khởi xướng năm 1863, La Grandière phát ra chương trình khai thác hợp lý và gia tăng miền đất Nam kỳ. Ông ta không dựa chủ yếu vào hành động của chánh phủ, mà vào những nỗ lực và sáng kiến của các tên thực dân Pháp. Ông khuyến khích sự di dân người Trung Quốc mà người ta nuôi hy vọng sẽ chuyên về thương mại. Và thế là bắt đầu, dưới sự bảo trợ của Pháp, một cuộc xâm nhập đại quy mô người Trung Quốc mà nước Việt Nam phải chịu chưa từng thấy có, kể cả vào thời kỳ mà Trung Quốc còn làm bá chủ trên đất nước này. Trong gần một thế kỷ, khắp toàn bộ kinh tế quốc gia Việt Nam đều nằm trong tay họ, được chính quyền thực dân chiếm đóng giúp đỡ và dung túng một cách khôn khéo. Ngay từ đầu, họ nâng đỡ người Tàu trong việc buôn bán ở những thành phố lớn, nhất là buôn gạo. Cảng Sài Gòn được mở rộng và cải tiến nhằm đáp ứng việc buôn bán ngày càng tăng. Năm 1870, tổng sản lượng xuất và nhập cảng của cảng Sài Gòn lên tới 141 triệu francs, trong đó 50 triệu về xuất cảng gạo. Dần dần, người ta thấy họ có mặt trong khắp các ngành kinh tế quốc gia. Họ làm trung gian ngân hàng, những kẻ “mại bản” lừng danh (compradores), cho việc buôn bán lẻ những sản phẩm nhập ngoại hoặc những hàng tiêu thụ đại trà. La Grandière bắt đầu đặt quyền sở hữu điền địa của họ trên những nền tảng bất khả xâm phạm. Những đất đai và nhà cửa mà các chủ nhân đã bỏ trốn trong lúc binh đao đã được công bố là “vắng chủ” và với tư cách đó bị sát nhập vào tài sản công cộng. Các chủ cũ của những đất đai nhà cửa đó được quy định một thời gian tính đến ngày 13/9/1863 là hết hạn để trở về nhận lại sở hữu tài sản của mình, nếu có xuất trình chứng minh sở hữu. Trên thực tế, nền tảng của sự sở hữu và sự công bố “tài sản vắng chủ đó” mà năm 1898 sẽ được lập lại, cùng với quy chế “đất tự do” che giấu một sự cướp đoạt vô cùng đểu giả. Ngày 16/4/1863, hiệp ước được phê chuẩn, chấm dứt ít nhất là về lý thuyết, năm năm chiến tranh. Đúng một tháng sau, La Grandière quyết định “đại lượng” lập ra chứng chỉ sở hữu, nhằm “chấm dứt niềm lo âu” của những người bản xứ về những tin đồn sẽ tước quyền sở hữu tài sản của họ để làm lợi cho chánh phủ, hoặc lợi cho những cá nhân nào đó. Ông ta cho các chủ cũ một “thời hạn rộng rãi” là bốn tháng để trở lại quyền sở hữu đất đai của họ, dĩ nhiên là phải xuất trình mọi thứ giấy tờ cần thiết. Đại đa số những người chủ cũ ấy đều là người thất học, mà những quyết định chính thức lại chỉ niêm yết bằng tiếng Pháp. Nếu thêm vào đó cái tính chất tồi tệ của các phương tiện giao thông và thông tin, thì ta có thể thấy được rằng thời hạn bốn tháng ấy chỉ đủ để người ta nhận thức được rằng chiến tranh đã chấm dứt và người ta có thể trở về, còn may ra thì đủ để tìm lại được những giấy tờ cần thiết xuất trình cho chánh phủ. Trong đại đa số trường hợp, năm 1867, cũng như năm 1868 sau này, thời hạn quy định đã kết thúc mà hầu như chưa có lấy một ông chủ đất cũ nào có khả năng thực hiện các quyền của họ. Vậy là các đất đều chính thức là “vắng chủ” hết. Chánh phủ có quyền sử dụng. Kể ra các nhà chức trách thuộc địa sáng suốt và lo xa thật. Ngay khi Hiệp ước Sài Gòn chưa được ký kết (tháng 6/1862), ngày 20/2/1862 đã có một sắc lệnh cho bán đấu giá những tài sản “vắng chủ”, mỗi mét vuông đất một xu! Việc lập chứng chỉ sở hữu của La Grandière dẫn tới cái hệ luận là những tài sản ấy được phát mãi, mà người mua là bọn thực dân Pháp, các hội truyền giáo Kitô và một vài người “cộng sự” trực tiếp có danh vị. Vụ mua bán đó mang lại cho chánh phủ Nam kỳ những số tiền quan trọng. Riêng thành phố Chợ Lớn, trong năm 1867, những cuộc bán đấu giá đã mang nhập cho ngân khố 400.000 francs. Việc lập các chứng chỉ sở hữu đó, ngoài ra, còn có kết quả làm tăng thêm diện tích canh tác và đương nhiên, tăng thêm tiền thuế. Trong giai đoạn từ 1862 đến 1867, diện tích trồng lúa đã tăng 2,5% và tiền thuế tăng thêm được 1.701.725 francs. Người ta đồng thời cũng cố gắng, bằng một loạt những văn bản hữu cơ, đem lại cho Nam kỳ một quy chế hành chánh hợp lệ. Sắc lệnh tài chính ngày 10/1/1863 quy định sự phân bố thu nhập giữa nước Pháp và xứ thuộc địa mới. Nam kỳ phải chịu tất cả những chi phí nào nó có thể chịu được; chí phí địa phương, hành chánh, tư pháp, tín ngưỡng, giáo dục, công chính. “Nước Mẹ” cho một khoản phụ cấp, nếu thu nhập địa phương không đủ bù đắp chi phí. Ngược lại, số thu nhập dư phải nộp vào ngân khố. Ngân sách địa phương được quyết định và có hiệu lực do một nghị định của thống đốc. Một hội đồng quản trị có tính chất tư vấn xem xét những vấn đề tài chính. Nhà nước Pháp chỉ lo vấn đề quân sự và trả lương bổng cho các quan chức cao cấp. Sắc lệnh này đã được áp dụng hoàn toàn năm 1864. Người ta đã thành lập một ngân quỹ dự trữ. Hai sắc lệnh, ngày 25/7/1864 và 14/1/1865 quy định việc quản lý tư pháp, sắc lệnh ngày 25/7/1864 giao cho một ông thẩm phán duy nhất và một ông chánh án phúc thẩm các công việc phán quyết. Nó đặt công tác xét xử dưới sự lãnh đạo của một vị kiểm sát hoàng gia. Về hình sự, tòa án gồm có hai thẩm phán và nhiều hội thẩm, rút thăm trong danh sách các vị chức sắc. Những hội đồng quân sự dành riêng cho những tội phạm chính trị. Giữa người Việt Nam và người châu Á nói chung, người ta tự do theo luật lệ Việt Nam hoặc xin theo luật lệ của Pháp; những luật lệ của nước Pháp, trên nguyên tắc chỉ có thi hành tại Sài Gòn và cho người châu Âu trong những vùng còn lại của thuộc địa. La Grandière ban hành những nghị định thích hợp với nhu cầu của xứ thuộc địa. Nghị định 14/1/1865 đơn giản hóa thủ tục tố tụng, cho gần với những “hình thức gọn nhẹ và kinh tế của nền tư pháp Anh quốc”. Ngày 9/11/1864, ông ta thiết lập một Nha Nội vụ, chịu trách nhiệm “bổ sung cho tổ chức hành chánh và tập trung hoạt động của các công sở hữu Âu châu và bản xứ”. Các giáo sĩ cũng không bị bỏ quên. Chỉ hai tháng thôi sau khi ký Hiệp ước Sài Gòn 1862, chánh phủ thuộc địa ra nghị định, ngày 28/8/1862, “cấp khống và toàn quyền sở hữu cho Hội truyền giáo Nam kỳ một lô đất tại Sài Gòn”. Với nghị định 8/2/1867, Giám mục Pháp tại Sài Gòn được miễn phí bưu chính và điện tín trong quan hệ thư từ liên lạc với các nhà chức trách cũng như với các giáo sĩ. Một quyết định của chánh phủ, ký ngày 22/8/1867 cấp cho vị Giám mục đó một số tiền 4.000 francs. “Các giáo sĩ Pháp ở thuộc địa về nghỉ dưỡng bệnh tại Pháp được lãnh một nửa số tiền lương trong ba tháng nghỉ đầu” theo sắc lệnh 14/12/1868. Vậy trong tất cả mọi lĩnh vực, các vị Đô đốc-cầm quyền đã thiết lập nên xứ “Nam kỳ thuộc Pháp”. Họ hết sức sốt sắng với công việc này, vì ai cũng tin chắc xứ thuộc địa này, do vị trí địa lý của nó có triển vọng trở thành thị trường tiêu thụ của toàn bán đảo Đông dương, và của các miền Hoa nam, là những vùng được coi là những “Eldorados” mới (một xứ sở tràn ngập những vàng, trong tưởng tượng trong tiểu thuyết), đầy những hứa hẹn cực kỳ phong phú, mang tính chất thần thoại. Những công cuộc xây dựng hòa bình, trong giai đoạn chiếm đóng này, diễn ra trong một không khí khá yên tĩnh: phong trào nổi dậy chống đối chỉ một đôi lần và đột khởi. Trong những việc được thực hiện tại Nam kỳ, trong giai đoạn này, vai trò của Đô đốc La Grandière thật là to lớn. Tổ chức dân sự, các chiến dịch, công chính… tất cả đều mang dấu ấn của La Grandière. Cả những khi các Đô đốc khác làm toàn quyền tạm thời thay ông, họ cũng không muốn đi ngoài chỉ đạo của ông ta. Năm 1805, Đô đốc Roze thay ông một thời gian. Ông Đô đốc này phải chật vật khá nhiều về những vấn đề tài chính. Người ta dựa nhiều vào ngân sách địa phương, và ngay từ đầu người ta đã giảm xuống gần phân nửa những khoản tài trợ của “chính quốc”. Hơn nữa, xứ thuộc địa phải trả “phần đóng góp của mình” cho ngân sách chung: mỗi năm nộp mấy trăm ngàn francs vào ngân khố chính quốc để trả những hương 7 PHÁP XÂM NHẬP BẮC KỲ VÀ CUỘC THÁM HIỂM SÔNG CỬU LONG (MÉKONG)“Tôi muốn tạo cho đất nước tôi một đế quốc thật sự tại Viễn Đông. Tôi muốn nền văn minh Thiên Chúa giáo của chúng ta có thể tìm thấy trong vùng đất đai mới chinh phục ấy một cơ sở đồ sộ, từ đấy tỏa ánh ra khắp mọi nơi của cái xứ sở tồn tại bao nhiêu tập quán bạo tàn. Nhiều người còn nghi ngờ khả năng đạt tới mục đích, nhiều kẻ khác lại lo về vấn đề kinh phí. Sau cùng, tôi còn nhiều khó khăn phải khắc phục, nhưng tôi có niềm tin. Tôi bước đi như chắc sẽ thành công. Cái lâu đài lộng lẫy mà tôi mơ ước, tôi sẽ không được chứng kiến lúc hoàn thành, nhưng tôi sung sướng đã khai nền đắp móng”(1). Những dòng viết trên đây nằm trong chương trình của Chasseloup-Laubat, ngày 14/2/1862. Tháng 1/1865, vẫn Chasseloup-Laubat viết: “Tất cả suy nghĩ của tôi đều hướng về những vùng đất này… Tôi chỉ thương hại cho những kẻ chỉ tóm lại mọi điều bằng một chữ ‘phải’ và chữ ‘có’, mà không hiểu rằng, thường thường nội dung của một lo toan lớn, chủ yếu là ở sự tận tụy và những hy sinh chịu đựng vì sự nghiệp của văn minh”(2). Ở đấy nữa, người ta thấy Chasseloup-Laubat không bao giờ ngừng đặt tất cả sự quan tâm sáng suốt vào cái thuộc địa mới ra đời này của ông, “đứa con được nuông chiều của ngài Bộ trưởng”, như người ta nói trong bộ Hải quân. Có thể nói ông đã chủ trì sự ra đời của nó; ông đã bế nó trên bồn nước rửa tội; ông đã theo dõi những bước chập chững đầu tiên của nó với một sự săn sóc ân cần, nặng tình máu mủ cha con, và tất nhiên ông mong muốn nó chóng trưởng thành, vì vinh quang của nước Pháp. Trong một quyển sách xuất bản năm 1865 viết về tình hình Nam kỳ, ký tên G. Francis - một thanh tra trẻ tuổi “việc bản xứ”, lúc ấy phụ trách cai trị thành phố Chợ Lớn, 25 tuổi, khá tên tuổi, tên là Francis Granier, viết: “Việc sở hữu ba tỉnh của chúng ta vẫn chưa đầy đủ và trở thành nguy hiểm nếu ta không bổ sung thêm trong một thời gian ngắn, bằng cách đánh chiếm phần đất Nam kỳ còn lại. Người An Nam luôn luôn coi sáu tỉnh như một tổng thể không thể phân chia. Việc người An Nam chiếm đất Biên Hòa của người Campuchia đã đưa họ tất yếu đến việc chiếm toàn bộ miền châu thổ… Các hiệp ước bắt buộc chúng ta phải để cho những nhân viên triều đình Huế qua lại trên lãnh thổ chúng ta. Chúng ta không thể ngăn cản họ tìm cách tuyển quân và ấn tượng bực bội để lại trong lòng những người An Nam, khi họ thấy những quan lại cũ của họ đi qua. Bao lâu tình trạng địa lý này còn tồn tại, thì chúng ta sẽ còn phải chịu sự thù ghét ngấm ngầm và thường xuyên của các tầng lớp trên, cũng như sự do dự hoài nghi tai hại của quần chúng. (…) Những điều bất lợi ấy cũng có nhiều về phương diện mậu dịch. Ta có thể tin chắc đã nắm thị trường tiêu thụ Campuchia, khi ta chỉ mới chiếm được có một trong những nhánh sông ít quan trọng nhất hay không? (…) Chiếm được ba tỉnh kia lập tức sẽ rút ngắn biên giới chúng ta lại được 70 dặm kênh rạch rất khó bảo vệ. Cuộc chinh phục này, tiến hành cho khéo léo, có thể ít đổ máu xương hơn một số trận đánh không nước mắt thời xưa. (…) Nói tóm lại, việc chiếm hữu sáu tỉnh, việc tổ chức, nếu không được một chánh phủ dân sự, thì ít ra một hệ thống hành chánh địa phương đặc biệt, thích hợp với kiểu thuộc địa, sự phát triển sản phẩm nông nghiệp và ảnh hưởng thương mại của chúng ta trên đất Đông Dương, tôi thấy rất có khả năng thực hiện được, ngay từ bây giờ mà chẳng phải tăng thêm chi phí và bằng những phương tiện địa phương thuộc địa hiện nay của chúng ta. Càng sớm tranh thủ thời gian để tạo cho nó một địa bàn ổn định, chúng ta có thể tránh được những bước dò dẫm để tìm một đường lối chính trị mịt mù và không dứt khoát, của một chánh phủ những người quá dễ đổi thay và không ổn định”(3). Dĩ nhiên là trước những thành công dễ dàng, lại được sự trợ giúp của một sự phục tùng ngoan ngoãn của chánh phủ Huế, chẳng một người Pháp nào, dù làm công chức hay làm nghề nào khác ở thuộc địa, mà lại không mơ đến sự chiếm đóng cả Nam kỳ. Francis Garnier là một trong những người đó và tuy là một nhà cai trị còn trẻ măng, ông ta đã bắt đầu lo lắng một cách nghiêm túc đến “tương lai” của thuộc địa mới này. Trong những năm tiếp theo, chúng ta sẽ nghe nói đến ông ta càng nhiều. Lẽ tất nhiên, trong số những người tai mắt hy vọng được thấy nước Pháp thôn tính cả sáu tỉnh, người ta sẽ gặp lại Đô đốc La Grandière, mặc dù ông luôn luôn cam kết với chánh phủ Việt Nam bảo đảm hòa bình. Ngày 17/1/1865, ông viết thư cho bạn ông, đại úy Mauduit-Duplessis: “Lòng mong muốn của anh được thấy chúng ta sở hữu sáu tỉnh, như lòng mong muốn của tôi. Nhưng muốn được như vậy, chúng ta phải biết chờ đợi, chọn đúng thời cơ và củng cố chắc chắn lực lượng chúng ta ở ba tỉnh mà chúng ta đã chiếm. Mọi sự khác sẽ tự nó đến, do quy luật của sự việc. Tôi không tin rằng chúng ta có thể nghĩ đến việc đó trước thời gian một năm… Ý định của tôi là thi hành theo Hiệp ước 1862, cho đến khi nào hoàn cảnh cho phép chúng ta xé nó đi để trừng phạt. Nhưng chúng ta hãy trung thực và có thiện ý với những dân tộc không trung thực và thiếu thiện ý. Tôi xem việc này như một điều chắc chắn sẽ tới trong một thời gian không lâu, cho nên không để hỏng và phải làm sao cho pháp lý thuộc về chúng ta”(4). Những điều cụ thể ấy được nói lên qua những từ “lịch sự” hoa mỹ biết bao! Không còn chối cãi được rằng âm mưu thôn tính cả Nam kỳ của Pháp đã có từ trước và tự bộc lộ rõ ràng. Cái ý định của chánh phủ Pháp giữ Hiệp ước 1862 nói cho cùng chỉ là tạm thời bởi vì chẳng bao lâu nó sẽ xé tan, như họ dự định… trong khoảng hai năm sau. Còn về khái niệm “lòng trung thực” và “thiện ý”, phải thừa nhận rằng có thể nó rất khác biệt ở một vài môi trường xã hội phương Tây với các môi trường thuộc nền văn minh châu Á. Và những nền văn minh châu Á, phải chăng là có lỗi, khi họ không muốn mô phỏng theo nền văn minh của ông Đô đốc-cầm quyền? Ngoài những chứng lý đạo đức ấy, mấy trang viết vừa kể trên của ông Đô đốc chứng minh rằng, ngay từ khi thông báo Hiệp ước Aubaret không được phê chuẩn, thì hiệp ước này cũng không bị chôn chặt hoàn toàn. Từ những trang viết đó, toát ra ý đồ mở rộng phạm vi chinh phục của người Pháp. Cái thời hạn “ban ơn” mà do thiện ý, do trung thực, hay do cái tất yếu của một đường lối chính trị cao cả mà La Grandière muốn chiếu cố cho Nam kỳ, thực tế sẽ kéo dài hai năm, từ 1865 đến 1867. Trong cùng thời kỳ ấy, phía Bắc, bọn cướp biển người Trung Quốc quấy nhiễu cả vùng, cuộc nổi loạn của Tạ Văn Phụng vừa mới bị quân triều đình dẹp yên, Hiệp ước Sài Gòn 1862 vừa được ký kết; ở miền Trung, những bộ tộc Mọi ở Đá Vạch, Quảng Ngãi từ núi kéo xuống đang cướp phá và giết chóc dân chúng; thì ở Huế lại có một âm mưu đảo chính mới, tạo nên một không khí sợ hãi, lo âu. Hoàn cảnh hoàn toàn không có gì gọi là thuận lợi cho triều đình Huế có thể có một thái độ hung hăng đối với Pháp. Hai năm đã qua, La Grandière cho rằng sự tạm nghỉ như vậy là vừa. Bây giờ phải tìm một duyên cớ. Trong tường trình tổng quát ngày 10/11/1867, ông ta báo cáo về sự nhẫn nại của mình và những lý do buộc ông phải cho thực hiện một cuộc xuất quân tức khắc: “Triều đình Huế đã đặt tôi vào tình thế yếu phải nhắc nhở họ lưu ý đến những sự trừng phạt mà họ sẽ đương đầu, nếu họ khuyến khích, bằng cách này hay cách nọ, những người An Nam cầm đầu các vụ nổi loạn. Những người cầm đầu này, do tính ưa loạn lạc và cướp bóc, đồng thời thù ghét sự thống trị của chúng ta, đã a dua nhập theo một tên phiêu lưu, nổi lên chống lại nhà vua của một nước được chúng ta bảo hộ (Campuchia). Những lời phản kháng ôn hòa, những câu phải lẽ của tôi, chỉ được đáp ứng một cách hời hợt mỉa mai. … Đáp ứng lời đề nghị của tôi mở cuộc đàm phán để xét lại Hiệp ước 1862, người ta chỉ có những câu trả lời lẩn tránh mà tôi đành phải coi như là một sự thú nhận bất lực hoặc một sự từ chối không làm vừa ý tôi. Vậy nên tôi thông báo cho chánh phủ An Nam rằng tôi không bị ràng buộc gì nữa về những điều khoản của một hiệp ước mà chính họ lẩn tránh những điều quy định căn bản; rằng tôi không bị mắc lừa, lâu hơn nữa về những sự phản đối có lễ phép đối với bản hiệp ước ngoại giao ấy; họ đã sử dụng hiệp ước như một vũ khí chiến tranh, bằng cách cho cư trú trên lãnh thổ của mình, những bọn gây loạn lạc mất an ninh, cho tất cả những ai là kẻ thù nền thống trị của ta. Và tôi tuyên bố với họ rằng: tôi sẽ dành cho tôi cái quyền, khi cần, đến ngay trên lãnh thổ của họ để truy nã những kẻ thù của chúng ta mà họ để cho hoạt động trên lãnh thổ của họ”(5). Chúng ta thấy La Grandière rất kiên trì trong tư tưởng của mình: chờ đợi thời gian cần thiết để cho nước Pháp chiếm quyền sở hữu sáu tỉnh; nắm lấy những thời cơ thuận tiện; duy trì hiệp ước cho đến khi hoàn cảnh cho phép xé bỏ nó đi để trừng phạt. Những ý đồ đã được khẳng định một cách hết sức chính xác trong bức thư gửi cho Mauduit-Duplessis ngày 17/1/1865, đã được áp dụng một cách chặt chẽ và liên tục. Vậy là, “sau năm năm kiên trì chờ đợi và nhẫn nhục”, La Grandière quyết định xóa bỏ Hiệp ước 1862, cũng như đã xóa bỏ Hiệp ước 1864, và từ tháng 3/1867, ông ta đã chuẩn bị sẵn sàng. Thời điểm này trong năm không thuận lợi lắm cho các cuộc hành quân; kênh rạch không đủ mức nước cần thiết. Ông ta đợi mùa mưa, hai tháng nữa. Như vậy ông ta có thể di chuyển các pháo thuyền tới gần các mục tiêu và tránh được những cuộc hành quân bộ trên những điều kiện địa hình phức tạp. Ngày 15/6/1867, tất cả chuẩn bị đã sẵn sàng; ông công bố nhật lệnh xuất quân. Chiến dịch diễn ra không lâu lắm. Ngoài ra tầm cỡ tương đối quan trọng của lực lượng tấn công của Pháp, trong đó có 17 pháo thuyền tham gia: Triều đình Huế như phía quân xâm lăng đã dự đoán trước, hoàn toàn không có khả năng gửi quân viện trợ tới, do tình hình khó khăn nội bộ. Các doanh trại Việt Nam nhanh chóng bị đánh bại, trong vòng có mươi ngày: Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên rơi vào tay quân Pháp. Những giám đốc các “Vụ bản xứ” đã được chỉ định trước để cai trị các tỉnh mới chiếm, thay vào vị trí bỏ trống của các quan Việt Nam trốn chạy; trong đó, dĩ nhiên, chẳng có vị nào nghĩ đến chuyện nhận làm việc cho các nhà chức trách Pháp. Hành vi độc đoán này, người Việt Nam coi như một sự phản bội. Lại thêm một lần nữa, chúng ta sẽ thấy Napoléon III và chánh phủ ông ta mất kiểm soát bởi hành động của Đô đốc-cầm quyền, đã áp dụng những biện pháp trái ngược, nhưng cuối cùng cũng đành chấp nhận như “sự đã rồi”, bởi nó có lợi cho nước Pháp. Trong thời gian đó, tháng 7/1867, Đô đốc Rigault de Genouilly thay thế Chasseloup-Laubat làm Bộ trưởng Hải quân. Rigault de Genouilly ít hăng hái bằng ông Bộ trưởng trước. Ông ta còn giữ ít nhiều kỷ niệm khó khăn mọi mặt mà ông ta đã vấp phải những năm đầu ở Việt Nam. Ngay từ khi nhận chức Bộ trưởng, Rigault de Genouilly biết những ý định mà La Grandière chẳng hề che giấu chút nào sẽ chiếm thêm những đất đai mới. Ngày 28/2/1867, ông ta cho phép người kế chân ông tại Sài Gòn tiến hành một cuộc “biểu dương vũ trang nhằm ép triều đình Huế phải điều đình”, một cuộc biểu dương, mà theo ý của ông, sẽ không vượt quá những cuộc biểu dương ông ta đã chỉ đạo khéo léo trong cuộc viễn chinh Pháp - Tây Ban Nha. Sau đó, dự đoán là La Grandière sẽ không ngừng lại ở đây, ngày 16/5/1867, ông đã chỉ thị “phải tránh tất cả những gì có thể làm cho triều đình Huế phải lo ngại” và chờ đợi ông ta cho phép hoặc “nhằm nối lại những cuộc thương thuyết với triều đình Huế, hoặc áp dụng những biện pháp hăm dọa chống lại nó”(6). Ngày 18/7/1867, Rigault de Genouilly biết được rằng La Grandière không chú ý gì đến những chỉ thị của ông, đã thực hiện toàn bộ những chiến dịch mà ông Đô đốc-cầm quyền đã dự định từ lâu nay. Cùng ngày hôm ấy, ông Bộ trưởng biểu thị sự ngạc nhiên và sự bất tán thành của ông ta: “… Cái tin nghiêm trọng này càng làm tôi vô cùng ngạc nhiên vì tình hình Nam kỳ, theo như những công hàm ông đã gửi cho tôi trước đây, đối với tôi, dường như đã làm tiêu tan đi trong tư tưởng của ông mọi ý định lợi dụng tức khắc cái tự do hành động mà bức công hàm ngày 20/2 đã đặt vào tay ông. Vả lại, lúc bấy giờ tôi đã khuyên ông nên chiếm Vĩnh Long trước, sau đó mới chiếm Châu Đốc và Hà Tiên. Và những chiếm đóng liên tiếp ấy đã chỉ thị cho ông như những phô trương lực lượng quân sự, nhắm làm kiệt quệ chánh phủ Tự Đức để đi đến sự nhường cho ta ba tỉnh kia. Sự chiếm đóng trọn vẹn cả vùng đất đai ấy mà ông thông báo, theo tôi, là một hành vi tôi không thể nào chấp nhận được. Tình hình chính trị châu Âu bắt tôi có bổn phận phải hết sức cẩn thận tránh mọi rắc rối khó khăn. Vì vậy tôi đã bộc lộ cho ông thấy, ngày 10/5, tôi đã xiết bao bằng lòng được nghe ông bảo đảm, ngày 29/3 sẽ hoãn lại mọi cố gắng dàn xếp với triều đình Huế. Tôi đợi mãi không nhận được tường trình của ông. Giờ đây, tôi chỉ có thể khuyên ông, một lần nữa, hãy dè dặt và từ tốn, trong lúc chờ đợi những chỉ thị mà tôi sẽ gửi cho ông, sau khi đã nắm được những công việc đã lỡ làm”(7). Bản tường trình của La Grandière, nhận được ở Paris ít lâu sau, được chuyển lên cho Napoléon III, trong một cuộc họp hội đồng Bộ trưởng. Chắc chắn bản tường trình ấy rất có sức thuyết phục; tình hình đã trở nên khả quan hơn. Dù sao Napoléon III, tuy rằng tiếc hành động nói trên của Bộ trưởng Hải quân cho là không đúng lúc nhưng vẫn quyết định, theo thói quen, sẽ phê duyệt cái “sự đã rồi” và nhận ba tỉnh mới của Nam kỳ đó. Giờ đây, nước Pháp là kẻ đã xé tan Hiệp ước Sài Gòn 1862, trong khi miệng vẫn tuyên bố hết sức tôn trọng nó, chỉ còn đi tìm một hiệp ước mới để hợp pháp hóa những đất đai mới chiếm. Nó không để mất thì giờ. Ngày 13/8/1867, Bộ trưởng Ngoại giao mới, De Moustier thay chân Drouyn de Lhuys, ủy nhiệm cho La Grandière được trọn quyền để đàm phán với chánh phủ Huế. Nhưng hiệp ước ấy chưa hề ký kết, chưa hề được bàn bạc, mặc dầu những chỉ thị của ông Bộ trưởng gửi cho ông Đô đốc-cầm quyền. Trước sự tan rã của quân đội Việt Nam và chiến thắng quá dễ dàng của quân Pháp, chánh phủ Huế không còn thời giờ và khả năng để phản ứng một cách có hiệu quả. Huế đành phải thừa nhận bại trận và sau đó để cho Pháp chiếm toàn bộ Nam kỳ. Nhưng sự kiện đột ngột này làm cho dư luận Việt Nam quá đau đớn. Giám mục Sohier, người kế tiếp Giám mục Pellerin, lúc đó đang ở kinh đô, viết ngày 26/12/1867: “… Chúng tôi đã trải qua giai đoạn khủng hoảng mà tôi hằng lo sợ lâu nay: việc chiếm đóng ba tỉnh bao quanh thuộc địa, ông Đô đốc đã chiếm không một khó khăn trở ngại nào. Khi tin ấy đến kinh đô, nó gây nên một cảm giác rất nặng nề và một cơn giận dữ dội. Ấy là đúng vào thời kỳ mà các vị, sĩ tử họp nhau tại kinh thành để chuẩn bị thi, khoảng năm ngàn người. Người ta hăm dọa dữ tợn. Người ta nói người ta sẽ giết hết chúng tôi, thiêu sống chúng tôi, người ta đã định ngày cho số mạng chúng tôi, người ta nói thà là chết hơn là chịu phải một cách nhục như thế, nhưng trước khi khởi chiến, phải loại trừ những phần tử Kitô giáo theo Pháp, phải phân tán chúng nó, phải giam cầm chúng nó, và thủ tiêu chúng nó. Các sĩ phu viết thơ nặc danh lên án nhà vua và các quan lại là hèn nhát, vì đã để cho tan nát giang sơn. Để làm thỏa lòng những người yêu nước đó, nhà vua ra chỉ dụ cho lệnh tuyển ở khắp các làng xóm, một đạo vệ quân quốc gia đông đảo, và rèn đúc vũ khí. Những người Công giáo bị loại ra khỏi đội vệ binh ấy tưởng đâu người ta rèn vũ khí để tiêu diệt họ... Nhưng nhờ ơn Chúa, chúng tôi chỉ phải trải qua một phen sợ hãi. Dần dà, phong trào sôi nổi ấy lắng dịu xuống, và người ta chẳng làm hại chúng tôi điều gì cả”(8). Trong suốt cả giai đoạn này, cái thuộc địa sẽ tìm cách “tiêu” những đất đai mới chinh phục được. Không phải là những kẻ chiếm đóng tự cho mình mãn nguyện, họ chỉ mãn nguyện khi nào họ chiếm được toàn bộ lãnh thổ Việt Nam và các nước láng giềng, nhưng trước khi toan nhảy một bước mới nữa, họ cần phải xoa dịu dân cư vùng mới bị chiếm, “đưa họ vào khuôn khổ”, tổ chức đất nước để thu lợi đầu tiên và nếu cần có thể để cho quân đội và hạm đội họ thực hiện được mọi cuộc hành quân cần thiết. Để cho việc khai thác thuộc địa được tiến hành theo chiều hướng tốt, phụ thêm vào việc sáng lập cơ quan “Thanh tra việc bản xứ và dân sự Nam kỳ” do Bonard khởi xướng năm 1863, La Grandière phát ra chương trình khai thác hợp lý và gia tăng miền đất Nam kỳ. Ông ta không dựa chủ yếu vào hành động của chánh phủ, mà vào những nỗ lực và sáng kiến của các tên thực dân Pháp. Ông khuyến khích sự di dân người Trung Quốc mà người ta nuôi hy vọng sẽ chuyên về thương mại. Và thế là bắt đầu, dưới sự bảo trợ của Pháp, một cuộc xâm nhập đại quy mô người Trung Quốc mà nước Việt Nam phải chịu chưa từng thấy có, kể cả vào thời kỳ mà Trung Quốc còn làm bá chủ trên đất nước này. Trong gần một thế kỷ, khắp toàn bộ kinh tế quốc gia Việt Nam đều nằm trong tay họ, được chính quyền thực dân chiếm đóng giúp đỡ và dung túng một cách khôn khéo. Ngay từ đầu, họ nâng đỡ người Tàu trong việc buôn bán ở những thành phố lớn, nhất là buôn gạo. Cảng Sài Gòn được mở rộng và cải tiến nhằm đáp ứng việc buôn bán ngày càng tăng. Năm 1870, tổng sản lượng xuất và nhập cảng của cảng Sài Gòn lên tới 141 triệu francs, trong đó 50 triệu về xuất cảng gạo. Dần dần, người ta thấy họ có mặt trong khắp các ngành kinh tế quốc gia. Họ làm trung gian ngân hàng, những kẻ “mại bản” lừng danh (compradores), cho việc buôn bán lẻ những sản phẩm nhập ngoại hoặc những hàng tiêu thụ đại trà. La Grandière bắt đầu đặt quyền sở hữu điền địa của họ trên những nền tảng bất khả xâm phạm. Những đất đai và nhà cửa mà các chủ nhân đã bỏ trốn trong lúc binh đao đã được công bố là “vắng chủ” và với tư cách đó bị sát nhập vào tài sản công cộng. Các chủ cũ của những đất đai nhà cửa đó được quy định một thời gian tính đến ngày 13/9/1863 là hết hạn để trở về nhận lại sở hữu tài sản của mình, nếu có xuất trình chứng minh sở hữu. Trên thực tế, nền tảng của sự sở hữu và sự công bố “tài sản vắng chủ đó” mà năm 1898 sẽ được lập lại, cùng với quy chế “đất tự do” che giấu một sự cướp đoạt vô cùng đểu giả. Ngày 16/4/1863, hiệp ước được phê chuẩn, chấm dứt ít nhất là về lý thuyết, năm năm chiến tranh. Đúng một tháng sau, La Grandière quyết định “đại lượng” lập ra chứng chỉ sở hữu, nhằm “chấm dứt niềm lo âu” của những người bản xứ về những tin đồn sẽ tước quyền sở hữu tài sản của họ để làm lợi cho chánh phủ, hoặc lợi cho những cá nhân nào đó. Ông ta cho các chủ cũ một “thời hạn rộng rãi” là bốn tháng để trở lại quyền sở hữu đất đai của họ, dĩ nhiên là phải xuất trình mọi thứ giấy tờ cần thiết. Đại đa số những người chủ cũ ấy đều là người thất học, mà những quyết định chính thức lại chỉ niêm yết bằng tiếng Pháp. Nếu thêm vào đó cái tính chất tồi tệ của các phương tiện giao thông và thông tin, thì ta có thể thấy được rằng thời hạn bốn tháng ấy chỉ đủ để người ta nhận thức được rằng chiến tranh đã chấm dứt và người ta có thể trở về, còn may ra thì đủ để tìm lại được những giấy tờ cần thiết xuất trình cho chánh phủ. Trong đại đa số trường hợp, năm 1867, cũng như năm 1868 sau này, thời hạn quy định đã kết thúc mà hầu như chưa có lấy một ông chủ đất cũ nào có khả năng thực hiện các quyền của họ. Vậy là các đất đều chính thức là “vắng chủ” hết. Chánh phủ có quyền sử dụng. Kể ra các nhà chức trách thuộc địa sáng suốt và lo xa thật. Ngay khi Hiệp ước Sài Gòn chưa được ký kết (tháng 6/1862), ngày 20/2/1862 đã có một sắc lệnh cho bán đấu giá những tài sản “vắng chủ”, mỗi mét vuông đất một xu! Việc lập chứng chỉ sở hữu của La Grandière dẫn tới cái hệ luận là những tài sản ấy được phát mãi, mà người mua là bọn thực dân Pháp, các hội truyền giáo Kitô và một vài người “cộng sự” trực tiếp có danh vị. Vụ mua bán đó mang lại cho chánh phủ Nam kỳ những số tiền quan trọng. Riêng thành phố Chợ Lớn, trong năm 1867, những cuộc bán đấu giá đã mang nhập cho ngân khố 400.000 francs. Việc lập các chứng chỉ sở hữu đó, ngoài ra, còn có kết quả làm tăng thêm diện tích canh tác và đương nhiên, tăng thêm tiền thuế. Trong giai đoạn từ 1862 đến 1867, diện tích trồng lúa đã tăng 2,5% và tiền thuế tăng thêm được 1.701.725 francs. Người ta đồng thời cũng cố gắng, bằng một loạt những văn bản hữu cơ, đem lại cho Nam kỳ một quy chế hành chánh hợp lệ. Sắc lệnh tài chính ngày 10/1/1863 quy định sự phân bố thu nhập giữa nước Pháp và xứ thuộc địa mới. Nam kỳ phải chịu tất cả những chi phí nào nó có thể chịu được; chí phí địa phương, hành chánh, tư pháp, tín ngưỡng, giáo dục, công chính. “Nước Mẹ” cho một khoản phụ cấp, nếu thu nhập địa phương không đủ bù đắp chi phí. Ngược lại, số thu nhập dư phải nộp vào ngân khố. Ngân sách địa phương được quyết định và có hiệu lực do một nghị định của thống đốc. Một hội đồng quản trị có tính chất tư vấn xem xét những vấn đề tài chính. Nhà nước Pháp chỉ lo vấn đề quân sự và trả lương bổng cho các quan chức cao cấp. Sắc lệnh này đã được áp dụng hoàn toàn năm 1864. Người ta đã thành lập một ngân quỹ dự trữ. Hai sắc lệnh, ngày 25/7/1864 và 14/1/1865 quy định việc quản lý tư pháp, sắc lệnh ngày 25/7/1864 giao cho một ông thẩm phán duy nhất và một ông chánh án phúc thẩm các công việc phán quyết. Nó đặt công tác xét xử dưới sự lãnh đạo của một vị kiểm sát hoàng gia. Về hình sự, tòa án gồm có hai thẩm phán và nhiều hội thẩm, rút thăm trong danh sách các vị chức sắc. Những hội đồng quân sự dành riêng cho những tội phạm chính trị. Giữa người Việt Nam và người châu Á nói chung, người ta tự do theo luật lệ Việt Nam hoặc xin theo luật lệ của Pháp; những luật lệ của nước Pháp, trên nguyên tắc chỉ có thi hành tại Sài Gòn và cho người châu Âu trong những vùng còn lại của thuộc địa. La Grandière ban hành những nghị định thích hợp với nhu cầu của xứ thuộc địa. Nghị định 14/1/1865 đơn giản hóa thủ tục tố tụng, cho gần với những “hình thức gọn nhẹ và kinh tế của nền tư pháp Anh quốc”. Ngày 9/11/1864, ông ta thiết lập một Nha Nội vụ, chịu trách nhiệm “bổ sung cho tổ chức hành chánh và tập trung hoạt động của các công sở hữu Âu châu và bản xứ”. Các giáo sĩ cũng không bị bỏ quên. Chỉ hai tháng thôi sau khi ký Hiệp ước Sài Gòn 1862, chánh phủ thuộc địa ra nghị định, ngày 28/8/1862, “cấp khống và toàn quyền sở hữu cho Hội truyền giáo Nam kỳ một lô đất tại Sài Gòn”. Với nghị định 8/2/1867, Giám mục Pháp tại Sài Gòn được miễn phí bưu chính và điện tín trong quan hệ thư từ liên lạc với các nhà chức trách cũng như với các giáo sĩ. Một quyết định của chánh phủ, ký ngày 22/8/1867 cấp cho vị Giám mục đó một số tiền 4.000 francs. “Các giáo sĩ Pháp ở thuộc địa về nghỉ dưỡng bệnh tại Pháp được lãnh một nửa số tiền lương trong ba tháng nghỉ đầu” theo sắc lệnh 14/12/1868. Vậy trong tất cả mọi lĩnh vực, các vị Đô đốc-cầm quyền đã thiết lập nên xứ “Nam kỳ thuộc Pháp”. Họ hết sức sốt sắng với công việc này, vì ai cũng tin chắc xứ thuộc địa này, do vị trí địa lý của nó có triển vọng trở thành thị trường tiêu thụ của toàn bán đảo Đông dương, và của các miền Hoa nam, là những vùng được coi là những “Eldorados” mới (một xứ sở tràn ngập những vàng, trong tưởng tượng trong tiểu thuyết), đầy những hứa hẹn cực kỳ phong phú, mang tính chất thần thoại. Những công cuộc xây dựng hòa bình, trong giai đoạn chiếm đóng này, diễn ra trong một không khí khá yên tĩnh: phong trào nổi dậy chống đối chỉ một đôi lần và đột khởi. Trong những việc được thực hiện tại Nam kỳ, trong giai đoạn này, vai trò của Đô đốc La Grandière thật là to lớn. Tổ chức dân sự, các chiến dịch, công chính… tất cả đều mang dấu ấn của La Grandière. Cả những khi các Đô đốc khác làm toàn quyền tạm thời thay ông, họ cũng không muốn đi ngoài chỉ đạo của ông ta. Năm 1805, Đô đốc Roze thay ông một thời gian. Ông Đô đốc này phải chật vật khá nhiều về những vấn đề tài chính. Người ta dựa nhiều vào ngân sách địa phương, và ngay từ đầu người ta đã giảm xuống gần phân nửa những khoản tài trợ của “chính quốc”. Hơn nữa, xứ thuộc địa phải trả “phần đóng góp của mình” cho ngân sách chung: mỗi năm nộp mấy trăm ngàn francs vào ngân khố chính quốc để trả những chi phí trong công cuộc chinh phục. Dĩ nhiên, việc khai thác đất đai bị chậm trễ rất nhiều do thiếu vốn và luôn luôn người ta gặp rất nhiều khó khăn trong việc cân bằng ngân sách phải chịu đủ mọi hy sinh, ít ra là về phía người Việt Nam. Sau thời gian tạm quyền ngắn ngủi của Đô đốc Roze thì đến thời gian Đô đốc Ohier cũng với tư cách tạm thay cho La Grandière. Ngoài vai trò của ông ta bên cạnh chánh phủ Việt Nam nhằm ký một bản hiệp ước mới như nước Pháp mong đợi, Ohier đã lấy nhiều quyết định kinh tế và chính trị trong nội bộ xứ thuộc địa. Ông ta áp dụng đầu phiếu phổ thông để bầu ra các hội đồng hương thôn có nhiệm vụ phát biểu ý kiến về các vấn đề thuế khóa, hộ tịch, chế độ cho vay, ngân sách làng xã… Ngày 7/12/1869, ông ký nghị định thiết lập thuế môn bài, thuế trực thu, sát nhập người “Minh hương” (lai Tàu-Việt) vào người Việt Nam, lập ra hộ tịch, lập ra một chế độ kế toán căn cứ trên những ngân sách hợp lệ của các làng xã trên yêu cầu của các hội đồng. Đồng thời với việc bán đấu giá thuốc phiện, sòng bạc, ông ta thiết lập “thuế thân”. Mọi người dân, tuổi từ 18 đến 55, đều phải trả thứ thuế này. Những năm đầu mới thi hành, loại “thuế thân” này đã mang lại cho ngân quỹ 89.151 francs. Ngoài “thuế thân” ra, mỗi người dân còn phải làm hàng tháng, từ 4 đến 10 ngày sai dịch bắt buộc cho đội quân chiếm đóng. Ohier đánh thuế muối. Những người làm muối phải nộp cho nhà nước Pháp, hoặc 1/10 sản lượng muối làm ra hằng năm hoặc một số tiền tương đương. Việc sản xuất rượu cũng phải chịu thuế. Từ 1864, ông ta cho người Tàu được độc quyền sản xuất và bán rượu. Những khoản thuế khác nhau đó, mỗi năm mang lại cho ngân sách thuộc địa mỗi nhiều: 860.000 francs, năm 1860 lên tới 4.085.000 francs năm 1865. Nên cần phải cho mọi người lưu ý rằng, năm 1867 người dân Việt Nam trả thuế gấp ba lần so với trước chiếm đóng mà chẳng được hưởng quyền lợi gì hết. Hầu như toàn bộ số thuế đó đều vào tay chánh phủ, hoặc vào các công trình phúc lợi cho kẻ chiếm đóng; những nhà buôn và những tên thực dân Pháp, là những kẻ thu lợi rất nhiều mà chịu thuế rất ít. Ohier còn có nhiều “sáng kiến” khác nữa. Ông ta sáng lập ra một ủy ban cứu tế xã hội, gửi sang học các trường trung học tại Pháp một vài thanh niên được cấp học bổng. Ông quan tâm đến những công trình công cộng, đến việc mở mang đường sá, thiết lập các tuyến điện tín. Và từ năm 1868, ông ta cho xây dựng một ngôi nhà tù lớn nhất Việt Nam lúc bấy giờ, ngay tại trung tâm thành phố Sài Gòn (gọi là Khám lớn Sài Gòn). Sau 1945, “Khám lớn” này bị đập phá san bằng và hiện nay nơi đây là thư viện quốc gia. Nhờ những cố gắng liên tục của những ông Đô đốc-cầm quyền đó mà xứ Nam kỳ đã có một thời kỳ tương đối ít sóng gió, qua cả những năm xảy ra cuộc chiến tranh Pháp - Đức (1870-1871). Lúc này Nam kỳ được coi như một thuộc địa ổn định. Cuộc Thám Hiểm Sông Cửu Long (Mékong) Lợi dụng sự ổn định đó, nước Pháp lúc này lo mở rộng địa bàn hoạt động ra cả bán đảo Đông Dương và mở mang những tuyến đường cho thương mại. Việc chiếm đóng lần lượt, Campuchia rồi Lào, khiến cho các nhà buôn nảy sinh mong muốn được vào sâu trong nội địa các xứ sở đó một cách dễ dàng hơn. Buổi đầu, sự chiếm đóng của Pháp mới thực hiện ở vùng châu thổ sông Cửu Long. Vị trí này dường như cung cấp đủ cho họ những sản vật phong phú, chính vì nhờ đồng bằng của một con sông mênh mông, mà cạnh nó là một thành phố kinh đô: Sài Gòn. Người ta đã biết gì về con sông Cửu Long? Rất ít. Chắc chắn là nó bắt nguồn từ Trung Quốc. Nó ít được sử dụng làm đường giao thông giữa hai nước, người ta nói nó không thuận lợi cho sự giao thông sông ngòi với những vùng lân cận ở gần cửa sông lắm. Tại đây, nó chia ra thành hàng trăm kinh rạch, những kinh rạch quan trọng nhất được sửa sang cho tàu bè, hoặc cho các pháo thuyền đi lại dễ dàng. Lẽ tự nhiên, là các nhà buôn trong buổi đầu chiếm đóng, đã ở cạnh cửa sông Cửu Long nhận thức được ngay rằng hoạt động của họ nhờ con sông lớn này. Nhiều tên phiêu lưu mạo hiểm hoặc mong làm việc đại sự, muốn xem coi có thể tìm được lợi gì từ con sông mà chưa ai biết đến này. Trước tiên, nó cho phép ta thăm dò nội địa bán đảo (Đông Dương), và sau đó là chuyển về Nam kỳ tất cả những sản vật mà phần lớn chưa ai biết đến của nội địa này. Và sau nữa phải chăng đó là một con đường để đi vào Trung Quốc? Năm 1864, Bonard gửi cho Chasseloup-Laubat một bản báo cáo về “sự cấp thiết phải khai thác sông Cửu Long nhằm tạo ra ở Nam kỳ, tại Sài Gòn, một kho hàng trong việc buôn bán với Trung Quốc, Tây Tạng và những tỉnh Hoa Tây”, La Grandière cũng nhấn mạnh đến sự thám hiểm ấy. Họ không khó khăn gì mà thuyết phục được Bộ trưởng Chasseloup-Laubat của họ, một mặt người ta biết rõ tất cả những vấn đề gì liên quan đến Đông Dương làm say mê ông Bộ trưởng này đến mức nào rồi; mặt khác, ông ta là chủ tịch của Hội Địa lý nổi tiếng, tất nhiên không thể nào hờ hững với vấn đề này được. Nhưng người thúc đẩy thực sự cho cuộc thám hiểm này, người sẽ trực tiếp bắt tay vào làm cuộc thám hiểm này, là viên thị trưởng của Chợ Lớn, Francis Garnier mà chúng ta đã thấy cổ vũ tích cực nhất việc chiếm đóng sáu tỉnh Nam kỳ. Với một nhóm thanh niên hăng say, Francis Garnier, mơ ước mở rộng thế lực của nước Pháp tại Viễn Đông. Họ mơ ước một đế quốc thuộc địa Pháp cũng rộng bằng Ấn Độ với sông Cửu Long thay cho sông Gange(9). Họ tiên cảm một con đường thủy lưu chuyển về Nam kỳ những của cải của miền trung Đông Dương và miền Nam Trung Quốc. Garnier người sôi động nhất trong nhóm họ, chuẩn bị một phương án gửi cho ông Đô đốc-cầm quyền đầu năm 1864. Phương án này được La Grandière tự tay trao cho ông Bộ trưởng trong dịp ông về Paris. Chasseloup-Laubat nhanh chóng đồng ý. Ông trình lên Napoléon III duyệt y luôn không khó khăn gì. Lệnh tổ chức cuộc thám hiểm được chuyển đến Sài Gòn đầu năm 1866. Ông Đô đốc-cầm quyền được quyền chọn thành viên và tổ chức đoàn thám hiểm. Vì thấy Francis-Garnier, đại úy Hải quân mới từ một năm nay, còn quá trẻ để chỉ huy đoàn thám hiểm, ông ta bèn gọi thuyền trưởng Doudard de Lagrée – đại diện nước Pháp tại Campuchia về. Ngày 25/5/1866, ông truyền đạt cho Doudard de Lagrée những chỉ thị cần thiết. Ngày 5/6/1866, đoàn thám hiểm rời Sài Gòn, hai pháo thuyền con, bốn năm sau Hiệp ước Sài Gòn, đúng từng ngày một lao vào một cuộc chinh phục mới, cuộc chinh phục sông Cửu Long. Trước tiên, đoàn thám hiểm đi tham quan và nghiên cứu tỉ mỉ những phế tích của vùng Angkor mà Doudard de Lagrée đã biết, rồi vòng quanh vùng Biển Hồ. Ngày 9 tới Kratie. Đoàn phải lưu trú ở Bassac hơn hai tháng để đợi thư từ Sài Gòn gửi lên cùng với những thiết bị, vật dụng cần thiết. Đoàn lợi dụng thời gian chờ đợi đó để đi thăm dò vùng này. Chỉ đến tháng 3/1867, sau khi đã nhận được những giấy thông hành của Trung Quốc cho phép họ đi lại, một khi đã đi qua biên giới Đông Dương, họ mới tiếp tục cuộc hành trình của họ. Họ tới Vientiane, rồi Louang Prabang ngày 29/4/1867. Tại đây, các nhà thám hiểm nghiên cứu miền đất Lào và đối chiếu các khả năng. Đoàn để lại một phần thiết bị ở Louang Prabang, rồi tiếp tục đi, ngày 25/5. Theo chỉ thị, họ phải ngược dòng sông Cửu Long cho đến tận cùng, con đường khó khăn nhất và dài nhất. Ngày 5/6/1867, một năm sau ngày xuất phát, đoàn tới biên giới Miến Điện. Ngày 7/10, sau khi đã dứt khoát bỏ con đường sông Cửu Long, bây giờ đây không còn đi được nữa, do địa hình không cho phép, đồng thời do những khó khăn gây ra bởi cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc với nhau, đoàn thám hiểm tiến vào đất Trung Quốc, ngày 10/10/1867. Đi về phía Vân Nam, ngày 20/11/1867, đoàn đặt chân tới Yun-Kiang rồi đến Ho-Ti-Kiang, là nhánh chính của sông Kói thượng, tức sông Hồng. Sự tình cờ đã đặt con sông Hồng vào dưới chân đoàn thám hiểm Pháp. Chính con sông Hồng, chỉ ít lâu sau đã có tác động quyết định đóng vai trò mà họ sẽ đóng, trên phần đất ấy của địa cầu. Garnier, một mình một chiếc xuồng con thử xuôi theo dòng sông qua một đoạn thác nhỏ, rồi trở lại với đoàn. Theo những chỉ dẫn của dân địa phương, họ nhận thức chắc chắn rằng con sông Hồng này là con đường mở, tự nhiên từ Vân Nam đến biển, qua xứ Bắc kỳ. Nó chảy dài qua suốt miền Bắc Việt Nam. Người Việt Nam gọi nó là Hồng hà, tức sông Hồng, vì nước của nó quanh năm mang nặng những phù sa màu đỏ và gần biên giới Trung Hoa thì nó mang tên là sông Kói. Nó có nhiều ghềnh và một cái thác khó vượt được tại đất Trung Quốc. Nhưng từ Mạn Hảo, cái chợ cuối cùng của Trung Quốc về xuôi thì thuyền bè có thể đi một mạch 16 ngày liền là về đến Hà Nội, mà không phải chuyển tải lần nào. Doudard de Lagrée đã mơ ước một hiệp ước thương mại mà với sự mở cửa tự do các hải cảng Bắc kỳ, có thể cho phép dùng con sông Hồng để chuyển thẳng về Sài Gòn những của cải, lâu nay toàn xuôi về Quảng Đông. Họ nghiệm thấy ở vùng họ đang lưu lại ấy rất thuận lợi cho việc buôn bán nhiều thứ; sắt, trà, có rất nhiều ở đây. Tại Vân Nam, đoàn thám hiểm được một giáo sĩ, linh mục Fenouil, một người chuyện gì cũng biết rõ vì tham gia tích cực vào công việc chính trị địa phương. Ông đã mặc áo và đeo thẻ bài quan lại Trung Quốc; các hiệp ước đã ký cho phép ông được hưởng quyền đó. Vấn đề trở về Sài Gòn theo con đường sông Hồng không đặt ra, vì đoàn thám hiểm không có nhiệm vụ phải đi băng qua Bắc kỳ. Trước khi trở về qua sông Dương Tử, các nhà thám hiểm cố sức, một lần cuối cùng quay lại vùng thượng Cửu Long và ngược lên đến ngọn nguồn của nó. Tại Tong-tchoueng, kề sông Xanh, đoàn chia làm hai nhóm và chia tay nhau. Doudard de Lagrée, vốn đã kém sức khỏe ngay từ ngày đầu ra đi, bây giờ bị ốm nặng và kiệt sức. Garnier, với một toán nhỏ, đi sâu về phía Tây. Nhưng những cuộc loạn ly đang hoành hành tại vùng Taly cản trở không cho phép các nhà thám hiểm tiếp tục ý đồ của họ. Khi quay trở lại chỗ cũ, họ được tin Doudard de Lagrée chết rồi. Và Francis Garnier, vào những ngày cuối cùng của cuộc thám hiểm, nắm quyền chỉ huy; thực ra Garnier vẫn nắm quyền ấy lâu rồi. Người ta đến con sông Xanh chỉ trong thời gian ngắn. Đoàn xuôi theo nó đi đến đâu hỏi thăm đến đấy về những tài nguyên sản vật trong vùng và khả năng dùng con sông Hồng để chuyên chở. Đến Hán Khẩu, lãnh sự Pháp giới thiệu Francis Garnier cho một nhà buôn, mặc áo, đội mũ quan lại Trung Quốc, tay cầm quạt: Jean Dupuis. Jean Dupuis là người Pháp theo đoàn xây dựng kênh Suez (nối liền Hồng Hải với Địa Trung Hải và cắt ngang châu Phi với lục địa châu Á) và sau đó qua Trung Quốc buôn bán. Ông ta ở Hán Khẩu và chuyên việc bán vũ khí cho các quan lại tỉnh Vân Nam. Ông ta học tiếng Tàu, hiểu biết sâu sắc tình hình đất nước này và đang mong được đi xuyên qua Bắc kỳ để tiện đường buôn bán. Những thông tin và chỉ dẫn của Francis Granier khiến ông ta phấn khởi cao độ. Hai năm nay, ông ta gửi cho các quan lại ấy những chuyến hàng chuyên chở bằng vai người, qua những con đường núi ngoằn ngoèo, mất sáu tháng mới đến nơi. Nếu ông ta chuyển được các kiện hàng, các hòm vũ khí của mình, đến thẳng Mạn Hảo thì tiết kiệm được thời gian nhiều vô kể. Mãi đến ngày 19/6/1868, đoàn thám hiểm mới xuống tàu tại Thượng Hải về Sài Gòn. Đoàn đã thực hiện một cuộc hành trình trên 10.000 km. Ra đi với mục đích chuẩn bị tổ chức buôn bán bằng con đường sông Cửu Long, đoàn đã trở về và xác định rằng con đường ấy không thể nào sử dụng được. Và điều đó có thực như vậy vào năm 1868. Ngày nay, với những phương tiện hiện đại, người ta có thể cải tạo uốn nắn lại dòng sông Cửu Long để sử dụng. Nhưng phái đoàn Doudard de Lagrée đâu chịu trả giá bằng một sự thất bại! Nó đã hoàn thành đại bộ phận cái sứ mệnh của nó. Nó đã mang về một loạt nhiều tư liệu rất quan trọng về địa lý, về tài nguyên sản vật, về dân cư vùng thung lũng sông Cửu Long giữa biên giới Trung Quốc và cửa sông của nó, dài ngót ba ngàn cây số. Chủ yếu sự tình cờ và nghị lực kiên trì của các thành viên đã mang lại một kết quả tích cực, bất ngờ vô giá. Điều mà sông Cửu Long không làm được cho sự buôn bán, trong nội địa châu Á một cách có lợi cho Đông Dương, thì sông Kói, tức sông Hồng, đã làm được. Điều đó đã được chứng minh. Dĩ nhiên còn có một trở ngại cho người Pháp khai thác con đường đó để phát triển buôn bán; là con sông Hồng chảy qua Bắc kỳ, ngoài phạm vi ảnh hưởng của người Pháp. Nhưng có hề gì! Ngay từ hôm đó, bọn thực dân Pháp, các nhà buôn, nghĩ đến giai đoạn tiếp theo: sự chiếm đóng Bắc kỳ và tích cực chuẩn bị. Cái xứ Bắc kỳ “đáng khinh” và “bị coi khinh”, cái xứ Bắc kỳ được coi như một cục xương để gặm mà suốt thời gian cuộc viễn chinh Pháp - Tây Ban Nha, dù chỉ để mãn tí ti cái tham vọng khiêm tốn và rụt rè của người đồng minh đáng thương hại của họ, người Pháp chẳng bao giờ buồn coi như một vùng đất ít nhiều đáng quan tâm ấy, bỗng trở thành miền “Đất Hứa” (Terre Promise). Nó không còn là một cái lò ung dịch; nó không còn là miền đất của loạn lạc liên miên. Người ta thoáng thấy cái đất nước ấy có thể làm cho nền buôn bán trở nên phồn thịnh. Và cái xứ Bắc kỳ ấy sắp được xuất hiện ở hàng đầu các mục tiêu cần chiếm hữu. TS Nguyễn Xuân Thọ Nguồn: (Alpha Books - Ebook) Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam 1858-1897 Trang Lịch Sử |